TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Xuân về (2025) SIÊU HAY
Phân tích bài thơ Xuân về gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.
Phân tích bài thơ Xuân về
Đề bài: Phân tích bài thơ Xuân về của Nguyễn Bính.
XUÂN VỀ
Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe.
Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận, gió bay đi...
Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam vô.
1937
Dàn ý Phân tích bài thơ Xuân về
I. Mở bài: Giới thiệu ngắn gọn về tác giả, tác phẩm.
- Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại. Ông được mệnh danh là “nhà thơ của tình quê” với giọng thơ rất riêng, mang sắc thái quê mùa, dân dã khó trộn lẫn
- Xuân về là một thi phẩm đặc sắc của ông. Tác phẩm đã vẽ ra bức họa sinh động về một mùa xuân đẹp, bình dị ở chốn làng quê thân thuộc.
- Chính nội dung nghệ thuật và hình ảnh thơ đặc sắc đã làm nên sức hấp dẫn cho thi phẩm
II. Thân bài: Phân tích, đánh giá những nét đặc sắc, độc đáo của bài thơ:
* Phân tích, đánh giá mạch ý tưởng, cảm xúc của nhân vật trữ tình:
(Chủ đề, mạch cảm xúc, hình ảnh, điểm nhìn…)
- Chủ đề của bài thơ: Bức tranh thiên nhiên và con người khi xuân về
- Mạch cảm xúc: xuyên suốt bài thơ, ta được thấy cảm hứng trữ tình cùng sự say mê, niềm vui sướng của tác giả khi chứng kiến giai đoạn đổi thay của trời đất
- Hình ảnh: đều là những hình ảnh đặc trưng của mùa xuân ở làng quê, tràn đầy sức sống, non tơ, vui tươi phấn khởi.
- Điểm nhìn: Điểm nhìn thay đổi từ gần tới xa, bao quát trong không gian, quan sát những đổi thay của đất trời và con người khi vào xuân.
* Phân tích đánh giá sự phát triển của hình tượng chính và tính độc đáo của các phương diện ngôn từ.
- Sự phát triển của hình tượng chính
-
Vẻ đẹp khi gió xuân về: gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má gái chưa chồng
-
Vẻ đẹp khi nắng xuân về: sự tươi mới của mà xuân được thể hiện qua việc “gió bay đi”, mưa xuân, nắng xuân, lá nõn, nhành non...
-
Vẻ đẹp đồng quê khi xuân về: bức tranh đồng quê bình yên vui tươi, người dân tận hưởng niềm vui của lễ hội
-
Cảnh đi trẩy hội mùa xuân: hình ảnh những cô gái duyên dáng trong bộ trang phục truyền thống, hình ảnh các cụ già tóc bạc thể hiện vẻ đẹp truyền thống trong lễ ngày lễ hội mùa xuân
- Tính độc đáo của các phương diện ngôn từ:
-
Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi cùng ngôn ngữ thơ trong sáng, mộc mạc, tác giả đã khắc họa vô cùng rõ nét cảnh ngày xuân nơi làng quê hết sức dung dị mà không kém phần nên thơ, trữ tình.
-
Nhịp thơ luôn chậm rãi, từ tốn kết hợp với cách ngắt nghỉ nhịp nhàng đã tạo cảm giác thong thả, thư thái.
-
Tác giả còn thành công sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh, ẩn dụ, hay cả đảo ngữ, hoán dụ.
=> Góp phần bộc lộ cảm xúc của bài thơ, khiến vẻ đẹp của thiên nhiên và con người càng được nhấn mạnh hơn. Và đó là nét rất riêng của thơ Nguyễn Bính, đồng thời nói lên chính con người tác giả.
* Phân tích, đánh giá nét hấp dẫn riêng của bài thơ so với những sáng tác khác cùng đề tài, chủ đề, thể loại
Cùng viết về đề tài mùa xuân nhưng khác với Nguyễn Bính, mùa xuân của Xuân Diệu không mang theo nét bình dị, mộc mạc của làng quê mà mang theo đó là sự say đắm trước thiên nhiên tràn đầy nhựa sống của nhà thơ
III. Kết bài: Khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị thẩm mĩ của bài thơ.
- Khẳng định lại sự độc đáo của bài thơ và ý nghĩa của nó đối với việc đem lại cách nhìn mới, cách đọc mới cho độc giả.
- Bức tranh mùa xuân không chỉ tập trung vào cảnh sắc mà còn chứa đựng những hình ảnh và hoạt động của con người trong mùa xuân tạo nên một bức tranh tổng thể tươi đẹp và sống động cho cuộc sống quê hương. Đó là niềm tha thiết từ hồn quê tình quê của Nguyễn Bính, để thổi vào hồn ta chút đắm say và niềm tự hào dân tộc.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 1)
Nguyễn Bính là một nhà thơ đi ra từ phong trào thơ mới, những sáng tác của ông dù theo khuynh hướng của phong trào này nhưng vẫn có những nét riêng, cụ thể là nét chân quê mộc mạc. Một thi phẩm như Xuân về là một trong những bài thơ thể hiện rõ nét cá tính của ông.
Có những bài thơ nghe thân thuộc đến thế, trong những bài học ngày đầu tiên đến trường, chắc có lẽ ít ai biết được nó là một trong những bài thơ của thi sĩ Nguyễn Bính. Ông đã không còn gì xa lạ với độc giả bởi nét chân chất và mộc mạc trong những tác phẩm mà ông viết.
Bài thơ Xuân về là một bài thơ thấm đẫm tình cảm của ông đối với quê hương, miêu tả chi tiết những cảnh vật đổi thay, con người ở miền quê Nam Định khi mùa xuân trở về...
Ta cũng nghe mùa xuân về đâu đây trên những trang thơ cuối đời của Thanh Hải:
“Mọc giữa dòng sông xanh
Một bông hoa tím biếc
Ôi con chim chiền chiện
Hót chi mà vang trời
Từng giọt long lanh rơi
Tôi đưa tay tôi hứng”
Đó là mùa xuân về trong khung cảnh xứ Huế mộng mơ, nơi con sống Hương chảy dài trong nôi thành Huế cảm nhận hết cái vui tươi rộn rã ở miền đất ấy.
Nay ta lại thấy Xuân đến ở mỗi một vùng miền lại mang một dáng vẻ và hình hài khác nhau, trong thơ Nguyễn Bính có lẽ đượm một chút buồn và trầm hơn:
“Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.”
Xuân theo con gió đông về trên miền quê êm đềm, một mùi hương mởn mơn của những loại thảo mộc vừa chớm nụ hoa chào đón không khí lành lạnh tê tái ấy. Trên đôi má người thiếu nữ cũng đỏ ưng ửng hồng hào, đôi mắt trong vây đầy tâm tư nghĩ về một điều gì mới mẻ ấy.
Mùa xuân được Nguyễn Bính cảm nhận thông qua những sự vật và con người xung quanh mình, cụ thể là cô gái hàng xóm. Những nét ngây thơ của cô gái ấy tượng trưng cho sức sống tươi trẻ mà mùa xuân mang lại, căng tràn mùi vị, tựa như đang ở sát bên mình.
Cái nét miêu tả gần gũi ấy như khiến mùa xuân càng thêm nôn nao trong ngày trở về, phải bung xoã hết mình để làm cho cái không khí lúc này hết mực tươi vui và náo nức. Cách miêu tả sự việc thông qua một vật thể nào đó cũng có nét tương đồng trong tác phẩm Chiều Xuân của Anh Thơ:
“Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng,
Đò biếng lười nằm mặc nước sông trôi;
Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng
Bên chòm xoan hoa tím rụng tơi bời”
Sự vật thiên nhiên như lặng tờ nao nao đón xuân về trên từng nhành cây, ngọn cỏ. Nguyễn Bính đã thật tài tình chỉ với vài ba câu thơ mà đã đặt bút làm nên những nét vẽ cơ bản trong bức tranh ngập tràn sắc xuân. Cô gái mới lớn đầy sự hồn nhiên đang ngóng xuân về, trên đôi má, đôi mắt, đâu đâu cũng là sự tươi trẻ, như là sự hiện diện của mùa xuân vậy.
