Thương phiếu là gì? Quy định về đặc điểm, phân loại thương phiếu

Thương phiếu là chứng chỉ có giá ghi nhận lệnh yêu cầu thanh toán hoặc cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định trong một thời gian nhất định.Thương phiếu gồm hối phiếu và lệnh phiếu Bài vết dưới đây sẽ làm rõ về thương phiếu :

1 200 lượt xem


Thương phiếu là gì? Quy định về đặc điểm, phân loại thương phiếu

1. Thương phiếu là gì?

Thương phiếu là gì? Quy định về đặc điểm, phân loại thương phiếu (ảnh 1)

Thương phiếu (commercial paper) là khái niệm dùng để chỉ các loại hối phiếu thương mại khác nhau.Thương phiếu (commercial paper) là những giấy nhận nợ do các công ty có uy tín phát hành để vay vốn ngắn hạn từ thị trường tài chính.Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thương phiếu chính là thu nhập của người sở hữu thương phiếu.

Những thương phiếu nguyên thuỷ (commercial bill) chỉ xuất hiện trong các hoạt động mua bán chịu hàng giữa các công ty kinh doanh với nhau. Nó có thể do người bán chịu hay người mua chịu hàng hoá phát hành nhưng bản chất vẫn là giấy xác nhận quyền đòi tiền khi đến hạn của người sở hữu thương phiếu. Ngày nay, thương phiếu được phát hành không chỉ trong quan hệ mua bán chịu hàng hoá mà còn được phát hành để vay vốn trên thị trường tiền tệ.

Các công ty danh tiếng khi có nhu cầu vốn có thể phát hành thương phiếu bán trực tiếp cho người mua theo mức giá chiết khấu. Những người đầu tư thương phiếu ngoài các ngân hàng còn có các trung gian tài chính và công ty khác. Các thương phiếu có mức độ rủi ro cao hơn tín phiếu kho bạc nhưng mức lãi suất chiết khấu cũng cao hơn.

2. Phân loại thương phiếu

- Dựa trên cơ sở người lập, thương phiếu gồm 2 hình thức:

Hối phiếu: là chứng chỉ có giá do người ký phát lập, yêu cầu người bị ký phát thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
Lệnh phiếu: là chứng chỉ có giá do người phát hành lập, cam kết thanh toán không điều kiện một số tiền xác định khi có yêu cầu hoặc vào một thời gian nhất định trong tương lai cho người thụ hưởng.
- Dựa trên phương thức chuyển nhượng, thương phiếu gồm 3 hình thức:
Thương phiếu vô danh: là loại thương phiếu không ghi rõ tên người thụ hưởng.
Thương phiếu đích danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng.
Thương phiếu ký danh: là loại thương phiếu có ghi tên người thụ hưởng và có quyền chuyển nhượng.

3. Đặc điểm, tính chất của thương phiếu

- Thương phiếu hình thành từ giao dịch cơ sở : Giao dịch cơ sở của thương phiếu là giao dịch hợp đồng thương mại, quy định quyền và nghĩa vụ của hai bên mua và bán: Người bán có nghĩa vụ giao hàng và có quyền lợi nhận tiền thanh toán từ người mua. Người mua có nghĩa vụ thanh toán và có quyền lợi nhận hàng từ người bán. Đối với hối phiếu, người bán sẽ giao hàng trước và sau đó ký phát hối phiếu đòi tiền người mua sau. Đối với lệnh phiếu, người mua sẽ ký phát lệnh phiếu cam kết trả tiền cho người bán, sau khi nhận được lệnh phiếu người bán sẽ giao hàng. Như vậy giao dịch cơ sở là có trước, thương phiếu là cái có sau. Không có giao dịch cơ sở thì sẽ không có sự hình thành thương phiếu tương ứng.

-Thương phiếu được nhận diện dễ dàng, trực tiếp: Thương phiếu là tài sản tài chính vô hình. Chúng chỉ là những tờ giấy nhỏ nhưng chứa đựng những lợi ích pháp lí trong tương lai, được thể hiện ở nội dung và hình thức của thương phiếu. Khi nhận dạng được hình thức và nội dung của thương phiếu một cách dễ dàng và trực tiếp thì mới có thể nhận biết được dung lượng các quyền pháp lý đối với lợi ích tương lai của thương phiếu.

-Thương phiếu là trái vụ một bên .

Đối với hối phiếu: Thương phiếu là một chứng chỉ do một người ký phát ra lệnh cho người bị ký phát thực hiện một nghĩa vụ dân sự- trả tiền.

Đối với lệnh phiếu: Thương phiếu là một chứng chỉ do người phát hành cam kết đối với người thụ hưởng sẽ thực hiện một nghĩa vụ dân sự- trả tiền.

Vì vậy, nghĩa vụ dân sự có được thực hiện hay không phụ thuộc vào sự chấp nhận của người bị ký phát đối với hối phiếu và khả năng thực hiện nghĩa vụ dân sự của người phát hành đối với lệnh phiếu.

- Tính “trừu tượng” của thương phiếu
Trên thương phiếu không cần thể hiện nguyên nhân sinh ra việc lập thương phiếu, mà chỉ cần ghi rõ số tiền cần phải trả và các nội dung liên quan đến việc trả tiền.
Trong lưu thông, giá trị pháp lí của thương phiếu cũng không bị ràng buộc vào nguyên nhân nào phát sinh ra nghĩa vụ trả tiền của thương phiếu.
Khoản nợ ghi trên thương phiếu là hoàn toàn độc lập và không phụ thuộc vào sự tồn tại hay không tồn tại của giao dịch cơ sở.
- Tính bắt buộc của thương phiếu
Quy định người trả tiền phải thanh toán cho người thụ hưởng đúng hạn, không được phép từ chối hoặc hoãn trì việc trả tiền.
- Tính lưu thông của thương phiếu
Thương phiếu có thể được lưu thông từ người này sang người khác trong thời hạn hiệu lực của nó.
Căn cứ vào mục đích của lưu thông thương phiếu, chia làm 3 loại lưu thông khác nhau:
Lưu thông nhằm mục đích để đòi tiền: người thụ hưởng thương phiếu ủy quyền cho Ngân hàng đòi tiền người trả tiền thương phiếu => lưu thông có vai trò như là phương tiện thanh toán thay cho tiền mặt.
Lưu thông không nhằm mục đích chuyển nhượng quyền hưởng lợi thương phiếu: người thụ hưởng thương phiếu ký hậu chuyển nhượng thương phiếu cho người khác => lưu thông có vai trò như là chuyển nhượng tài sản.
Lưu thông thứ 3 là lưu thông “ hàng hóa thương phiếu”: thương phiếu là một loại tài sản tài chính, do vậy người sở hữu thương phiếu có thể bán cho Ngân hàng để lấy tiền ngay hoặc cầm cố thương phiếu để vay tiền. => lưu thông này không mang tính chất lưu thông thanh toán thương phiếu hay lưu thông chuyển nhượng thương phiếu mà là lưu thông “ hàng hóa thương phiếu”.
Thương phiếu là gì? Quy định về đặc điểm, phân loại thương phiếu (ảnh 1)

4. Ưu , nhược điểm của thương phiếu

4.1 Ưu điểm thương phiếu

Do có tính chất lưu thông, thương phiếu đã trở thành một công cụ lưu thông tín dụng thay thế tiền mặt, tiết kiệm tiền mặt và góp phần ổn định tiền tệ.
- Nó còn là một cơ sở pháp lý trong quan hệ mua bán chịu, bảo vệ quyền lợi của các chủ thể trong tín dụng thương mại, loại bỏ được tình trạng nợ nần dây dưa giữa các doanh nghiệp.
- Thương phiếu là loại tài sản đảm bảo chắc chắn khi ngân hàng nhận chiết khấu hay nhận cho vay cầm cố. Hơn thế nữa, tài sản đảm bảo này lại có tính thanh khoản cao vì ngân hàng có thể mang đi tái chiết khấu hoặc tái cầm cố tại ngân hàng nhà nước để khôi phục nguồn vốn của mình
- Trong trường hợp người đi vay vốn ngân hàng nhận nợ bằng lệnh phiếu, khi cần thiết, ngân hàng có thể bán khoản nợ này để thu nợ trước hạn bằng cách chuyển nhượng lệnh phiếu cho ngân hàng khác. Đây là một giải pháp chứng khoán hoá các khoản cho vay của ngân hàng.
- Thông qua nghiệp vụ bảo lãnh và thu hộ thương phiếu, sẽ giúp ngân hàng tăng thu nhập nhưng không tăng rủi ro trong hoạt động kinh doanh của mình.

4.2 Nhược điểm thương phiếu

- Do tính trừu tượng của thương phiếu, sẽ dẫn đến tình trạng hai doanh nghiệp thông đồng nhau lập ra thương phiếu khống (thương phiếu không phát sinh từ quan hệ mua bán chịu) để mang đến ngân hàng xin chiết khấu hoặc cầm cố. Chính điều này đã làm cho cơ sở đảm bảo của thương phiếu là tín dụng hàng hoá không thể tồn tại, số tiền cho vay được ngân hàng phát ra không có cơ sở đảm bảo.
- Với những nhược điểm sẳn có của tín dụng thương mại, khó có thể mở rộng qui mô (khối lượng) và thời gian mua bán chịu hàng hoá trong trường hợp nhu cầu mua chịu quá lớn và thời gian quá lâu.
- Quan hệ mua bán chịu này chỉ có thể phát sinh giữa những doanh nghiệp tín nhiệm, có giao dịch thường xuyên với nhau.

Tuy vậy do tín dụng thương mại tồn tại song song với tín dụng ngân hàng nên những nhược điểm nêu trên của tín dụng thương mại và của sự vận động thương phiếu sẽ giảm đến mức xem như không đáng kể.

5. Phát hành thương phiếu

Phát hành thương phiếu là việc lập, ký và chuyển giao thương phiếu lần đầu của người ký phát hoặc người phát hành cho người thụ hưởng

Thương phiếu được phát hành trong 1 khoảng thời gian ngắn. Chúng được coi là khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Nó xảy ra khi doanh nghiệp cần ngay 1 số tiền lớn để chi cho sản xuất. Thủ tục của vay vốn trong ngân hàng rất lằng nhằng, tốn thời gian Vì thế khi cầm được tiền trên tay có khi doanh nghiệp đã đi đến bước phá sản. Cho nên việc phát hành thương phiếu cực kỳ có lợi.

Người phát hành là người lập và ký phát hành lệnh phiếu. Theo quy định của Pháp lệnh thì:

– Người ký phát, người phát hành quy định phải là các doanh nghiệp, bao gồm doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài,doanh nghiệp của các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị – xã hội và hợp tác xã.

– Tổ chức tín dụng không phải là người ký phát, người phát hành.

Thương phiếu được phát hành theo hình thức chiết khấu, tức là được bán với giá thấp hơn mệnh giá. Chênh lệch giữa giá mua và mệnh giá thương phiếu chính là thu nhập của người sở hữu thương phiếu.

Thương phiếu phải được lập trên mẫu in sẵn của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Thương phiếu phải được lập bằng tiếng Việt.

Trong trường hợp có yếu tố nước ngoài, thương phiếu phải được lập bằng tiếng Việt và tiếng Anh.

Việc sử dụng các hình thức thông tin điện tử trong quan hệ thương phiếu được thực hiện theo quy định của Chính phủ.

Thời hạn thanh toán thương phiếu cụ thể do người thụ hưởng và người ký phát hoặc người phát hành xác định theo một trong các thời hạn sau đây:

- Ngay khi xuất trình.

- Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày hối phiếu được chấp nhận.

- Sau một thời hạn nhất định kể từ ngày ký phát hành.

- Thanh toán vào một ngày xác định cụ thể.

Thời hạn thanh toán thương phiếu, thời hạn truy đòi và thời hạn khởi kiện khi có tranh chấp về quan hệ thương phiếu được tính cả ngày nghỉ lễ và ngày nghỉ cuối tuần; nếu ngày cuối cùng của thời hạn trùng vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ cuối tuần thì được chuyển sang ngày làm việc tiếp theo.

Việc phát hành thương phiếu nhằm

- Bổ sung nguồn vốn ngắn hạn cho các nhu cầu vốn lưu động có tính chất mùa vụ.

- Tài trợ bắc cầu: tài trợ bắc cầu được hiểu việc huy động vốn sở hữu hay nợ ngắn hạn trong thời gian 6 – 18 tháng của một đợt chào bán cổ phiếu ra công chúng hay phát hành tư nhân dự kiến, nhằm “bắc cầu” cho công ty đến với đợt huy động vốn tiếp theo.

Giả sử một công ty cần có nguồn tiền dài hạn để xây dựng một nhà máy hay mua thiết bị. Thay vì huy động nguồn tiền dài hạn ngay tức thời, công ty có thể trì hoãn việc huy động này cho đến khi nào tình hình thị trường vốn thuận lợi hơn. Nguồn tiền huy động được thông qua phát hành thương phiếu được sử dụng cho đến khi công ty bán ra các chứng khoán dài hạn hơn. Thương phiếu đôi khi đóng vai trò tài trợ bắc cầu để tài trợ cho một công ty đi mua lại một công ty khác.

1 200 lượt xem