Công lý là gì? Những đặc điểm cơ bản của công lý? Mối quan hệ giữa công lý và quyền con người

Qua các văn kiện quan trọng của Đảng và của pháp luật, Đảng và Nhà nước ta ngày càng ghi nhận rộng rãi và nỗ lực nhằm lượng hóa những giá trị công lý trong đời sống và coi hiệu quả của hoạt động bảo vệ công lý của Tòa án như là một tiêu chí đánh giá mức độ thành công của cải cách tư pháp cũng như trong công cuộc xây dựng, đổi mới và bảo vệ đất nước.

1 434 24/11/2023


Công lý là gì? Những đặc điểm cơ bản của công lý? Mối quan hệ giữa công lý và quyền con người

1. Khái niệm công lý của các nhà tư tưởng

Công lí là sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải.

Thuật ngữ “công lí thường được dùng trong đời sống pháp lí và đặc biệt là trong hoạt động tư pháp. Ví dụ: bản án của Toà án quân sự Nuyrenbec năm 1946 đã khẳng định chiến thắng của công lí đối với tàn bạo, của chính nghĩa với phi nghĩa trong cuộc Chiến tranh thế giới lần thứ hai (1941 - 1945).

Công lý là gì? Những đặc điểm cơ bản của công lý? Mối quan hệ giữa công lý và quyền con người (ảnh 1)

Trong thời hiện đại, công lý đã được phân tích một cách chi tiết bởi nhà triết học chính trị hàng đầu của Mỹ J. Rawls đề cập đến trong cuốn Một lý thuyết về Công lý của ông, theo đó: “công lý là cái đặc tính đầu tiên của các thể chế xã hội, cũng như công lý là đặc tính của hệ tư tưởng”.

J. Rawls coi công lý như là công bằng (justice as fairness), là niềm tin của pháp luật, là hạt nhân của đạo đức và là điều kiện tiên quyết của xã hội công dân… Do vậy, theo ông, “trong một xã hội công bằng thì sự bình đẳng về các quyền công dân và các quyền tự do đối với tất cả mọi người là không thể thay đổi; những quyền được công lý đảm bảo thì không thể đem ra mặc cả về chính trị hay những tính toán về lợi ích xã hội”. Trong cuốn từ điển Luật Black, “công lý” đã được định nghĩa là sự công bằng và hợp lý, với ba ý niệm cơ bản: sự nhấn mạnh về tầm quan trọng cá nhân, yêu cầu các cá nhân phải được đối xử một cách phù hợp, không thiên vị và bình đẳng”.

2. Khái niệm công lý theo quy định của pháp luật

Ở Việt Nam, khái niệm công lý đã được nhắc đến trong một số công trình nghiên cứu gần đây của một số tác giả như: Nguyễn Đăng Dung (Tòa án Việt Nam trong bối cảnh xây dựng Nhà nước pháp quyền) ; Nguyễn Văn Hiển (Bàn về hệ thống pháp luật), Viện khoa học pháp lý Bộ Tư pháp (Đề tài nghiên cứu cấp cơ sở “Mối quan hệ giữa pháp luật và công lý – Lý luận và thực tiễn”), Vũ Công Giao (Tiếp cận công lý và các nguyên lý của nhà nước pháp quyền) …

Bên cạnh đó, về khía cạnh ngôn ngữ, khái niệm công lý cũng đã xuất hiện trong một số từ điển, ví dụ như:

  • “Công lý là lẽ phải, lẽ công bằng, phù hợp với pháp luật đương thời, không thiên lệch, không tư vị. Chế độ nào cũng coi tòa án là tượng trưng cho công lý, là cơ quan công lý của chế độ ấy”. Hay công lý là “sự công bằng hay chính nghĩa, sự đúng đắn, lẽ phải. Thường được dùng trong đời sống pháp lý và đặc biệt là trong hoạt động tư pháp”; “Công lý là sự nhận biết đúng đắn và tôn trọng theo lẽ phải các quyền lợi ích chính đáng của mọi người”..