Đến khổ thơ thứ hai, nhà thơ đã bắt đầu đi sâu hơn, đã từng bước cảm nhận được mùa xuân một cách rõ nét nhất, xuân đã về len lỏi khắp các ngõ ngách, gió đượm xuân thổi hồn bay xa bao trùm lên toàn bộ miền quê yên bình. Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe,
Mưa tạnh giời quang, nắng mới hoe
Lá nõn, ngành non ai tráng bạc?
Gió về từng trận , gió bay đi.”
Tạm biệt những cơn mưa lạnh lẽo và những ngọn gió bấc vô tình của mùa đông, nay đã nhường chỗ cho sắc xuân trở về.
Trời quang hơn, trong xanh và cao, những tia nắng nhẹ nhè đâm xuyên xuống mặt đất một cách dịu dàng, sưởi ấm sự vật, là lời mời gọi hoa lá cỏ cây thức dậy sau những chuỗi phải phải ẩn mình dưới cái lạnh của mùa đông.
Cây cối đua nhau nở rộ, những chồi xanh nhú lên đua nhau đón nắng mới, cái nắng mà ai ai cũng mơ ước tắm mình dưới nó một lần. Lá xanh như được tráng qua một lớp bạc, óng ánh, tươi trẻ, tự như cái sắc xuân mơn mởn đang về vậy, làm phong phú thêm cái nét tươi trẻ của ngày xuân.
Những đứa trẻ hàng xóm nhôn nhao đổ ra đường, hít một ngụm khí trời thanh tao, mát rượi, đùa giỡn trên con đường làng đất đỏ, tất cả hiện lên hoà vào nhau như một bức tranh êm đềm ngày xuân trên miền quê Nam Định, khiến cho bất cứ một người nào đọc vào cũng sẽ ngay lập tức quay về cái ngày còn bé của mình, cảm nhận từng chút kỉ niệm đã qua, bồi hồi, xao xuyến.
Nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Bính vô cùng gần gũi, không cách điệu mà theo xu hướng nhưng lại có những nét độc đáo riêng biệt.
“Đêm xuân một giấc mơ màng
Bốn bề xuân tỏa một nàng ở trong
Chiều xuân dễ khiến … ngại ngùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?”
Xuân về, cái không khí ấy khiến ai mà cầm lòng nổi. Hơn thế khi tắm mình trong từng câu thơ của Nguyễn Bính, xuân không còn ở trên giấy mà như hiện hữu trước mặt, miêu tả mà như tái hiện, sắc xuân nồng nàn đượm trên ánh mắt hồn nhiên của độc giả.
Đã miêu tả con người, bức tranh xuân nay trở thành góc nhìn cao hơn, xa hơn, trở thành một tổng thể nhất định:
“Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”
Từ cô em gái hàng xóm, từ những đứa trẻ nô đùa trên đường, nay tác giả nhìn nhận mùa xuân với góc nhìn cao hơn để thể hiện một cách rộng nhất cái bức tranh màu sắc ấy. Những người nông dân đã nghỉ việc ở ngoài đồng, chuẩn bị đón xuân về nồng đượm trên quê hương, những bông lúa thự mướt và non như những cô gái mới lớn, xanh rờn, tươi trẻ. Bông lúa tháng Giêng nằm phơi mình giữa đồng đón nắng mới, như một thiếu nữ e thẹn, ngại ngùng trước sự đổi thay của thiên nhiên.
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra”
Tác giả Anh Thơ cũng nhận thấy điều đó trong tác phẩm của mình, nhưng Nguyễn Bính lại ví ngọn lúa như con người, có những xúc cảm và tình cảm như con người, đó là sự khác biệt của ông. Ngoài vườn hoa bưởi hoa cam đã rùng trải trắng cả một bóng cây, mùi hương cay cay lan toả theo những ngọn gió mới mà xoa xịu khứu giác của mọi người, tưởng tượng không khí lúc này thật bình dị biết bao.
Ở khổ thơ cuối, nhà thơ đã đưa độc giả đến với những hoạt động đón xuân của con người một cách nhẹ nhàng và khơi gợi :
“Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”
Cái cảnh trẩy hội chùa là một nét phong tục đặc trưng của người Việt, chính vì vậy Nguyễn Bính sau khi miêu tả thiên nhiên thì đã đưa nó vào thi phẩm của mình. Những cô em gái, bà cụ mặc những bộ đồ tươm tất, khoác yếm đỏ, nối đuôi nhau đi đến chùa trẩy hội đầu xuân. Cái không khí vui tươi hoà nhã ấy là sự quen thuộc của người việt, đọc đến những dòng thơ này ai mà không cảm được cái vui tươi ấy, trang thơ của Nguyễn Bính có sức mạnh lớn lao lay động lòng người và khơi gợi về những kỉ niệm.
Nghệ thuật tả cảnh của nhà thơ Nguyễn Bính vô cùng đặc sắc và có sức mạnh gợi tả vô cùng to lớn. Miêu tả sự vật, cây cối, con người, con ong con bướm, tất cả là những hình ảnh thân thuộc đối với vùng quê, khi đi qua thơ Nguyễn Bính như được hoá hồn, trở nên thực và đi vào trong tâm trí người đọc. Cái tình mà Nguyễn Bính gửi vào đó đậm đà sự dân dã, ông viết nên những dòng thơ ấy bằng chính trái tim yêu quê hương đất nước, trong sáng và đáng yêu. Những dòng thơ trong sáng, dung dị vang lên một cách thuần khiết nhất, thấm đẫm trong từng câu chữ, đó là cái tài hoa của một người nghệ sĩ chân chính.
Hoài Thanh đã bình luận về giọng thơ ấy thế này: “Nhà thơ đã gọi dậy cái hồn buồn của Ðông Á,…đã khơi lại cái mạch sầu mấy nghìn năm vẫn ngấm ngầm trong cõi đất này”, gói gọn trong hai từ “chân quê”, hay nói cách khác giọng thơ ấy “dường như nói bằng hàng nghìn giọng, mê đắm và thuyết phục, nó nâng cái mô tả từ chỗ ngắn ngủi một lần và tạm thời lên chỗ tồn tại muôn đời”.
Xuân về là một thi phẩm xuất sắc trong chùm thơ Nguyễn Bính, không chỉ bộc lộ rõ cái tài trong phong cách làm thơ của ông mà con biểu thị con người ấy theo những nét riêng trong suốt cuộc đời cống hiến cho nghệ thuật.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 2)
Mùa xuân luôn là nguồn cảm hứng bất tận trong các tác phẩm văn học của nhiều nhà thơ và nhà văn. Mỗi trang viết về mùa xuân là một lời ca tụng sự sống của đất trời và con người trong mùa xuân. Đối với Nguyễn Bính, mùa xuân mang một ý nghĩa vô cùng đặc biệt, như một dòng chảy tự nhiên len lỏi vào từng câu thơ của ông, tạo nên những bản hòa ca dịu dàng của Xuân.
Ngay từ đầu bài thơ, Nguyễn Bính đã mở ra một khung cảnh thật nhẹ nhàng:
"Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong."
"Xuân về" đầu tiên mà Nguyễn Bính cảm nhận không phải qua mùa màng hay thời tiết, mà qua hình ảnh "gió đông" và "màu má gái chưa chồng". Những chi tiết này gợi lên hình ảnh của một cô thiếu nữ mới lớn, đôi má hồng hào và đôi mắt trong trẻo, biểu thị cho sức sống dạt dào của mùa xuân. Xuân đến không chỉ là trong không gian mà còn là trong lòng người, ở đôi mắt ngước nhìn trời của cô hàng xóm.
Tiếp theo là khung cảnh rộng mở hơn một chút:
"Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi."
