Ngôi kể thứ nhất là gì? Tác dụng của ngôi kể thứ nhất

Vietjack.me gửi tới bạn đọc bài viết về tác dụng của ngôi kể thứ nhất với đầy đủ ví dụ, cách nhận biết, ... Từ đó giúp các em nắm vững được tác dụng của ngôi kể để áp dụng khi làm bài. Mời các em tham khảo bài viết dưới đây:

1 575 05/12/2024


Tác dụng của ngôi kể thứ nhất

1. Ngôi kể là gì?

Ngôi kể là vị trí giao tiếp mà người kể sử dụng khi kể chuyện.

Các loại ngôi kể: Ngôi kể thứ nhất và ngôi kể thứ ba

2. Ngôi kể thứ nhất là gì?

Khi người kể chuyện xưng “tôi” là ngôi thứ nhất. Người kể có thể trực tiếp nói ra những gì mình nghe, thấy, nghĩ…Đây cũng là cách kể thông thường của văn bản tự sự

- Cách nhận biết: Khi đọc, bạn sẽ thấy người kể sử dụng đại từ nhân xưng "tôi" hoặc "chúng tôi".

Ví dụ: "Tôi đã nhìn thấy điều đó" hoặc "Chúng tôi đã trải qua những ngày tháng khó khăn."

3. Đặc điểm của ngôi kể thứ nhất

Người kể là nhân vật: Người kể chuyện thường là một nhân vật trong câu chuyện, trực tiếp tham gia vào các sự kiện và thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình.

Góc nhìn hạn chế: Vì chỉ kể lại những gì mình nhìn thấy, nghe thấy và trải nghiệm nên thông tin trong câu chuyện thường bị giới hạn bởi góc nhìn của người kể.

Tạo cảm giác chân thực: Ngôi kể thứ nhất giúp người đọc dễ dàng đồng cảm với nhân vật, hình dung rõ nét về tâm lý, suy nghĩ và hành động của họ.

Tăng tính chủ quan: Câu chuyện được kể theo quan điểm cá nhân của người kể, có thể có những thiên lệch hoặc sai sót.

4. Tác dụng của ngôi kể thứ nhất

Làm nhiệm vụ dẫn dắt, kể lại toàn bộ câu chuyện, được đóng bởi một người kể chuyện tự xưng là “tôi” – người được coi là “người nói duy nhất” đầu tiên (người có khả năng kể toàn bộ câu chuyện, không ngừng nghỉ, tham gia vào câu chuyện theo nhiều cách). Tác phẩm mở đầu và kết thúc bằng lời kể của người kể chuyện, hai người kể chuyện ở cùng một tầng truyện, có sự trao đổi hai chiều, đối ngẫu. Nếu không có sự hướng dẫn và truyền đạt của cái “tôi” thì nhân cách sẽ không thể hiện đầy đủ. Ngược lại, nhờ quá trình tương tác với nhân vật chính, tính cách của “tôi” cũng được thể hiện một cách tự nhiên, chân thực với tư cách là nhân vật phụ. Liên hệ với các nhân vật, người đọc dễ dàng nhận thấy cả hai người kể chuyện đều là những trí thức thất bại trong tâm trạng cô đơn, buồn chán, hoang mang, bồn chồn, đều có những đặc điểm nhất định gần gũi với tâm thức, tư tưởng, tình cảm của tác giả.

Như vậy, nó vẫn mang đặc điểm chung của truyện kể theo ngôi thứ nhất, theo điểm nhìn đa tuyến được kể từ điểm nhìn ý thức của nhân vật. Ở đây, các trạng thái tinh thần thường hiện ra từ câu chuyện: suy nghĩ, tình cảm, cảm xúc…. Người kể không chỉ kể chuyện (tả điều tôi “thấy”), mà còn kể cả tâm trạng (tả điều tôi “cảm thấy”,” nghĩ”). Chúng “tôi” không bao giờ đứng yên mà “suy nghĩ”, “cảm nhận”, nó đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ: nhận thức xã hội và nhận thức bản thân. Do đó, nó luôn tồn tại và rất phức tạp. Kể chuyện và suy ngẫm, kể chuyện và tự nhận thức, kể chuyện và độc thoại là những biểu hiện riêng của văn kể chuyện.

Khi nói đến kể chuyện ở ngôi thứ nhất, ngoài ưu điểm, chúng ta thường nói đến hạn chế của nó: dễ gây cảm giác đơn điệu, nhàm chán ở người đọc, bởi khi trần thuật, tác phẩm thường dừng lại ở góc nhìn của một nhân vật, tạo nên cái nhìn ít chiều hấp dẫn. Có thể nói, phong cách đa tầng nhấn mạnh vào thế giới nội tâm của nhân vật, nhân vật có tiếng nói khách quan khi nói về người khác, đánh thức những suy nghĩ, tâm trạng chủ quan của người kể. Các tác phẩm nhìn chung mang giọng điệu đa âm với những cặp đặc điểm đối nghịch: sắc lạnh – tình cảm, tỉnh táo nghiêm nhặt – chan chứa trữ tình. Vì vậy, chúng có khả năng tác động đến cả tâm tư, tình cảm của người đọc, đồng thời khơi gợi nhiều tình cảm, suy nghĩ trong họ.

5. Những lưu ý về ngôi kể thứ nhất

Nhân vật “tôi” có thể là tác giả (thường gặp trong hồi ký, tự truyện).

Nhiều lúc “tôi” không phải là tác giả, mà hoàn toàn do tác giả tạo ra. Khi đó “tôi” chỉ là một nhân vật trong truyện, kể về mình, những gì mình nghe thấy, nhìn thấy…

Khi đã sử dụng ngôi thứ nhất, tác giả vẫn có thể thay đổi người kể, nhân vật kể chuyện.

Ưu điểm: Mang tính chủ quan, thể hiện được những cảm xúc sâu trong tấm lòng của nhân vật hay chính tác giả

Nhược điểm: Thiếu tính khách quan.

Ví dụ: Trong tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” anh thanh niên xưng là “tôi” nhưng “tôi” không chỉ ra tác giả Nguyễn Thành Long mà là nhân vật anh thanh niên.

6. Một số đoạn văn về ngôi kể thứ nhất

Bài văn 1:

Báo Cứu quốc hôm nay nghe sướng quá. Cụ Hồ đối đáp với các nhà báo ngoại quốc đâu vào đấy. Cứng rắn mà lại mềm mỏng lắm. Cụ bảo rằng thì là dân ta chỉ muốn Độc lập và Thống nhất thôi, không thì dân ta đánh đến cùng. Thật đấy, chuyến này không được Độc lập thì chết cả đi chứ sống làm gì cho nó nhục. Mà có khi nào mình lại không Thống nhất, Độc lập được hở bác? Rồi ông nói đến chuyện tản cư, chuyện Tây khủng bố, truyện Việt gian, chuyện thổ phỉ… những chuyện ông lượm được hồi trưa, ở ngoài điếm. Cả chuyện chính trị, quân sự nữa. Ta bố trí nó thế này, ta bố trí nó thế kia. Ta chính trị nó thế này, ta chính trị nó thế khác. Rất trơn tru, rất thành thạo mà chẳng đâu vào đâu cả. Ông lão kéo dài một bên ria mép ra, tủm tỉm:

- Cũng là học lỏm cả thôi đấy bác ạ… Chả là tôi cũng là phụ lão cứu quốc mà… Và cuối cùng, khi câu chuyện tin tức hàng ngày đã nhạt rồi, thì ông xoay đến chuyện cái làng của ông. Ông nói chuyện về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai con mắt ông sáng hẳn lên, cái mặt biến chuyển, hoạt động. Ông khoe làng ông có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy. Ông khoe làng ông nhà ngói san sát, sầm uất như tỉnh.

Đường trong làng toàn lát đá xanh, trời mưa trời gió tha hồ đi khắp đầu làng cuối xóm, bùn không dính đến gót chân. Tháng năm ngày mười phơi rơm, phơi thóc thì tốt thượng hạng, không có lấy một hạt thóc đất. Ông Hai vẫn có tính khoe làng như thế xưa nay. Hồi còn đế quốc Pháp, mỗi bận đi đâu xa, khoe làng ông chỉ khoe cái sinh phần của viên tổng đốc làng ông. Ông có vẻ hãnh diện cho làng có được cái sinh phần ấy lắm: “Chết! Chết, tôi chưa thấy cái dinh cơ nào mà lại được như cái dinh cơ cụ thượng làng tôi. Có lăm lắm là của. Vườn hoa, cây cảnh nom như động ấy. Thấy bảo còn hơn cái lăng cụ thiếu Hà Đông nhiều cơ mà!” Mỗi bận có khách bên họ ngoại ở dưới tỉnh Nam lên chơi, thế nào ông lão cũng phải dắt ra xem lăng cho kì được. Ông mê man giảng giải cho họ: cái tượng đá này là ông Hoàng Thạch Công đánh rơi giày. Những người bằng sứ kia là bát tiên quá hải. Cái ông đắp bằng xi măng lù lù ở giữa hồ bát giác kia là là… lấy kiểu tận xa lắm, đâu như tận bên chùa Đế Thích. Còn như cái cọc sắt nhọn hoắt cắm vào cái bầu rượu có đắp bốn con dơi quét vôi vàng mãi tít trên ngọn sinh phần kia là máy thu lôi. Khiếp lắm! Sấm sét là thu tất cả vào trong ấy.

Bài văn 2:

Làng – Kim Lân

Tối nào cũng vậy, cứ đến lúc con bé lớn ông Hai thu que đóm cháy lập lòe trong chiếc nón rách tất tả đi từ nhà bếp lên, và bà Hai ngồi ngây thuỗn cái mặt trước đĩa đèn dầu lạc, lầm bầm tính toán những tiền cua, tiền bún, tiền chuối, tiền kẹo… thì ông Hai vùng dậy, sang bên bác Thứ nói chuyện. Không hiểu sao cứ đến lúc ấy ông Hai lại thấy buồn. Nằm nghe tiếng súng dội trong đêm tối và nhất là cái tiếng rì rầm tính toán tiền nong của mụ vợ, tự nhiên ông sinh ra nghĩ ngợi vẩn vơ, nó bực dọc làm sao ấy. Mà ông, thì không thích nghĩ ngợi như thế một tí nào. ông vốn là người hay làm, ở quê ông làm suốt ngày, không mấy lúc chịu ngơi chân ngơi tay. Không đi cày đi cuốc, không gánh phân tát nước thì ông cũng phải bày vẽ ra công việc gì để làm: đan rổ, đan rá hay chữa cái chuồng gà, cạp lại tấm liếp. Từ ngày tản cư lên đây, suốt ngày mấy bố con nhong nhóng ngồi ăn, tối đến lại nghe những tiếng rì rầm tính toán ấy, ruột gan ông cứ nóng lên như lửa đốt. Ông phải đi chơi cho khuây khỏa. Lần nào cũng như lần nào, cứ vừa nhô đầu qua cái mái lá bên gian bác Thứ là ông lão hỏi ngay: “Thế nào, hôm nay có gì không bác?” Không đợi trả lời, ông lão nói luôn:

- Này Đácgiăngliơ nó lại về Pháp đấy nhé. Hừ, chơi vào! Còn là đi đi về về!

1 575 05/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: