TOP 11 mẫu Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (2025) SIÊU HAY
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng
Đề bài: Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông
Dàn ý Phân tích Thiên Trường vãn vọng
1. Mở bài: Giới thiệu tác giả Trần Nhân Tông và tác phẩm Thiên Trường vãn vọng
2. Thân bài
a. Hai câu thơ đầu:
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).
- Bối cảnh không gian làng quê được bao phủ bởi khói chiều, với mốc thời gian là buổi chiều buông.
- Làn khói tỏa mờ, bao phủ trước xóm sau thôn, thứ khói bếp màu xanh bốc lên từ bếp lửa của những ngôi nhà trong thôn xóm mang lại cảm giác ấm áp, thanh bình.
→ Cảnh vật trong hai câu thơ đầu hiện lên là một cảnh tĩnh, được bao phủ bởi bóng chiều và khói bếp, đem đến vẻ hư ảo, nửa thực nửa hư, tạo nên cho con người cảm xúc lâng lâng, say đắm lòng người.
→ Thái độ của tác giả trước dáng vẻ của quê hương chính là sự gắn bó, cảm nhận tinh tế, sâu sắc cùng với dáng vẻ thư thái, tự tại trước không gian rộng lớn, giản dị của quê hương.
b. Hai câu thơ sau:
"Mục đồng địch lí ngưu quy tận"
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
- Hình ảnh mục đồng dắt trâu về và hình ảnh những con cò trắng từng đôi từng một hạ cánh xuống cánh đồng, âm thanh của tiếng sáo bảy lỗ, kết hợp với gam màu trắng muốt của cánh cò.
→ Là những thứ rất đỗi thân thuộc với làng quê, đặc biệt hình ảnh con trâu lại là bằng chứng sống cho sự thanh bình của đất nước.
- Hình ảnh từng đôi cò trắng hạ xuống đồng chính là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa, sự sinh sôi nảy nở dòng giống của dân tộc, thể hiện sự phát triển vững bền của dân tộc xuất phát từ chính những làng quê nhỏ bé, chân chất, bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.
3. Kết bài: Nêu cảm nhận về Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 1)
Thiên Trường vãn vọng hay còn được biết đến với cái tên Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra, là một thi phẩm nổi tiếng của thi sĩ Trần Nhân Tông.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng được viết bằng thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật. Và cũng là một sáng tác mẫu mực, điển phạm cho thể thơ này, được nhiều nhà văn, nhà thơ ca ngợi hết mực.
Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
Ở hai câu thơ đầu, nhà thơ khắc họa một không gian làng quê đẹp và mộng ảo tựa như tranh vẽ. Toàn bộ ngôi làng, từ đầu làng cho đến cuối làng đều được bao phủ bởi làn khói chiều. Đây là khói được tao ra từ những căn bếp đốt bằng rơm khô, bay qua ống khói rồi chảy ngược lên trời. Nhà nhà đều đang nấu cơm, nên khói bay lên nhiều tạo thành cả màn khói bảng lảng phủ kín ngôi làng. Điều đó cho thấy các gia đình ở đây đều có cuộc sống ấm no, đến tối đều được nấu cơm để ăn uống, nghỉ ngơi. Cùng với đó, là ánh hoàng hôn vàng cam hắt xuống mặt đất, xuyên qua những làn khói mờ ảo, nhuộm lên cả ngôi làng một màu sắc mờ ảo, tựa như chốn bồng lai tiên cảnh. Điêp từ bán được lặp lại hai lần, tỏ rõ sự ngờ vực, băn khoăn khó phân biệt của nhà thơ trước cảnh đẹp này.
Mục đồng địch lý quy ngưu tận,
Bạch lộ song song phi há điền.
Giữa cảnh đẹp thần tiên ấy, xuất hiện hình ảnh chú bé mục đồng dẫn trâu trở về nhà. Chi tiết ấy khiến cảnh vật trở nên thực hơn, chân thật hơn và ấm cúng hơn. Cậu bé ấy đang trở về mái ấm của mình, về căn bếp đang đỏ lửa. Tiếng sáo của chú bé mục đồng là âm thanh dẫn trâu đi đúng lối về nhà, và cũng là tín hiệu cho những cánh cò trắng phía đằng xa. Hình ảnh đôi cò trắng bay xuống cánh đồng trong dòng thơ cuối được tác giả gửi gắm nhiều ngụ ý. Cò không xuất hiện đơn lẻ, mà là từng đôi bay song song với nhau, chính là biểu tượng cho đôi lứa nông dân, cho sự phát triển dòng giống của dân tộc. Đó chính là xuất phát điểm cho những gia đình, những làng quê nhỏ bé. Các làng quê đó là nền móng cho đất nước phát triển ngày càng thịnh vượng hơn.
Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông là một sáng tác thơ với những cảm xúc lắng đọng sâu sắc. Từ cảnh đẹp đầm ấm, sum vầy của làng quê được miêu tả, tác giả thể hiện niềm tự hào về sự phát triển của giang sơn, về cuộc sống ấm no của bà con. Cùng với đó, tác giả gửi gắm những hi vọng về sự phát triển, mở rộng hơn nữa của làng quê qua hình ảnh biểu tượng đôi có trắng.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 2)
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là một vị vua vĩ đại và thi sĩ nổi tiếng của Đại Việt trong thế kỷ XIII. Ông không chỉ thông minh, học thức rộng mà còn tài ba và khéo léo trong lãnh đạo. Nhà thơ gắn liền với những chiến thắng vĩ đại của dân tộc trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông xâm lược.
Trong số những bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất 'phát nghiệp đế vương' của triều Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung' và 'Thiên Trường vãn vọng'.
Thiên Trường, thuộc Sơn Nam xưa, nay là thành phố Nam Định, từng là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, với các cung điện không nhiều và không hoành tráng.
Bài thơ 'Thiên Trường vãn vọng' được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ miêu tả cảnh sắc làng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, với cảm xúc nhẹ nhàng, cái nhìn mơ màng, bao trùm cảnh vật:
'Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền'
Trước đây, cụ Ngô Tất Tố đã dịch bài thơ này một cách xuất sắc.
Hai câu thơ đầu mô tả cảnh làng quê Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Những chữ 'thôn Hậu thôn tiền' và 'bán vô bán hữu' tạo nên sự cân xứng hài hòa, gợi lên hình ảnh xóm thôn trải dài gần xa, đông đúc và trù phú. Trong ánh chiều mờ ảo, xóm thôn hiện lên như một bức tranh mơ màng, bao phủ bởi khói sương. Khói của sương chiều lãng đãng bay trên những mái nhà tranh và lũy tre làng.
Chỉ với ba nét vẽ tinh tế, lối tả ít mà gợi nhiều, thi sĩ đã vẽ nên một bức tranh nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn, phủ mờ sương khói và ánh tà dương, tạo nên không gian êm đềm, thanh bình và thơ mộng. Cảnh vật bao la và tĩnh lặng, tâm trạng và ngoại cảnh hòa quyện. Cảm giác như thi sĩ đang hòa mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương không chán. So sánh 'đạm tự yên' (mờ nhạt như không) tạo nên hình ảnh thi vị, gợi lên một hồn quê man mác
'Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).
Hai câu cuối mô tả cảnh sắc đồng quê bình dị, quen thuộc nhưng đầy yêu thương. Trên các con đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau trở về, tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh trong trẻo và thanh bình của làng quê. Những đôi cò trắng bay liệng, hạ xuống đồng. Mặc dù không nhắc đến màu xanh và hương lúa, người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ và hình tượng thơ đầy gợi cảm, thanh tao và tràn đầy sức sống. Bút pháp điểm nhãn, dùng động để tả tĩnh được thể hiện một cách ấn tượng trong bức tranh đồng quê này:
'Mục đồng địch lí ngưu quy tận'
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
Tình quê và hồn quê hòa quyện, tràn đầy. Dù Thiên Trường thuở ấy có nhiều cung điện và đường sá nhộn nhịp, Trần Nhân Tông chỉ tập trung vào cảnh sắc thiên nhiên và đồng quê. Điều này thể hiện tâm hồn thi sĩ yêu thiên nhiên và quê hương. Tính bình dị, dân dã là cốt cách của thi sĩ. Cảm nhận này càng rõ hơn khi đọc bài thơ 'Hạnh Thiên Trường hành cung' (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):
'Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua'
Cảnh chiều trong bài 'Hạnh Thiên Trường hành cung' là cảnh thu, nhưng trong 'Thiên Trường vãn vọng' là cảnh chiều xuân hay thu rất khó xác định. Chỉ cảm nhận được một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói. Không gian và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện, cho thấy Trần Nhân Tông viết bài thơ này sau năm 1288, khi Đại Việt đã thanh bình và yên vui.
Bài thơ tứ tuyệt 'Thiên Trường vãn vọng' là một bức tranh quê mờ ảo, đẹp và tràn đầy sức sống. Bút pháp nghệ thuật cổ điển tinh tế. Một tâm hồn cao quý, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên và quê hương được thể hiện qua những hình tượng ấm áp và nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm. Bài thơ đã vượt thời gian hơn bảy trăm năm, vẫn mang đến nhiều cảm xúc và thú vị. Cánh cò trắng trong bài thơ vẫn bay trong ráng chiều đồng quê, sống mãi trong tâm hồn người đọc. Thơ đúng nghĩa là như vậy!
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 3)
Trong nền văn học trung đại của nước nhà, ngoài các đề tài ca ngợi tình yêu quê hương đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì tình yêu thiên nhiên, cảnh vật cũng là đề tài được nhiều thi sĩ lựa chọn. Trong đó có thể kể đến tác phẩm Thiên trường vãn vọng của Trần Nhân Tông.
Bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiền Trường trông ra được vua Trần Nhân Tông sáng tác trong một dịp về thăm lại kinh đô Thiên Trường ở Nam Định. Bằng đôi nét chấm phá, nhà vua - nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh đẹp huyền ảo, thơ mộng, lãng mạn về miền quê thôn dã, xứng đáng là một bức tranh đầy nghệ thuật vẽ cảnh chiều nơi thôn dã.
Cảnh chiều tà từ lâu đã trở thành nguồn cảm hứng cho các thi sĩ, bởi không gian buổi chiều tà thường gợi cho con người nhiều cảm xúc đặc biệt. Bà Huyện Thanh Quan miêu tả cảnh Đèo Ngang vào một buổi chiều tà:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá, đá chen hoa”
Hay nhân vật cô gái trong câu ca dao:
“Chiều chiều ra đứng ngõ sau
Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.”
Cô gái cũng nhớ gia đình vào thời gian đó. Cảnh chiều tà gợi lên trong tâm hồn thi sĩ nỗi suy tư về kiếp người ngắn ngủi, có khi lại gợi lên nỗi niềm nhớ nước, nhớ quê hương, có khi lại gợi lên sự đồng điệu trong tâm hồn thi sĩ với thiên nhiên, cảnh vật.
Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm của vua Trần Nhân Tông hiện lên nửa thực, nửa hư:
“Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên”
Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi tai liệu của nhung tây thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” - nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách ấn tượng về bức tranh đồng quê này:
“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.”
Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ Hạnh Thiên Trường hành cung (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):
“Cảnh thanh u, vật cũng thanh u
Mười mấy châu tiền ấy một châu
Trăm tiếng đàn chim, đàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự
Nước có thu lồng trời có thu
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua”.
Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài Hạnh Thiên Trường hành cung là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết Thiên Trường vãn vọng sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.
Bài thơ tứ tuyệt “Thiên Trường vãn vọng” là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế!
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 4)
Trần Nhân Tông (1258 - 1308) là ông vua anh hùng - thi sĩ của Đại Việt trong thế kỷ XIII. Thông minh, học rộng, có tài thao lược và rất tài hoa.
Tên tuổi nhà thơ gắn liền với những chiến công hiển hách của nhân dân trong hai cuộc kháng chiến lần thứ hai và lần thứ ba đánh thắng giặc Nguyên - Mông xâm lược.
Trong một số bài thơ chữ Hán của Trần Nhân Tông để lại có hai bài viết về Thiên Trường, mảnh đất "phát nghiệp đế vương" của nhà Trần: “Hạnh Thiên Trường hành cung" và "Thiên Trường vãn vọng".
Thiên Trường là một trong 12 lộ thời Trần, thuộc Sơn Nam; nay thuộc thành Nam Định. Thiên Trường vốn là Thái ấp của vua chúa nhà Trần, ở đây xưa không có nhiều cung điện nguy nga tráng lệ.
"Thiên Trường vãn vọng" được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt Đường luật (luật trắc, vần bằng). Bài thơ gợi tả cảnh xóm thôn, đồng quê vùng Thiên Trường qua cái nhìn và cảm xúc của Trần Nhân Tông, cảm xúc lắng đọng, cái nhìn man mác, bâng khuâng ôm trùm cảnh vật:
"Thôn hậu, thôn tiền, đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu, tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền"
Hơn 60 năm về trước, cụ Ngô Tất Tố đã dịch rất hay bài thơ này.
Hai câu thơ đầu gợi tả cảnh làng quê vùng Thiên Trường trong ánh chiều tàn. Bốn chữ "thôn Hậu thôn tiền" và "bán vô bán hữu" liên kết đôi, tạo nên sự cân xứng hài hòa về ngôn ngữ đã gợi lên cảnh xóm thôn nối tiếp gần xa, đông đúc, trù phú. Trong bóng chiều nhạt nhòa, xóm thôn "trước xóm sau thôn" phủ mờ khói như càng trở nên mơ màng, mênh mang. Khói của sương chiều. Khói lam chiều vấn vương, nhẹ bay trên những mái nhà gianh sau lũy tre làng.
Chỉ bằng 3 nét vẽ rất chọn lọc, lối tả ít mà gợi nhiều của thi pháp cổ, thi sĩ đã làm hiện lên một không gian nghệ thuật về cảnh sắc làng quê một buổi chiều tàn phủ mờ sương khói và ánh tà dương nơi yên bình, êm đềm, nên thơ. Nét vẽ thanh nhẹ. Cảnh vật bao la, tĩnh lặng. Ngoại cảnh và tâm cảnh đồng hiện. Tưởng như thi sĩ đang thả hồn mình vào cảnh vật, lặng ngắm thôn xóm quê hương gần xa không chán. So sánh "đạm tự yên" (mờ nhạt như không là một hình tượng đầy thi vị. Cả một hồn quê man mác gợi cảm):
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô, bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không).
Hai câu cuối là cảnh sắc đồng quê rất dân dã, bình dị, thân thuộc mà đáng yêu. Trên những nẻo đường quê, đàn trâu nối đuôi nhau về thôn. Có âm thanh tiếng sáo mục đồng cất lên, âm thanh réo rắt, hồn nhiên, thanh bình của làng quê ta xưa nay. Có từng đôi, từng đôi cò trắng bay liệng, nối tiếp nhau hạ xuống đồng. Nhà thơ không nói đến màu xanh và hương lúa mà người đọc vẫn cảm nhận được. Ngôn ngữ thơ, hình tượng thơ đầy gợi thanh và màu sắc, thanh tao và dào dạt sức sống. Bút pháp điểm nhãn, lấy động để tả tĩnh của tác giả được thể hiện một cách nhiều ấn tượng về bức tranh đồng quê này:
"Mục đồng địch lí ngưu quy tận"
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng).
Tình quê và hồn quê chan hòa, dào dạt. Thiên Trường thuở ấy, đường sá rầm rập ngựa xe, có biết bao cung điện của vua chúa, tôn thất nhà Trần, nhưng Trần Nhân Tông không nói đến lầu son gác tía, bệ ngọc ngai vàng tráng lệ nguy nga, mà chỉ nói đến cảnh sắc thiên nhiên, cảnh vật đồng quê. Điều đó cho thấy tâm hồn thi sĩ giàu tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương đất nước. Tính bình dị, dân dã, hồn nhiên là cốt cách, là hồn thơ của ông vua anh hùng - thi sĩ này. Cảm nhận ấy càng rõ khi ta đọc bài thơ "Hạnh Thiên Trường hành cung" (Ngự chơi hành cung Thiên Trường):
"Cảnh thanh u, vật cũng thanh u,
Mười mấy châu tiên ấy một châu.
Trăm tiếng đàn chim, dàn nhạc hát,
Nghìn hàng đám quýt, đám quân hầu.
Trăng vô sự chiếu người vô sự,
Nước có thu lồng Trời có thu.
Vừa bốn bể trong, vừa bụi lặng,
Độ xưa so với độ này thua"
Cảnh buổi chiều được nói đến trong bài ''Hạnh Thiên Trường hành cung" là cảnh chiều thu, đó là điều ai cũng rõ. Trong bài "Thiên Trường vãn vọng" là cảnh chiều xuân hay chiều thu? Rất khó xác định. Ta chỉ cảm nhận được đó là một buổi chiều êm đềm, xóm thôn phủ mờ sương khói tà dương. Không gian nghệ thuật và tâm trạng nghệ thuật đồng hiện cho ta khẳng định: Trần Nhân Tông viết "Thiên Trường vãn vọng" sau năm 1288, khi giặc Nguyên - Mông đã bị nhân dân ta đánh bại, nước Đại Việt thanh bình, yên vui.
Bài tứ tuyệt "Thiên Trường vãn vọng" là một bức tranh quê đậm nhạt, mờ sáng, rất đẹp và tràn đầy sức sống. Một bút pháp nghệ thuật cổ điển tài hoa. Một tâm hồn thanh cao, yêu đời. Tình yêu thiên nhiên, yêu đồng quê xứ sở đã được thể hiện bằng một số hình tượng đậm đà, ấm áp qua những nét vẽ tinh tế, gợi hình, gợi cảm, giàu liên tưởng. Kì diệu thay, bài thơ đã vượt qua một hành trình trên bảy trăm năm, đọc lên, nó vẫn cho ta nhiều thú vị. Ta vẫn cảm thấy cánh cò trắng được nói đến trong bài thơ vẫn còn bay trong ráng chiều đồng quê, và còn chấp chới trong hồn ta. Thơ đích thực là thế!
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 5)
Văn học Việt Nam thời trung đại (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) có nhiều tác phẩm biểu cảm, nổi bật là những bài thơ như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư. Trong đó, bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn sơn ca của Nguyễn Trãi là những ví dụ tiêu biểu. Qua hình ảnh thiên nhiên và con người, hai tác giả bày tỏ tình cảm chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên và hai tâm hồn thơ đều thể hiện tình yêu quê hương, đất nước, và lòng lạc quan rất đáng trân trọng.
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,”
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.”
Nhà văn Ngô Tất Tố đã dịch như sau:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,”
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.
Sau chiến thắng giặc Mông - Nguyên, vua Trần Nhân Tông về thăm quê ở Thiên Trường (nay thuộc Nam Định) và ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ viết theo thể Đường luật, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, thanh thoát. Bức tranh thôn dã lúc chiều tà, dần tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm yên bình, mờ ảo:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,”
Bóng chiều man mác có dường không.”
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, khói mờ nhạt, nửa có nửa không. Khói có thể là sương chiều hòa với khói từ các mái nhà tạo thành màn sương mờ. Cảnh vật và tâm trạng hòa quyện tự nhiên. Hai câu tiếp theo thêm âm thanh và chuyển động:
“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng.”
Bức tranh thôn dã thêm âm thanh và màu sắc. Mục đồng lùa trâu về, tiếng sáo vi vu, cò trắng sà xuống đồng tìm mồi. Con người và thiên nhiên hòa quyện tạo nên bức tranh quê thanh bình. Nhà thơ chọn chi tiết tiêu biểu, thổi hồn vào cảnh vật.
Cảnh vốn đẹp, qua tâm hồn người càng đẹp hơn. Miền quê rộng lớn thu trong bốn câu thơ hàm súc và biểu cảm. Cảnh tượng buổi chiều ở Thiên Trường là vùng quê yên ả với sự sống con người hòa quyện với thiên nhiên. Vua Trần Nhân Tông, dù ở địa vị cao, vẫn gắn bó với quê hương. Bài thơ góp phần làm sáng thêm “Hào khí Đông A” trong thơ văn thời Trần.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 6)
Tình yêu quê hương đất nước là một sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong nền văn học trung đại nói riêng và nền văn học Việt Nam nói chung. Tình yêu ấy không chỉ thể hiện ở việc khẳng định chủ quyền dân tộc, niềm tự hào về những chiến công và niềm hy vọng khát khao về một nền thái bình thịnh trị vĩnh hằng. Mà tình yêu quê hương đất nước còn thể hiện thông qua tình yêu của con người với vẻ đẹp của quê hương, gắn bó với quê hương. Điều ấy đã nhiều lần được bộc lộ trong các tác phẩm thơ ca của các tác giả nổi tiếng trong đó bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của vua Trần Nhân Tông là một ví dụ điển hình.
Trần Nhân Tông (1258-1308), tên thật là Trần Khâm, là con trưởng của vua Trần Thánh Tông. Ông là một vị vua yêu nước, anh hùng, khoan hòa, nhân ái, đã cùng với vua cha tham gia chống lại hai cuộc xâm lược của giặc Mông - Nguyên. Ngoài ra ông còn là một nhà văn hóa lớn, nhà thơ tiêu biểu của thời Trần, năm 1299, Trần Nhân Tông về thiền tu ở chùa Yên Tử, và trở thành vị tổ thứ nhất của thiền phái Trúc Lâm Yên Tử.
Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra được sáng tác vào dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở Thiên Trường (Nam Định ngày nay). Bài thơ được sáng tác theo thể thất ngôn tứ tuyệt. Nhan đề "Thiên Trường vãn vọng" cho chúng ta thấy được không gian, thời gian và vị trí quan sát để tác giả thả hồn mình bộc lộ những cảm xúc sâu kín từ trong tâm hồn tác giả. Không chỉ vậy nó còn thể hiện sự gắn bó, thân thuộc, cảm giác yên bình thư thái, và vẻ đẹp bao quát của quê hương tác giả, cho ta thấy một phần nội dung của tác phẩm chính là sự gắn bó tha thiết với quê hương đất nước, niềm vui niềm sung sướng khi nhìn cảnh thanh bình của đất nước.
"Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên"
Hai câu câu thơ đầu tiên đã dựng lên một bối cảnh không gian làng quê được bao phủ bởi khói chiều, với mốc thời gian là buổi chiều buông. Trong đó khoảng thời gian buổi chiều là một khoảng thời gian rất đắt giá trong văn học trung đại, cũng như văn học nói chung. Nguyên do bởi nó thường đem đến cho con người những cảm xúc đặc sắc, khơi gợi trong tâm hồn những nỗi xúc động sâu sắc, đặc biệt là với những con người xa quê cha đất tổ lâu ngày. Thường bóng chiều, hay hoàng hôn lịm tắt, mây tím ráng chiều thường đem đến những nỗi buồn man mác trong lòng người, thế nhưng khác với lẽ thường trong bài thơ Thiên trường vãn vọng, buổi chiều tàn lại đem đến cho người đọc những xúc cảm mới lạ, là sự an yên, bình lặng của cuộc sống nơi làng quê. Kết hợp với bóng chiều chính là làn khói tỏa mờ, bao phủ trước xóm sau thôn, đó có thể là sương khói do thời tiết, nhưng có lẽ trong tác phẩm này khói mà tác giả muốn nhắc đến chính là thứ khói bếp màu xanh bốc lên từ bếp lửa của những ngôi nhà trong thôn xóm. Ấy là ánh lửa nổi lên nấu bữa cơm chiều của mỗi gia đình, đơn sơ giản dị nhưng lại mang lại cảm giác ấm áp, thanh bình, thể hiện đời sống an cư lạc nghiệp của nhân dân, sau một ngày lao động vất vả ta lại về quây quần bên bếp lửa nấu bữa cơm rau. Như vậy có thể thấy rằng cảnh vật trong hai câu thơ đầu hiện lên là một cảnh tĩnh, được bao phủ bởi bóng chiều và khói bếp, đem đến vẻ hư ảo, nửa thực nửa hư, tạo nên cho con người cảm xúc lâng lâng, say đắm lòng người. Từ đó có thể thấy thái độ của tác giả trước dáng vẻ của quê hương chính là sự gắn bó, cảm nhận tinh tế, sâu sắc cùng với dáng vẻ thư thái, tự tại trước không gian rộng lớn, giản dị của quê hương.
"Mục đồng địch lý ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền"
Nếu như hai câu thơ đầu cảnh vật hiện lên là cảnh tĩnh, bóng chiều hòa quyện cùng với làn khói hư ảo, thì đến hai câu thơ sau ta thấy tác giả đã chuyển sang miêu tả cảnh vật và con người ở trạng thái động. Với sự xuất hiện của hình ảnh mục đồng dắt trâu về và hình ảnh những con cò trắng từng đôi từng một hạ cánh xuống cánh đồng. Bên cạnh đó còn có âm thanh của tiếng sáo bảy lỗ, kết hợp với gam màu trắng muốt của cánh cò. Từng hình ảnh, âm thanh, màu sắc kể trên đều là những thứ rất đỗi thân thuộc với làng quê, đặc biệt hình ảnh con trâu lại là bằng chứng sống cho sự thanh bình của đất nước, bởi con trâu là đầu cơ nghiệp, mà trong bài thơ người ta có thể tưởng tượng ra dáng vẻ đủng đỉnh của những chú trâu đang thủng thẳng chậm rãi bước về nhà cùng với lũ trẻ mục đồng. Thể hiện vẻ yên bình, đất nước đã sạch bóng quân thù trở về với dáng vẻ an yên, giản dị, đơn sơ và ấm áp. Bên cạnh đó hình ảnh từng đôi cò trắng hạ xuống đồng chính là biểu trưng cho tình yêu đôi lứa, sự sinh sôi nảy nở dòng giống của dân tộc, cũng như cuộc sống gia đình hạnh phúc, vợ chồng sóng đôi cùng gây dựng tương lai cho quê hương cho đất nước. Điều đó thể hiện sự phát triển vững bền của dân tộc xuất phát từ chính những làng quê nhỏ bé, chân chất, bởi gia đình chính là tế bào của xã hội.
Như vậy bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông dẫu chỉ được xây dựng bằng những hình ảnh và từ ngữ dung dị, bình thường của làng quê Việt Nam lúc bấy giờ. Thế nhưng sâu trong đó nó lại thể hiện sâu sắc tình cảm gắn bó, thân thuộc, tấm lòng yêu quê hương đất nước, khát khao cuộc sống hòa bình an yên cho nhân dân và nỗi lòng vui sướng trước viễn cảnh thanh bình, trầm lắng của quê hương với khói bếp, với đàn trâu, cánh cò của tác giả.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 7)
Trong văn học trung đại bên cạnh đề tài thể hiện tình yêu đất nước, tự hào về truyền thống anh hùng của dân tộc thì còn có những bài thơ thể hiện tình yêu thiên nhiên, yêu cảnh vật. Tình cảm đó được thể hiện rõ nét trong bài thơ Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra của Trần Nhân Tông.
Bài thơ được viết trong dịp Trần Nhân Tông về thăm quê cũ ở phủ Thiên Trường. Bởi vậy cả bài thơ đầy ắp nỗi nhớ, tình yêu quê hương. Lời thơ mở đầu tả cảnh chiều hôm:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Cảnh vật hiện ra không rõ nét, nửa hư nửa thực, mờ ảo. Đó là cảnh chiều muộn cảnh vật nhạt nhòa trong sương, thể hiện vẻ đẹp mơ màng, yên tĩnh nơi thôn dã. Cảnh đó một phần là thực một phần do cảm nhận riêng của tác giả. Khung cảnh vừa như thực lại vừa như cõi mộng “bán vô bán hữu” – nửa như có nửa như không. Thời gian buổi chiều gợi nên nỗi buồn man mác, không gian làng quê im ắng, tĩnh mịch. Điều đó cho thấy một tâm hồn tinh tế nhạy cảm trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Âm thanh tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên đầy sức sống. Chiều về , ngoài đồng, những con trâu theo tiếng sáo của trẻ con mà về, khung cảnh thật yên bình, đẹp đẽ. Màu trắng của từng đôi cò liệng xuống đồng cũng làm không gian bớt phần quạnh hiu. Bức tranh được tác giả cảm nhận bằng nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của những cánh cò; thính giác – âm thanh tiếng sáo du dương, trầm bổng của những đứa trẻ đi chăn trâu. Nếu như ở hai dòng thơ đầu, cảnh vật tịch mịch, tĩnh lặng không xuất hiện bất cứ chuyển động nào thì đến hai câu thơ cuối khung cảnh trở nên sinh động nhờ xuất hiện âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” làm cho không gian được mở ra, trở nên thoáng đãng, cao rộng, trong sạch, yên ả. Qua đó còn cho thấy sự hài hòa giữa con người với thiên nhiên, đem lại cảm giác thân quen, gần gũi.
Bài thơ có sự kết hợp tiểu đối và điệp ngữ một cách sáng tạo. Nhịp thơ êm ái hài hòa, giọng điệu tha thiết thể hiện tình yêu quê hương sâu nặng. Sử dụng ngôn ngữ miêu tả đậm chất hội họa. Đó là bức tranh phong cảnh làng quê quen thuộc ở bất cứ vùng đất nào của nước ta, chỉ bằng vài ba nét phác họa nhưng cho thấy một bức tranh thật thanh bình, yên ả.
Sử dụng lớp ngôn ngữ giàu chất biểu cảm và hội họa tác giả đã vẽ lên bức tranh làng quê trầm lặng mà không quạnh vắng. Bức tranh thiên nhiên, cuộc sống thật đẹp đẽ, hài hòa, nên thơ. Qua bài thơ còn cho thấy tình yêu quê hương sâu nặng của tác giả.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 8)
Nền văn học Việt Nam trong thời trung đại (từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX), cùng với những bài thơ biểu ý như Nam quốc sơn hà, Tụng giá hoàn kinh sư, cha ông ta đã sáng tác khá nhiều tác phẩm biểu cảm. “Để biểu cảm, người viết biến đồ vật, cảnh vật, sự việc, con người... thành hình ảnh bộc lộ tình cảm của mình”. Bài thơ Thiên Trường vãn vọng của Trần Nhân Tông và Côn sơn ca của Nguyễn Trãi chính là hai văn bản như thế.
Qua bức tranh cảnh vật và con người, hai tác giả đã bộc lộ những tình cảm thật chân thành của mình. Hai bức tranh thiên nhiên, hai hồn thơ thắm thiết tình yêu quê hương, đất nước, niềm lạc quan, yêu đời, rất đáng trân trọng.
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,
Bán vô bán hữu tịch dương biên.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận,
Bạch lộ song song phi hạ điền”.