Trong lĩnh vực tư pháp, công lý và bảo vệ công lý được xác định là một trong những mục tiêu cơ bản của Chiến lược cải cách tư pháp của Việt Nam đến năm 2020 (Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02 tháng 06 năm 2005 của Bộ Chính trị). Cụ thể, Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã nêu rõ việc:

  • “Xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa; hoạt động tư pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao”.

Như vậy, khái niệm công lý trong Chiến lược cải cách tư pháp và Văn kiện Đại hội XII của Đảng Cộng sản Việt Nam mang tính chất là công lý trong lĩnh vực tư pháp, thể hiện qua việc xét xử bằng các thủ tục tố tụng công bằng, hợp pháp, nhằm bảo vệ lợi ích của nhân dân và của xã hội. Dự thảo Hiến pháp năm 1992 (Sửa đổi) của Uỷ ban Sửa đổi, bổ sung Hiến pháp 1992 đã dự kiến bổ sung, làm sáng tỏ nhiệm vụ của Toà án nhân dân trước yêu cầu bảo vệ công lý: “Toà án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”. Quy định này sau đó đã được thể hiện trong Hiến pháp năm 2013 (Khoản 3 Điều 102).

Có thể thấy, trước yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, công lý và bảo vệ công lý đã trở thành một trong những mục tiêu cơ bản, xuyên suốt trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của Đảng và Nhà nước ta, được xem như là một giá trị tiến bộ xã hội nhân văn, bền vững được toàn xã hội thừa nhận và hướng tới.

Như vậy, dù có nhiều quan niệm về công lý trên thế giới cũng như ở Việt Nam, nhưng xét cho cùng thì công lý có thể được hiểu là việc bảo đảm sự công bằng, bình đẳng giữa con người với con người đối với các quyền và lợi ích hợp pháp của họ, người này không được phép làm phương hại đến các quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, nếu có sự vi phạm về quyền và lợi ích hợp pháp của người khác thì người đó sẽ phải chịu trách nhiệm và trả giá cho những phương hại mà mình đã gây ra.

3. Những đặc điểm cơ bản của công lý

- Công lý thuộc về ý thức xã hội, thuộc về những quan điểm, tư tưởng mang tính hệ thống, phản ánh sâu sắc tồn tại xã hội, do tồn tại xã hội quyết định và có mối liên hệ biện chứng với tồn tại xã hội. Bên cạnh đó, mọi tồn tại đều gắn với không gian và thời gian nên công lý phản ánh tồn tại cũng chỉ có thể được xác định trong một không gian và thời gian cụ thể. Không có khái niệm công lý vĩnh cửu cũng như là công lý bất biến.

- Tồn tại xã hội vận động phát triển không ngừng nên công lý phản ánh tồn tại xã hội cũng vận động phát triển không ngừng. Các tri thức khách quan về mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên ngày càng được khám phá qua sự tiến bộ của khoa học; quyền con người ngày càng được đảm bảo và mở rộng, từ cá nhân đến tổ chức, dân tộc, quốc gia; các thỏa thuận trong đời sống ngày càng đa dạng, các giá trị ngày càng được khám phá để mang lại lợi ích cho con người… Điều đó làm cho nội dung của công lý luôn vận động phát triển để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội.

- Công lý có tính ổn định tương đối. Do công lý có chứa đựng những giá trị truyền thống, những quy tắc cốt lõi, những quyền, lợi ích, giá trị cơ bản… nên so với tồn tại xã hội, công lý có tính ổn định rất cao, đóng vai quan trọng trong việc duy trì và giữ vững ổn định trật tự xã hội.

- Công lý là biểu hiện của sự đan xen, giao thoa của các hình thái ý thức xã hội với nhau. Công lý liên hệ với ý thức chính trị qua lợi ích các giai tầng trong xã hội; liên hệ với ý thức pháp luật qua các phán xét về tính đúng sai, đánh giá tính hợp pháp và không hợp pháp; liên hệ với ý thức đạo đức qua các giá trị tôn vinh, quy tắc đạo đức trong các quan hệ xã hội; liên hệ với ý thức thẩm mỹ qua những biểu tượng về công lý; liên hệ với ý thức tôn giáo qua các tín ngưỡng; liên hệ với ý thức khoa học qua các sự thật khách quan…

- Công lý có mối liên hệ đặc biệt đối với ý thức pháp luật. Trong xã hội có giai cấp, ý thức pháp luật của giai cấp khác nhau sẽ có sự khác nhau. Giai cấp thống trị muốn các giai cấp khác phục tùng ý chí của mình thì giai cấp thống trị phải viện dẫn những lý lẽ chung làm bệ đỡ cho các quan điểm, tư tưởng của mình để các giai cấp khác có thể chấp nhận, phục tùng. Công lý không phải là ý chí, lý lẽ của số đông, mà là ý chí, lý lẽ chung, ở đó phải có sự “gặp gỡ” của các ý chí, ý kiến khác nhau, phải trở thành những ý chí, lý lẽ chung đúng đắn mà mọi người đều thừa nhận, đó mới là công lý. Nói một cách khác, công lý chính là sự giao thoa của các ý thức pháp luật của các giai tầng trong xã hội có giai cấp, là “cái chung đúng đắn” trong ý thức pháp luật.

- Công lý có mối liên hệ chặt chẽ với công bằng. Công bằng cũng là lẽ đúng đắn được mọi người thừa nhận, nó chứa đựng lẽ thật khách quan, quy tắc “có đi có lại”, các giá trị… để xác định sự tương xứng giữa vai trò và vị thế, giữa cái tạo ra, cái đáp ứng với cái nhận lại hay để đối xử khách quan, vô tư trong những quan hệ nhất định… Chính vì vậy, nhiều học giả nghiên cứu đều cho rằng, công bằng chính là công lý hoặc công lý chính là lý lẽ của sự công bằng. Tuy nhiên, giữa chúng vẫn có sự khác biệt, công bằng là lẽ đúng đắn hướng về kết quả là sự tương xứng, sự không thiên vị khi xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm; còn công lý là lẽ đúng đắn thiên về căn nguyên để xác lập, thực hiện các quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm hơn.

- Công lý, pháp luật và nhà nước là các hiện tượng không thể tách rời. Xét về bản chất, công lý chính là thuộc tính xã hội bên cạnh thuộc tính giai cấp, một trong hai thuộc tính thể hiện bản chất của nhà nước và pháp luật. Công lý phản ánh những lợi ích chung, thuộc về số đông rộng lớn, thể hiện ở những giá trị chung, lẽ đúng đắn, mang tính ổn định; còn tính giai cấp phản ánh ý chí của giai cấp thống trị, thuộc về thiểu số, thể hiện tính nhanh nhạy, tính khuynh hướng, nắm bắt nhu cầu phát triển.

Trong mối quan hệ với tính giai cấp, công lý được xem là cái ưu thế, là cái có trước hoặc là cái nền tảng để tính giai cấp của pháp luật dựa vào đó bộc lộ, thể hiện, thuyết phục và để quản lý xã hội cho hiệu quả.

Công lý là gì? Những đặc điểm cơ bản của công lý? Mối quan hệ giữa công lý và quyền con người (ảnh 1)

4. Mối liên hệ giữa công lý và hoạt động tư pháp

Theo nhận thức phổ biến trên thế giới hiện nay, nói đến cơ quan tư pháp là nói đến tòa án; hoạt động tư pháp cơ bản là hoạt động xét xử của tòa án. Theo cách tiếp cận đó, hoạt động tư pháp có tính độc lập, tuy có sự ảnh hưởng và tác động qua lại với các hoạt động lập pháp và hành pháp. Mức độ và cách thức ảnh hưởng phụ thuộc vào một số yếu tố như nguyên tắc tổ chức bộ máy nhà nước, văn hóa chính trị, pháp lý, điều kiện thực tế,… của mỗi quốc gia.

Ở Việt Nam, nhận thức về hoạt động tư pháp có sự thay đổi nhất định theo thời gian. Trước đây, Hiến pháp năm 1946 quy định cơ quan tư pháp là tòa án và hoạt động tư pháp được hiểu thuần túy là hoạt động xét xử của Tòa án. Cách hiểu này cũng được ủng hộ bởi một số nhà nghiên cứu hiện nay, khi cho rằng hoạt động tư pháp chỉ nên xem là hoạt động xét xử của Tòa án. Tòa án thực hiện quyền tư pháp thông qua hoạt động phân xử và phán xét tính đúng đắn, tính hợp pháp của các hành vi, quyết định áp dụng pháp luật khi có sự tranh chấp về các quyền và lợi ích giữa các chủ thể pháp luật.

Tuy nhiên, có một thời kỳ dài quan niệm về cơ quan tư pháp và hoạt động tư pháp ở nước ta đã được mở rộng ra nhiều cơ quan khác và hoạt động khác, bao gồm cả cơ quan điều tra, viện kiểm sát, thi hành án và một số thiết chế bổ trợ tư pháp. Hiến pháp năm 2013 đã phần nào quay trở lại cách tiếp cận của Hiến pháp năm 1946 khi đề cập đến quyền tư pháp và quy định Tòa án là cơ quan “thực hiện quyền tư pháp”. Cụ thể, theo khoản 1 Điều 102 Hiến pháp 2013: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp” và “TAND có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ XHCN, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp”. Dù vậy, theo quan niệm ở Việt Nam hiện nay, tuy là cơ quan thực hiện quyền tư pháp nhưng Tòa án không phải là cơ quan duy nhất thực hiện các hoạt động tư pháp. Và khái niệm hoạt động tư pháp không chỉ bao gồm hoạt động xét xử của tòa án. Theo tinh thần của Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 và Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017, khái niệm hoạt động tư pháp bao gồm hoạt động xét xử của tòa án và hoạt động điều tra của các cơ quan điều tra, hoạt động công tố và kiểm sát của Viện Kiểm sát; hoạt động của các cơ quan thi hành án hình sự, dân sự, kinh tế, lao động và kể cả một số hoạt động khác nhằm giải quyết các quan hệ pháp luật phát sinh trong thực tế nhằm bảo vệ các quyền của Nhà nước, của tổ chức và của công dân.

Mặc dù về mặt khoa học vẫn còn những ý kiến khác nhau về các khái niệm quyền tư pháp và đặc biệt là hoạt động tư pháp, nhưng dù hiểu theo nghĩa nào thì mục đích của việc thực hiện quyền tư pháp và hoạt động tư pháp vẫn là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bên cạnh việc bảo vệ các lợi ích hợp pháp của Nhà nước và các chủ thể khác trong xã hội.

Bảo vệ công lý là mục tiêu có tính chất nguyên thủy và truyền thống của tòa án – chủ thể chính trong hoạt động tư pháp. Trong lịch sử nhà nước và pháp luật của nhân loại, tư pháp – mà biểu trưng là tòa án - luôn được xem là thành trì bảo vệ công lý, bảo vệ các quyền con người của tất cả mọi người trước các hành vi lạm dụng hoặc vi phạm bởi tất cả các chủ thể khác, bao gồm cơ quan, quan chức nhà nước. Con người sống thành cộng đồng, xã hội nên ắt hẳn sẽ có mâu thuẫn nảy sinh, vì thế tạo ra nhu cầu về sự phân giải để giữ gìn sự bình an của xã hội, nhiệm vụ đó được giao cho tòa án. Hệ thống tư pháp nói chung hay tòa án nói riêng chính là kết quả được tạo ra từ những nhu cầu đó của cộng đồng. Tòa án được xem là hiện thân của công lý, bởi đó là thiết chế do con người tạo ra nhằm mục đích bảo vệ lẽ công bằng trong xã hội. Vì vậy, việc xét xử của tòa án – và theo nghĩa rộng hơn là mọi hoạt động tư pháp - phải dựa trên nền tảng và nhằm mục đích bảo vệ công lý.

5. Mối quan hệ giữa công lý và quyền con người

Công lý và quyền con người là hai vấn đề có mối quan hệ biện chứng với nhau. Cả hai phạm trù này đều thuộc về con người, là những quyền lợi mà con người có quyền yêu cầu, đòi hỏi được bảo đảm, và sự bảo đảm đó được thực hiện thông qua các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành.Khi công lý được thực hiện thì đồng thời quyền con người cũng từ đó mà được bảo đảm, ngược lại, khi quyền con người được bảo đảm bởi các quy phạm pháp luật thì từ đó công lý cũng được thực thi.

Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28/11/2013 có những sửa đổi, bổ sung đã kế thừa tinh thần về quyền con người của Hiến pháp 1992 và có những phát triển quan trọng về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Với Hiến pháp 2013, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến, “quyền con người” trở thành tiêu đề của tên Chương, thay vì chỉ gọi là “quyền và nghĩa vụ của công dân” như tất cả các bản Hiến pháp trước đây. Sự bổ sung cụm từ “quyền con người” này là sự khẳng định vô cùng quan trọng và có ý nghĩa lớn trong bối cảnh phát triển đất nước và hội nhập quốc tế. Đồng thời, quyền con người, quyền và nghĩa vụ của công dân được đặt ngay tại Chương II của Hiến pháp nhằm đề cao nguyên tắc chủ quyền tối cao thuộc về nhân dân, nguyên tắc nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mục đích cuối cùng của Hiến pháp 2013 là nhằm khẳng định và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân và tất cả mọi người.Hiến pháp năm 2013 đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm các quyền con người, nhất là các quyền về kinh tế, xã hội và văn hóa. Chẳng hạn, Hiến pháp khẳng định:

  • “Nhà nước tôn trọng và bảo hộ quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo” (Điều 24); “Nhà nước tạo điều kiện để công dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội” (Điều 28); “Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình, bảo hộ quyền lợi của người mẹ và trẻ em (Điều 36)”…

Việc nhấn mạnh đến vai trò, trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người là hoàn toàn phù hợp với bản chất của chế độ XHCN ở Việt Nam. Theo đó, Nhà nước luôn chăm lo đến con người, đến quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi người, đến sự phát triển toàn diện của tất cả mọi người, và đặc biệt chịu trách nhiệm chính trong việc tôn trọng, thực thi và bảo đảm các quyền con người.Như vậy Hiến pháp năm 2013 đã phản ánh được ý chí, nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân; thể hiện rõ và đầy đủ hơn bản chất dân chủ, tiến bộ của Nhà nước và chế độ ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Việc quy định quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng pháp lý cao nhất để bảo đảm quyền con người được hiện thực hóa đầy đủ trong thực tiễn.Đặc biệt Điều 102 Hiến pháp quy định, Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử của nước CHXHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Như vậy trong toàn bộ hệ thống chính trị, chỉ có Tòa án có chức năng xét xử và thực hiện quyền tư pháp. Theo quy định tại khoản 3 Điều 102 Hiến pháp 2013: “Tòa án có nhiệm vụ bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân”, điều đó cũng đồng nghĩa với việc bảo vệ công lý, quyền con người là nhiệm vụ hàng đầu của Tòa án. Quy định này phù hợp với tinh thần Hiến pháp mới, trong đó coi con người là trọng tâm và là mục tiêu phục vụ của bộ máy nhà nước.Khi quyền con người ở Việt Nam được khẳng định trong văn bản pháp luật có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp, được cụ thể hóa trong các văn bản quy phạm pháp luật thuộc tất cả các lĩnh vực để thực hiện đúng nguyên tắc hợp hiến, thì quyền con người một lần nữa được khẳng định chắc chắn như quyền pháp lý của con người.Trong mối quan hệ với công lý, khi quyền con người được thể hiện qua quy định của pháp luật và được bảo đảm bởi việc cụ thể hóa trong các quy phạm pháp luật, thì sự công bằng, bình đẳng của con người cũng được thực thi. Mọi người đều được hưởng những quyền lợi mà mình đáng được hưởng, được công bằng và bình đẳng như nhau khi cùng được hưởng quyền con người như nhau thông qua việc thực hiện các quy phạm pháp luật của các chủ thể trên thực tiễn.

Ngược lại, khi công lý được thực thi, con người bình đẳng, công bằng như nhau trong việc được bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của mình, Tòa án là cơ quan xét xử đại diện cho việc thực thi công lý, ví dụ trong hình sự, người phạm tội phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi phạm tội của mình, vì đã làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Không ai có quyền làm phương hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác, con người bình đẳng như nhau trong việc hưởng các quyền lợi pháp lý thuộc về mình. Công lý được thực thi, thì những quyền tự nhiên của con người qua đó được bảo đảm, được tôn trọng.

1 434 24/11/2023