Cảnh xuân hiện ra thật tươi sáng và trong lành. Trời không còn mưa, nắng mới hoe, và từng cơn gió nhẹ nhàng mang lại sự mát mẻ, không gợi lên sự mạnh mẽ của gió bão. Hình ảnh "lá nõn nhành non ai tráng bạc" đẹp về cả hình thức lẫn nội dung, gợi lên sự tươi trẻ và tràn đầy sức sống của ngày xuân. Sắc xanh non mỡ màng của lá, những cành non tràn đầy nhựa sống, tạo nên một bức nền hoàn hảo cho niềm vui của những đứa trẻ chạy nhảy.
Bức tranh xuân tiếp tục mở rộng:
"Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng."
Không gian xuân mở rộng với cánh đồng lúa đang thì con gái, mượt mà như nhung, và khu vườn ngào ngạt hương hoa bưởi, hoa cam. Những cánh bướm bay lượn vẽ vòng, tạo nên một bức tranh sống động, tươi đẹp của làng quê Việt Nam.
Trên đường làng:
"Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô."
Nếu trong những khổ thơ trước, Nguyễn Bính tập trung miêu tả cảnh sắc thiên nhiên và đời sống nông thôn, thì ở khổ thơ này, ông đã khắc họa hình ảnh con người đón xuân, với cảnh đi hội chùa của các cô gái và các cụ bà. Cảnh vật và con người hòa quyện, tạo nên một bức tranh xuân đầy màu sắc và cảm xúc.
Ba khổ thơ đầu miêu tả xuân đang về, còn khổ thơ này thì xuân đã đến, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân đặc trưng là đi hội chùa. Cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám được hiện lên rõ nét, với các cô gái diện "yếm đỏ khăn thâm", dắt bà già đến chùa cầu phước.
Có thể nói, "Xuân về" là một tác phẩm xuất sắc trong chùm thơ của Nguyễn Bính, không chỉ thể hiện tài năng thơ ca của ông mà còn biểu thị sâu sắc tình yêu quê hương, yêu mùa xuân. Nguyễn Bính xuất hiện trong phong trào "Thơ mới" trước năm 1945, với những tác phẩm miêu tả phong cảnh đồng quê, cô thôn nữ, bến đò ngang, phiên chợ Tết... bằng ngôn ngữ giản dị, thân mật và đáng yêu. Những bài thơ như "Tương tư", "Chợ Tết", "Mưa xuân", "Xuân về" đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc.
"Xuân về" là một bức tranh xuân với bốn cảnh xinh xắn, thân mật về đồng quê Việt Nam hơn 60 năm trước. Thiên nhiên và con người được Nguyễn Bính miêu tả với nét thơ lãng mạn, tài hoa, làm sống dậy trong lòng người đọc tình yêu quê hương và niềm vui đón xuân.
Cảnh xuân đầu tiên với hình ảnh cô thôn nữ khi gió xuân thổi về, làm hồng đôi má "gái chưa chồng", tạo nên bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ. Tiếp đến là cảnh thiên nhiên tươi đẹp với nắng mới, lá nõn, nhành non, và từng đàn con trẻ chạy nhảy. Khung cảnh càng thêm sinh động với cánh đồng lúa mượt mà và khu vườn hoa cam, hoa bưởi ngào ngạt hương thơm.
Cuối cùng, bức tranh xuân hoàn thiện với hình ảnh con người đi trẩy hội, các cô gái duyên dáng trong trang phục dân tộc và các bà già phúc hậu, thánh thiện. Cảnh trẩy hội xuân vừa náo nhiệt, vừa dân dã, hồn hậu, gợi lên không khí lễ hội mùa xuân làng quê từ những năm xa xưa.
"Xuân về" là một bài thơ xuân đẹp, gợi lên trong lòng người đọc nhiều ấn tượng và cảm xúc yêu thích. Nguyễn Bính đã dùng tình yêu mùa xuân, tình yêu quê hương để viết nên những câu thơ tuyệt bút, mang lại cho người đọc cảm giác ấm áp, thân thuộc và mặn mà. Bức tranh xuân trong "Xuân về" không chỉ là một tác phẩm văn học, mà còn là một bức tranh sống động về tình yêu và cuộc sống của con người Việt Nam trong những ngày đầu xuân.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 3)
Nguyễn Bính, tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh năm 1919 tại thôn Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nhà Nho nghèo. Ông là một trong những nhà thơ xuất sắc nhất của thi ca Việt Nam hiện đại, được biết đến với biệt danh "nhà thơ của tình quê" nhờ giọng điệu thơ rất riêng, mang sắc thái quê mùa, dân dã khó trộn lẫn. Người đọc yêu mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo ra một phong vị thơ độc đáo cho riêng mình: phong vị lục bát ca dao. Tuy nhiên, bài thơ "Xuân Về" lại mang đến một hương vị khác, đậm chất thơ mới thất ngôn.
Mùa xuân là đề tài quen thuộc với nhiều tác giả, ít ai bỏ lỡ cơ hội để ghi lại những nét thơ ca về mùa xuân qua góc nhìn của mình. Mỗi người có một cách nhìn, một phong vị văn thơ khác nhau, nhưng hầu như ai cũng ca ngợi sức sống mãnh liệt của đất trời và con người khi xuân về. Với Nguyễn Bính, mùa xuân bao trùm lên tất cả. Trong bốn khổ thơ bảy chữ, tác giả quan sát và miêu tả mùa xuân qua những câu thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Những nét xuân đầu tiên mà nhà thơ cảm nhận là từ một vị trí gần gũi nhất:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
"Xuân Về" là một bức tranh sống động của làng quê Bắc Bộ vào những năm đầu thập niên 30 của thế kỷ trước. Mùa xuân đã về trên từng cành cây ngọn cỏ, trên đôi má ửng hồng của những cô gái xuân thì. Cô gái hàng xóm bên hiên nhà, đôi mắt trong ngước nhìn trời xanh, như thổi hồn vào cảnh vật, làm cho nhà thơ cảm nhận rõ nét sự hiện diện của mùa xuân. Sự tươi mới và trong sáng của mùa xuân được tác giả miêu tả qua hình ảnh cô gái tuổi đôi mươi chưa chồng, đầy sức sống và dịu dàng:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.
Khung cảnh làng quê thật tươi sáng và trong lành. Trời quang mây tạnh, nắng mới hoe, gió xuân thổi về mang theo hơi thở của sự sống. Hình ảnh "lá nõn nhành non ai tráng bạc" đẹp như một bức tranh, làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân. Những đứa trẻ nô đùa trên đường, tiếng cười rộn rã, tất cả như hòa quyện vào bản giao hưởng mùa xuân.
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng.
Từ cô em gái hàng xóm, những đứa trẻ nô đùa, tác giả chuyển sang cái nhìn tổng thể hơn về bức tranh mùa xuân. Những người nông dân nghỉ việc đồng áng, chuẩn bị đón xuân về nồng đượm. Cánh đồng lúa xanh mướt, những bông lúa mượt như nhung, như những cô gái mới lớn, tươi trẻ. Hoa bưởi, hoa cam rụng đầy vườn, hương thơm ngào ngạt, bướm vẽ vòng tròn, biểu hiện cho vòng tuần hoàn của tự nhiên.
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.
Khổ thơ cuối là hình ảnh người dân làng quê miền Bắc đón xuân về. Các cô gái diện yếm đỏ khăn thâm, dắt tay bà già tóc bạc, tay lần tràng hạt, miệng niệm nam mô. Họ cùng nhau đi trẩy hội chùa, một hình thức đón xuân truyền thống. Những dòng thơ trong sáng, gần gũi vang lên thuần khiết, thấm đẫm tình quê, tạo nên bức tranh mùa xuân đầy sức sống.
"Xuân Về" của Nguyễn Bính là một bài thơ tuyệt đẹp, ghi lại những hình ảnh đặc trưng của quê hương Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX. Những dòng thơ về cảnh sắc mùa xuân không chỉ phản ánh tình cảm sâu sắc của nhà thơ với quê hương, mà còn là minh chứng cho tài hoa của một người nghệ sĩ chân chính.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 4)
Nguyễn Bính là một tượng đài trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Năm 1937, ông nhận giải Tự lực Văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi, khẳng định phong cách lục bát ca dao riêng. Bài thơ Xuân về của ông lại đem đến một diễn biến mới: thất ngôn.
Mùa xuân, mỗi người đều có cái nhìn và cảm xúc riêng. Nguyễn Bính bắt đầu bằng việc miêu tả mùa xuân qua những khổ thơ rất tự nhiên và nhẹ nhàng.
“Xuân về với gió đông
Má đỏ của cô gái trẻ
Bên hiên, cô hàng xóm
Ngắm trời, đôi mắt trong.”
Nguyễn Bính chia sẻ cảm nhận về mùa xuân qua những hình ảnh mềm mại và tươi sáng. Đầu tiên là sự xuất hiện của gió đông, mang theo nhiệt độ ấm áp và sự sống mới. Cô hàng xóm mới lớn với má đỏ và đôi mắt sáng lạnh là biểu tượng cho sự trẻ trung và tươi mới của xuân.
“Đàn trẻ chạy vui đùa
Mưa tạnh, nắng mới bắt đầu
Lá non như ai phủ lên bạc
Gió thoảng, rồi lại bay.”
Bức tranh xuân của Nguyễn Bính tiếp tục được vẽ rõ nét với hình ảnh vui tươi của đàn trẻ, sự trở lại của ánh nắng sau cơn mưa. Lá non rơi xuống như một lớp bạc, làm tăng thêm vẻ đẹp của mùa xuân. Gió thoảng nhẹ nhàng, tạo nên không khí trong lành và dễ chịu.
“Dân làng thong thả nghỉ
Lúa xanh, con gái như nhung
Hoa bưởi và cam rụng nở
Hương thơm, bướm bay vòng vòng.”
Bức tranh về mùa xuân của ông mở ra với hình ảnh cảng làng yên bình, với lúa mạch và hoa bưởi hoa cam rụng rời. Mọi thứ đều như trong một giấc mơ, với màu sắc rực rỡ và hương thơm ngát ngào.
“Trên đường cát mịn màng
Đôi cô gái với yếm đỏ
Bà già cầm gậy, tóc bạc
Tràng hạt, miệng kinh Nam Mô.”
Khúc cuối cùng của bức tranh xuân vẽ lên hình ảnh của những người phụ nữ và trẻ em đang hòa mình vào không khí xuân, đón chào một năm mới an lành và hạnh phúc.
Bài tham khảo Mẫu 1
Thi sĩ Nguyễn Bính đã góp mặt trong phong trào 'Thơ mới' trước năm 1945. Ông đã thể hiện cảnh vật làng quê, hình ảnh cô gái thôn nữ, bến đò ngang, chợ Tết... bằng lời thoại giản dị, thân mật và đáng yêu. 'Tương tư', 'Chợ Tết', 'Mưa xuân', 'Xuân về'... là những tác phẩm hay của ông được nhiều người yêu thích.
Bài thơ 'Xuân về' tạo nên một bức tranh xuân tươi sáng với bốn khung cảnh đẹp của làng quê Việt Nam hơn 60 năm trước. Thông qua những hình ảnh về con người và cảnh vật nông thôn, Nguyễn Bính đã tạo ra một bức tranh xuân đẹp mắt và lãng mạn.
Khung cảnh xuân đầu tiên mô tả về cô gái thôn nữ khi gió xuân thổi về. Gió xuân mang hơi ấm và không khí xuân làm cho đôi má 'gái chưa chồng' rực rỡ. Cô hàng xóm của nhà thơ đang nhìn trời với 'đôi mắt trong' như đang ước hẹn và mong chờ điều gì. Bức tranh xuân tràn đầy tươi trẻ và lãng mạn được thể hiện qua hai hình ảnh 'má hồng' và 'đôi mắt trong' của cô hàng xóm:
'Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong 'Khung cảnh xuân thứ hai rất đẹp và sống động, mang lại cảm giác hồn nhiên và tươi mới. Sau những ngày mưa xuân, bầu trời đã sáng rực lại, tạo nên không gian ấm áp: 'giời quang, nắng mới hoe'. Nắng mới ấy chính là nắng đầu xuân, mang màu hồng nhạt, cây cỏ bắt đầu nảy lộc:
'Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?'
'Lá nõn' là những mầm lá mới, màu xanh mướt; 'nhành non' là cành tươi mới nảy lộc có nhiều lá nõn. Nhà thơ đã ngạc nhiên khi nhìn 'lá nõn, nhành non' và hỏi 'ai tráng bạc'.
Cảnh xuân thứ ba giới thiệu không gian nghệ thuật lớn và gợi lên tâm hồn của làng quê vào mùa xuân. Giêng hai là thời gian của sự nông nhàn, mọi người trong làng dừng lại để tham gia lễ hội mùa xuân. Cánh đồng rộng lớn như biển lúa mượt như nhung. Vườn tược và làng quê đầy hoa cam, hoa bưởi nở trắng rực, tạo nên mùi thơm ngát và quấn quýt bướm bay:
'Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng.'
Chữ 'đầy' và 'ngào ngạt' đều tạo nên hình ảnh màu sắc và hương vị của xuân quê. Nguyễn Bính đã dành tình yêu với mùa xuân và đất nước để viết ra những bài thơ tuyệt vời về mùa xuân, về bướm hoa, về cảnh vật nông thôn.
Một phần đẹp trong bức tranh 'Xuân về' là hình ảnh các cô gái và cụ bà tham gia lễ hội trẩy hội. 'Một đôi cô' trẻ trung, rạng rỡ trong trang phục dân tộc đi trẩy hội. Các cụ già với tóc bạc, vẻ mặt thánh thiện đi trước với gậy trúc, tụng kinh. Hình ảnh này truyền đạt sự phôi pha giữa sự trẻ trung của tuổi trẻ và sự thanh nhã của tuổi già trong lễ hội xuân:
'Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.'
'Xuân về' là bài thơ xuân đẹp, gợi lên nhiều cảm xúc và yêu thích. Những chi tiết về 'lá nõn, nhành non...', lúa con, 'mượt như nhung', hoa bưởi và hoa cam nở rộng vườn 'ngào ngạt hương bay', với bướm bay, tất cả đều tạo nên bức tranh xuân tươi đẹp, gần gũi và thân thuộc. Nguyễn Bính đã đem lòng yêu thương mùa xuân và quê hương để viết nên những bài thơ đầy cảm xúc và gợi nhớ.
Tình yêu và tâm hồn của quê hương là điểm đặc sắc trong 'Xuân về' của Nguyễn Bính. Thơ của ông trong sáng, tinh tế, tràn đầy tình cảm với mùa xuân nông thôn, dễ thương và cảm động như dân ca.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 5)
Như một chú chim tự do khỏi lồng ngục, họ tự do bay lượn, viết và cảm nhận mọi điều theo trái tim nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp và sự hấp dẫn của nghệ thuật. Nguyễn Bính, một nhà thơ xuất thân từ phong trào thơ mới, dù theo phong cách của phong trào nhưng vẫn có điểm nhấn độc đáo, đặc biệt là tình yêu với chân quê. Xuân về, một tác phẩm của ông, là minh chứng rõ ràng cho điều đó.
“Thôn Đoài ngồi nhớ thôn Đông
Một người chín nhớ mười mong một người”
Nguyễn Bính đã chọn cho mình con đường riêng, cảm xúc thơ tình sâu lắng, mê hoặc nhưng vẫn mang hơi thở của làng quê, không phải theo trào lưu phương Tây mà là trở về với bản sắc dân dã, là điểm nhấn làm cho thơ của ông sống mãi. Xuân về, một bài thơ thấm đẫm tình cảm với quê hương, mô tả chi tiết những thay đổi của cảnh vật và con người trong miền quê Nam Định khi mùa xuân đến.
“Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm, cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời, đôi mắt trong.”
