TOP 10 mẫu Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (2025) SIÊU HAY
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình
Đề bài: Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình trong Truyện Kiều của Nguyễn Du
Dàn ý Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình
1. Mở bài:
Giới thiệu khái quát về tác giả và tác phẩm “Nỗi thương mình” – Nguyễn Du
Khái quát về nội dung tác phẩm “Nỗi thương mình”
2. Thân bài:
*Hoàn cảnh trớ trêu của Thúy Kiều ở lầu xanh (4 câu đầu)
⇒ Cuộc sống hỗn tạp ở lầu xanh, Kiều phải tiếp khách suốt ngày đêm. Đây là tình huống trớ trêu trong cuộc sống của Kiều khi bị vùi dập, chà đạp cả thể xác và nhân cách.
*Niềm thương xót cho số phận Kiều
→ Thời gian và không gian nghệ thuật thích hợp để Kiều suy ngẫm về cuộc đời của mình.
→ Cái giật mình trân quý, tạo nên nhân cách cao quý của Thúy Kiều.
⇒ Khi sống thật với chính mình, bàng hoàng, đau buồn trước số phận của mình và có lẽ đó cũng chính là tiếng nói đòi hỏi của Nguyễn Du về quyền được sống như một cá nhân trong xã hội phong kiến – một con người biết và ý thức được hạnh phúc của chính mình.
*Tâm trạng cô đơn, đau đớn của Thúy Kiều (phần còn lại)
→ Cảnh vật đối với Thúy Kiều là sự giả tạo, Kiều không tìm được tri kỷ, cô thờ ơ với mọi thứ xung quanh.
⇒ Trong chốn lầu xanh nơi mọi thứ phồn hoa, tiền bạc lên ngôi, Kiều vẫn cố tách mình ra, tìm tri kỷ, thể hiện khát vọng sống trong sáng của Kiều mà chúng ta thực sự trân trọng.
⇒ Nguyễn Du đề cao giá trị nhân văn, đồng cảm sâu sắc với số phận của Kiều và qua đó lên án xã hội gay gắt.
3. Kết bài:
Nêu cảm nghĩ về đoạn trích “Nỗi thương mình”
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 1)
"Nỗi thương mình" (Truyện Kiều) là một đoạn trích thể hiện khá rõ tài năng nghệ thuật độc đáo, cái nhìn vượt thời đại và đặc biệt tinh thần nhân đạo mới mẻ của đại thi hào nguyễn Du. Đoạn trích chỉ vỏn vẹn hai mươi câu, từ câu 1229 đến câu 1248, cho thấy tâm trạng đau đớn, tủi nhục, nỗi cô đơn, thương thân trách phận và ý thức sâu sắc về thân phận bất hạnh của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh.
Từ lúc gia đình gặp biến cố, phải bán mình chuộc cha, trao duyên lại cho em là Thúy Vân, Kiều đã trải qua 15 năm lưu lạc, trong 15 năm ấy, Kiều gặp phải bao sự lọc lừa nhưng lần Thúy Kiều bị lừa đau đớn nhất có lẽ là lần nàng bị Mã Giám Sinh lừa bán đến lầu xanh. Nó là bước ngoặt bẻ ngang cuộc đời Thúy Kiều rẽ sang một hướng khác. Rơi vào tay Tú Bà, Kiều rút dao định tự tử nhưng không thành.
Ở lầu Ngưng Bích, Kiều lại mắc bẫy Sở Khanh, bị Tú Bà đánh đập tơi bời. Tiếp đó là những tháng ngày ê chề nhục nhã của nàng trong vai trò kĩ nữ - gái làng chơi, đem tấm thân trong ngọc trắng ngà của mình mua vui cho những kẻ lắm tiền háo sắc. Những ngày Thúy Kiều ở chốn lầu xanh là những ngày nàng vô cùng buồn tủi, tâm trạng rối bời như tơ vò nghĩ về thân phận, sự tủi nhục của kiếp hồng nhan. Đoạn trích có một kết cấu khá logic với diễn biến tâm trạng và trớ trêu của cuộc đòi đầy bất hạnh khi nghe những lời độc thoại nội tâm đầy đau đớn : “Khi tỉnh rượu …xuân là gì?” Đó cũng là thời điểm mở đầu cho những chuỗi tâm sự nối kết, ngỗn ngang. Kiều nghĩ đến thân phận mình để rồi “mình lại thương mình xót xa” Kiều xót xa cho chính bản thân mình. Với nàng, hiện tại như một giấc mơ cay đắng khi nàng sánh với quá khứ.
Mở đầu đoạn trích Nỗi Thương Mình là tâm trạng đau buồn, tủi hổ đến ê chề của Thúy Kiều phải nếm trải trong chốn lầu xanh của mụ Tú Bà:
“Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh”
Bốn câu đầu của đoạn trích cho ta thấy rõ hình ảnh lối sống xô bồ, nhơ nhớp và thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ ở chốn lầu xanh. Nguyễn Du đã miêu tả thật sống động bức tranh sinh hoạt ở chốn lầu xanh bằng bút pháp ước lệ tượng trưng. Trong chốn lầu xanh ấy Kiều phải tiếp khách mua vui cho “biết bao” người mà nàng không thể nào nhớ đươc hay là đếm được, bởi lẻ một điều rằng hằng ngày Kiêu tiếp khách làng chơi triền miên “suốt đêm, sớm đưa, tối tìm” những từ ngữ ấy đã cho ta thấy đươc sự nhộn nhịp của chốn lầu xanh, nơi mà Tú Bà ăn nên làm ra.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ: bướm lả ong lơi, cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm” và các điển tích điển cố: “lá gió cành chim”, “Tống Ngọc, Trường Khanh” - chỉ chung cho loại khách làng chơi phong lưu Nguyễn Du cho thấy tình cảnh của Thúy Kiều tuy sống trong cảnh lầu xanh tưởng như thanh tao, phong nhã nhưng thực chất đó chỉ là giả tạo, hằng ngày Kiều phải làm công việc nhơ nhuốc, tiếp đủ các loại khách đến mua vui.
Điều này cho ta thấy rõ hơn về nỗi bất hạnh và tình cảnh trớ trêu của Thúy Kiều. Bút pháp ước lệ giúp Nguyễn Du không tránh né số phận thực tế của Kiều mà vẫn giữ được chân dung cao đẹp của nàng. Qua đó ta thấy được thái độ trân trọng, cảm thông của tác giả đối với nhân vật.
Ông đã tái hiện cái hoàn cảnh của Thúy Kiều bằng những sự đối lập nghiệt ngã: một bên là nước mắt Thúy Kiều - một bên là những cơn say, trận cười triền miên. Do vậy ở bốn câu thơ đầu, mặc dù chưa được miêu tả trực tiếp, người đọc vẫn thấy Kiều đang bị cuốn đi trong một cơn lốc vô hình, bị buộc vào cảnh sống nhơ nhớp nơi nhà chứa. Hiện thực nghiệt ngã mà nhân vật phải trải qua, hé mở thân phận bẽ bàng của người kỹ nữ. Nguyễn Du đã mỹ lệ hóa cho cảnh sống ấy bằng một thứ ngôn ngữ ước lệ rất tài tình: ước lệ theo thành ngữ dân gian, ước lệ theo điển tích làm cho sự hồi tưởng kiếp sống đớn đau của Kiều trở nên tao nhã hơn. Bởi vì chỉ có hồi tưởng mới diễn tả hết sức sống chân thật của nội tâm nhân vật, mới thể hiện đúng nỗi đau, mới nổi bật được phẩm giá và sự chịu đựng giày vò đáng thương của nhân vật. Đằng sau những câu thơ ấy là tấm lòng cảm thông, trân trọng mà tác giả dành cho Thúy Kiều.
Bốn câu thơ đầu đã đặt ra một tình thế của tâm trạng. Ở lầu xanh có nhiều kĩ nữ, họ có thể bình thản coi việc làm của mình rất đỗi bình thường, trớ trêu thay Kiều lại có một nhân phẩm quá đỗi cao đẹp, một tâm hồn trong trắng, một bông hoa từ cảnh sống “êm đềm trướng rủ màn che” bỗng nhiên bị ném vào bùn nhơ, hai câu tiếp nói về tâm trạng của Kiều trong những ngày tủi nhục, nỗi ê chề, sự ép buộc, đày đọa mà Kiều phải chịu đựng:
“Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình xót xa”
Ở nơi lầu xanh đầy “cuộc say, trận cười” thì chỉ “khi tỉnh rượu lúc tàn canh” Kiều mới có một khoảnh khắc hiếm hoi để sống thực với chính mình và cũng là hoàn cảnh Kiều tỉnh táo nhất đối diện với con người mình. Thời gian và không gian thật vắng lặng như gợi lên nỗi niềm xót xa. Nhịp thơ có sự thay đổi giữa hai câu thơ trên từ nhịp 3/3 chuyển sang nhịp 2/4/2. Hai chữ “giật mình” kết hợp với cách ngắt nhịp ấy đã diễn tả sự biến đổi đột ngột trong tâm hồn Kiều. Nàng bàng hoàng đau xót trước thực tại phũ phàng và trơ trọi chỉ có một mình nàng tự xót xa, đau đớn cho chính số phận bi thương, đoạn trường của mình.
Giật mình không chỉ là hành động bên ngoài của nhân vật khi có một sự tác động đột ngột nào đó của môi trường bên ngoài. Đó là cái giật mình từ cảm xúc bên trong mà nếu không có thì Kiều cũng giống như tất cả các kĩ nữ khác trong thanh lâu của Tú bà. Kiều giật mình vì nhận ra sự tàn phá thảm hại về thể xác và phẩm cách của mình ở chốn lầu xanh, sự cô đơn lẻ loi của mình và sự yếu đuối bất lực của mình trước bao nhiêu sự xấu xa, cạm bẫy đang bủa vây mình mà ko thể chống đỡ. Điệp từ “mình’’ lặp lại ba lần trong một câu thơ như tiếng nấc nghẹn ngào, tha thiết của Thúy Kiều ý thức được về phẩm giá, nhân cách, quyền sống bản thân đó cũng là ý thức cá nhân và quyền sống của con người trong lịch sử phong kiến mà Nguyễn Du muốn truyền tải đến người đọc.
Đối với hai câu trên với nhịp thơ đầy nỗi tủi nhục của Kiều thì những câu tiếp theo sau là những hồi ức dội về, hồi ức tươi sáng va đập thực tại tăm tối đọa đày:
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chương bấy thân”
Một cô gái khuê các, tài sắc vẹn toàn, hiền lành đoan trang hết mực. Một cô gái nho gia bây giờ trở thành một cành hoa tan tác. Sự biến chuyển nhanh chóng đến mức chính Kiều cũng phải bàng hoàng, sửng sốt. Phép đối lập như một biện pháp nghệ thuật chủ yếu toàn đoạn trích và nhất là trong hai câu này càng tăng thêm giá trị biểu cảm. Nó tạo nên sự so sánh đối lập giữa hai quãng đời, hai thời gian, hai tình cảm. Cặp từ đối lập chỉ thời điểm: “Khi sao/giờ sao” tạo nên cảm giác đột ngột của sự thay đổi trong một khoảng thời gian không mấy cách biệt. Chính vì điều này đã làm vết thương của Kiều nhức nhối, đau đớn như đào sâu thêm vào nỗi xót xa, tê tái của Kiều.
Quá khứ hiện về đối lập với thực tại một cách khốc liệt, Kiều hồi tưởng lại những tháng năm “êm đềm trướng rũ màn che” thì lập tức thực tại phũ phàng lại hiện lên rõ nét hơn gấp bội, từ “phong gấm” diễn tả một sự bình yên, êm đềm trong quá khứ đối lập gay gắt với từ “tan tác” trong câu thơ nói về hiện tại như cái thực trạng phũ phàng bao trùm vùi chôn quá khứ êm đẹp. Phép so sánh “như hoa giữa đường” càng làm nổi bật sự đối lập tuyệt đối giữa quá khứ và thực tại, giữa cá nhân và hoàn cảnh. Cụm từ “bướm chán ong chường” và “dày gió dạn sương” là nét sáng tạo về cách dùng từ của Nguyễn Du, nhấn mạnh có ý so sánh theo mức độ tăng tiến cho ta thấy sự vùi dập, chà đạp mà Kiều phải gánh chịu. Các câu hỏi tu từ ở đây được Nguyễn Du sử dụng nhằm làm rõ hơn sự đau đớn, ê chề của Kiều trước thực tại phũ phàng, tàn nhẫn.
Hai câu thơ day dứt một tiếng thở dài tuyệt vong của một cô gái vốn tài sắc hơn người, khát khao hạnh phúc nhưng bậy giờ đã chán ngán tất cả":
“Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì?”
Sống trong cảnh lầu xanh suốt ngày phải mua vui cho người khác hành hạ bản thân mình, lặp đi lặp lại hằng ngày ai cũng sẽ thấy chán chường muốn bỏ bê tất cả và Kiều cũng vậy. Sự đối lập giữa người - khách làng chơi (số nhiều) với chính mình - Kiều (số ít) như thể hiện tột cùng nỗi cô đơn của nàng. Từ ''xuân'' ở đây ý chỉ niềm vui được hưởng hạnh phúc lứa đôi nhưng với Thúy Kiều sống làm vợ khắp người ta thì làm gì còn có mùa xuân, chỉ thấy trong đó là sự nhục nhã, lẻ loi, trơ trọi và cô đơn của cuộc đời người kĩ nữ mua vui. Từ ''mặc'' ở đây lại chỉ sự bất lực, mặc cho mọi thứ muốn tới đâu thì tới, dằn vặt nặng nề đay nghiến của Thúy Kiều nhưng không làm sao khác được.
“Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó, mặn mà với ai.”
Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp hiện lên, có đủ cả: phong - hoa - tuyết - nguyệt, cảnh đẹp bốn mùa hội tụ vào nơi đây, gió xuân vi vu thổi, hoa hạ đua nhau khoe sắc ngát hương, trăng thu sáng vằng vặc, tuyết đông phủ kín cả lầu tất cả đều rất thực, rất sinh động như vẽ nên bức tranh đầy màu sắc, âm thanh của lầu xanh và trong đó có đủ những thú vui của con người: cầm - kì - thi - họa càng tô điểm cho bức tranh ấy thêm phần nhộn nhịp, sống động hơn bao giờ hết. Nhưng nêu lên những cảnh thiên nhiên đẹp đẽ, tao nhã, nên thơ ấy lại như một sự giễu cợt, mỉa mai, chua chát. Vì dù ngụy trang khéo đến mấy, cũng không thể che đậy nổi cái bản chất nhơ nhớp, bẩn thỉu bên trong của chốn “buôn thịt bán người”. Đoạn thơ vì thế đồng thời hướng vào tâm trạng Kiều: Kiều luôn phải tách mình thành hai nửa: một con người bề ngoài vui gượng, giả tạo và một con người thực, sống để xót xa mỗi lúc canh tàn.
Cảnh không thể vui vì lòng người nặng trĩu nỗi tê tái... Khi gió tựa hoa kề, khi cung cầm thi họa, lúc nào nỗi đau cũng dâng đầy và nghẹn ứ trong lòng nàng. Ý thức về nhân phẩm một khi trỗi dậy là lại bị giày xéo, khiến nàng không nguôi bẽ bàng, nhục nhã về thân phận. Hai từ “đòi phen” được lặp lại trong tám câu thơ càng thể hiện rõ hơn đó là một nỗi đau thường trực, chưa lúc nào thôi dằn vặt Kiều. Nỗi sầu của Kiều lan tỏa sang cảnh vật:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Bằng sự thông cảm lạ lùng, và bằng tài năng kì diệu, Nguyễn Du đã viết nên hai câu thơ hay nhất giữa ngoại cảnh và tâm cảnh, giữa cảnh và tình. Từ một trường hợp cụ thể, thơ Nguyễn Du đã vươn tới tầm phổ quát, trở thành chân lí của mọi thời. Có thể nói hai câu thơ là đỉnh điểm của đoạn trích vì nó gột tả được sâu sắc hơn bao giờ hết nội tâm của nhân vật từ đó lan tỏa sang cảnh vật một cách thật tự nhiên và hợp lí. Nỗi buồn của Thúy Kiều cứ dâng lên, như sóng cồn triền miên không bao giờ dứt, nó cứ khuấy động bên trong sâu thẳm con người Kiều để rồi đến một lúc nào đó, tức nước vỡ bờ, nó dâng lên cuồn cuộn đánh động vào nỗi lòng, cảm xúc của Thúy Kiều, khiến cho mọi vật qua cái nhìn của nàng đều trở nên u buồn, tăm tối, nhuộm màu tang thương.
“Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?”
Hai câu thơ cuối là nỗi lòng của Thúy Kiều được Nguyễn Du thể hiện một cách tinh tế, độc đáo mà tâm sự này, tâm trạng này, Kiều của Thanh Tâm tài nhân không hề có được. Từ “vui gượng” nói lên tất cả sự lạc lõng, cô độc cũng là sự mâu thuẫn, bế tắc không lối thoát của Kiều trước hoàn cảnh. Sống trong cảnh nhơ nhớp, phải tiếp khách làng chơi, trải qua những cơn say, trận cười quanh năm suốt tháng, phải lả lơi… là điều bất đắc dĩ, Kiều không bao giờ muốn thậm chí không bao giờ có thể tưởng tượng được cuộc đời mình lại bi kịch như thế. Giữa chốn lầu xanh mà đồng tiền lên ngôi, có bao kẻ đến rồi đi, cái còn lại sau cùng với Kiều chỉ là sự rã rời, đau đớn cả về thể xác và tâm hồn thì làm gì có ai là tri kỉ, có ai để “mặn mà” nhưng trong sâu thẳm cõi lòng, Kiều vẫn luôn mong ngóng một tấm lòng, một người hiểu mình. Một lần nữa ngôn ngữ nửa trực tiếp lại khiến cho câu thơ có những lớp nghĩa sâu sắc kết hợp câu hỏi tu từ đầy sót xa cay đắng cho thấy phẩm chất tốt đẹp của Thúy Kiều giàu lòng tự trọng, coi trọng phẩm giá và muốn sống một cuộc sống bình yên, trong sạch.
Đoạn trích thể hiện khá hoàn chỉnh số phận, tính cách của Thúy Kiều. Thể hiện tập trung tư tưởng nhân văn của tác giả: cảm thương trước bi kịch của Kiều, khẳng định nhân cách đẹp đẽ của nàng và khẳng định sự ý thức về nhân phẩm và sự ý thức cá nhân. Thể hiện nỗi thương mình của Thúy Kiều, Nguyễn Du cũng thể hiện được nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật với ngôn ngữ nửa trực tiếp, lời tác giả và nhân vật như hòa vào nhau tạo nên sự đồng cảm giữa tác giả - nhân vật - người đọc.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 2)
“Nỗi thương mình” kể về những ngày tháng đau thương, đầy nước mắt của Thúy Kiều khi bị lừa và bị bán vào lầu xanh, dưới bàn tay của Tú Bà độc ác. Cuộc sống nhơ nhuốc, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Với lòng thương cảm vô bờ bến cho nhân vật của mình, Nguyễn Du như rướm máu trên từng trang giấy khi kể về cuộc đời Thúy Kiều. Những câu thơ mở đầu vén bức màn về cuộc sống nhơ nhuốc, ô nhục mà Thúy Kiều phải chịu đựng:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Một nơi “mua hương bán phấn” dường như đã phủ kín đoạn thơ, phủ kín số phận nhỏ bé của cô gái ấy. Đặc biệt hai điển cố Tống Ngọc và Trường Khanh ám chỉ đến những vị khách làng chơi không bao giờ thiếu ở những nơi như thế này. Nơi đây thực chất là nhà tù giam giữ thân xác Thúy Kiều.
