TOP 10 mẫu Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (2025) SIÊU HAY

Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 22 08/01/2025


Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu

TOP 10 mẫu Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích tác phẩm Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu của Nguyễn Dữ.

Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu

(Trích Truyền kì mạn lục)

Từ Đạt, người ở Khoái Châu, lên làm quan tại thành Đông Quan, thuê nhà ở cạnh cầu Đồng Xuân, láng giềng với nhà quan Thiêm thư là Phùng Lập Ngôn. Phùng giàu mà Từ nghèo, Phùng xa hoa mà Từ tiết kiệm, Phùng chuộng dễ dãi mà Từ thì giữ lễ. Lề thói hai nhà đại khái không giống nhau. Song cũng lấy nghĩa mà chơi bời đi lại với nhau rất thân, coi nhau như anh em vậy.

Phùng có người con trai là Trọng Quỳ, Từ có người con gái là Nhị Khanh, gái sắc trai tài, tuổi cũng suýt soát. Hai người thường gặp nhau trong những bữa tiệc, mền vì tài, yêu vì sắc, cũng có ý muốn kết duyên Châu Trần. Cha mẹ đôi bên cũng vui lòng ưng cho, nhân chọn ngày mối lái, định kì cưới hỏi.

Nhị Khanh tuy hãy còn nhỏ, nhưng sau khi về nhà họ Phùng, khéo biết cư xử với họ hàng rất hoà mục và thờ chồng rất cung thuận; người ta đều khen là người nội trợ hiền.

Trọng Quỳ lớn lên, dần sinh ra chơi bời lêu lổng; Nhị Khanh thường vẫn phải can ngăn. Chàng tuy không nghe nhưng cũng rất kính trọng. Năm chàng hai mươi tuổi, nhờ phụ ấm được bổ làm một chức ở phủ Kiến Hưng. Gặp khi vùng Nghệ An có giặc, triều đình xuống chiếu kén một viên quan giỏi bổ vào cai trị. Đình thần ghét Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm hại, bèn hùa nhau tiến cử. Khi sắp đi phó nhậm, Phùng Lập Ngôn bảo Nhị Khanh rằng:

– Đường sá xa xăm, ta không muốn đem đàn bà con gái đi theo, vậy con nên tạm ở quê nhà. Đợi khi sông bằng nước phẳng, vợ chồng con cái sẽ lại cùng nhau tương kiến.

Trọng Quỳ thấy Nhị Khanh không đi, có ý quyến luyến không dứt. Nhị Khanh ngăn, bảo rằng:

– Nay nghiêm đường vì tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bên trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa. Chả lẽ đành để cha ba đào muôn dặm, lam chướng nghìn trùng, hiểm nghèo giữa đám kình nghê, cách trở trong vùng lèo mán, sớm hôm săn sóc, không kẻ đỡ thay? Vậy chàng nên chịu khó đi theo. Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo. Mặc dầu cho phấn nhạt hương phai, hồng rơi tía rụng, xin chàng đừng bận lòng đến chốn hương khuê.

Trọng Quỳ không đừng được, mới bày một bữa tiệc từ biệt, rồi cùng Lập Ngôn đem người nhà đi vào phương nam.

Không ngờ lòng giời khó hiểu, việc người khôn lường, cha mẹ Nhị Khanh nối nhau tạ thế. Nàng đưa tang về Khoái Châu, chôn cất cúng tế xong rồi, đến cùng ở chung với bà cô Lưu thị.

(Lược một đoạn: Bà cô Lưu thị muốn ép Nhị Khanh lấy người quan tướng quân họ Bạch giàu có nhưng Nhị Khanh một lòng phản đối, nàng sai người bõ già lặn lội đi tìm chồng ở Nghệ An. Khi người bõ già đến nơi thì thấy Phùng Lập Ngôn đã mất, Trọng Quỳ vì ăn chơi nên phá nát gia sản, hiện đang mắc kẹt, người bõ già phải giúp đưa về nhà. Về đến nhà, vợ chồng trông nhau mà khóc, Trọng Quỳ bèn làm bài thơ thể hiện tình cảm với vợ. Hai vợ chồng vì xa cách lâu ngày mới được gặp lại nên tình cảm nồng nàn thắm thiết.)

Song, Trọng Quỳ vì quen thân phóng lãng, thuộc tính chơi bời, về nhà ít lâu rồi nết cũ lại đâu đóng đấy, hằng ngày cùng người lái buôn là Đỗ Tam bê tha lêu lổng. Trọng Quỳ thì thích Đỗ có tiền nhiều. Đỗ thì ham Trọng Quỳ có vợ đẹp. Những khi uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi nhử Trọng Quỳ. Trọng Quỳ đánh lần nào cũng được, thấy kiếm tiền dễ như thò tay vào túi mình lấy đồ vật vậy. Nhị Khanh vẫn răn bảo rằng:

– Những người lái buôn phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ, ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi họ sẽ vét hết của mình cho mà xem.

Trọng Quỳ không nghe. Một hôm, Trọng Quỳ cùng các bè bạn họp nhau đánh tứ sắc. Đỗ bỏ ra trăm vạn đồng tiền để đánh và đòi Trọng Quỳ đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mui vẫn được luôn, chẳng suy nghĩ gì, liền bằng lòng cách ấy. Giấy giao kèo viết xong rồi vừa uống rượu vừa gieo quân. Trọng Quỳ gieo ba lần đều thua cả ba, sắc mặt tái mét; cử toạ cũng đều ngơ ngác buồn rầu hộ.

Trọng Quỳ phải cho gọi Nhị Khanh đến, bảo rõ thực tình, đưa tờ giao kèo cho xem và yên ủi rằng:

– Tôi vì nỗi nghèo nó bó buộc, để luỵ đến nàng. Việc đã đến thế này, hối lại cũng không kịp nữa. Thôi thì bi hoan tán tụ cũng là việc thường của người ta. Nàng nên tạm về với người mới, khéo chiều chuộng hắn, rồi bất nhật tôi sẽ đem tiền đến chuộc.

Nàng liệu cơ không thể thoát khỏi, giả vờ nói tử tế rằng:

– Bỏ nghèo theo giàu, thiếp lẽ đâu từ chối. Số giời xếp đặt, há chẳng là tiền định hay sao! Nếu chồng mới không nỡ rẽ bỏ, còn đoái thu đến cái dung nhan tàn tạ này, thiếp xin sửa túi nâng khăn, hết lòng hầu hạ như đã đối với chàng xưa nay. Nhưng xin cho uống một chén rượu, mượn làm một chén tiễn biệt và cho về từ giã các con một chút.

Đỗ cả mừng, rót đầy một chén xà cừ rượu đưa mời nàng uống. Uống xong, nàng về nhà ôm lấy hai con, vỗ vào lưng mà bảo rằng:

– Cha con bạc tình, mẹ đau buồn lắm. Biệt li là việc thường thiên hạ, một cái chết với mẹ có khó khăn gì. Nhưng mẹ chỉ nghĩ thương các con mà thôi.

Nói xong, lấy đoạn dây tơ thắt cổ mà chết.

Đỗ thấy mãi nàng không đến, lấy làm lạ, sai người đến giục, té ra nàng đã chết rồi. Trọng Quỳ hối hận vô cùng, sắm đồ liệm táng tử tế rồi làm một bài văn tế. [...]

Trọng Quỳ đã goá vợ, rất ăn năn tội lỗi của mình. Song sinh kế ngày một cùng quẫn, ăn bữa sớm lo bữa tối, phải đi vay quanh của mọi người làng xóm. Nhân nghĩ có một người bạn cũ, hiện làm quan ở Quy Hoá, bèn tìm đến để mong nhờ vả. Dọc đường buồn ngủ, chàng nằm ghé xuống ngủ ở gốc cây bàng, bỗng nghe trên không có tiếng gọi rằng:

– Có phải Phùng lang đấy không? Nếu còn nghĩ đến tình xưa thì ngày ấy tháng ấy xin đến chờ thiếp ở cửa đền Trưng Vương. Ân tình thiết tha, đừng coi là âm dương cách trở.