Xuân theo cơn gió đông mang hơi thở ấm áp đến với miền quê yên bình, mùi thảo mộc mới nở hoa chào mừng không khí mát lạnh ấy. Đôi má của cô gái trẻ đỏ ửng hồng, đôi mắt trong đầy tâm hồn nghĩ về điều gì đó mới lạ. Nguyễn Bính cảm nhận mùa xuân qua những sự vật và con người, đặc biệt là cô gái hàng xóm. Sự tươi trẻ, ngây thơ của cô tượng trưng cho sức sống mới mẻ mà mùa xuân mang lại, làm cho không khí trở nên hân hoan, khí thế của mùa xuân vui vẻ và náo nức hơn. Sự mô tả gần gũi này làm cho mùa xuân trở nên sống động hơn, khiến mọi người cảm nhận được cái sức sống của nó.
“Đêm xuân một giấc mơ màng
Bốn bề xuân tỏa một nàng ở trong
Chiều xuân dễ khiến … ngại ngùng
Đêm xuân ai dễ cầm lòng được chăng?”
Xuân đến, không ai có thể kìm nén cảm xúc trái tim. Càng khi ngâm nghĩ trong từng câu thơ của Nguyễn Bính, mùa xuân không chỉ là trên giấy mà còn tồn tại ngay trước mắt, như một hiện thân đầy màu sắc trên gương mặt đọc giả.
Từ những hình ảnh của con người, bức tranh về xuân giờ trở nên toàn diện và sâu lắng:
“Thong thả, dân gian nghỉ việc đồng,
Lúa thì con gái mượt như nhung.
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”
Người nông dân nghỉ ngơi trong đồng, bông lúa tươi mới như những cô gái trẻ, xinh đẹp, tươi trẻ. Bông lúa tháng Giêng mọc lên giữa đồng, đón nắng mới như một thiếu nữ e ấp, chờ đợi bước chân của mùa xuân.
“Trong đồng lúa xanh rờn và ướt lặng,
Lũ cò con chốc chốc vụt bay ra”
Anh Thơ cũng thấy điều này, nhưng Nguyễn Bính mô tả lúa như mô tả con người, với tình cảm và cảm xúc. Ngoài ra, vườn hoa bưởi và hoa cam trải rộng cả một khu vườn, mùi hương đặc trưng phủ khắp nơi, khiến không khí trở nên dịu dàng và thanh thoát.
Ở khổ thơ cuối, Nguyễn Bính đưa chúng ta đến với hình ảnh người dân đón mùa xuân một cách trang nghiêm:
“Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”
Cảnh trẩy hội chùa, một nét văn hóa đặc sắc của người Việt, được Nguyễn Bính ghi lại. Những cô gái và bà cụ, trong bộ trang phục truyền thống, đến chùa để cầu mong một năm mới tràn đầy hạnh phúc và may mắn. Sự vui vẻ, hoà nhã này là điều quen thuộc với người Việt, và ai đọc những dòng thơ này cũng sẽ cảm nhận được niềm vui ấy.
Nghệ thuật mô tả của Nguyễn Bính thật sự đặc biệt và sâu lắng. Mô tả các sự vật, cây cỏ, con người, tất cả đều quen thuộc với miền quê, khi đọc thơ của ông, người đọc như được sống lại, trải nghiệm mọi thứ. Tình cảm mà ông đổ vào đó thể hiện tình yêu sâu sắc với quê hương và dân tộc. Những dòng thơ trong sáng, giản dị, phản ánh một cách chân thực nhất tình cảm của một nghệ sĩ đích thực.
Hoài Thanh đã nhận xét về giọng thơ này như sau:“Nhà thơ đã đánh thức tâm hồn buồn bã của Đông Á,… đã đem lại mạch sầu hàng ngàn năm vẫn chảy ròng rã trong đất nước này”, chỉ bằng hai từ“chân quê”, hoặc nói cách khác, giọng thơ ấy“như đang nói bằng hàng nghìn giọng, mê hoặc và thuyết phục, nó nâng tầm mô tả từ cái ngắn ngủi, tạm thời lên thành tồn tại vĩnh cửu”. Xuân về là một tác phẩm xuất sắc trong dãy thơ của Nguyễn Bính, không chỉ cho thấy tài năng trong cách viết thơ của ông mà còn phản ánh con người ông qua những nét đặc trưng trong sự nghiệp nghệ thuật.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 6)
Thi sĩ Nguyễn Bính xuất hiện trong phong trào "Thơ mới" trước năm 1945. Phong cảnh đồng quê, hình ảnh cô thôn nữ, bến đò ngang, phiên chợ Tết... được Nguyễn Bính nói lên một cách bình dị, thân mật đáng yêu. "Tương tư", "Chợ Tết", "Mưa xuân", "Xuân về",... là những bài thơ hay của ông được nhiều người yêu thích.
Bài thơ "Xuân về" là một bức tranh xuân có bốn cảnh xinh xắn, thân mật về đồng quê. làng quê Việt Nam hơn 60 năm về trước. Con người và cảnh sắc nông thôn đã được thi vị hóa qua một hồn thơ lãng mạn tài hoa.
Cảnh xuân thứ nhất nói về cô thôn nữ khi gió đông (gió xuân) thổi về. Gió xuân mang hơi ấm và khí xuân làm hồng lên đôi má "gái chưa chồng", tuổi xuân mơn mởn. Cô láng giềng, cô hàng xóm của nhà thơ bâng khuâng nhìn trời với “đôi mắt trong" như đang ước hẹn, đợi chờ ai... Bức tranh xuân trẻ trung, tình tứ được chấm phá qua hai hình ảnh "màu má gái chưa chồng" và "đôi mắt trong" của cô hàng xóm đang "ngước mắt" nhìn trời xuân:
"Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong "
Cảnh xuân thứ hai vừa đẹp, vừa sống động, hồn nhiên và tươi xinh. Gió xuân thổi về từng trận rồi "gió bay đi", gợi lên sự phơi phới. Sau những tháng ngày mưa xuân, mưa bụi trắng trời, nay mưa đã tạnh, bầu trời rất đẹp, một không gian ấm áp: "giời quang, nắng mới hoe". Nắng mới là nắng đầu xuân: "nắng mới hoe" là nắng hồng nhạt, cỏ cây đâm chồi nảy lộc:
"Lá nõn, nhành non, ai tráng bạc?"
"Lá nõn" là những mầm lá, những lá non màu xanh mượt, "nhành non" là những cành tơ mới nẩy lộc có nhiều lá nõn màu xanh như ngọc. Nhà thơ sung sướng ngạc nhiên nhìn “lá nõn, nhành non" rồi thốt lên câu hỏi "ai tráng bạc".
Lá xuân mỡ màng, non tơ sáng ngời lên lấp lánh. Các chữ: "nõn", "non", 'bạc?", đã gợi lên sắc xuân và sức xuân kì diệu. Thi sĩ Xuân Diệu cũng đã nói hoa, lá, cành mùa xuân, cũng nói đến "cành tơ" đầy gợi cảm:
"Của ong bướm này đây tuần tháng mật
Này đây hoa của đồng nội xanh rì
Này đây lá của cành tơ phơ phất... "
("Vội vàng")
Cảnh xuân càng trở nên rộn ràng, vui tươi và hồn nhiên khi xuất hiện "Từng đàn con trẻ chạy xum xoe". Các em nô đùa, các em đón nắng mới, các em theo bà, theo chị đi trẩy hội mùa xuân. Cảnh xuân càng trở nên ý vị đậm đà.
Nét xuân đẹp thứ ba trong bức tranh xuân của Nguyễn Bính mở ra một không gian nghệ thuật rộng lớn gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Giêng hai là thời gian nông nhàn, bà con dân cày "nghỉ việc đồng", ai nấy đều tíu tít trong lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát "lúa con gái mượt như nhung". Một so sánh rất hay, rất gợi cảm làm hiện lên những cánh đồng quê lúa xanh thẫm, biển lúa êm đềm "mượt như nhung". Vườn tược, xóm thôn nở trắng màu hoa cam, hoa bưởi "ngào ngạt hương bay". Mùi thơm nồng nàn, quấn quít "bướm vẽ vòng". Cảnh bướm, hoa trong vườn xuân thật trữ tình nên thơ:
"Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng. "
Chữ "đầy", chữ "ngào ngạt" là hai nét vẽ gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê. Nguyễn Bính đã đem cái tình yêu mùa xuân, yêu làng mạc đồng quê để viết nên những câu thơ tuyệt bút về hương hoa, về bướm hoa trong mùa xuân.
Một nét đẹp nữa trong bức tranh "Xuân về" là cảnh đi trẩy hội. "Một đôi cô" duyên dáng, tươi xinh trong bộ đồ dân tộc: "yếm đỏ khăn thâm" đi trẩy hội chùa. Các cụ già, bà già "tóc bạc" lưng còng, tay chống gậy trúc, vừa đi vừa lần tràng hạt, miệng lầm rầm tụng nam mô. Có cái phơi phới, say mê của cô gái quê. Có cái phúc hậu, thánh thiện của tuổi già. Cảnh trẩy hội xuân vừa tưng bừng náo nhiệt, vừa dân dã hồn hậu đáng yêu. Ta cảm thấy như mình đang được sống lại lễ hội mùa xuân của làng quê hơn trăm năm về trước:
"Trên đường cát mịn, một đôi cô,
Yếm đỏ, khăn thâm, trẩy hội chùa.
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc,
Tay lần tràng hạt miệng nam mô".
"Xuân về" là một bài thơ xuân đẹp, cho ta nhiều ấn tượng và yêu thích. Những nét vẽ về "lá nõn, nhành non...", về lúa con gái, "mượt như nhung", về hoa bưởi hoa cam rụng đầy vườn "ngào ngạt hương bay", với "bướm vẽ vòng", tất cả đã gợi lên một bức tranh xuân tươi đẹp, đầy hương sắc, rất mặn mà, thân thuộc. Bức tranh xuân ấy còn có hình ảnh thiếu nữ với má hồng, mắt trong, duyên dáng đi hội chùa làng, với "yếm đỏ khăn thâm"-, còn có bà già đi hội, chống gậy trúc, lần tràng hạt, miệng nam mô. Cảnh xuân, tình xuân được nhà thơ nói đến rất bình dị, mộc mạc, rất thân thuộc đậm đà, đáng yêu. Nguyễn Bính đã gợi lên cái hồn quê nơi thôn quê, đã để thương để nhớ trong lòng người bấy nay.
Tình quê, hồn quê là nét đẹp trong "Xuân về" của Nguyễn Bính. Thơ trong sáng, dung dị vơi đầy một tình xuân đồng quê đầm ấm và rung động, thiết tha. Thơ Nguyễn Bính dịu dàng, êm đẹp như ca dao, dân ca.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 7)
Nguyễn Bính là một trong những danh hào của thơ ca Việt hiện đại. Ông đã sáng tạo nhiều tác phẩm ấn tượng, đóng góp không ngừng cho văn học nước nhà. 'Xuân về' là một ví dụ xuất sắc, ra đời năm 1937, xuất hiện trong tập thơ của Nguyễn Bính:
Thi sĩ Nguyễn Bính, được người hâm mộ yêu mến với danh hiệu Thi Sĩ Chân Quê. Trong sáng tác của ông, hình ảnh quê hương với đồng cỏ, bến đò và chợ Tết được mô tả một cách chân thực, gần gũi và dễ thương. 'Xuân về' là một bức tranh xuân tươi mới của vùng quê Bắc Bộ từ hơn 60 năm trước.
Để trải nghiệm vẻ đẹp quê hương qua bút mực của thi sĩ, chúng ta gặp:
'Đã thấy xuân về với gió đông,
Với trên màu má gái chưa chồng.
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn trời đôi mắt trong'
Gió xuân đã mang hơi ấm trên lá cây và cỏ, làm đôi má của cô gái “chưa chồng” rực rỡ. Đó là cô hàng xóm đang ngắm nhìn trời xuân, với “đôi mắt trong” dường như đang mong chờ và ước ao điều gì. Vẻ đẹp xuân mới mẻ và ngọt ngào được nhà thơ nắm bắt qua hai chi tiết 'màu má gái chưa chồng' và 'đôi mắt trong' của cô gái nhà bên đang thưởng thức bầu trời xuân.
<spannhà thơ="" cho="" chúng="" ta="" thưởng="" lãm="" một="" cảnh="" vật="" sống="" động:<="" span="" style="box-sizing: border-box; border: 0px solid rgb(229, 231, 235); --tw-border-spacing-x: 0; --tw-border-spacing-y: 0; --tw-translate-x: 0; --tw-translate-y: 0; --tw-rotate: 0; --tw-skew-x: 0; --tw-skew-y: 0; --tw-scale-x: 1; --tw-scale-y: 1; --tw-pan-x: ; --tw-pan-y: ; --tw-pinch-zoom: ; --tw-scroll-snap-strictness: proximity; --tw-gradient-from-position: ; --tw-gradient-via-position: ; --tw-gradient-to-position: ; --tw-ordinal: ; --tw-slashed-zero: ; --tw-numeric-figure: ; --tw-numeric-spacing: ; --tw-numeric-fraction: ; --tw-ring-inset: ; --tw-ring-offset-width: 0px; --tw-ring-offset-color: #fff; --tw-ring-color: rgba(0,112,243,.5); --tw-ring-offset-shadow: 0 0 #0000; --tw-ring-shadow: 0 0 #0000; --tw-shadow: 0 0 #0000; --tw-shadow-colored: 0 0 #0000; --tw-blur: ; --tw-brightness: ; --tw-contrast: ; --tw-grayscale: ; --tw-hue-rotate: ; --tw-invert: ; --tw-saturate: ; --tw-sepia: ; --tw-drop-shadow: ; --tw-backdrop-blur: ; --tw-backdrop-brightness: ; --tw-backdrop-contrast: ; --tw-backdrop-grayscale: ; --tw-backdrop-hue-rotate: ; --tw-backdrop-invert: ; --tw-backdrop-opacity: ; --tw-backdrop-saturate: ; --tw-backdrop-sepia: ;"></spannhà>
“Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.”
Gió xuân thổi lướt qua, tươi mát và phơi phới. Sau những cơn mưa xuân, trời đã sáng rực, một bầu trời đẹp, nắng ấm “giời quang, nắng mới hoe”. Mầm “lá nõn” xanh tươi, “nhành non” mới nảy lộc còn chưa cứng cáp. Nhà thơ đầy ngạc nhiên khi nhìn những mầm non này và thốt lên hỏi 'Ai tráng bạc?'.
“Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.”
Xuân đến, mọi người trong làng đều tạm dừng công việc, đón chào xuân và vui mừng mừng lễ tết. Lúa non trong cánh đồng rợp bóng màu xanh tươi, “mượt như nhung”. Còn có “vườn hoa bưởi, hoa cam” đã “rụng” nhưng vẫn “ngào ngạt hương bay”.
Cảnh vật xuân thứ ba trong bài thơ mở lời cho một không gian nghệ thuật lớn hơn, khiến ta cảm nhận hồn xuân trong làng quê. Giêng hai, là thời gian dân làng nghỉ ngơi, mọi người cùng tham gia lễ hội mùa xuân. Cánh đồng mênh mông như biển lúa “mượt như nhung”. Vườn tược và xóm thôn nở hoa cam, hoa bưởi “ngào ngạt hương bay”. Hương thơm ngọt ngào, bướm bay nâng niu “bướm vẽ vòng”. Cảnh vật bướm và hoa trong vườn xuân thật sự thơm lừng, trữ tình:
'Đầy vườn hoa bưởi, hoa cam rụng,
Ngào ngạt hương bay, bướm lượn vọng'
Chữ “đầy”, chữ “ngào ngạt” là hai chi tiết mang đến hình ảnh sống động của vườn xuân quê. Nguyễn Bính đã trao mình cho tình yêu mùa xuân và quê hương, viết nên những câu thơ tuyệt vời về hương hoa, về bướm xuân.
“Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.”
Nếu ở hai khổ thơ trước đó nhà thơ mô tả cảnh vật là chủ đề chính, thì khổ thơ này lại đặt trọng tâm vào con người trong làng đang chờ đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và cụ bà.
Xuân về, mọi người trên đường phố đều ăn mặc đẹp để tham gia lễ hội hay đi chùa cầu may. “Yếm đỏ”, “khăn thâm” là những trang phục truyền thống của phụ nữ quê trong những năm đầu thập niên 30. Các cụ bà tóc bạc đã cầm gậy trúc, lần tràng hạt, niệm kinh.
Bài thơ “Xuân về” đem lại hương vị mới trong sáng tác của Nguyễn Bính. Với bức tranh xuân đầy sức sống, cảnh sắc trong lành, tươi mới của quê hương Việt Nam. Dù thời gian trôi đi, tôi tin rằng bài thơ “Xuân về” của Nguyễn Bính vẫn còn sống, bởi nó mang trong mình sự tươi mới, sống động và chân thật, gần gũi với mọi thế hệ người Việt.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 8)
Nhắc đến mùa xuân là nhắc đến sự sinh sôi, "thay da đổi thịt" của vạn vật. Đó là thời khắc mở đầu cho một năm, đánh dấu biết bao điều mới mẻ, hạnh phúc. Không lạ khi mùa xuân đã trở thành nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, văn chương của nhiều thế hệ. Có thể kể đến Xuân Diệu với "Vội vàng"; Tố Hữu với "Xuân sớm" hay Thanh Hải với "Mùa xuân nho nhỏ". Trong đó, "Xuân về" của Nguyễn Bính cũng được đánh giá là một tác phẩm tiêu biểu và mang nhiều giá trị. Bằng những hình ảnh thơ gần gũi, tác giả đã đem đến cho người đọc một mùa xuân đẹp, bình dị ở chốn làng quê thân thuộc.
"Xuân về" đã vẽ nên một bức tranh làng quê và con người Việt Nam thơ mộng trong giai đoạn khởi đầu một năm mới. Xuyên suốt bài thơ, ta được thấy cảm hứng trữ tình cùng sự say mê, niềm vui sướng của tác giả khi chứng kiến giai đoạn đổi thay của trời đất.
Trước hết, thiên nhiên trong tác phẩm hiện lên vô cùng đẹp đẽ và tràn trề sức sống. Gió xuân xuất hiện mang theo chút ấm áp nhẹ nhàng: "Đã thấy xuân về với gió đông". Cơn gió cứ "về từng trận" rồi lại "bay đi", tô hồng gò má người thiếu nữ. Chúng mang đi cả những cơn mưa phùn lạnh giá, trả lại bầu trời quang đãng cùng sự lấp ló của tia nắng Mặt Trời. Cả khung cảnh dường như bừng sáng thông qua từ "nắng mới hoe". Nắng mới khiến lớp nước còn đọng lại trên cỏ lá trở nên lấp lánh như được "ai tráng bạc". Đây quả là một biện pháp so sánh vô cùng độc đáo mà tác giả đã sử dụng. Lộc non đua nhau đâm chồi, mang thêm sức sống cho khung cảnh thiên nhiên rộng lớn. Không chỉ có đất trời đổi thay, làng quê Việt Nam cũng khoác lên mình chiếc áo mới: "Lúa thì con gái mượt như nhung/Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng/Ngào ngạt hương bay, bướm vẽ vòng". Ở đây có cánh đồng lúa bát ngát đang độ xanh mướt, có vườn tược "ngào ngạt" hương thơm của hoa bưởi, hoa cam. Điều này đã thu hút ong bướm về tụ họp, khiến không gian trở nên ngập tràn màu sắc. Tất cả đã tái hiện rất thành công bức tranh làng quê lúc xuân về.
Bên cạnh đó, hình ảnh con người cũng được nhà thơ đưa vào một cách vô cùng tài tình. Những cô gái xuất hiện ngay từ khổ thơ đầu tiên với cơn gió xuân thoang thoảng. Đó là cô "gái chưa chồng" má đỏ hây hây, là "cô hàng xóm" có "đôi mắt trong" đang ngước nhìn bầu trời. Chỉ đơn giản như vậy thôi nhưng đó lại là điểm nhấn, là nét chấm phá cho khung cảnh mùa xuân thơ mộng. Tiếp theo, ta được thấy hình ảnh của "Từng đàn con trẻ chạy xun xoe". Đây là chi tiết thể hiện niềm vui, sự háo hức của những đứa trẻ khi Tết đến xuân về hay cũng chính là cảm xúc, tâm tư của tác giả gửi vào con chữ. Người nông dân bây giờ có thể tạm gác lại tháng ngày làm lụng vất vả, "thong thả" mà nghỉ ngơi, tận hưởng tiết trời trong lành của đầu xuân năm mới. Họ xúng xính áo quần đi trẩy hội. Từ những thiếu nữ trẻ trung với "yếm đỏ, khăn thâm" tới những bà lão "tóc bạc" chống gậy trúc, ai ai cũng nô nức, vui vẻ đi "trẩy hội chùa". Tất cả đã hợp nhất lại, tái hiện trước mắt người đọc khung cảnh làng quê Việt Nam dưới trời xuân vừa đẹp đẽ, náo nhiệt, vừa dân dã, hồn hậu.
Với "Xuân về", nhà thơ Nguyễn Bính đã thành công cả về nội dung và nghệ thuật. Với hình ảnh thơ giản dị, gần gũi cùng ngôn ngữ thơ trong sáng, mộc mạc, tác giả đã khắc họa vô cùng rõ nét cảnh ngày xuân nơi làng quê hết sức dung dị mà không kém phần nên thơ, trữ tình. Xuyên suốt tác phẩm, nhịp thơ luôn chậm rãi, từ tốn kết hợp với cách ngắt nghỉ nhịp nhàng đã tạo cảm giác thong thả, thư thái. Điều đó giúp người đọc cảm nhận rõ nét hơn không khí yên bình của chốn làng mạc. Không chỉ vậy, tác giả còn thành công sử dụng các biện pháp tu từ như so sánh: "...mượt như nhung", ẩn dụ: "lúa thì con gái", hay cả đảo ngữ, hoán dụ. Nó đã góp phần nâng cảm xúc của bài thơ, khiến vẻ đẹp của thiên nhiên và con người càng được nhấn mạnh hơn. Và đó là nét rất riêng của thơ Nguyễn Bính, đồng thời nói lên chính con người tác giả. Với danh hiệu "nhà thơ của làng quê Việt Nam", ông đã rất thành công mang đến cho độc giả bức tranh chân thật và đẹp đẽ, thơ mộng nhất bằng ngòi bút tài hoa, dân dã của mình.
Nhìn chung, đề tài mùa xuân đã không còn quá xa lạ trong văn học nước nhà nói riêng và thế giới nói chung. Tuy nhiên qua bàn tay nhào nặn của từng tác giả khác nhau, ta sẽ nhận được những thành phẩm độc đáo, riêng biệt mà vẫn mang đầy ý nghĩa. Với "Xuân về", Nguyễn Bính đã đem đến cho độc giả mùa xuân thật dân dã, gần gũi ở làng quê Việt Nam thân thuộc. Tác phẩm sẽ luôn là một trong những bài thơ tiêu biểu và ý nghĩa nhất viết về chủ đề này.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 9)
Bài thơ "Xuân về" của Nguyễn Bính là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam, mang đậm tinh thần và nét đẹp của mùa xuân. Bài viết này sẽ phân tích và đánh giá về nội dung và nghệ thuật của bài thơ này.
Về nội dung, "Xuân về" tái hiện hình ảnh của mùa xuân đầy tươi vui và hạnh phúc. Tác giả đã miêu tả cảnh vật thiên nhiên trong mùa xuân như gió đông, màu má gái chưa chồng, đàn con trẻ chạy xum xoe. Những hình ảnh này tạo nên một không gian nghệ thuật rộng lớn, gợi lên cái hồn quê buổi xuân về. Bên cạnh đó, bài thơ còn nhắc đến thời gian nông nhàn của người dân, khi mọi người nghỉ việc đồng để tham gia vào lễ hội mùa xuân. Cánh đồng làng bát ngát "lúa con gái mượt như nhung", tạo nên một bức tranh sống động về cuộc sống quê hương.
Nghệ thuật của bài thơ "Xuân về" cũng rất đặc sắc. Nguyễn Bính đã sử dụng ngôn ngữ thơ trong sáng, dung dị và gần gũi. Từng câu thơ chậm rãi, cách ngắt nghỉ nhịp nhàng tạo nên cảm giác thư thái và êm đẹp. Tác giả còn sử dụng các từ ngữ tươi sáng như “hương hoa", "bướm hoa" để miêu tả vẻ đẹp của mùa xuân. Đặc biệt, bài thơ còn lồng ghép những hình ảnh tượng trưng như "chữ đầy", "chữ ngào ngạt" để gợi lên cái thần, cái hồn của vườn xuân chốn quê.
Tuy nhiên, cũng có thể nhận thấy rằng bài thơ "Xuân về" còn khá ngắn gọn và thiếu chi tiết. Tác giả chỉ tập trung vào những hình ảnh chính của mùa xuân và cuộc sống quê hương, không đề cập đến những khía cạnh khác như tình yêu, tâm lý con người. Điều này có thể làm cho bài thơ trở nên hạn chế trong việc truyền đạt thông điệp sâu sắc và phong phú.
Tổng kết lại, bài thơ "Xuân về" của Nguyễn Bính là một tác phẩm đáng để khám phá và đánh giả. Nội dung của bài thơ tải hiện một không gian nghệ thuật rộng lớn về mùa xuân và cuộc sống quê hương. Nghệ thuật của bài thơ được thể hiện qua ngôn ngữ thơ trong sáng, dung dị và những hình ảnh tượng trưng tinh tế. Mặc dù có những hạn chế về chi tiết, nhưng "Xuân về" vẫn là một tác phẩm đáng để đọc và trân quý.
Phân tích bài thơ Xuân về (mẫu 10)
Nguyễn Bính tên thật là Nguyễn Bính Thuyết, sinh năm 1919 tại thôn Thiệu Vịnh, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định, trong một gia đình nhà Nho nghèo. Mồ côi mẹ từ lúc còn nằm nôi, lên 10 tuổi Nguyễn Bính đã phải theo anh là Nguyễn Mạnh Phác (nhà văn Trúc Đường) ra Hà Nội giúp nhau kiếm sống. Nguyễn Bính ba lần vào Nam, để lánh chuyện bị chính quyền Pháp làm khó dễ. Nguyễn Bính đã đổi tên trong căn cước thành Nguyễn Bính Thuyết. Nguyễn Bính làm thơ khá sớm. Cô hái mơ là bài thơ đăng báo đầu tiên. Năm 1937, ông được giải thưởng Tự lực Văn đoàn với tập thơ Tâm hồn tôi. Từ đó, người đọc quý mến Nguyễn Bính bởi ông đã tạo được phong vị thơ đặc biệt cho mình: phong vị lục bát ca dao. Bài thơ Xuân về lại mang phong vị khác cho bạn đọc: phong vị thơ mới thất ngôn.
Ít có nhà văn, nhà thơ nào không ghi cảm nhận về mùa xuân của mình lên trang giấy. Mỗi người một nét nhìn, một phong vị văn thơ khác nhau nhưng hầu như ai cũng ca ngợi sức sống của đất trời, của con người mùa xuân. Với Nguyễn Bính mùa xuân bao trùm lên tất cả. Trong bốn khổ thơ bảy chữ tác giả là người quan sát và miêu tả bằng những câu thơ trong sáng, nhẹ nhàng. Nét xuân đầu tiên mà nhà thơ cảm nhận từ một vị trí gần với nhà thơ nhất:
Đã thấy xuân về với gió đông
Với trên màu má gái chưa chồng
Bên hiên hàng xóm cô hàng xóm
Ngước mắt nhìn giời đôi mắt trong.
“Xuân về" đầu tiên mà Nguyễn Bính “thấy” chỉ là cảm nhận qua tác nhân khác, qua hình ảnh khác. Tác nhân ấy là “gió đông”, có thể không còn làm da lạnh buốt khiến nhà thơ cảm nhận là xuân đang về và tác nhân ấy chính là “cổ hàng xóm" mới lớn có “màu má - đôi mắt trong" biểu hiện sức sống dạt dào, thanh tân của những ngày đầu năm mới. Xuân gần là ở đó, là ở gió, là cô láng giềng đang lơ đãng nhìn trời dưới mái hiên...
Rồi xa hơn một chút:
Từng đàn con trẻ chạy xun xoe
Mưa tạnh giời quang nắng mới hoe
Lá nõn nhành non ai tráng bạc
Gió về từng trận gió bay đi.
Khung cảnh thật tươi sáng và trong lành. Trời không mưa. “Gió về từng trận gió hay đi", câu thơ mang lại cho người đọc không khí mát mẻ, nhẹ nhàng mà không là gió lốc, gió xoáy. “Lá nõn nhành non ai tráng bạc" là một câu thơ đẹp về hình ảnh, hay về nội dung. Đẹp về hình ảnh “lá nõn nhành non” và nghệ thuật so sánh “ai tráng bạc”; hay là ở chỗ nó làm phong phú thêm sắc màu tươi trẻ của ngày xuân, làm cái nền rất phù hợp với niềm vui của “đàn con trẻ”. Bức tranh xuân về mở rộng thêm:
Thong thả dân gian nghỉ việc đồng
Lúa thì con gái mượt như nhung
Đầy vườn hoa bưởi hoa cam rụng
Ngào ngạt hương hay, bướm vẽ vòng.
Không gian bức tranh Xuân về mở rộng thành một tổng thể. Từ mái hiên hàng xóm, lá nõn nhành non rộng ra khu vườn với màu sắc của hoa bưởi hoa cam ngọt ngào hương thơm và đầy ong bướm lượn. Tất cả nằm trong khung nền của cánh đồng làng “lúa thì con gái mượt như nhung". Lúa đang lớn, đang vào lúc sắp trổ bông lá xanh mềm mại trải khắp. Lúc này, nhà nông nhàn nhã nghĩ tới việc “tháng giêng ăn tết ở nhà"
Phần cuối cùng của bức tranh tổng thể Xuân về là hình ảnh
Trên đường cát mịn một đôi cô
Yếm đỏ khăn thâm trẩy hội chùa
Gậy trúc dắt bà già tóc bạc
Tay lần tràng hạt miệng nam mô.
Nếu ở hai khổ thơ giữa nhà thơ miêu tả cảnh cây cỏ, ruộng lúa,... là chính thì ở khổ thơ trên nhà thơ lại tập trung miêu tả về con người đang đón xuân về, đặc biệt là các cô gái và các cụ bà. Ba khổ thơ đầu, nhà thơ miêu tả xuân đang về với con người, còn ở khổ thơ này thì xuân đã về, con người thực sự đón xuân. Một trong những hình thức đón xuân ấy là “trẩy hội chùa”. Cảnh trong khổ thơ là cảnh làng quê miền Bắc vào những năm trước Cách mạng tháng Tám. Đi trẩy hội chùa phần lớn là người già và các cô gái. Quanh năm chân lấm tay bùn, quần áo bạc màu mưa gió. Nhân xuân về, các cô diện “yếm đỏ khăn thâm” dắt bà thong thả đến chùa cầu phước.
Như trên đã viết, Xuân về mang một phong vị khác trong thơ ca của Nguyễn Bính. Cảnh Xuân thì vẫn là cảnh đầy sức sống với cảnh sắc tươi sáng, trong lành của làng quê Việt Nam nhưng những dòng thơ về cảnh sắc ấy lại là những dòng thơ mới đang trong thời khuấy động thành phong trào. Riêng về Xuân về mà xét thì đó là một bài thơ hay trong những bài thơ ghi lại những hình ảnh đặc trưng của quê Việt vào những năm đầu của thế kỉ XX.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non (2024) theo Thông tư 12
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên tiểu học (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THCS (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT (2024)