Trong không gian như thế này, Thúy Kiều thấy đau đớn và buồn bã:
Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Trong bầu không khí như thế này, “rượu” là thứ Thúy Kiều tạm thời dùng để giải tỏa nỗi buồn, sự chán chường và tẻ nhạt. Khi tỉnh rượu, đêm về khuya, nàng mới “giật mình” “thương mình xót xa”. Việc Nguyễn Du lặp đi lặp lại từ “mình” một lần nữa gieo vào lòng người nỗi đau vô hạn. Thương thân phận nàng Kiều long đong, khốn khổ, thương cho số phận bạc bẽo không thể tự quyết định mà phải nương nhờ chốn phong trần.
Không ai thương thân phận của nàng, nên Thúy Kiều ôm mình khóc, thương thân. Cuộc vui nhanh chóng kết thúc, người rồi cũng đi, chỉ còn mình Kiều cô đơn và lẻ loi. Tác giả đã ẩn dụ hình ảnh “hoa tàn” để diễn tả cuộc sống bị chà đạp, vùi dập tàn nhẫn của cô gái mong manh này. Một xã hội chỉ toàn những điều xấu xa, những con người yếu đuối dễ kiệt sức và bị chà đạp như vậy.
Giữa chốn lầu xanh như thế này, Thúy Kiều chỉ biết làm bạn với thơ ca, với hội họa, với đàn. Nhưng điều đó khiến Kiều cảm thấy cô đơn và buồn bã. Nàng không còn cảm thấy những đam mê đó là nguồn sống nữa. Nỗi buồn bao trùm cảnh vật nơi đây khiến cảnh vật cũng có cảm xúc, cũng biết buồn, biết lan tỏa nỗi buồn như chính con người vậy.
Sống trong lầu xanh, Thúy Kiều phải vật lộn để sống, cố sống như thể mình đã chết:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Hạnh phúc của Thúy Kiều không trọn vẹn, chỉ là “gượng” để người ta nhìn thấy, để người ta biết, nhưng thực ra trong lòng nàng chẳng “mặn mà với ai”.
Vậy nên, chỉ với một bài thơ ngắn, Nguyễn Du đã khiến người đọc không kìm được cảm xúc khi cô gái tài sắc vẹn toàn ấy lại rơi vào bế tắc và đau khổ như vậy.
Như vậy, nhân vật Thúy Kiều đã lấy đi không ít nước mắt của người đọc và lấy đi không ít tâm huyết của nhà thơ.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 3)
Trong dòng chảy văn học trung đại, mỗi nhà văn, nhà thơ đều góp phần làm nên diện mạo của nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm xuất sắc thuộc nhiều thể loại khác nhau. Và khi nhắc đến Đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, bạn đọc mọi thế hệ không thể không nhắc tới tác phẩm “Truyện Kiều”. Đọc những trang Kiều, người đọc như thấm thía nỗi đau mà Kiều phải chịu đựng nhưng ẩn sau đó chính là vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng. Có thể nói, đoạn trích “Nỗi thương mình”, trích từ câu 1229 đến câu 1248 là một minh chứng tiêu biểu cho điều đó.
Bốn câu thơ mở đầu đoạn trích “Nỗi thương mình” như đã vẽ lên trước mắt người đọc tình cảnh éo le, đáng thương của Thúy Kiều.
Biết bao bướm lả ong lơi,
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.
Với những hình ảnh mang đậm tính ước lệ, tượng trưng “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười” đã gợi lên cuộc sống xô bồ, tấp nập suốt ngày đêm nơi chốn lầu xanh. Ở nơi đó luôn tràn ngập tiếng cười với những trò mua vui tiêu khiển, những cuộc rượu say sưa. Thêm vào đó, tác giả đã khéo léo sử dụng các điển cố, điển tích “Tống Ngọc” và “Trường Khanh” để chỉ những người phong lưu, ăn chơi ở chốn lầu xanh. Những hình ảnh ấy đã cho thấy cuộc sống đầy bẽ bàng, tủi khổ của Thúy Kiều ở chốn lầu xanh, suốt ngày đêm phải tiếp khách, trở thành người mua vui cho những vị khách phong lưu, đa tình ghé qua nơi đây.
Trước tình cảnh đầy trớ trêu nơi chốn lầu xanh, trong Thúy Kiều luôn hiện lên bao nỗi niềm đau đớn, xót thương cho thân phận, cuộc đời của mình.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Câu thơ “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh” đã mở ra thời gian ban đêm, khi những cuộc vui đã tàn, đó là thời điểm hiếm hoi Kiều được sống là chính mình, đối diện với chính mình cùng bao nỗi niềm, suy tư, trăn trở. Trong chính khoảnh khắc ít ỏi ấy, Kiều “giật mình” bởi sự bàng hoàng, thảng thốt trước thực tại cuộc sống của mình. Để rồi, sau cái giật mình ấy chính là nỗi thương mình, xót xa cho chính bản thân mình và nỗi thương mình, sự xót xa ấy của Kiều xét đến cùng chính là sự tự ý thức về nhân cách của Thúy Kiều. Trong nỗi niềm xót xa, sự cô đơn đến tột cùng ấy, Thúy Kiều đã đi tìm nguyên nhân để lí giải chúng.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân.
Nghệ thuật đối đã được tác giả sử dụng thành công thông qua việc sử dụng hàng loạt các hình ảnh đối lập nhau, giữa một bên là “phong gấm rủ là” gợi những tháng ngày quá khứ êm đềm, hạnh phúc với một bên là những hình ảnh “tan tác”, “hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường” để gợi lên hiện tại phũ phàng, bị chà đạp, vùi dập. Thể hiện sự đối lập giữa quá khứ với hiện tại, tác giả Nguyễn Du đã tô đậm cuộc sống cùng tâm trạng ê chề, nhục nhã, chán chường của Thúy Kiều trong hoàn cảnh đầy trớ trêu. Thêm vào đó, với việc sử dụng hàng loạt từ để hỏi “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên giọng điệu chất vấn, Thúy Kiều như đang tự hỏi, tự dằn vặt chính bản thân mình. Trong nỗi niềm chua xót, đầy giày vò ấy, Thúy kiều đã nhận thức rõ sự đối lập đau xót và chua chát giữa ta và người.
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì.
Không chỉ đối lập giữa cuộc sống ở quá khứ và hiện tại, mà giờ đây, trong Thúy Kiều còn hiện hữu rõ nét sự đối lập giữa cảnh vật bên ngoài với nỗi niềm tân trạng của chính mình. Bi kịch ấy của Thúy Kiều được thể hiện rõ nét trong những tám câu thơ cuối của đoạn trích.
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?
Đòi phen nét vẽ câu thơ,
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai?
Cuộc sống nơi chốn lầu xanh ở khung cảnh bên ngoài với đầy đủ những nét thanh cao, tao nhã, phong lưu được tác giả tái hiện lại thông qua các hình ảnh giàu sức gợi “gió tựa hoa kề”, “tuyết ngậm”, “trăng thâu”, “nét vẽ”, “câu thơ”, “cung cầm”, “nước cờ”. Nhưng ẩn sâu bên trong đó là bản chất phũ phàng và đầy xót xa, đầy tủi nhục và nhơ nhớp. Và bởi vậy, cảnh vật ở nơi đây đối với Thúy Kiều chính là một sự giả tạo và nàng không thể tìm thấy bầu bạn, không thể tìm thấy tri âm và nàng thờ ơ với mọi thứ xung quanh mình. Đặc biệt, với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, tác giả Nguyễn Du đã cho thấy tâm trạng của Thúy Kiều khi sống ở nơi đây, đó chính là sự gượng gạo, tự thương, tự xót xa cho số phận của chính mình. Đặc biệt, tâm trạng đau đớn như xé lòng của Kiều được thể hiện qua việc sử dụng hàng loạt các câu hỏi tu từ.
Tóm lại, đoạn trích “Nỗi thương mình” với việc sử dụng thành công nghệ thuật đối cùng những hình ảnh giàu sức gợi đã thể hiện một cách rõ nét và sâu sắc nỗi niềm tâm trạng, sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, ẩn sau đó người đọc cũng cảm nhận được vẻ đẹp nhân cách của nàng.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 4)
Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa, đau đớn. Và ở đây, hơn ai hết, Thúy Kiều là người hiểu rõ nhất hoàn cảnh khó khăn của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích “Nỗi thương mình”.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là cảnh một lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh “bướm lả ong lơi” hiện lên ở đầu câu thơ khiến người đọc càng hình dung rõ hơn. Ví kỹ nữ như những bông hoa đẹp, trong khi khách hàng như ong bướm, ve vãn, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại vờn đến bông hoa khác, một nơi hết sức hỗn loạn, tạp nham. Và ở đó, người phụ nữ trở thành một thú vui của những khách làng chơi, một món đồ chơi tùy ý cho những kẻ có tiền. Mặc dù chốn lầu xanh được trang hoàng bằng hoa nhưng cuộc sống của những cô gái điếm luôn u ám, đầy đau khổ và cay đắng.
Còn bản thân Kiều, người chẳng biết gì về chuyện gió trăng, tâm hồn cao quý thanh thoát, nhan sắc và tài năng hoàn hảo, nàng tưởng tượng mình sẽ xứng đáng với cuộc sống giàu sang, được chiều chuộng, nâng niu. Ở đó, Kiều đã cố gắng hết sức để mạnh mẽ, chống cự, thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thoát khỏi số phận nhục nhã, đau khổ của mình.
Nỗi đau của Kiều càng bộc lộ rõ hơn trong những câu thơ ý thức được số phận mong manh của mình. Và Kiều thấy mình đồng điệu với câu “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là một đóa mẫu đơn cao quý, trong sáng, nhưng cuối cùng, nàng trở thành nơi trú ngụ của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị giẫm đạp không thương tiếc, chỉ còn lại một thân hình tả tơi, nhơ nhuốc. Nghĩ lại bản thân, Thúy Kiều chỉ có thể ngước nhìn lên trời cao than trách “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, đó là nhận thức của nàng về thân xác tan nát, rẻ tiền của mình.
Tuy nhiên, dù cuộc đời có giẫm đạp lên nàng, thì Kiều vẫn mạnh mẽ, kiên cường, giữ vững bản chất cao quý, trong sáng như đóa sen trắng giữa ao “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dù bốn bề của chốn lầu xanh khắp nơi “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để ý đến chúng. Với người khác, niềm vui thâu đêm suốt sáng là “xuân” nhưng với nàng, những điều ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt, nàng hoan toàn không thiết tha gì. Nhìn cảnh khách muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần gũi xác thịt khiến lòng nàng như chết lặng, có lẽ mọi cay đắng, buồn tủi đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc kệ cho cuộc đời trôi nổi.
Như vậy, qua tác phẩm “Nỗi thương mình”, Nguyễn Du đã vẽ nên tình cảm đau thương, buồn tủi của Thúy Kiều giữa chốn lầu xanh. Đồng thời những cảm xúc và suy nghĩ của Kiều về thân phận bọt bèo của mình được nhà thơ khắc họa rõ nét qua từng câu chữ của bài thơ.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 5)
Trong văn học trung đại, mỗi tác giả đều để lại dấu ấn của mình trong nền văn học Việt Nam qua nhiều tác phẩm đặc sắc. Và khi nhắc đến Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc, không thể không kể đến tác phẩm kinh điển “Truyện Kiều”. Trong những trang sách của Kiều, chúng ta cảm nhận được nỗi đau mất mát mà nàng phải chịu đựng, nhưng đằng sau đó cũng là vẻ đẹp tâm hồn và phẩm cách kiêng kỵ của nàng. Đoạn thơ “Nỗi thương mình”, từ câu 1229 đến câu 1248, là minh chứng cho điều đó.
Bốn câu thơ đầu tiên của đoạn thơ “Nỗi thương mình” như một bức tranh trải ra trước mắt người đọc, vẽ lên cảnh tình bi thảm, đáng thương của Thúy Kiều.
Bao bướm lả ong lơi, cuộc sống đầy tháng vui đùa đêm, lá cây rung rinh theo gió, sáng sớm Tống Ngọc đưa tới đêm Trường Khanh tìm kiếm.
Với hình ảnh rực rỡ của những đóa hoa nở rộ, Thúy Kiều cảm nhận cuộc sống sôi động tại chốn lầu xanh, nơi luôn tràn ngập tiếng cười và niềm vui.
Trước bức tranh đầy màu sắc của chốn lầu xanh, Thúy Kiều không ngừng chứng kiến sự đắng cay và lẻ loi trong cuộc sống.
Khi ánh sáng mờ dần sau bữa tiệc, Thúy Kiều nhận ra bản thân mình bị lạc lõng trong dòng đời u tối.
Câu thơ 'Khi ánh rượu tàn, lúc canh khuya' mở ra khung cảnh buổi tối tăm tối, khi mọi cuộc vui kết thúc, và Thúy Kiều bắt đầu trải nghiệm cảm giác lạc lõng, đau đớn trong lòng.
Khi sao lấp lánh bên kia cửa sổ,
Giờ sao nhạt nhòa giữa bức tranh cuộc sống.
Mặt sao phủ mờ ánh nắng mai
Thân sao mỏi mệt giữa dòng đời bận rộn.
Nghệ thuật so sánh hiệu quả đã được tác giả thể hiện thông qua việc đối chiếu giữa “phong gấm rủ là” với “tan tác như hoa giữa đường”, “dày gió dạn sương”, “bướm chán ong chường”. Điều này làm nổi bật sự tương phản giữa quá khứ êm đềm và hiện tại khắc nghiệt, nhấn mạnh sự đau khổ, thất vọng của Thúy Kiều trong cuộc sống. Việc sử dụng các từ hỏi như “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” đã tạo nên một tông điệu của sự tìm kiếm, tự đặt câu hỏi của Thúy Kiều về bản thân mình. Trong nỗi đau lòng, sự bất hạnh đó, Kiều đã nhận ra rõ ràng sự đối lập, sự chua chát giữa bản thân và thế gian.
Dưới mưa Sở, trên mây Tần
Đâu biết được ngày xuân đến lúc nào.
Phân tích đoạn thơ 'Nỗi thương mình' để hiểu rõ hơn về tình cảnh khốn khổ và tâm trạng đau đớn của Thúy Kiều.
Không chỉ tương phản giữa quá khứ và hiện tại, Thúy Kiều còn phải đối mặt với sự đối lập giữa thế giới bên ngoài và tâm trạng bên trong của mình. Số phận bi kịch của Kiều được thể hiện rõ trong các câu thơ cuối cùng của đoạn trích.
Gió thổi nhẹ nhàng làm hoa lay đầu
Tuyết phủ trắng xóa cảnh sắc trăng nguyên.
Mọi cảnh đều mang hình bóng u buồn
Người buồn không có niềm vui nào tồn tại?
Ngắm câu thơ vẽ đẹp như tranh vẽ,
Cung đàn gần nước dưới ánh trăng và hoa.
Vui vẻ mà cũng buồn thảm trước hết,
Ai đã từng tri âm sâu đậm với ai?
Cuộc sống tại chốn lầu xanh không chỉ đẹp và tinh tế bên ngoài mà còn ẩn chứa sự phũ phàng, đau đớn bên trong. Thúy Kiều đối diện với sự giả dối của cảnh vật và cảm thấy cô đơn, không tìm thấy sự đồng cảm và yêu thương. Tâm trạng của Kiều được thể hiện qua các câu hỏi tư duy.
Tóm lại, đoạn trích 'Nỗi thương mình' đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật so sánh kết hợp với hình ảnh tạo cảm xúc, thể hiện rõ tâm trạng đau khổ và sự xót thương số phận của Thúy Kiều. Đồng thời, vẻ đẹp tinh thần của nàng cũng được khẳng định qua từng dòng văn.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 6)
Đại thi hào Nguyễn Du viết nên kiệt tác Truyện Kiều giống như đã đóng góp viên ngọc sáng trong nền văn học Việt Nam. Lật dở từng trang truyện Kiều giống như từng chặng đường đời của người con gái “hồng nhan bạc mệnh” thân phận chịu nhiều đau thương, mất mát. Đoạn trích “Nỗi thương mình” là đoạn trích bi ai nhất về nàng Kiều khiến người đọc không khỏi xót xa.
“Nỗi thương mình” kể về chuỗi ngày nhiều đau đớn và nước mắt của Thúy Kiều khi cuộc đời bị đẩy vào chốn lầu xanh bị đè ép dưới tay của mụ Tú Bà ghê tởm. Cuộc đời nhơ nhớp, ô nhục của Thúy Kiều bắt đầu từ đây. Nguyễn Du như xé lòng khi kể từng trang viết về cuộc đời Thúy Kiều, câu mở đầu như vén bức màn u tối mà Kiều đang phải sống những tháng ngày ô nhục trong đó:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc vui đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Bằng cách sử dụng những hình ảnh ước lệ như “bướm lả ong lơi”, “cuộc vui”, “trận cười suốt đêm… đã hiện lên trước mắt người đọc cảnh ong bướm nhộn nhịp chốn lầu xanh kia. Nơi mà con người đem ra giống hàng hóa để trao đổi buôn bán làm thú vui xa hoa, cảnh làng chơi với các nhân vật Tống Ngọc và Trường Khanh thấy đậm nét hơn cuộc sống nơi đây. Người con gái nhỏ bé có số phận gắn với nơi này luôn ấp ủ trong mình một nỗi xót mà người đời không hay:
Khi tỉnh rượu lúc canh tàn
Giật mình, mình lại thương mình xót xa
Nàng lấy rượu để giải sầu, để tâm hồn nàng được thoát khỏi nơi đây. Những lúc rượu tỉnh vào đêm khuya vắng nàng mới “giật mình” rồi tự “thương mình xót xa”. Phép điệp từ “mình” của Nguyễn Du đã gieo vào lòng người một nỗi xót xa, thương thay cho số phận người con gái long đong, bạc bẽo phải nương nhờ chốn phong trần.
Những câu thơ tiếp theo là những năm tháng khi thân xác nàng Kiều phải chịu nỗi dơ bẩn, tuyệt vọng:
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bất thân
Số phận ấy không ai thương thay nên Thúy Kiều đành tự ôm nỗi lòng thương lấy chính mình mà chỉ biết sầu đau. Nguyễn Du lấy hình ảnh “hoa tàn” để nói lên cuộc đời bị chà đạp, vùi dập của người con gái mỏng manh. Người con gái đẹp như bông hoa đang nở rộ phơi sắc vậy mà cánh hoa bị dẫm đạp héo úa không chút thương xót. Qua đây tác giả cũng đã phê phán được xã hội bất công, xã hội còn tồn tại quá nhiều định kiến, chỉ toàn những cái xấu xa không cho người khác một đường để sống.
Thúy Kiều tuyệt vọng đến mức tưởng mình đã chết lặng:
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngâm bốn bề trăng thâu
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nét cờ dưới hoa
Giữa chốn lầu xanh nàng lấy thơ, lấy họa, lấy đàn làm bạn để không cảm thấy cô đơn, lạc lõng. Nhưng dù vậy thì lòng nàng cũng không khỏi u sầu “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” không gian của nỗi buồn vẫn bao phủ lấy nàng khiến nỗi sầu gieo càng sầu thêm.
