Thời kỳ quá độ là gì? Tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa được thực hiện ở Việt Nam chính là một tất yếu lịch sử đối với dân tộc. Trong định hướng phát triển đất nước, Việt Nam luôn mong muốn có độc lập, tự do và mang quyền lợi về tay nhân dân. Vậy tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là gì, cùng tìm hiểu với Vietjack.me nhé!

1 114 lượt xem


Thời kỳ quá độ là gì? Tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?

1. Khái niệm về thời kỳ quá độ

Là thời kì cải tạo cách mạng xã hội tư bản chủ nghĩa thành xã hội xã hội chủ nghĩa, bắt đầu từ khi giai cấp công nhân giành được chính quyền và kết thúc khi xây dựng xong các cơ sở của chủ nghĩa xã hội.

Đặc trưng kinh tế của thời kì quá độ lên CNXH là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần. Nhiệm vụ cơ bản của nhà nước trong thời kì quá độ, một mặt là phát huy đầy đủ quyền dân chủ của nhân dân lao động, chuyên chính với mọi hoạt động chống chủ nghĩa xã hội, mặt khác từng bước cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

2. Tính tất yếu khách quan của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam

Thời kỳ quá độ là gì? Tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?  (ảnh 1)

- Ở nước ta, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa, cùng quá độ lên chủ nghĩa xã hội.

- Thời kỳ quá độ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên chủ nghĩa xã hội cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy lực lượng sản xuất đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng quan hệ sản xuất mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài.

- Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t.10, tr. 13)

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là một tất yếu lịch sử đối với nước ta, vì:

- Toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội. Thực tiễn đã khẳng định chủ nghĩa tư bản là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội xã hội chủ nghĩa. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, chủ nghĩa tư bản thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc.

Chủ nghĩa tư bản không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. Chủ nghĩa xã hội khoa học, tự do, dân chủ và nhân đạo mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn chủ nghĩa tư bản.

Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử.

- Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên chủ nghĩa xã hội mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của nhân dân ta, như vậy là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử.

Khả năng về quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam bao gồm những khả năng khách quan và chủ quan

3. Những thuận lợi của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Thời kỳ quá độ là gì? Tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?  (ảnh 1)

Khi nhìn nhận về đặc điểm của đất nước chúng ta trong quá trình quá độ, chúng ta không chỉ phải nhấn mạnh những khó khăn mà còn phải ghi nhận tất cả những thuận lợi trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

3.1. Có các kinh nghiệm từ thực tiễn mô hình ở Liên Xô cũ

Thực tiễn phát triển của đất nước và xu hướng vận động của thế giới tạo cơ hội chi Việt Nam phân tích, tổng kết, hình dung và học hỏi được nhiều kinh nghiệp hơn về mô hình và con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội. Do đường lối sai lầm trên phương diện lý luận và thực tiễn đã dẫn đến sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô cũ. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình Xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn của đất nước.

Từ đó, Việt nam có được kinh nghiệm, tìm kiếm các bước chiến lược phù hợp hơn trên thực tế. Thực tiễn này đòi hỏi cần phải đổi mới, cải cách, xây dựng mô hình Xã hội chủ nghĩa phù hợp với thực tiễn của đất nước. Tránh các sai lầm trong việc thực hiện triển khai chiến lược trong mô hình ở các quốc gia khác. Lựa chọn chiến lược phù hợp, khả thi trong điều kiện và tình hình đất nước.

3.2. Thế giới bùng nổ khoa học công nghệ cùng xu hướng toàn cầu hóa

Trong điều kiện toàn cầu hóa và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ đã thúc đẩy các quốc gia mở cửa và hội nhập. Đây cũng là một cơ hội tốt để Việt Nam có thể hợp tác để cùng giao lưu và tìm kiếm nguồn vốn, công nghệ và quản lý. Quá trình giao lưu, hội nhập tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn nhau, đồng thời, tạo điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệp phát triển của các nước đi trước, có trình độ phát triển cao, để phát triển rút ngắn đối với các nước đang phát triển như Việt Nam.

Chế độ xã hội chủ nghĩa giúp chúng ta tham gia độc lập, chủ động. Người dân có được quyền lợi và tư cách như nhau trong tìm kiếm và khai thác thị trường. Đây cũng là một cơ hội tốt để Việt Nam có thể hợp tác để cùng giao lưu, tìm kiếm các đối tác chiến lược. Và thực hiện tìm kiếm nguồn vốn, công nghệ và quản lý. Đổi mới trong hoạt động kinh tế, tiếp cận hiệu quả hơn trong các nhu cầu sản xuất và kinh doanh.

Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại đang phát triển như vũ bão và toàn cầu hoá kinh tế đang diễn ra mạnh mẽ, mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế trở thành tất yếu; nó mở ra khả năng thuận lợi để khắc phục những hạn chế của nước kém phát triển như thiếu vốn, công nghệ lạc hậu, khả năng và kinh nghiệm quản lý yếu kém... nhờ đó ta có thể thực hiện “con đường rút ngắn”.

Quá trình giao lưu, hội nhập mang đến các tiếp xúc và mở rộng hiểu biết, tăng thêm kinh nghiệm. Tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí, sự hiểu biết lẫn nhau. Khi các quốc gia phát triển tham gia vào hội nhập kinh tế, sẽ mang đến các tác động lớn, các bài học sâu sắc.

Xu hướng toàn cầu hóa tạo điều kiện cho việc tiếp thu các thành tựu và kinh nghiệm phát triển của các nước đi trước. Cũng như tránh các bước đi không hiệu quả. Việc tiếp thu kinh nghiệm từ các nước có trình độ phát triển cao giúp các nước đang phát triển có được chiến lược phù hợp. Từ đó rút ngắn đối thời gian chuyển đổi mô hình với các nước đang phát triển như Việt Nam.

3.3. Tham gia và tìm kiếm lợi ích trong cộng đồng quốc tế

Các quốc gia trên thế giới luôn tìm kiếm hiệu quả chung trong công tác bảo vệ môi trường. Khi nền công nghiệp càng phát triển, thách thức đối với môi trường càng lớn. Ở các nước Tư bản chủ nghĩa hiện nay cho thấy rõ không thể tiếp tục cách thức phát triển truyền thống gây ô nhiễm môi trường, ảnh hường đế chất lượng cuộc sống của người dân. Hàng loạt các vấn đề toàn cầu xảy ra ngày càng nghiêm trọng.

Đơn cử như việc biến đổi khí hậu, ô nhiễm môi trường,… Một quốc gia không thể mang đến hiệu quả cải thiện chất lượng cho môi trường sống. Điều này đòi hỏi phải có sự chung sức của cộng đồng quốc tế cùng nhau giải quyết. Một nước, thậm chí một nhóm nước hoàn toàn không thể giải quyết được.

Điều này, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong việc mở rộng cơ hội tập hợp lực lượng tiến bộ. Nhờ đó mà có được các hợp tác, thực hiện xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp mới. Được tiếp cận, trực tiếp tiến hành trong các ngành công nghiệp này. Được tiếp cận vào các hoạt động hợp tác với các quốc gia phát triển.

3.4. Hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng

Nước ta luôn xác định với lý tưởng dân chủ, trao quyền và lợi ích cho người dân. Thực hiện công bằng, bình đẳng trong xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng. Quá trình phát triển của Việt Nam, đặc biệt công cuộc đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo trong hơn 30 năm qua đã thu được những kết quả đáng kể. Đó là lý do Đảng được nhân dân tin tưởng trong mục tiêu tiến lên chủ nghĩa xã hội.

Quá độ lên chủ nghĩa xã hội là bước chuyển mình nhanh chóng nhất của nước ta. Để tìm kiếm sự dân chủ, tiến bộ mới và hội nhập với nền kinh tế thế giới. Điều này, một mặt củng cố và khẳng định sự lựa chọn đúng đắn của con đường đi lên Chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ Tư bản chủ nghĩa ở nước ta. Tin tưởng vào sự lãnh đạo và các quyết định trong đường lối lãnh đạo của Đảng. Ngay cả trong thời chiến hay trong hoạt động tổ chức sản xuất phát triển kinh tế trong thời bình.

Mặt khác, Đảng lãnh đạo thống nhất quần chúng trong tư tưởng chung. Mang đến lý tưởng, đó còn là các điều kiện, cơ sở cho việc tiếp tục vững bước trên con đường đã chọn. Thể hiện với sự đồng lòng, đồng sức và quyết tâm của dân tộc ta.

Xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, một Đảng giàu tinh thần cách mạng và sáng tạo, có đường lối đúng đắn và gắn bó với nhân dân, có Nhà nước xã hội Chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ngày càng được củng cố vững mạnh và khối đại đoàn kết toàn dân, đó là những nhân tố chủ quan vô cùng quan trọng bảo đảm thắng lợi công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

4. Những khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam

Thời kỳ quá độ là gì? Tính tất yếu khách quan & Thuận lợi - khó khăn của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam?  (ảnh 1)

Sự phức tạp và khó khăn của quá trình quá độ lên chủ nghĩa xã hội của nước ta còn do hậu quả nặng nề của 30 năm chiến tranh ác liệt mà hậu quả không thể khắc phục nhanh chóng. Những kế hoạch và hành động thù địch của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động đang cố gắng cản trở bước tiến của chúng ta. Trong quá trình thực hiện Cách mạng xã hội chủ nghĩa, chúng ta sẽ tiếp tục phát triển quan hệ quốc tế với các nước tư bản và duy trì nền kinh tế đa ngành, bao gồm cả các nhà tư bản tư nhân. Tất cả những điều đó càng làm tăng thêm tính phức tạp của cuộc đấu tranh giữa hai con đường tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ quá độ của nước ta.

- Đất nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội khi các nước đi trước đã và đang gặp nhiều khó khăn nhất định trong việc tạo lập cơ sở vật chất của xã hội mới, khi mà bản thân điều kiện vật chất nội tại trong nó còn nhiều hạn chế và nghèo nàn. Ngoài ra, còn có sự chống phá của các thế lực trong và ngoài nước.

- Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế phát triển mạnh mẽ cũng đặt ra nhiều nguy cơ về việc suy thoái đạo đức, lối sống, nhất là lối sống thực dụng, thiếu tính nhân văn cũng đang và từng ngày từng giờ tác động đến cán bộ, đảng viên và nhất là tầng lớp trẻ. Thực tế đó là một thách thức to lớn cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình xây dựng Đảng, đào tạo nền tảng chính trị xã hội vững chắc trong từng lớp Đảng viên.

- Mặc dù quan điểm chính trị độc lập, chủ quyền, và toàn vẹn lãnh thổ luôn được sự thống nhất và đồng ý của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay lại đặt ra nhiều thắc thức với Việt Nam hơn trong vấn đề này. Đòi hỏi Việt Nam phải thật khôn khéo và tế nhị nếu không sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển mô hình Xã hội chủ nghĩa của đất nước.

5. Nhiệm vụ kinh tế đặt ra trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội

Thứ nhất: Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước:
Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, phát triển lực lượng sản xuất.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là chính sang việc sử dụng một cách phổ biến sức lao động với khoa học và công nghệ hiện đại, tiên tiến, tạo ra năng suất lao động cao.

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước kinh tế lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ.
Chỉ có hoàn thành nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước mới có thể xây dựng được cơ sở vật chất - kỹ thuật cho xã hội mới, nâng cao năng suất lao động đến mức chưa từng có để làm cho tình trạng dồi dào sản phẩm trở thành phổ biến, nhờ đó mới thực hiện được các mục tiêu của chủ nghĩa xã hội.

Thứ hai: Xây dựng quan hệ sản xuất mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa :

Phải xây dựng từng bước những quan hệ sản xuất mới phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới. Nhưng việc xây dựng quan hệ sản xuất mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. Xuất phát từ quan điểm cho rằng bất cứ một sự cải biến nào về mặt quan hệ sở hữu cũng đều phải là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới. Vì vậy, việc xây dựng quan hệ sản xuất mới ở nước ta phải được phát triển từng bước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở những nước như nước ta, chế độ sở hữu tất yếu phải đa dạng, cơ cấu kinh tế tất yếu phải có nhiều thành phần: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân. Đường lối phát triển một nền kinh tế nhiều thành phần có ý nghĩa chiến lược lâu dài, có tác dụng to lớn trong việc động viên mọi nguồn lực cả bên trong lẫn bên ngoài, lấy nội lực làm chính để xây dựng kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất. Chỉ có thể cải tạo quan hệ sở hữu hiện nay một cách dần dần, bởi không thể làm cho lực lượng sản xuất hiện có tăng lên ngay lập tức đến mức cần thiết để xây dựng một nền kinh tế công hữu thuần nhất một cách nhanh chóng.

Vì quan hệ sở hữu là đa dạng cho nên phải có nhiều hình thức phân phối và nhiều hình thức tổ chức quản lý hợp lý, cũng như việc xác lập địa vị làm chủ của người lao động trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân phải diễn ra từng bước, dưới nhiều hình thức và đi từ thấp đến cao.

Thứ ba: Mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:

Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm ... mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.

Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia.

Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội X của Đảng nhấn mạnh: "Đẩy mạnh hoạt động kinh tế đối ngoại, hội nhập sâu hơn và đầy đủ hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương, lấy phục vụ lợi ích đất nước làm mục tiêu cao nhất.

1 114 lượt xem