Nhà văn Ngô Tất Tố dịch là:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không
Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
Tương truyền, sau khi lãnh đạo quân dân ta chiến đấu chống giặc Mông - Nguyên thắng lợi, đất nước trở lại thanh bình, nhân dịp về thăm quê hương ở Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay), vua Trần Nhân Tông đã ngẫu hứng sáng tác bài thơ này. Bài thơ được viết theo thể thơ Đường, thất ngôn tứ tuyệt, âm điệu hài hòa, nhẹ nhàng, thanh thoát. Đây là bức tranh thôn dã vào lúc chiều tà, đang ngả dần về tối. Hai câu đầu tả cảnh làng xóm mơ màng, yên ả:
“Trước xóm sau thôn tựa khói lồng,
Bóng chiều man mác có dường không”.
Thôn xóm, nhà tranh mái rạ nối nhau, sum vầy phía trước, phía sau, bốn bề san sát, khói phủ nhạt nhòa, mờ tỏ, “bán vô bán hữu” nửa như có, nửa như không. Khói tỏa từ đâu ra thế? Phải chăng, đó là những làn sương chiều lãng đãng hòa quyện với những vầng khói thổi cơm ngay từ những mái nhà lan tỏa thành một màn sương - khói trắng mờ, êm dịu bay nhẹ nhàng thanh thản khiến người ngắm cảnh cảm thấy chỗ tỏ, chỗ mờ, lúc có, lúc không. Cảnh thoáng, nhẹ, khiến tâm hồn con người cũng như lâng lâng. Hay chính lòng người đang lâng lâng, mơ mộng nên nhìn thấy làng xóm, khói sương êm ả, thanh bình như thế? Ngoại cảnh và tâm cảnh hòa hợp rất tự nhiên. Xuống hai câu sau, trong cảnh có chút xao động:
“Mục đồng sáo vẳng trâu về hết,
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng”.
Bức tranh thôn dã có thêm âm thanh, màu sắc và vài ba cử động. Nơi gần, có mấy “mục đồng” lùa trâu về xóm, vừa đi vừa thổi sáo, tiếng sáo vi vu, văng vẳng cất lên. Nơi xa, mấy cánh cò trắng, từng đôi, từng đôi sà xuống đồng như muôn tìm mồi, hay định nghỉ ngơi! Người và vật, thiên nhiên, đồng ruộng, âm thanh và màu sắc..., tất cả đã hòa nhập với nhau vẽ nên bức tranh quê hương thanh bình, êm vắng mà thật có hồn. Nhà thơ chỉ chọn vài chi tiết tiêu biểu, rồi chấm phá vài nét như muốn thổi cả tâm hồn mình vào cảnh vật.
Cảnh vốn đẹp, qua hồn người càng đẹp thêm. Cả một miền quê rộng lớn được thu lại trong bốn dòng thơ hàm súc và biểu cảm. Rõ ràng cảnh tượng buổi chiều ở phủ Thiên Trường là cảnh tượng vùng quê trầm lặng mà không đìu hiu vì ở đây vẫn có sự sống con người trong mối giao hòa với cảnh vật thiên nhiên rất đỗi nên thơ. Một ông vua mà sáng tác những vần thơ gợi cảm như thế chứng tỏ đây là con người tuy có địa vị tối cao, nhưng tâm hồn vẫn gắn bó máu thịt với quê hương thôn dã.
Nói khác đi, qua bài thơ Thiên Trường vãn vọng, vua Trần Nhân Tông đã bộc lộ tình yêu quê hương, tình yêu nhân dân, yêu đời trong sáng. Điều đó cũng chứng tỏ, ở thời đại nhà Trần, dân tộc ta, nhân dân ta sống rất cao đẹp. Bài thơ của Trần Nhân Tông góp thêm một vầng sáng nữa vào “Hào khí Đông A” của thơ văn đời Trần.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 9)
Khung cảnh chiều tà từ lâu đã là đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà thơ, vì nó thường gợi cho con người những cảm xúc sâu lắng. Chiều tà có thể khiến ta suy ngẫm về sự ngắn ngủi của kiếp người, nỗi nhớ quê hương, hoặc sự hòa quyện giữa tâm hồn thi sĩ và thiên nhiên. Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” của vua Trần Nhân Tông chính là sự kết hợp hài hòa giữa tâm trạng nhà thơ và cảnh vật thôn quê. Mở đầu bài thơ là hình ảnh làng quê trong ánh chiều tà mơ màng và yên bình:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
(Trước xóm sau thôn tựa khói lồng
Bóng chiều man mác có dường không)
Đây là một bức tranh yên tĩnh và thanh bình! Khi hoàng hôn buông xuống từ phủ Thiên Trường, cảnh thôn xóm dần mờ trong lớp khói phủ. Khói này có thể là sương chiều hòa quyện với khói từ những mái bếp thơm mùi cơm. Từ góc nhìn cao, nhà thơ quan sát cả “trước xóm” và “sau thôn”, tạo nên không gian mơ mộng. Cảnh vật lúc hoàng hôn trở nên huyền bí, có vẻ như có mà như không. Cảnh vật thanh bình khiến tâm hồn con người cũng trở nên mơ hồ, như bước vào cõi mộng. Có lẽ lòng người đang xao xuyến, nên cảnh làng xóm và khói sương hiện lên êm đềm như thế?
Trong hai câu đầu tiên, nhà thơ đưa người đọc vào một thế giới quen thuộc nhưng đầy huyễn hoặc với những từ ngữ gợi sự mơ màng. Ở hai câu sau, Trần Nhân Tông tiếp tục vẽ thêm cho bức tranh làng quê bằng những nét thực hơn, mô tả nhịp sống của người dân và động vật:
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
(Mục đồng sáo vẳng trâu về hết
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)
Sự tĩnh lặng của cảnh vật và lòng người được khuấy động bởi tiếng sáo của mục đồng. Bức tranh thôn dã thêm âm thanh và màu sắc. Mục đồng lùa trâu về, tiếng sáo vang vọng, tạo cảm giác thư thái. Xa xa, cò trắng bay liệng và hạ xuống đồng. Đây là hình ảnh đặc trưng của làng quê Việt Nam. Con người và thiên nhiên hòa quyện, tạo nên bức tranh quê yên bình và sống động. Nhà thơ chọn chi tiết tiêu biểu để thổi hồn vào cảnh vật, làm cho cảnh vật trở nên đẹp hơn qua tâm trạng con người.
Hai câu thơ cuối, với những nét chấm phá, vẽ ra một vùng quê yên bình và thơ mộng với con người giản dị. Bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” khắc họa bức tranh phong cảnh làng quê với sự kết hợp của cái thực và cái mờ ảo, không thể thiếu bóng dáng con người. Con người làm cho bức tranh quê thêm sống động. Dù vua thường ở chốn cung đình, Trần Nhân Tông vẫn vẽ được bức tranh sắc quê, hồn quê. Điều đó chứng tỏ vua đã gắn bó và yêu mến làng quê, giúp phát hiện vẻ đẹp trong không gian bình dị. Bài thơ thể hiện tình yêu mãnh liệt của nhà vua đối với quê hương, khiến ta càng thêm quý trọng và ngưỡng mộ ông.
Phân tích bài thơ Thiên Trường vãn vọng (mẫu 10)
Trong văn học trung đại, ngoài những tác phẩm thể hiện tình yêu đất nước và tự hào về truyền thống anh hùng, còn có những bài thơ ca ngợi tình yêu thiên nhiên và cảnh vật. Tình cảm ấy được thể hiện rõ ràng trong bài thơ “Buổi chiều đứng ở phủ Thiên Trường trông ra” của Trần Nhân Tông.
Bài thơ được viết trong chuyến thăm quê của Trần Nhân Tông tại phủ Thiên Trường, vì vậy, toàn bài thơ tràn ngập nỗi nhớ và tình yêu quê hương. Những câu thơ mở đầu miêu tả cảnh chiều tà:
Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Cảnh vật hiện lên mơ hồ, nửa thực nửa ảo, như bị mờ trong sương. Đó là cảnh chiều muộn với vẻ đẹp thanh bình và huyền bí của thôn dã. Cảnh tượng này vừa thực lại vừa mơ mộng với sự mờ ảo “bán vô bán hữu” – như có mà như không. Thời gian buổi chiều tạo nên cảm giác buồn man mác, không gian làng quê tĩnh lặng. Điều này cho thấy tâm hồn nhạy cảm và tinh tế của tác giả trước vẻ đẹp giản dị của cuộc sống.
Mục đồng địch lí ngưu quy tận
Bạch lộ song song phi hạ điền
Âm thanh của tiếng sáo làm cho bức tranh trở nên sống động. Chiều đến, những con trâu trở về theo tiếng sáo của trẻ con, khung cảnh thật yên bình và đẹp đẽ. Màu trắng của những đôi cò bay xuống đồng cũng làm giảm sự vắng lặng. Bức tranh được tác giả cảm nhận qua nhiều giác quan: thị giác – sắc trắng tinh khôi của cánh cò; thính giác – âm thanh du dương của tiếng sáo từ những đứa trẻ chăn trâu. Nếu hai câu đầu tiên thể hiện sự tĩnh mịch và im lặng, thì hai câu sau làm cho cảnh vật thêm sinh động với âm thanh và hoạt động của sự vật. Hình ảnh “cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” mở rộng không gian, làm cho cảnh vật trở nên thoáng đãng, trong sạch và yên ả. Điều này cho thấy sự hòa hợp giữa con người và thiên nhiên, mang lại cảm giác gần gũi và thân quen.
Bài thơ sử dụng tiểu đối và điệp ngữ một cách sáng tạo. Nhịp thơ êm ái, giọng điệu tha thiết thể hiện tình yêu quê hương sâu sắc. Ngôn ngữ miêu tả mang đậm chất hội họa. Bức tranh phong cảnh làng quê được vẽ lên qua vài nét phác họa nhưng hiện lên thật thanh bình và yên ả.
Với ngôn ngữ giàu biểu cảm và hội họa, tác giả đã tạo ra bức tranh làng quê trầm lắng mà không vắng vẻ. Cảnh vật và cuộc sống hiện lên đẹp đẽ, hài hòa và nên thơ. Bài thơ còn thể hiện tình yêu sâu nặng của tác giả đối với quê hương.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non (2024) theo Thông tư 12
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên tiểu học (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THCS (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT (2024)