Nguyễn Du viết nàng Kiều tuy đã cố gắng “gượng” sống mà cũng như đã chết, đây thực sự là đoạn ám ảnh nói lên cuộc đời cay nghiệt:
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Như vậy chỉ với mấy câu thơ nhưng Nguyễn Du như nén hết cảm xúc trong đó để xót xa cùng thân phận cuộc đời của nàng Kiều bạc mệnh. Đây là nhân vật đã lấy đi bao nước mắt của tác giả cũng như người đọc.
Vẫn chủ đề quen thuộc vẫn là những số phận nhỏ bé của người phụ nữ nhưng đến Nguyễn Du ông đã dùng cây bút của mình viết nên vần thơ tựa như lời bộc bạch thấm thía, sâu sắc vô cùng. Dường như hình ảnh Thúy Kiều hiện thân cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa được đặc tả tinh tế nhất. Nỗi thương mình là nền tảng của lòng thương người, ông tự thương lấy chính cuộc đời ông và đồng cảm với nàng Kiều sống giữa chốn bụi trần đầy rẫy những lưỡi dao cắt xé lòng.
Đoạn trích “Nỗi thương mình” mang đậm chất bi thương vừa là chuỗi hành trình kể lại từng mảnh đời của Thúy Kiều vừa là lên án được xã hội vạn ác đã chồng chất bao nỗi khổ đau lên một kiếp người.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 7)
Nguyễn Du (1765 – 1820) tên thật là Tố Như, là một nhà văn hóa lớn, một thiên tài văn học. Truyện Kiều của Nguyễn Du được đánh giá là tác phẩm truyện thơ nổi tiếng nhất, được xếp vào hàng kinh điển trong kho tàng văn học Việt Nam. Đoạn trích “Nỗi thương mình” nằm từ câu 1229 đến câu 1248 trong Truyện Kiều. Đây là đoạn trích miêu tả rõ nét tình cảnh trớ trêu của nàng Kiều trong chốn lầu xanh, và nỗi niềm thương xót cho phận đời bạc bẽo của Thúy Kiều.
Tột cùng của nỗi đau không phải là chuyện Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh. Mà đó là việc Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích làm kỹ nữ. Số phận của Kiều đúng kiếp “hồng nhan bạc phận”.
Ở đoạn trích này, Nguyễn Du đã lột tả một cách trần trụi phận đời éo le, tủi nhục của Kiều. Độc giả đã cảm nhận rõ nét nỗi đau đớn của Kiều và không khỏi thương cảm, xót xa. Và chính Kiều là người ý thức rõ nhất cảnh ngộ éo le ấy của mình:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Mở đầu đoạn trích, Nguyễn Du đã khắc họa khung cảnh chốn lầu xanh trụy lạc bằng những hình ảnh hết sức chân thực. “Bướm lả ong lơi” mở ra khung cảnh vô cùng dung tục. Ở đây, tác giả đã ví người kỹ nữ nư những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi tựa như loài ong, loài bướm. Nguyễn Du thật sự tinh tế khi dùng hình ảnh ong bướm để ẩn dụ cho khách hàng chơi.
Trong chốn hồng lâu ấy, chỉ là những hình ảnh ăn chơi trụy lạc thâu đêm suốt sáng, đó là những “cuộc say đầy tháng” cùng nỗi khoái lạc từ những “trận cười suốt đêm”. Có lẽ với khách làng chơi đó những giây phút khoái lạc, nhưng với Thúy Kiều đây lại là sự xót xa, tủi nhục. Dường như giá trị của những kỹ nữ như Thúy Kiều ở chốn lầu xanh chỉ như một món đồ cho kẻ khác mua vui, người đến, kẻ đi “dập dìu” cười đùa ngả ngớn.
Những người kỹ nữ chốn lầu xanh ngày đêm tiếp khách chẳng phân biệt ngày đêm, chẳng cần biết khách là ai. Họ vẫn vui vẻ trao đổi với nhau thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ mạt. Cuộc sống ấy cứ quẩn quanh, hết ngày này đến tháng khác, đến nỗi người kỹ nữ chẳng còn nhận ra chính bản thân mình nữa. Nguyễn Du đã khéo léo đưa vào đoạn trích hai nhân vật nổi danh trong lịch sử là Tống Ngọc – nổi danh với Phú Cao Đường kể về chuyện mây mưa của thần nữ Vu Sơn với tiên vương Sở quốc. Trường Khanh – người đã gảy khúc Phượng Cầu Hoàng để quyến rũ Trách Văn Quân, là một người phong lưu, giỏi chuyện trăng gió.
Bằng những hình ảnh ẩn dụ tinh tế, cùng những điển tích cổ, Nguyễn Du đã tái hiện rõ nét khung cảnh chốn lầu xanh nhuộm màu nhơ nhớp, chốn vui thú loạn lạc, hoang đường của những con người nơi đây. Ở đó, số phận người phụ nữ trở nên thấp kém, chỉ là những món đồ phục vụ cho sở thích dung tục, tầm thường. Cuộc đời của người kỹ nữ vì thế mà luôn chìm vào tăm tối và đầy xót xa, tủi nhục.
Khắc họa số phận của kỹ nữ chốn lầu xanh cũng là để khắc họa nỗi tủi phận của Thúy Kiều. Cuộc đời Kiều đúng “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” nên dù chống cự, vùng vẫy thế nào, cuối cùng nàng cũng phải chấp nhận số phận. Để rồi sau mỗi cuộc vui thú xác thịt, Kiều tự nhìn lại tấm thân tàn tạ của mình nàng cảm thấy xót xa cho chính bản thân.
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình mình lại thương mình
Chỉ hai câu thơ thôi nhưng sao ta thấy đau đớn, xót xa đến vậy. Để quên đi nỗi chua xót về số phận mình, nỗi đắng cay, Kiều đã tìm đến hơi men. Thế nhưng, khi tỉnh nỗi đau ấy càng thấm thía và như xát muối vào tim. Say của Thúy Kiều không phải tự chuốc say mình như Hồ Xuân Hương, mà đó là bắt buộc. Thân phận người kỹ nữ bắt buộc phải nâng chén với đủ loại khách làng chơi. Việc ấy cứ liên tục mỗi ngày, khi tỉnh giấc thì tiệc đã tàn, người đã tan. Lúc này, giữa không gian tĩnh lặng ấy, Kiều mới chợt “giật mình” nhìn lại tấm thân tàn mà không khỏi xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường
Mặt sao dày gió dạn sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân
Kiều ý thức được thân phận bèo bọt của mình nơi chốn lầu xanh. Thế nên, trong một phút chốc nàng đã nhớ về cuộc sống êm đềm trước kia. “Khi sao phong gấm rủ là” đó là cuộc sống trong sự bao bọc của cha mẹ, chẳng cần quan tâm tới chốn phong trần. Vậy mà “giờ sao tan tác như hoa giữa đường”. Lấy sự tươi đẹp của quá khứ để làm nổi bật lên cuộc sống ê chề, xót xa đến tận cùng. Vẫn là “trướng rủ màn che” nhưng giờ lại là cuộc sống buôn phấn bán hương cho người chẳng quen biết. Thế mới thấy được nỗi xót xa của Thúy Kiều.
Nguyễn Du đã khéo léo khắc họa lời tự sự của Thúy Kiều. Cuộc sống giờ đây nàng bị chà đạp không thương tiếc. Khuôn mặt ngại ngùng, e ấp chốn khuê phòng xưa kia giờ đã “dày gió dạn sương”, ngày ngày phải chường ra tiếp rượu cho người ta ngắm nghía, ôm ấp. Càng nghĩ đến bản thân, Thúy Kiều càng chán chường, chỉ còn có thể thốt lên những lời thở than chua xót “thân sao bướm chán ong chường”. Qua đó, ta càng cảm thương số phận của nàng Kiều. Dường như ý thức được tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình, nên Kiều chẳng còn thiết tha gì:
Mặc người mưa Sở mây Tần
Những mình nào biết có xuân là gì
Đòi phen gió tựa hoa kề
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu
Giữa chốn phong trần ấy, dù phận liễu yếu đào tơ bị vùi dập, bị coi thường, nhưng Kiều vẫn mạnh mẽ, cố giữ cho mình cốt cách thanh cao. Bốn bề lầu xanh đâu đâu cũng có “mưa Sở mây Tần” nhưng Kiều cũng chẳng để tâm. Dường như những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy chẳng làm ảnh hưởng đến tâm hồn vốn đã chết lặng của Kiều. Với người khác, những cuộc vui thâu đêm suốt sáng ấy chính là xuân, còn với Kiều những thứ ấy cũng như gió thoảng mây trôi.
Sống trong sự tủi nhục, đau đớn cả thể xác và tâm hồn, giờ đây Kiều chỉ như một cái xác vật vờ chốn lầu xanh. Tâm trí nàng chẳng màng đến những thú vui tầm thường ấy. Có lẽ chính vì tâm trạng của người, đã khiến tâm trạng của thiên nhiên trở nên u ám.
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ
Đó là những câu thơ đắt giá nhất, diễn tả chính xác hoàn cảnh éo le của Thúy Kiều. Dù xung quanh đều là những cuộc vui tối ngày, nhưng với Kiều nó đều tầm thường hết cả. Có lẽ từ khi bước chân vào chốn này, Kiều đã trở nên không màng nhân tình thế thái. Đối với Thúy Kiều mọi cảnh vật, con người nơi đây đều là giả tạo, nàng không tìm được tri âm, tri kỷ.
Ở đây, Nguyễn Du đã hết sức tinh tế khi dùng những từ ngữ chắt lọc để miêu tả về đám người dung tục, tầm thường nhưng vẫn luôn thể hiện mình là kẻ có văn hóa.
Đòi phen nét vẽ câu thơ
Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa
Câu thơ ấy thể hiện sự mỉa mai đối với những khách làng chơi ở chốn lầu xanh. Kiểu vốn là một người “cầm kỳ thi họa” thế nên khi nhìn thấy sự giả tạo ấy, nàng không ngừng cảm thán. Đó là những điều mà nàng yêu thích trước đây, thế nhưng giờ đây dưới con mắt của những kẻ làng chơi, nàng lại thấy nó thật tẻ nhạt, chán chường. Và giữa chốn phong trần này, chính tài sắc vẹn toàn của Kiều lại là sự trêu ngươi chua xót.
Những điều Kiều làm trong chốn lầu xanh ấy chỉ là gượng gạo. Bởi nàng biết dù có phản kháng thế nào nàng vẫn không thể thoát khỏi nó. Ngay cả khi tìm đến cái chết, nàng cũng đâu thể trốn tránh được số phận đâu.
Vui là vui gượng kẻo là
Ai tri âm đó mặn mà với ai
Ở chốn đó nàng muốn tìm một tri âm, tri kỷ. Ấy thế nhưng những kẻ đến đây đều vì mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của Kiều. Chẳng một ai thật tâm, thật tình đến để chia sẻ tâm sự cùng nàng. Thế nên những kẻ ấy chỉ là một phút thoáng qua. Vì thế càng làm cho Kiều cảm thấy mình cô đơn, hiu quạnh và xót xa đến tột cùng.
Phân tích Nỗi thương mình ta càng hiểu rõ hơn nỗi thương cảm xót xa cho kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều. Người phụ nữ tài sắc vẹn toàn ấy đã bị cuộc sống chốn phong trần vùi dập không thương tiếc. Đến mức tâm hồn Kiều như chết lặng vì quá đau đớn. Qua đoạn trích ấy, ta cũng thấy rõ tấm lòng nhân đạo mà Nguyễn Du đã trao gửi, cảm thông cho Thúy Kiều. Chính vì thế ông đã đề cao nhân phẩm tốt đẹp của nàng, dù chìm đắm trong chốn dung tục tầm thường, nhưng Kiều vẫn giữ được cốt cách tâm hồn, không bị cuốn theo lối sống trụy lạc ấy.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 8)
Sau biến cố gia đình, Kiều bán thân làm lẽ cho Mã Giám Sinh để cứu cha và em, đồng thời gửi lại mối duyên của mình với Kim Trọng cho Thúy Vân, những tưởng bấy nhiêu sự hy sinh ấy của Kiều đã là đến tột cùng, thế nhưng phận đời éo le, thích trêu đùa kiếp hồng nhan bạc mệnh. Kiều bị Mã Giám Sinh lừa bán vào lầu Ngưng Bích, trở thành kỹ nữ, khiến cuộc đời nàng thật sự đi vào bi kịch kinh hoàng. Sau lần tự tử và bỏ trốn không thành Kiều bị Tú Bà buộc phải tiếp khách, dần trở thành người kỹ nữ phong trần trong nỗi xót xa và tủi nhục khôn cùng. Số phận nổi trôi của nàng Kiều khiến độc giả không khỏi thương cảm, đớn đau đúng với câu “Đau đớn thay phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”. Mà ở đây hơn ai hết Thúy Kiều chính là người ý thức được rõ nhất cảnh ngộ éo le của kiếp kỹ nữ trong đoạn trích Nỗi thương mình.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu đoạn trích đó là khung cảnh chốn lầu xanh ong bướm trụy lạc, hình ảnh “bướm lả ong lơi” gợi ra viễn cảnh vô cùng dung tục, ví kỹ nữ như là những bông hoa tươi đẹp, còn khách làng chơi lại tựa như loài ong loài bướm, lả lơi, ngả nghiêng hết vờn đóa hoa này, lại chạm đến bông hoa kia, hết sức tạp nham, lẫn lộn và hoang đường. Trong chốn mua vui ấy người ta chỉ thấy hương rượu nồng quyện với mùi hương phấn dung tục với “cuộc say đầy tháng”, với sự khoái lạc của “trận cười suốt đêm”, nam nữ thâu hoan không kể ngày đêm, ồn ào, náo nhiệt và trụy lạc. Mà người phụ nữ ở chốn phong trần lại trở thành thứ đồ chơi cho kẻ khác mua vui, ai đến ai đi nhiều không kể xiết, vốn là những người xa lạ thế nhưng lại có thể hiện ra những hình ảnh “dập dìu” nam nữ cười đùa, ngả ngớn, đầu sát bên đầu, má ấp bên má tựa như lá với gió, cành với chim. Người kỹ nữ ngày đêm tiếp khách cũng chẳng phân biệt sáng tối, ngày hay đêm, khách đến là ai, già hay trẻ, xấu hay đẹp, nhân phẩm, tính cách ra sao, thứ họ trao đổi chỉ là thú vui xác thịt và đồng tiền rẻ rúng, riết rồi chẳng còn nhận ra bản thân mình là ai nữa. Mà trong đoạn trích để khắc họa hình ảnh khách làng chơi Nguyễn Du đã tinh tế đưa vào hai nhân vật có thật trong lịch sử, một là Tống Ngọc nổi danh với bài Phú Cao Đường kể chuyện mây mưa của nữ thần Vu Sơn với tiên vương nước Sở, ý chỉ chuyện nam nữ hoan lạc. Hai là Trường Khanh tên tự của Tư Mã Tương Như, người gảy một khúc Phượng cầu Hoàng để quyến rũ Trác Văn Quân, một quả phụ nhan sắc tuyệt trần, cũng ý chỉ loại khách phong lưu, giỏi chuyện trăng gió. Như vậy từ những hình ảnh ẩn dụ tinh tế thông qua cách điển tích điển cố, tác giả đã tái hiện một cách tài tình khung cảnh chốn lầu xanh nhuốm màu sắc dục, cuộc sống nhơ nhớp, hỗn loạn và hoang đường của những con người nơi đây. Mà ở đó người phụ nữ trở thành thú vui, thứ đồ chơi tùy cho những kẻ có tiền sử dụng phục vụ cho những sở thích dung tục, tầm thường. Dẫu rằng chốn lầu xanh ngày ngày giăng đèn kết hoa, thế nhưng cuộc đời của người kỹ nữ luôn chìm trong tăm tối, tủi nhục và đầy xót xa cay đắng.
Còn bản thân Kiều, vốn là một tiểu thư khuê các, nào đâu biết chuyện gió trăng, tâm hồn vốn thanh cao trang nhã, tài sắc vẹn toàn, vốn tưởng sẽ phải xứng có được cuộc sống phú quý, được nâng niu cưng chiều. Thế nhưng dòng đời vốn dĩ “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, ai ngờ được sóng gió lại đẩy cuộc đời Kiều đi vào chỗ địa ngục trần gian, nhơ nhớp, dung tục đến tận cùng là lầu xanh. Ở chốn ấy Kiều đã cố hết sức mình vùng vẫy, chống cự thậm chí tìm đến cái chết, nhưng vẫn không thể thoát khỏi số phận ê chề, nhục nhã. Thế rồi sau mỗi cuộc “vui”, Kiều quay về nhìn lại tấm thân tàn tạ, lại ý thức được thân phận bọt bèo, nàng không khỏi xót xa, tự khóc thương cho bản thân mình.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Hai câu thơ ấy khiến người ta chợt nghĩ đến hai câu thơ của Hồ Xuân Hương rằng “Chén rượu hương đưa say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, cũng là nỗi đớn đau cho thân phận phụ nữ, là nỗi chán chê, xót xa cho cuộc đời hồng nhan, lấy rượu để tạm quên đi nỗi đắng cay, thế nhưng lúc tỉnh thì nỗi đau ấy lại càng trở nên thấm thía và rõ ràng. Thế nhưng khác với việc Hồ Xuân Hương tự chuốc say mình để được quên sự đời, thì bản thân Thúy Kiều lại bị buộc phải say, chén đi chén lại với đủ loại khách làng chơi, ngày này qua tháng nọ, hiếm có lúc giở rượu, tỉnh giấc khi cuộc vui đã tàn, người đã tan. Kiều mới chợt giật mình, bàng hoàng nhìn lại tấm thân tàn, mà tự thấy xót xa, thương cảm đến quặn thắt cả tâm hồn.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nỗi đau của Kiều lại càng được bộc lộ rõ nét hơn trong những câu thơ ý thức về thân phận bọt bèo. Nhắc lại chuyện “Khi sao phong gấm rủ là”, là nhắc về cuộc sống êm đềm trướng rủ màn che thuở trước, khi Kiều còn được sống trong sự bảo bọc của cha mẹ, nào có biết đến chốn phong trần với nỗi ê chề, xót xa đến tận cùng này. Trái ngược hẳn với mộng đẹp trong quá khứ, Kiều bây giờ buộc phải đối mặt với một cuộc sống cũng trướng rủ màn che đấy, nhưng lại chìm trong những ngày tháng sắc dục, buôn phấn bán hương cho kẻ chơi đùa thỏa thích, ngày ngày nở nụ cười giả tạo, lấy lòng người không quen biết. Mà Kiều tự nhận thấy bản thân mình ứng với mấy chữ “tan tác như hoa giữa đường”, vốn là đóa mẫu đơn cao quý, trong sạch, cuối cùng lại trở thành nơi của biết bao “bướm lả ong lơi”, bị chà đạp không thương tiếc, chỉ còn lại bộ dạng tàn tạ, nhơ nhuốc. Khuôn mặt khi xưa vốn dĩ ngại ngùng, e ấp, quạt hương che nửa mặt, ôm ấp chốn khuê phòng, thì nay phải ngày ngày chường ra cho kẻ Bắc người Nam, ngắm nghía, bình phẩm, phải “dày gió dạn sương” ôm ấp nam tử như người tình, điệu bộ lả lướt, ngả ngớn, chiều lòng. Nghĩ lại bản thân Thúy Kiều chỉ còn có thể thốt lên lời thở than chua xót “Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”, là ý thức của nàng về tấm thân tàn tạ, rẻ mạt của mình. Từ đó độc giả dễ dàng nhận ra cuộc sống tủi hổ, nhục nhã đau đớn tột cùng về cả thể xác và tinh thần của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu”
Thế nhưng dẫu cuộc đời có chà đạp, vùi dập phận liễu yếu đào tơ, thì Kiều vẫn mạnh mẽ kiên cường, giữ vững cho mình cốt cách thanh cao, tinh khiết tựa loài sen trắng trong đầm nước “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Dẫu bốn bề chốn lầu xanh nơi nào cũng “mây Sở mưa Tần” thì nàng cũng chẳng buồn để tâm đến, những thú vui hoan lạc, tầm thường ấy cũng chẳng đánh động được vào tâm hồn vốn đã chết lặng từ lần đầu bước chân vào nơi đây. Với những ai khác cuộc vui thâu đêm suốt sáng là “xuân” còn với nàng những thứ ấy vốn chẳng lọt vào tầm mắt, cũng chẳng thiết tha gì. Gặp cảnh khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, muốn gần gũi xác thịt mà lòng nàng như chết lặng, có lẽ bấy nhiêu đắng cay, tủi nhục đã khiến Kiều hoàn toàn buông xuôi, mặc cho cuộc đời trôi nổi giữa chốn phong, hoa, tuyết, nguyệt rực rỡ, thơ mộng nhưng ẩn chứa là sự dung tục, tầm thường này.
Người sống trong cảnh đớn đau thể xác, tàn tạ tâm hồn, thì nào có thể vui tươi được dẫu rằng đèn hoa giăng lối, tiếng cười muôn nơi, rượu ngon mỹ thực ngập tràn? Thế nên Nguyễn Du mới viết hai câu thơ “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”, để diễn tả đúng cái hoàn cảnh éo le, buồn tủi của Thúy Kiều. Nực cười làm sao chốn phong trần nhơ nhớp mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”, để thỏa mãn cái đám người dung tục tầm thường, nhưng vẫn muốn thể hiện mình là kẻ có văn hóa, tao nhã với thú vui cầm, kỳ, thi, họa thanh cao. Thúy Kiều vốn là người thông minh, sắc sảo ca từ thi phú âm luật có cái nào mà không thông, nhưng nhìn viễn cảnh trước mắt, lại nhìn tới số phận bọt bèo của mình thì những thứ mà nàng yêu thích trước đây cũng trở nên tẻ nhạt, chán chường. Đặc biệt trong chốn phong trần này, tài nghệ của nàng lại trở thành một cái gì đó rất là trêu người, tài sắc vẹn toàn như thế mà cũng nào có tránh khỏi được kiếp long đong, ô nhục đâu? Lòng Kiều đã chết cái vui cũng chỉ là gượng cho có, để chiều lòng kẻ đến người đi, chứ chẳng thiết tha mặn mà, lại nghĩ đến việc ngày ngày gặp bao nhiêu kẻ mến mộ, thèm khát nhan sắc, tài năng của mình, nhưng liệu tìm đâu ra kẻ “ai tri âm đó mặn mà với ai” hay cũng chỉ là một phút thoáng qua. Điều đó càng làm cho Kiều trở nên chán nản, xót xa đến tột cùng.
Đoạn trích Nỗi thương mình là nỗi thương cảm xót xa cho một kiếp hồng nhan bạc mệnh của Thúy Kiều, người phụ nữ tội nghiệp bị xã hội phong kiến vùi dập không thương tiếc, đến mức chết lặng cả tâm hồn vì quá đớn đau. Thông qua đoạn trích ta cũng thấy rõ được tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du khi thấu hiểu và thông cảm cho nỗi đau của Thúy Kiều, đồng thời trân trọng và đề cao giá trị nhân phẩm tốt đẹp của nàng Kiều, dẫu có chìm trong chốn dung tục tầm thường nhưng vẫn giữ được một tâm hồn thanh khiết, không bị sa đà trong lối sống trụy lạc, hoang đường.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 9)
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Mộng Liên Đường chủ nhân đã khái quát về thân thế Thuý Kiều: “Khi lai láng tình thơ, người tựa án khen tài châu ngọc; Khi duyên ưa kim cải non biển thề bồi; Khi đất nổi ba đào cửa nhà tan tác; Khi lầu xanh, khi rừng tía, cõi đi về nghĩ cũng chồn chân; Khi kinh kệ, khi can qua, mùi từng trải nghĩ cùng tê lưỡi…”. Thuý Kiều đã trải qua hầu hết những nỗi đau khổ tái tê nhất của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Khổ đau nhưng luôn có ý thức về “kiếp đoạn trường” của bản thân, rơi vào lầu xanh, Kiều thương thân xót phận nhưng cũng luôn ý thức về phẩm giá. Điều đó góp phần làm nên giá trị nhân đạo lớn lao và sâu sắc của tác phẩm.
Vận mệnh và tính cách có màu sắc bi kịch của nàng Kiều quán xuyến toàn bộ nội dung tác phẩm. Nhan sắc “nghiêng nước, nghiêng thành”, tài đàn tuyệt diệu, tài thơ mẫn tiệp của nàng rút cục cũng không chống lại được hoàn cảnh. Nàng rơi vào bẫy của Tú Bà và buộc phải tiếp khách làng chơi:
Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười thâu đêm
Dập dìu lá gió cành chim
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh
Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp ước lệ kết hợp với thủ pháp đối xứng, đan chéo để vừa thể hiện được một thực tế xót xa, thân phận bẽ bàng của người kĩ nữ, vừa giữ được chân dung cao đẹp của nhân vật Thuý Kiều, qua đó thể hiện thái độ trân trọng đầy cảm thông đối với nhân vật của mình.
Thân phận nàng Kiều bị cuộc sống lầu xanh cuốn đi, đọa đầy tưởng bị nhấn chìm trong chốn bùn nhơ không cất đầu lên được. Nhưng nỗi đau đớn của nàng, tâm sự thương mình của nàng, ý thức về nhân phẩm của nàng khiến ta chỉ càng thương nàng hơn, càng trân trọng nàng hơn. Hãy lắng nghe những tâm sự của nàng sau những “cuộc vui”, những “trận cười”:
Khi tỉnh rượu lúc tàn canh,
Giật mình mình lại thương mình xót xa.
Vẫn không gian lầu xanh của Tú bà nhưng thời gian đã là “lúc tàn canh” - đêm khuya, thời khắc hiếm hoi, quý giá để con người mình được đối diện với lòng mình, trở về với con người thật của mình. “Giật mình mình lại thương mình xót xa”, ba chữ “mình” trong một câu thơ gợi ra tất cả sự cô độc của thân phận. “Giật mình” như một sự bàng hoàng, thảng thốt đau đớn. “Giật mình” vì thấy ghê tởm cho cảnh sống truỵ lạc chốn lầu xanh. “Giật mình” cho chính bản thân, một thiếu nữ khuê các nết na sống trong cảnh “phong gấm rủ là” nay rơi vào cảnh “bướm chán ong chường”. “Giật mình” hay “rùng mình”, bởi tấm thân “gìn vàng giữ ngọc” cho Kim Trọng giờ đành để khách làng chơi giày vò. Vì thế mà bốn chữ “mình lại thương mình” chìm xuống, giọng thơ đầy thấm thía cô đơn xót xa. Bốn câu hỏi liên tiếp là nỗi niềm dằn vặt, tự đau, tự thương cự độ của “nỗi thương mình”:
Khi sao phong gấm rủ là,
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!
Trong bốn câu chỉ có câu đầu nói về quá khứ êm đềm còn ba câu liên tiếp nói về thực tại phũ phàng. Điều đó gây ấn tượng về việc hiện tại đang đè nặng, chôn vùi quá khứ. Bốn từ “sao” lặp lại: “khi sao”, “giờ sao”, “mặt sao”, “thân sao” là những câu hỏi manh sắc thái cảm thán mạnh bộc lộ nỗi đau xót đến cùng cực trong nỗi đọa đày ê chề. Lời thơ vừa tức tưởi vừa ai oán, vừa xa xót vừa nghẹn ngào.
Nỗi thương mình của Thuý Kiều có một ý nghĩa vô cùng sâu sắc xét về sự tự ý thức của con người cá nhân trong lịch sử văn học Việt Nam thời trung đại. Người phụ nữ xưa được giáo huấn theo tinh thần cam chịu, nhẫn nhục, buông xuôi. Khi con người biết “Giật mình mình lại thương mình xót xa” thì không còn nhẫn nhục cam chịu nữa mà đã ý thức rất cao về phẩm giá và nhân cách bản thân, ý thức về quyền sống của bản thân.
Thương thân xót phận là một chủ đề phổ biến trong văn học Việt nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX (Cung oán ngâm, Chinh phụ ngâm, thơ Hồ Xuân Hương,…). Nguyễn Du là người viết về cảm hứng này sâu sắc và thấm thía hơn cả. Thương thân mình là một cách phản ứng với hiện thực của thân phận. Điều đó cho thấy con người không bị tàn đi, không bị cuốn theo, không bị huỷ diệt. Giữa chốn lầu xanh nhơ nhớp, Kiều tách ra như một điểm sánh về tâm hồn. Chính vì vậy mà Từ Hải, Kim Trọng, Nguyễn và người đọc bao thế hệ đều rất trân trọng nàng.
Đoạn thơ vừa thể hiện được giá trị hiện thực vừa có chiều sâu của tư tưởng nhân đạo, một chiều sâu có khuynh hướng vượt thời đại. Đoạn thơ giúp ta hiểu thêm vì sao Truyện Kiều luôn đồng hành cùng với những vui buồn người Việt qua mưa nắng thời gian.
Phân tích đoạn trích Nỗi thương mình (mẫu 10)
Đoạn trích Nỗi thương mình là tâm trạng xót xa, ê chề của nàng Kiều khi rơi vào hoàn cảnh éo le đầy nhục nhã tại lầu Ngưng Bích và bắt đầu những ngày tháng trở thành kỹ nữ, chứng kiến cảnh mua vui trụy lạc, mà rớt nước mắt xót thương “Đau đớn thay cho phận đàn bà/Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung”.
Đoạn trích nằm từ câu 1229 đến câu 1248, trong phần Lưu lạc của Truyện Kiều. Bắt đầu khi Mã Giám Sinh đưa Kiều về đến lầu xanh của Tú Bà, Kiều biết mình bị lừa, để tránh thoát số kiếp kỹ nữ mua vui, Kiều bèn nhắm mắt định quyên sinh nhưng không chết, lại được Đạm Tiên báo mộng nàng vẫn chưa thoát khỏi sổ đoạn trường. Đành lòng Kiều nhẫn nhục ra ở tạm lầu Ngưng Bích, rồi mắc mưu của Sở Khanh, bỏ trốn không thành, bị Tú Bà bắt về đánh đập dã man và lấy cớ ép Kiều tiếp khách.
“Biết bao bướm lả ong lơi
Cuộc say đầy tháng trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc tối tìm Trường Khanh.”
Mở đầu là cảnh chốn lầu xanh ăn chơi hoang lạc, hoàn toàn xa lạ, ngoài sức tưởng tượng của nàng Kiều. Với “bướm lả, ong lơi”, đầy dung tục tầm thường, hành động suồng sã, trêu ghẹo của khách làng chơi cùng với những bóng hồng lả lướt mời gọi của kỹ nữ, như ong vờn bướm đầy ngả ngớn. Không gian ngập tràn trong ánh đèn nến đỏ đỏ hồng hồng, cùng những “trận cười suốt đêm”, cùng với hương rượu nồng đượm từ “cuộc say đầy tháng”, không phân biệt ngày đêm, ồn ào, buông thả và náo nhiệt. Hình ảnh nam nữ vốn chẳng quen biết “dập dìu” tựa sát vào nhau như “lá gió, cành chim”, rồi cảnh kỹ nữ tiếp khách suốt ngày đêm, chẳng phân biệt ai ra ai, công việc cứ tuần hoàn không có điểm dừng, đến nỗi họ quên mất cả bản thân mình là ai. Nguyễn Du đã rất tài tình khi đưa hai nhân vật trong điển tích văn chương là Trường Khanh, Tống Ngọc, vốn nổi danh với tính phong lưu, thích tầm hoa vấn liễu để giúp người đọc thấy được Kiều tiếp những đối tượng thường là phong lưu tài tử. Chỉ bằng vài câu thơ ngắn gọn, súc tích, tác giả đã khắc họa rõ nét cuộc sống nhơ nhớp, trụy lạc ngập tràn sắc dục và ê chề nơi lầu xanh, nơi phụ nữ được xem là thứ đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang lạc tầm thường của những kẻ lắm tiền nhiều của. Cũng chính trong đoạn thơ này, dưới tầm mắt quan sát thấu đáo của Kiều, cho thấy nàng có ý thức rất cao về nhân phẩm cũng như thân phận của mình.
Kiều vốn được Nguyễn Du xây dựng như một hình mẫu người phụ nữ lý tưởng tài sắc vẹn toàn, nhưng xót xa thay “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”, một con người thanh cao trong trẻo đến vậy, số mệnh lại đẩy đưa vào nỗi nhớ nhấp, tầm thường nhất. Kiều vùng vẫy, chống lại số phận, không chấp nhận làm một kỹ nữ dơ bẩn mặc người chơi đùa, ở nàng hiện lên cái đức tính cao đẹp của loài hoa sen thuần khiết “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Nhưng Kiều bất lực trước hoàn cảnh éo le của mình, Kiều buộc phải chấp nhận sự thật, tự khóc thương cho bản thân.
“Khi tỉnh rượu lúc tàn canh
Giật mình lại thấy thương mình xót xa”
Kiều đã cố quên đi nỗi đau đớn tủi nhục, trong men rượu, nhưng có ích gì khi, canh tan rượu tàn, còn lại tấm thân rã rời, đến Kiều cũng phải “giật mình” mà tự “thương mình xót xa”. Nhịp thơ trong câu lục, là nhịp 3/3 chậm rãi, nhịp nhàng, diễn tả cuộc sống chán chường, đằng đẵng vô tận, đến câu bát thì nhịp thơ 2/2/2/2 nhanh hơn, Kiều bàng hoàng tỉnh lại, nhận lấy nỗi đớn đau tận tâm can, như vặn xoắn lấy tâm hồn.
Những câu thơ tiếp là dòng hồi tưởng đầy xót xa, chua chát của Kiều khi so sánh cuộc sống nhung gấm, thanh cao trước đây cùng với thực cảnh tủi nhục, nhơ nhớp chốn lầu xanh, ong bướm lả lơi.
“Khi sao phong gấm rủ là
Giờ sao tan tác như hoa giữa đường.
Mặt sao dày gió dạn sương,
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân!”
Nhớ khi xưa kia khi còn là tiểu thư đài các, cầm kỳ thi họa môn nào cũng tinh thông, lại được sống trong “phong gấm rủ là”, là viên minh châu, được cha mẹ nâng niu, chiều chuộng, thân ngọc ngà chẳng nhiễm một hạt bụi trần. Nhưng nay hiện thực tàn khốc, Kiều tự ví tấm thân “tan tác như hoa giữa đường”, một đóa Mẫu đơn xinh đẹp nay bị chốn lầu xanh vùi dập không thương tiếc. Ngày trước, nàng nào phải lộ mặt tiếp xúc với nam tử, hay người lạ bao giờ, còn nay thì “Mặt sao dày gió dạn sương”, đã chẳng còn biết xấu hổ, hay e lệ phép tắc, lễ nghĩa, bởi trong chốn phong nguyệt này những thứ đó thật nực cười. Chính Kiều cũng cảm thấy tấm thân mình chẳng còn trong sạch, vốn đã “bướm chán ong chường”, rẻ mạt đến thế. Để thấy được Kiều đã có một cuộc sống đày đọa, vừa ê chề nhục nhã về thể xác, vừa tủi hổ trong tâm hồn, buồn xót cho một số phận tài hoa nhưng mệnh đời bạc bẽo quá. Việc Nguyễn Du sử dụng các thành ngữ lồng ghép, đan chéo vào nhau càng tăng thêm sức biểu cảm, từng câu từng chữ như ghim vào lòng người đọc, thấm đượm nỗi xót thương cho số phận của nàng Kiều tội nghiệp.
“Mặc người mưa Sở mây Tần,
Những mình nào biết có xuân là gì.
Đòi phen gió tựa hoa kề,
Nửa rèm tuyết ngậm bốn bề trăng thâu.”
Nhưng dù xã hội có cố vùi dập nàng xuống lớp bùn hôi tanh, dù tấm thân nàng đã vướng bụi đời, nhưng tâm hồn hồn nàng vẫn thanh khiết, giữ vững cốt cách của loài sen trắng. Kiều thờ ơ với mọi cuộc hoan lạc “mưa Sở mây Tần”, nàng chẳng lấy gì làm vui thú, có gì để vui đây? Khi những khách làng chơi muốn “gió tựa hoa kề”, cho gần gũi thân mật, nhưng thật giả dối và ghê tởm quá. Lòng Kiều như chết lặng, Kiều không phản kháng, cũng không còn muốn phản kháng, bởi đau đớn và tủi đã cướp đi hồn nàng, Kiều chỉ đang tồn tại, tồn tại giữa chốn lầu xanh phồn hoa nhất, cũng thấp kém nhất. Cảnh phong, hoa, tuyết, nguyệt đẹp đẽ có đủ cả, nhưng cũng chẳng thể che lấp đi sự nhơ nhớp, trụy lạc của chốn phong trần phóng túng.
Hỏi chăng trong lòng vốn đã đau xót, buồn tủi thì cảnh có đẹp tuyệt trần đi chăng nữa, thì người cũng có vui được không? Thế Nguyễn Du mới có câu thơ: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu/Người buồn cảnh cũng vui đâu bao giờ?”. Tâm trạng u uất của Kiều dường như lan tràn sang cả cảnh sắc xung quanh, nơi đây cũng nào thiếu những thú vui cầm, kỳ, thi, họa, cũng thanh tao cao nhã một cách đầy mỉa mai, khi chốn dung tục mà cũng “Đòi phen nét vẽ câu thơ/Cung cầm trong nguyệt nước cờ dưới hoa”. Chính vì vậy lòng Kiều càng không vui nổi, có chăng là cái cười gượng gạo “Vui là vui gượng kẻo là”. Cười ở đây là nụ cười chua chát, mặn đắng bờ môi, chắc rằng lòng Kiều đang nhỏ lệ, có câu buồn quá hóa cười, cười vì số phận trêu ngươi, cười vì chán chê cái thân phận phụ nữ đầy ngang trái, trắc trở. Nỗi đau khổ của Kiều qua đoạn thơ này được Nguyễn Du thể hiện bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, càng thêm thấm thía, sâu sắc hơn trong từng câu chữ. Câu thơ cuối như một lời hỏi bâng quơ “Ai tri âm đó mặn mà với ai?”, Kiều chẳng mong câu trả lời, bởi trong chốn phong trần này, sẽ chẳng ai thấu hiểu cho nỗi đau này của nàng.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non (2024) theo Thông tư 12
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên tiểu học (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THCS (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT (2024)