Trọng Quỳ lấy làm lạ, tiếng giống như tiếng Nhị Khanh, mở mắt ra nhìn thì chỉ thấy trên trời một đám mây đen bay về tây bắc. Trọng Quỳ tuy rất lấy làm ngờ nhưng cũng muốn thử xem sao, bèn đúng hẹn đến trước đền ấy. Song đến nơi chỉ thấy bóng tà rọi cửa, rêu biếc đầy sân, năm ba tiếng quạ kêu ở trên cành cây xao xác. Trọng Quỳ buồn rầu toan về thì Mặt Trời đã lặn, bèn ngả mình nằm ở tấm ván nát trên một cái cầu. Khoảng cuối canh ba, bỗng nghe thấy tiếng khóc nức nở từ xa rồi gần. Khi thấy tiếng khóc chỉ còn cách mình độ nửa trượng, nhìn kĩ thì người khóc chính là Nhị Khanh. Nàng bảo với Trọng Quỳ rằng:

– Đa tạ ơn chàng, từ xa lặn lội tới đây, biết lấy gì để tặng chàng được! Trọng Quỳ chỉ tự nhận tội lỗi của mình; nhân hỏi đầu đuôi, Nhị Khanh nói:

– Thiếp sau khi mất đi, Thượng đế thương là oan uổng bèn ra ân chỉ. Hiện thiếp được lệ thuộc vào toà đền này, coi giữ về những sớ văn tấu đối, không lúc nào nhàn rỗi để thăm nhau được. Bữa nọ nhân đi làm mưa, chợt trông thấy chàng nên mới gọi; nếu không thì nghìn thu dằng dặc, chẳng biết đến bao giờ được gặp gỡ nhau.

Trọng Quỳ nói:

– Sao nàng đến chậm thế!

Nhị Khanh nói:

Vừa rồi thiếp nhân theo xe mây, lên có việc ở nơi Đế sở. Vì cớ có chàng nên thiếp đã phải bẩm xin về trước đấy, thành ra cũng sai hẹn với chàng một chút.

Bèn dắt tay nhau đi nằm, cùng nhau chuyện trò thủ thỉ. Khi nói đến việc hiện thời, Nhị Khanh chau mày:

– Thiếp thường theo chầu tả hữu Đức Bà ở đây, được trộm nghe chư tiên nói chuyện với nhau, bảo Hồ triều sẽ hết vào năm Bính Tuất, binh cách nổi lớn, số người bị giết chóc đến chừng hơn hai mươi vạn, ấy là chưa kể số bị bắt cướp đi. Nếu không phải người giống cây đức đã sâu thì chỉ e ngọc đá đều bị cháy cả. Bấy giờ có một vị chân nhân họ Lê, từ miền tây nam xuất hiện; chàng nên khuyên hai con bên chí đi theo vị ấy, thiếp dù chết cũng không nát.

Trời gần sáng, Nhị Khanh vội dậy để cáo biệt, vừa đi vừa ngoảnh đầu nhìn lại rồi thoắt chốc thì biến đi mất.

Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ nuôi hai con cho nên người. Đến khi vua Lê Thái Tổ tuốt gươm đứng dậy ở Lam Sơn, hai người con trai đều đi theo, trải làm đến chức Nhập thị nội. Đến nay ở Khoái Châu hiện còn con cháu.

(Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Trúc Khê Ngô Văn Triện dịch,

NXB Văn học, Hà Nội, 1999)

Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (mẫu 1)

Nguyễn Dữ là một trong những tác giả lớn của văn học trung đại Việt Nam, nổi tiếng với tác phẩm "Truyền kì mạn lục" đã khắc sâu trong lòng người đọc. Trong tác phẩm này, chuyện "Người nghĩa phụ ở Khoái Châu" nổi bật như một biểu tượng cho tâm hồn cao đẹp, nhất là đức hi sinh và nghĩa tình đối với gia đình. Trong đó, các nhân vật như Từ Đạt, Phùng Lập Ngôn, Nhị Khanh và Trọng Quỳ mang những tính cách và giá trị sống đối lập, tạo nên sự độc đáo trong tác phẩm.

Từ Đạt được giới thiệu là người nghèo khó nhưng sống chân thật và tiết kiệm. So với Phùng Lập Ngôn, ông mang trong mình tính cách đối lập: trong khi Lập Ngôn xa hoa thì ông lại khiêm nhường; trong khi Lập Ngôn chuộng dễ dãi thì ông lại giữ gìn lễ nghĩa. Sự tính cách khác biệt đó làm nổi bật nhân cách của Từ Đạt như một người cha gương mẫu, làm chổ dựa cho gia đình. Ông cũng chính là người gieo mầm cho tình nghĩa giữa hai gia đình khi gần gũi và đối đãi tốt đẹp với Phùng Lập Ngôn.

Từ Đạt là biểu tượng của đức tiết kiệm và sự trung thực, một người dành cả cuộc đời để xây dựng một gia đình đặc biệt coi trọng nghiã tình.

Phùng Lập Ngôn là một nhân vật đại diện cho tầng lớp giàu sang trong xã hội phong kiến. Tính cách xa hoa và chuộng sự dễ dãi của ông được đặt đối lập với Từ Đạt. Tuy nhiên, đóng góp quan trọng nhất của ông trong tác phẩm là lối sống nghiêm khắc và dẫn dục con cháu vẫn làm tròn bổn phận.

Việc ông bị triều đình đày đến chốn nguy hiểm là một biểu tượng của những hi sinh mà người trung trực phải gánh chịu trong xã hội phong kiến, đày thêm tính bi động cho chuyện.

Nhị Khanh là trung tâm đồng thời là linh hồn của câu chuyện. Nàng được mô tả như một người con gái tài sắc vẽ toàn, khéo léo trong việc đối nhân xử thế. Sau khi lấy chồng, nàng biểu hiện rõ vai trò một người vợ hiền đức, vừa giữa hòa khí gia đình, vừa không ngại can ngăn chồng khi chàng lêu lông.

Nhưng khía chất đáng khâm phục nhất của Nhị Khanh chính là nghĩa tình về đạo hiếu. Nàng không ngần ngại hi sinh tình cảm vợ chồng để cùng cha chồng đến chốn nguy hiểm. Lời khuyên nhủ nhuyễn nhưng chất chứa sự kiên quyết của nàng khiên người đọc không khỏi cảm phục: “Thiếp dám đâu đem mối khuê tình để lỗi bề hiếu đạo.”

Nỗi tâm và bi kịch của Nhị Khanh còn được khắc họa rõ nét hơn khi nàng chứng kiến cha mẹ mình liên tiếp qua đời, buộc nàng phải quay lại sống trong độc thân. Hình ảnh Nhị Khanh với nghĩa tình đối với gia đình và hi sinh cá nhân trở thành một biểu tượng cao đẹp trong văn học trung đại.

Trọng Quỳ được khắc họa như một nhân vật có sự phát triển phức tạp. Ban đầu, chàng được mô tả như một người trai tài hoa, nhưng khi trưởng thành, lâu dài trở nên lêu lông, đánh mất sự tín nhiệm với vợ. Tuy nhiên, mối quan hệ giữa chàng và Nhị Khanh không hoàn toàn là một chiều. Chàng đã biểu lộ rõ sự kính trọng dù không luôn nghe theo lời khuyên bài có lý của vợ. Chính điều này tạo nên tính đối nghịch trong nhân vật, làm chàng trở thành một tuyến nhân vật phức tạp thay vì là biểu tượng tuyệt đối.

"Người nghĩa phụ ở Khoái Châu" không chỉ là một câu chuyện về nghĩa tình gia đình mà còn phản ánh những giá trị sống trong xã hội phong kiến. Qua các nhân vật như Từ Đạt, Phùng Lập Ngôn, Nhị Khanh và Trọng Quỳ, Nguyễn Dữ không chỉ khắc họa đời sống con người mà còn truyền tải những bài học sâu sắc về nghĩa vụ, ..v.v...

Phân tích Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu (mẫu 2)

"Chuyện Người Nghĩa Phụ ở Khoái Châu" là một tác phẩm ngắn của nhà văn Nguyễn Dữ trong tập "Truyền kỳ mạn lục". Tác phẩm kể về câu chuyện của một người nghĩa phụ ở Khoái Châu, qua đó thể hiện những quan niệm đạo đức về tình nghĩa, lòng trung thành và sự hy sinh của con người trong xã hội phong kiến xưa. Qua câu chuyện này, Nguyễn Dữ đã khéo léo lồng ghép những bài học sâu sắc về tình người và nhân sinh.

Câu chuyện mở đầu với một tình huống tưởng chừng đơn giản, nhưng lại ẩn chứa nhiều thông điệp sâu sắc. Người nghĩa phụ ở Khoái Châu, một người đàn ông bình thường, đã có hành động rất đặc biệt khi quyết định nhận nuôi một đứa trẻ mồ côi, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục đứa trẻ ấy như con ruột. Tuy nhiên, sự việc trở nên ly kỳ khi người nghĩa phụ ấy bị một kẻ xấu hãm hại và khiến cho đứa trẻ phải đối mặt với những thử thách vô cùng khắc nghiệt.

Đầu tiên, Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân vật người nghĩa phụ với phẩm hạnh cao cả. Ông là người có lòng nhân ái và tấm lòng rộng mở, sẵn sàng giúp đỡ người khác mà không nghĩ đến quyền lợi cá nhân. Sự hy sinh của ông đối với đứa trẻ mồ côi không chỉ thể hiện tình cảm của một người cha đối với con mà còn phản ánh quan niệm của xã hội phong kiến xưa về sự hy sinh trong mối quan hệ nghĩa tình. Đặc biệt, khi đứa trẻ gặp nạn, người nghĩa phụ không ngần ngại hi sinh bản thân để bảo vệ đứa trẻ, dù ông biết rằng điều đó có thể sẽ khiến mình gặp nguy hiểm.

Một trong những giá trị cốt lõi mà Nguyễn Dữ muốn nhấn mạnh qua tác phẩm là lòng trung thành và sự hy sinh vì nghĩa vụ. Câu chuyện không chỉ đơn thuần là một câu chuyện về tình cảm giữa người với người mà còn là bài học về việc đặt nghĩa vụ lên trên lợi ích cá nhân. Người nghĩa phụ không bao giờ nghĩ đến việc được báo đáp hay nhận lại lợi ích, mà chỉ đơn giản là làm những điều tốt đẹp vì tình nghĩa, vì trách nhiệm.

Bên cạnh đó, tác phẩm còn phản ánh một yếu tố quan trọng trong xã hội phong kiến, đó là vai trò của lòng trung thực và sự ngay thẳng trong ứng xử giữa người với người. Nhân vật người nghĩa phụ không hề có mưu đồ xấu xa nào, trái lại, ông luôn hành động theo lương tâm và trách nhiệm của một người cha, một người thầy. Trong khi đó, những kẻ phản diện trong câu chuyện lại đi ngược lại các giá trị đạo đức, sử dụng thủ đoạn để đạt được lợi ích cá nhân, qua đó thể hiện sự trái ngược giữa cái thiện và cái ác trong xã hội phong kiến.

Tuy nhiên, có thể thấy rằng, câu chuyện không chỉ dừng lại ở những tình cảm cao đẹp mà còn mang đến những suy ngẫm sâu sắc về sự khắc nghiệt của cuộc sống. Dù nhân vật người nghĩa phụ có lòng tốt, có nghĩa cử cao cả, nhưng ông vẫn phải chịu sự phản bội, gian trá và tai họa. Điều này phần nào phản ánh sự bất công trong xã hội phong kiến, nơi mà những người có phẩm hạnh cao lại thường phải chịu thiệt thòi, thậm chí là sự hy sinh đau đớn.

Từ câu chuyện "Người Nghĩa Phụ ở Khoái Châu", Nguyễn Dữ đã khéo léo gửi gắm thông điệp về việc sống đẹp, sống có nghĩa cử trong một xã hội đầy rẫy những bất công và đấu tranh. Tác phẩm này không chỉ là lời khuyên về việc sống có ích, mà còn là sự kêu gọi hành động với lòng trung thành, sự hy sinh và lòng nhân ái, những giá trị đạo đức luôn cần được trân trọng và phát huy trong xã hội.

Tóm lại, "Chuyện Người Nghĩa Phụ ở Khoái Châu" là một tác phẩm có giá trị tư tưởng sâu sắc. Qua câu chuyện về người nghĩa phụ, Nguyễn Dữ đã khắc họa những phẩm hạnh cao đẹp của con người trong xã hội phong kiến, đồng thời phản ánh sự bất công và đấu tranh giữa cái thiện và cái ác. Tác phẩm không chỉ có giá trị về mặt nghệ thuật mà còn mang lại những bài học đạo đức quý giá cho thế hệ sau.

1 22 08/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: