TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 50 31/12/2024


Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh.

Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày,

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay,

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Kháng chiến thành công ta trở lại,

Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

Năm 1947

Dàn ý Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc

I. Mở bài

Giới thiệu tác phẩm Cảnh rừng Việt Bắc, tác giả và cảm nhận chung về bài thơ.

Bài thơ được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, khi quân ta rút lên núi rừng Việt Bắc lập căn cứ cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

II. Thân bài

Nội dung

- Luận điểm 1: Nội dung đặc sắc

+ Hai câu đề: Thể hiện cảm xúc trước cảnh rừng Việt Bắc.

Từ ngữ “thật là hay” bày tỏ sự yêu mến, ngợi ca thiên nhiên.

Hình ảnh thiên nhiên sống động qua tiếng vượn, chim kêu gợi cảnh gần gũi, bình dị.

+ Hai câu thực: Cuộc sống giản dị, thú vị nơi núi rừng.

Hình ảnh “ngô nếp nướng”, “thịt rừng quay” thể hiện sự hoà hợp với thiên nhiên, cuộc sống mộc mạc nhưng đầy tình người.

Sự thân mật trong cách diễn đạt “chén” thay cho “ăn” gợi nét hài hước, gần gũi.

+ Hai câu luận: Tận hưởng thiên nhiên và cuộc sống lạc quan.

“Non xanh, nước biếc; Rượu ngọt, chè xanh” thể hiện sự phong phú của đời sống vật chất lẫn tinh thần.

Tâm trạng lạc quan, vui say trước vẻ đẹp thiên nhiên của Bác qua cách diễn đạt “tha hồ dạo, mặc sức say”.

+ Hai câu kết: Niềm tin và tinh thần lạc quan về tương lai cách mạng.

Câu thơ “Kháng chiến thành công ta trở lại” thể hiện niềm tin tưởng vào thắng lợi của dân tộc, kết hợp với hình ảnh “trăng xưa”, “hạc cũ” tạo nên bức tranh vừa hiện thực, vừa thơ mộng.

- Luận điểm 2: Đặc sắc về nghệ thuật

Thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục chặt chẽ, hài hòa.

Cách gieo vần, đối câu và sử dụng nhịp điệu tạo cảm giác mượt mà, uyển chuyển.

Sử dụng ngôn ngữ gần gũi, tươi sáng, hình ảnh ước lệ kết hợp với tả thực.

III. Kết bài

Khẳng định giá trị của bài thơ và cảm nhận về tinh thần lạc quan, yêu thiên nhiên của Bác Hồ.

Tác phẩm mang đến thông điệp về sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, cũng như niềm tin vào tương lai tươi sáng của dân tộc.

Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc (mẫu 1)

Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh được sáng tác vào những năm 1947, giai đoạn kháng chiến chống Pháp đang trở nên căng thẳng. Tuy vậy, Bác Hồ vẫn có thể cảm nhận được thiên nhiên tuyệt diệu và dành niềm tin vào chiến thắng của dân tộc.

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”

Ngay trong 2 câu thơ đầu tiên, Bác đã khiến cho người đọc ngạc nhiên vì khung cảnh Việt Bắc. Câu cảm thán khiến cho mọi người đều tò mò không hiểu được khung cảnh ấy xinh đẹp đến mức nào mà khiến cho một nhà lãnh đạo phải thốt lên như vậy. Cũng có lẽ, tâm hồn tác giả cũng quá đẹp, có thể đồng điệu và cảm nhận được thiên nhiên tươi đẹp đó. Trong câu thơ thứ hai, vẻ đẹp được làm rõ hơn khi biết được cả ngày thiên nhiên đều cất lên tiếng hát. Chúng không làm cho người nghe khó chịu, mà dường như khiến cho người đọc thêm rung động, biết cách thưởng thức hơn. Sự rộn ràng đó đã khiến cho cuộc sống làm việc tẻ nhạt của những người lính thêm đặc sắc muôn màu.

“Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay,

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.”

Đoạn tiếp theo là cảnh sinh hoạt của con người ở nơi đây, là cuộc sống thường ngày của vị lãnh tụ và các chiến sĩ. Bên cạnh khung cảnh hùng tráng, cuộc sống của con người lại được đơn giản hóa hết mức, trở nên bình dị và gần gũi. Cuộc sống nơi đây tuy không khấm khá nhưng cũng đủ đầy, khi khách tới có những đặc sản đậm chất riêng để mời chào. Đây còn là phép ẩn dụ nói về những con người tại Việt Bắc, có lòng hiếu khách và yêu người.

“Kháng chiến thành công ta trở lại,

Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.”

Hai câu thơ cuối là niềm tin của một người mà như vạn người, là kỳ vọng vào chiến thắng cuối cùng của kháng chiến. Không chỉ vậy, đây còn là kết quả của quá trình kháng chiến dài đằng đẵng của cả dân tộc. Sau chiến thắng, núi rừng ấy vẫn còn ở đó, đợi những người lính chiến thắng trở về.

Cảnh rừng Việt Bắc không chỉ là một bài thơ về vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của Việt Bắc, mà còn là niềm tin của con người vào một chiến thắng trước mắt. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, vẻ đẹp của những người lính càng thêm rõ ràng.

Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc (mẫu 2)

Trong hoàn cảnh kháng chiến ác liệt, những người lính và nhất là vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta vẫn có thể cảm nhận được thiên nhiên và vẻ đẹp của đất trời. Bài thơ được viết vào năm 1947, năm căng thẳng và quan trọng trong những năm kháng chiến chống Pháp. Tuy vậy, Bác vẫn lạc quan và có lẽ chỉ những người lãnh đạo mẫu mực mới có thể có tư thái như vậy.

Ngay đầu đoạn, cảnh rừng đã được Bác thông qua câu cảm khái khiến cho người đọc cảm nhận được vẻ đẹp độc đáo của Việt Bắc. Khung cảnh ấy làm người đọc tò mò, phải đẹp như thế nào mà người nhìn mới ngạc nhiên và phải thốt lên như thế. Khung cảnh nơi đây luôn động, có tiếng chim hát ca cả ngày làm cho không khí thêm rộn ràng mà không buồn tẻ vì thiếu sự xuất hiện của con người. Điều đó không làm lòng người khó chịu, vì những thứ liên quan đến tự nhiên đều được con người yêu thích và mang vẻ đặc trưng riêng.

Những câu thơ tiếp theo là cuộc sống thực tế của con người nơi núi rừng. Dù cuộc sống ấy chẳng mấy đầy đủ, nhưng qua câu văn ta có thể thấy những người lính đều rất vui vẻ. Cuộc sống nương tựa vào thiên nhiên, lấy đó làm niềm vui và cũng thể hiện được sự lạc quan. Những bữa ăn được coi là đủ đầy thực ra đều rất đơn giản, nhưng người ăn lại hưởng thụ nó. Bởi thứ người ta chú ý chính là thiên nhiên kỳ thú nơi đây, là những gì mắt có thể thấy, tai có thể nghe.

Trong những câu cuối cùng, niềm tin vào chiến thắng của người lãnh tụ và những người lính đều được thể hiện. Chiến thắng theo Bác đang ở rất gần, gắn với nó là khung cảnh tự do bội phần. Dường như cảnh vật cũ đang ở ngay đây đợi họ, là trăng xưa và hạc cũ. Thiên nhiên ấy như lòng người, đều chưa từng thay đổi. Sau chiến thắng họ lại trở về nơi đây, ôn lại những kỷ niệm bên núi rừng và cùng nhau thưởng thức bữa cơm đạm bạc.

Qua đây, ta càng thấy vẻ đẹp của những người lính trong khi kháng chiến khó khăn, sự lạc quan và niềm tin của họ. Đặc biệt, những tính cách bình dị, tự tin và tài năng của Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc càng được thể hiện rõ.

Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc (mẫu 3)

Bài thơ Cảnh rừng Việt Bắc được Bác Hồ viết vào mùa xuân năm 1947, sau một năm quân ta tạm rút khỏi thủ đô Hà Nội để lên núi rừng bạt ngàn Việt Bắc, lập căn cứ làm cuộc trường kỳ kháng chiến thần thánh chín năm chống thực dân Pháp. Đây là lần thứ hai, Bác Hồ và Trung ương Đảng sống, làm việc tại căn cứ địa Việt Bắc để lãnh đạo cách mạng.

Lần thứ nhất là trước Tổng khởi nghĩa Tháng Tám 1945. Nói vắn tắt đôi lời để thấy trong bối cảnh như vậy mà vị lãnh tụ vĩ đại, nhà thơ lớn Hồ Chí Minh vẫn luôn dạt dào niềm xúc động trước cảnh sắc thiên nhiên núi rừng hùng vĩ, với một tứ thơ tức cảnh hàm xúc và tràn đầy lạc quan, mà có lẽ chỉ những người cách mạng mẫu mực như Bác Hồ mới có trong một hoàn cảnh khó khăn như vậy.

Mở đầu bài thơ, Bác đã như reo lên trước cảnh đẹp thiên nhiên kỳ vĩ: “Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay”. Nhưng lạ là ở chỗ, cái hay ấy không phải là cái gì xa vời, lại càng không phải những cái gì gợi sự tò mò, kiểu như võ sĩ vào rừng săn tìm sự lạ lùng và khơi gợi trí tò mò. Ở đây, cái hay chính là thiên nhiên, nói cách khác, là sự gắn kết thiên nhiên với con người, con người với thiên nhiên ở một nơi thiên nhiên vẫn như còn nguyên sơ và con người vẫn nguyên vẹn tình yêu tha thiết với thiên nhiên.

Thế nên, dẫu có suốt ngày vượn hót, chim kêu mà có ai đó khó tính cảm thấy đinh tai, nhức óc, thì với Bác Hồ, đến cỏ cây hoa lá đất trời xanh cũng làm cho lòng Người rưng rưng tha thiết, thì ngày ngày được nghe tiếng vượn hót, chim kêu ấy càng như nhắc nhở, giục giã công việc và khơi gợi suy nghĩ vì non sông, đất nước. Chỉ với hai câu mở đầu đã cho người đọc thấy nhà thơ yêu thiên nhiên, gắn bó với thiên nhiên đến mức nào; hay nói rộng ra, lòng yêu nước ở Bác Hồ không phải là cái gì xa vời mà chính là từ tình yêu thiên nhiên, yêu những gì gắn bó, thiết tha, gần gũi với cuộc sống thường nhật của chính mình và đồng loại, mà vì nó có thể hy sinh tất thẩy để phụng sự suốt đời. Hơn nữa, trong hoàn cảnh thực tại của cuộc kháng chiến chín năm muôn vàn khó khăn, gian khổ thì thiên nhiên ở đây không chỉ “rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” (thơ Tố Hữu), mà còn thực sự góp phần giải quyết những khó khăn trong sinh hoạt đời thường, nuôi dưỡng sức lực cho quân ta đánh giặc. Cái thực tại ấy được Bác Hồ khắc hoạ bằng nét mộc mạc, giản dị, chân thực trong bốn câu thơ đặc tả sinh hoạt đời thường rất gợi:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.
Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Chỉ bốn câu thôi, mà làm người đọc thấy được cuộc sống của những người đi kháng chiến ở núi rừng. Không phải là một cuộc sống hoàn toàn sung sướng “cơm gà, cá gỡ”, nhưng cũng không phải là một cuộc sống túng bấn đến mức “cơm không có mà ăn”, như hồi ấy có kẻ lầm tưởng những người kháng chiến ở rừng xanh núi ngàn. Cảnh sống ấy thật đơn giản mà lịch sự biết nhường nào, bởi cái tình người với nhau chan chứa, mặn nồng, tha thiết đến cái bắp ngô, củ sắn cũng bẻ đôi:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.

Chỉ có thế, nhưng thật là thịnh soạn, với một từ “chén” đủ làm người đọc thấy niềm lạc quan của những người đi kháng chiến bất chấp khó khăn ở rừng xanh núi ngàn. Với niềm lạc quan ấy thì trước phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, có thể thả bộ thư giãn sau những giây phút làm việc căng thẳng, hay ngồi ngâm nghi giây lát bên chén rượu, ấm trà cũng là điều rất hợp lẽ, rất đời thường:

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Đến đây, người đọc càng thấy sự bình dị và niềm lạc quan ở Bác Hồ gấp bội phần. Nhất là ở hai câu kết:

Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

Thì ta càng thấy sự bình dị, lạc quan ở Bác Hồ trong một hoàn cảnh khó khăn như năm 1947 giữa núi rừng Việt Bắc biết chừng nào.

Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc (mẫu 4)

Bác chúng ta có rât nhiều nơi để công tác, gắn trên những đoạn đường ấy, bao suy tư về cảnh và người đã thúc giục thi nhân lưu lại nó trong những trang sách để đời. Có lẽ Việt Bắc là nơi đất mang trong mình không chỉ những huyền thoại trong lịch sử là nơi bác từng sinh sống và làm việc trong những năm tháng cách mạng khó khăn của dân tộc, nơi đây còn được miêu tả đẹp hút hồn nhiều thi nhân bằng sự dung dị, chân chất, để Bác chúng ta khi gắn bó cất lên được những tiếng lòng tự hào, yêu thương để gửi lại nơi đây qua bài thơ thất ngôn bát cú cổ điển mà vẫn giàu cảm xúc.

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”

Ngay trong 2 câu thơ đầu tiên, Bác đã khiến cho người đọc ngạc nhiên vì khung cảnh Việt Bắc. Câu cảm thán khiến cho mọi người đều tò mò không hiểu được khung cảnh ấy xinh đẹp đến mức nào mà khiến cho một nhà lãnh đạo phải thốt lên như vậy. Cũng có lẽ, tâm hồn tác giả cũng quá đẹp, có thể đồng điệu và cảm nhận được thiên nhiên tươi đẹp đó. Trong câu thơ thứ hai, vẻ đẹp được làm rõ hơn khi biết được cả ngày thiên nhiên đều cất lên tiếng hát. Chúng không làm cho người nghe khó chịu, mà dường như khiến cho người đọc thêm rung động, biết cách thưởng thức hơn. Sự rộn ràng đó đã khiến cho cuộc sống làm việc tẻ nhạt của những người lính thêm đặc sắc muôn màu.

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
…..
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Chỉ bốn câu thôi, mà làm người đọc thấy được cuộc sống của những người đi kháng chiến ở núi rừng. Không phải là một cuộc sống hoàn toàn sung sướng “cơm gà, cá gỡ”, nhưng cũng không phải là một cuộc sống túng bấn đến mức “cơm không có mà ăn”, như hồi ấy có kẻ lầm tưởng những người kháng chiến ở rừng xanh núi ngàn. Cảnh sống ấy thật đơn giản mà lịch sự biết nhường nào, bởi cái tình người với nhau chan chứa, mặn nồng, tha thiết đến cái bắp ngô, củ sắn cũng bẻ đôi:

Khách đến thì mời ngô nếp nướng,
Săn về thường chén thịt rừng quay.

Chỉ có thế, nhưng thật là thịnh soạn, với một từ “chén” đủ làm người đọc thấy niềm lạc quan của những người đi kháng chiến bất chấp khó khăn ở rừng xanh núi ngàn. Với niềm lạc quan ấy thì trước phong cảnh thiên nhiên kỳ thú, có thể thả bộ thư giãn sau những giây phút làm việc căng thẳng, hay ngồi ngâm nghi giây lát bên chén rượu, ấm trà cũng là điều rất hợp lẽ, rất đời thường:

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,
Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.

Đến đây, người đọc càng thấy sự bình dị và niềm lạc quan ở Bác Hồ gấp bội phần. Nhất là ở hai câu kết:

Kháng chiến thành công ta trở lại,
Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.

Hai câu thơ cuối là niềm tin của một người mà như vạn người, là kỳ vọng vào chiến thắng cuối cùng của kháng chiến. Không chỉ vậy, đây còn là kết quả của quá trình kháng chiến dài đằng đẵng của cả dân tộc. Sau chiến thắng, núi rừng ấy vẫn còn ở đó, đợi những người lính chiến thắng trở về.

Cảnh rừng Việt Bắc không chỉ là một bài thơ về vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của Việt Bắc, mà còn là niềm tin của con người vào một chiến thắng trước mắt. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, vẻ đẹp của những người lính càng thêm rõ ràng.

Phân tích Cảnh rừng Việt Bắc (mẫu 5)

Cảnh rừng Việt Bắc của Hồ Chí Minh được sáng tác vào những năm 1947, giai đoạn kháng chiến chống Pháp đang trở nên căng thẳng. Tuy vậy, Bác Hồ vẫn có thể cảm nhận được thiên nhiên tuyệt diệu và dành niềm tin vào chiến thắng của dân tộc.

“Cảnh rừng Việt Bắc thật là hay,

Vượn hót chim kêu suốt cả ngày”

Ngay trong 2 câu thơ đầu tiên, Bác đã khiến cho người đọc ngạc nhiên vì khung cảnh Việt Bắc. Câu cảm thán khiến cho mọi người đều tò mò không hiểu được khung cảnh ấy xinh đẹp đến mức nào mà khiến cho một nhà lãnh đạo phải thốt lên như vậy. Cũng có lẽ, tâm hồn tác giả cũng quá đẹp, có thể đồng điệu và cảm nhận được thiên nhiên tươi đẹp đó. Trong câu thơ thứ hai, vẻ đẹp được làm rõ hơn khi biết được cả ngày thiên nhiên đều cất lên tiếng hát. Chúng không làm cho người nghe khó chịu, mà dường như khiến cho người đọc thêm rung động, biết cách thưởng thức hơn. Sự rộn ràng đó đã khiến cho cuộc sống làm việc tẻ nhạt của những người lính thêm đặc sắc muôn màu.

“Khách đến thì mời ngô nếp nướng,

Săn về thường chén thịt rừng quay,

Non xanh, nước biếc tha hồ dạo,

Rượu ngọt, chè tươi mặc sức say.”

Đoạn tiếp theo là cảnh sinh hoạt của con người ở nơi đây, là cuộc sống thường ngày của vị lãnh tụ và các chiến sĩ. Bên cạnh khung cảnh hùng tráng, cuộc sống của con người lại được đơn giản hóa hết mức, trở nên bình dị và gần gũi. Cuộc sống nơi đây tuy không khấm khá nhưng cũng đủ đầy, khi khách tới có những đặc sản đậm chất riêng để mời chào. Đây còn là phép ẩn dụ nói về những con người tại Việt Bắc, có lòng hiếu khách và yêu người.

“Kháng chiến thành công ta trở lại,

Trăng xưa, hạc cũ với xuân này.”

Hai câu thơ cuối là niềm tin của một người mà như vạn người, là kỳ vọng vào chiến thắng cuối cùng của kháng chiến. Không chỉ vậy, đây còn là kết quả của quá trình kháng chiến dài đằng đẵng của cả dân tộc. Sau chiến thắng, núi rừng ấy vẫn còn ở đó, đợi những người lính chiến thắng trở về.

Cảnh rừng Việt Bắc không chỉ là một bài thơ về vẻ đẹp thiên nhiên hùng vĩ của Việt Bắc, mà còn là niềm tin của con người vào một chiến thắng trước mắt. Trong hoàn cảnh khó khăn đó, vẻ đẹp của những người lính càng thêm rõ ràng.

1 50 31/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: