TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 20 15/01/2025


Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam của Lê Anh Xuân.

Dàn ý Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam

I. Mở bài

Giới thiệu khái quát về tác giả Lê Anh Xuân và bài thơ "Dáng đứng Việt Nam".

Nêu cảm nhận chung về bài thơ và chủ đề chính của tác phẩm.

II. Thân bài

Phân tích nội dung bài thơ

  • Hình ảnh người chiến sĩ:

Hình ảnh người chiến sĩ hy sinh: Từ việc ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt đến việc đứng dậy bắn súng, hình ảnh này thể hiện sự dũng cảm, kiên cường của người chiến sĩ.

Hình ảnh máu và lửa: Máu phun theo lửa đạn cầu vồng biểu hiện sự hy sinh cao cả, sự kết hợp giữa đau thương và vinh quang.

  • Sự hùng dũng và bền bỉ:

Giặc hốt hoảng và xin hàng: Hình ảnh này chứng minh sức mạnh tinh thần và sự kiên cường của người chiến sĩ làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.

Dáng đứng của anh: Không chỉ là hình ảnh mà còn là biểu tượng của lòng dũng cảm, sự kiên cường, và tình yêu nước.

  • Những đặc điểm và dấu ấn riêng của người chiến sĩ:

Không để lại dấu tích cá nhân: Anh không để lại hình ảnh hay địa chỉ, chỉ để lại "dáng đứng" của người chiến sĩ.

Tầm quan trọng và giá trị của "dáng đứng": Dáng đứng này không chỉ là một biểu tượng cá nhân mà còn là một biểu tượng của cả dân tộc và lịch sử.

Cảm nhận về hình ảnh và ngôn từ

  • Hình ảnh bức thành đồng: Biểu thị sự vững chãi và kiên cường không lay chuyển.

  • Hình ảnh đôi dép: Mang ý nghĩa bình dị nhưng vững chắc, gợi lên sự liên kết giữa chiến sĩ và nhân dân.

  • Sự tôn vinh và tự hào: Bài thơ khắc họa sự tôn vinh và tự hào về người chiến sĩ, khẳng định vị thế và đóng góp của họ trong lịch sử dân tộc.

Chủ đề và thông điệp của bài thơ

  • Lòng dũng cảm và sự hy sinh: Bài thơ ca ngợi sự dũng cảm và hy sinh của người chiến sĩ, thể hiện rõ ràng lòng yêu nước và tinh thần chiến đấu.

  • Tính dân tộc và lịch sử: Dáng đứng của người chiến sĩ là biểu tượng của lòng yêu nước và khát vọng giải phóng dân tộc, thể hiện sức mạnh và sự vươn lên của Tổ quốc.

III. Kết bài

Tổng kết cảm nhận: Khẳng định giá trị và ý nghĩa của bài thơ trong việc tôn vinh và ghi nhớ sự hy sinh của các chiến sĩ.

Liên hệ với hiện tại: Nêu lên ý nghĩa của bài thơ trong việc khơi gợi lòng tự hào dân tộc và ý thức trách nhiệm của thế hệ hôm nay.Trải qua những thời kỳ chiến tranh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền cho dân tộc, những người tiền bối của chúng ta đã trở thành những tấm bia anh hùng của dân tộc, để lại di sản vô song cho muôn đời sau. Đối mặt với những gian khổ của những người lính, nhiều nhà thơ đã sáng tác những tác phẩm bất hủ để tôn vinh công lao của họ. Trong số đó, bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân là một biểu tượng nổi bật.

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (mẫu 1)

Lê Anh Xuân thuộc thế hệ nhà thơ trưởng thành trong máu lửa đấu tranh ở miền Nam. Trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, anh đã để lại thi phẩm tiêu biểu “Dáng đứng Việt Nam” từng khắc tạc vào lòng bao thế hệ.

“Dáng đứng Việt Nam” đúng như tên gọi của bài thơ, tác giả đã chớp được, bắt được hình ảnh thật tuyệt vời của người chiến sỹ anh hùng trong cuộc Tổng tiến công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968. Chỉ mấy câu đầu thôi mà hình ảnh người chiến sĩ ấy đã hiện lên thật oai hùng:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Người chiến sĩ giải phóng đã trúng đạn khi đang ôm súng truy đuổi giặc trên sân bay. Trúng đạn, trong khoảnh khắc “anh ngã xuống”, anh biết mình không đủ sức nâng khẩu súng, anh đã dùng ngay xác trực thăng giặc làm chỗ dựa, làm bệ tỳ để bắn tiếp. Khí thế oai hùng quyết chiến đó khiến bao tên giặc hoảng hốt tột cùng:

Chợt thấy Anh giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tấn công.

Sự quả cảm của anh khiến bao người nể phục. Hành trang anh để lại trước lúc đi xa chỉ có đôi dép vẫn “một màu bình dị sáng trong”. Nét phi thường hòa trong những gì bình thường nhất. Đôi dép anh mang trong ngày tử trận cũng đơn sơ, giản dị như chính cuộc đời anh vậy:

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ

Điệp từ “không” nhấn mạnh phẩm chất cao cả của một người lính dũng cảm. Một sự xả thân không hề tính toán vụ lợi, vì vậy “tên anh đã thành tên đất nước”, máu anh đã hoà trong máu của đồng đội tô thắm màu cờ Tổ quốc Việt, để cho hôm nay “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Dáng đứng của anh và cuộc đấu tranh sôi sục của nhân dân miền Nam đã “tạc” vào lịch sử một dấu son chói lọi. Sự ra đi của người chiến sĩ trên đường băng Tân Sơn Nhất năm nào là bệ phóng đưa đất nước lên tầm cao mới.

Tổ quốc hôm nay đang bay lên trong mùa xuân mới: Mùa xuân của hoà bình, hợp tác và hữu nghị. Thắng lợi của ngày nay được vun trồng bởi máu xương của biết bao thế hệ cha anh hôm qua. Trong những ngày tháng Tư lịch sử này, bài thơ như lời nhắc nhở thế hệ trẻ phải luôn nỗ lực học tập, làm việc, cống hiến cho đất nước, đáp đền công ơn những người đã ngã xuống cho bầu trời Tổ quốc thêm xanh.

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (mẫu 2)

Dáng đứng Việt Nam là thi phẩm cuối cùng của nhà thơ - chiến sĩ Lê Anh Xuân, được viết tháng 3/1968 trong những ngày khói lửa của cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân. Tác giả hi sinh hai tháng sau đó tại vùng phụ cận Sài Gòn vào lúc tuổi đời còn rất trẻ, để lại mùa xuân của cuộc đời cho mùa xuân đất nước.

Nhà thơ Lê Anh Xuân (tên thật là Ca Lê Hiến) sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước tại Bến Tre, năm 14 tuổi theo gia đình tập kết ra Bắc, học phổ thông sau đó học khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục, sau chuyển về Hội Văn nghệ Giải phóng. Tốt nghiệp ngành Sử học, nhưng Lê Anh Xuân rất yêu thơ và sáng tác khá nhiều, từng được giải Nhì cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Những vần thơ nồng đượm tình yêu đất nước, quê hương, ngập tràn lí tưởng cách mạng và vững vàng một niềm tin chiến thắng của Lê Anh Xuân đã trở thành những giai điệu nằm lòng một thời của nhiều thế hệ trẻ. Tuy nhiên, bài thơ được bạn đọc biết đến nhiều nhất vẫn là Dáng đứng Việt Nam - khúc tráng ca về một Việt Nam kiêu hùng, bất khuất.

Viết về sự hi sinh của người lính trong cuộc chiến đấu, nhưng bao trùm lên Dáng đứng Việt Nam không phải là âm hưởng bi thương của nỗi đau và sự mất mát mà vượt lên trên, bài thơ tôn vinh cái đẹp và sự cao cả, trở thành biểu tượng chiến thắng của lí tưởng cách mạng. Hình ảnh người chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất với tư thế hiên ngang, lẫm liệt trong Dáng đứng Việt Nam đã trở thành một bức tượng đài đầy tính biểu cảm:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Hình ảnh bi tráng về tư thế hi sinh của người chiến sĩ giải phóng quân đã làm cho quân giặc vô cùng khiếp sợ:

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công.

Việc kết hợp hai phạm trù thẩm mĩ tương phản trong cùng một khổ thơ đã tạo cho tác phẩm sức gợi tả đặc biệt, đó là sự đốì lập giữa tư thế hiên ngang của người chiến sĩ giải phóng quân và nỗi đớn hèn, khiếp sợ của giặc Mĩ. Những câu thơ được viết lên bằng một trường liên tưởng hết sức mãnh liệt của tác giả khiến hình ảnh người chiến sỹ giải phóng quân trở nên lớn lao và kì vỹ.

Thơ Lê Anh Xuân rất có ý thức khái quát, đặc biệt là "khái quát về những phẩm chất cao đẹp của dân tộc", bài thơ Dáng đứng Việt Nam là một minh chứng cho điều này, đặc biệt ở khổ cuối:

Anh tên gi hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức tường đồng

Như đôi dép dưới chân Anh dẫm lên bao xác Mĩ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ:

Anh là chiến sỹ giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

Với những câu thơ mang đầy cảm xúc sử thi và chất trữ tình đậm đà, tư thế hi sinh của người chiến sĩ đã trở biểu tượng của cái đẹp và sự cao cả, hình ảnh của anh là hình ảnh của những thế hệ tuổi trẻ Việt Nam rùng rùng ra trận với niềm tin lớn lao mãnh liệt về một ngày độc lập tự do của đất nước. Nhiều người đã ngã xuống, và cũng như người chiến sĩ giải phóng quân kia, họ không để lại tuổi tên, địa chỉ, nhưng họ không bao giờ vô danh trong trái tim dân tộc, bởi thân thể và máu xương của họ đã hòa vào đất mẹ, làm nên dáng hình của đất nước, tạo dựng một Dáng đứng Việt Nam sừng sững trong thế kỉ.

Lê Anh Xuân hi sinh trong chiến dịch Mậu Thân nãm 1968 khi chưa kịp chứng kiến mùa xuân thắng lợi, khi chưa kịp thấy những điều anh mong đợi - "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" - đã trở thành sự thực vào năm 1975. Nhưng những vần thơ của người chiến sĩ - nhà thơ ấy vẫn sông mãi, trở thành một khúc tráng ca vượt qua năm tháng để gửi tới muôn thế hệ những khoảnh khắc lịch sử về một mùa xuân bất diệt của dân tộc.

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (mẫu 3)

Dáng đứng Việt Nam là tác phẩm cuối cùng của nhà thơ – chiến sĩ Lê Anh Xuân, được sáng tác tháng 3/1968 trong những ngày khói lửa của cuộc Tổng tiến công mùa xuân Mậu Thân. Tác giả hy sinh hai tháng sau đó tại vùng phụ cận Sài Gòn khi còn rất trẻ, để lại mùa xuân của cuộc đời cho mùa xuân đất nước.

Nhà thơ Lê Anh Xuân (tên thật là Ca Lê Hiến) sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước tại Bến Tre, năm 14 tuổi theo gia đình tập kết ra Bắc, học phổ thông sau đó học khoa Sử trường Đại học Tổng hợp Hà Nội. Cuối năm 1964, Lê Anh Xuân trở về chiến trường miền Nam, công tác ở Tiểu ban Giáo dục, sau chuyển về Hội Văn nghệ Giải phóng.

Tốt nghiệp ngành Sử học, nhưng Lê Anh Xuân rất yêu thơ và sáng tác khá nhiều, từng đoạt giải Nhì cuộc thi thơ do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức. Những bài thơ nồng đượm tình yêu đất nước, quê hương, ngập tràn lí tưởng cách mạng và vững vàng niềm tin chiến thắng của Lê Anh Xuân đã trở thành những giai điệu nằm lòng một thời của nhiều thế hệ trẻ. Tuy nhiên, đoạn văn được độc giả biết đến nhiều nhất vẫn là Dáng đứng Việt Nam – bức tranh về một Việt Nam kiêu hùng, bất khuất.

Viết về sự hi sinh của lính trong chiến đấu, nhưng bao phủ Dáng đứng Việt Nam không chỉ là âm hưởng bi thương của nỗi đau và mất mát, mà còn là sự tôn vinh cái đẹp và sự cao cả, trở thành biểu tượng chiến thắng của lí tưởng cách mạng. Hình ảnh chiến sĩ giải phóng quân hi sinh trên sân bay Tân Sơn Nhất với tư thế hiên ngang, lẫm liệt trong Dáng đứng Việt Nam đã trở thành một tượng đài đầy biểu cảm:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Hình ảnh bi tráng về tư thế hi sinh của chiến sĩ giải phóng quân đã làm cho quân địch vô cùng kinh hãi:

Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đoàng hoàng nổ súng tiến công.

Việc kết hợp hai phạm trù thẩm mĩ tương phản trong cùng một đoạn thơ đã tạo nên tác phẩm đặc biệt, là sự đối lập giữa tư thế hiên ngang của chiến sĩ giải phóng quân và nỗi đớn hèn, kinh hãi của địch Mĩ. Những câu thơ được viết bằng một trường liên tưởng hết sức mãnh liệt của tác giả khiến hình ảnh chiến sĩ giải phóng quân trở nên lớn lao và tráng lệ.

Thơ Lê Anh Xuân rất sâu sắc về “những phẩm chất cao đẹp của dân tộc”, và đoạn thơ Dáng đứng Việt Nam là một minh chứng cho điều này, đặc biệt ở cuối đoạn thơ:

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

…..

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân.

Với những câu thơ mang đầy cảm xúc sử thi và chất trữ tình đậm đà, tư thế hi sinh của chiến sĩ đã trở thành biểu tượng của cái đẹp và sự cao cả, hình ảnh của anh là hình ảnh của những thế hệ trẻ Việt Nam hùng dũng ra trận với niềm tin lớn lao và mạnh mẽ về một ngày độc lập tự do của đất nước.

Nhiều người đã ngã xuống, và cũng như chiến sĩ giải phóng quân kia, họ không để lại tuổi tên, địa chỉ, nhưng họ không bao giờ vô danh trong trái tim dân tộc, vì thân thể và máu xương của họ đã hòa vào đất mẹ, làm nên hình ảnh của đất nước, tạo dựng nên Dáng đứng Việt Nam vững mạnh trong thế kỷ.

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (mẫu 4)

Trải qua những thời kỳ chiến tranh gian khổ để bảo vệ độc lập chủ quyền cho dân tộc, những người tiền bối của chúng ta đã trở thành những tấm bia anh hùng của dân tộc, để lại di sản vô song cho muôn đời sau. Đối mặt với những gian khổ của những người lính, nhiều nhà thơ đã sáng tác những tác phẩm bất hủ để tôn vinh công lao của họ. Trong số đó, bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân là một biểu tượng nổi bật.

“Dáng đứng Việt Nam” không chỉ là một bài thơ tiêu biểu về người lính trong thời kỳ kháng chiến, mà còn là nguồn cảm hứng bất tận cho các nhà thơ yêu nước khác. Bài thơ đưa chúng ta quay trở lại những ngày chiến đấu ác liệt, nồng thắm, khiến chúng ta hiểu rõ hơn và tự hào hơn về tinh thần chiến đấu anh dũng của những chiến sĩ oai hùng.

Bốn câu đầu tiên đã mô tả rõ hình ảnh của người lính hiện lên với vẻ oai phong, lừng lẫy:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Mặc dù đã kiệt sức, ngã xuống trước cảnh chiến trường đầy khốc liệt, vì bom đạn nổ trên đường băng Tân Sơn Nhứt. Nhưng tinh thần sắt đá và tình yêu nước đã dẫn dắt người lính vùng dậy bằng những tia sáng cuối cùng để nâng súng lên trên xác trực thăng, tiếp tục hành trình chiến đấu.

Anh hùng ra đi giữa mưa lửa đạn. Mỗi tên địch ngã xuống là mỗi giọt máu của anh, anh đã đánh đổi tất cả, gửi hết trái tim mình vào chiến trường với niềm hy vọng đất nước sẽ độc lập, con cháu sẽ hạnh phúc và ấm no.

Ý chí anh hùng, tinh thần lừng lẫy đó của anh đã làm kinh sợ kẻ thù:

Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Vì Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Cho dù giặc có mạnh đến đâu, họ cũng phải đầu hàng trước ý chí bất khuất của chiến sĩ Việt Nam. Anh hùng ra đi nhưng tâm hồn anh vẫn còn đó, thêm động lực cho những đồng đội trên chiến trường, tạo ra nỗi kinh ngạc cho kẻ thù. Anh hùng ra đi nhưng tinh thần dũng cảm vẫn tồn tại, làm nên bảng anh hùng cho đồng đội nổ súng tiến công. Anh hùng ra đi nhưng công lao của anh vẫn được khắc sâu trong ký ức muôn đời.

Tác giả Lê Anh Xuân đã thành công trong việc vẽ nên bức tượng người lính giải phóng quân kiên trung, bất khuất. Suốt hàng nghìn năm lịch sử, dù đất nước có trải qua những thay đổi, phát triển đến đâu, những tên anh hùng ấy vẫn là bức tượng đài quý giá của dân tộc. Chính họ đã xây dựng dáng đứng oai hùng của Việt Nam.

Anh tên gì hỡi anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như một tượng đồng

Như đôi dép dưới chân anh, bước lên hồn xác Mỹ

Mà vẫn giữ được vẻ đẹp bình dị, tinh khôi

Không một bức hình, không một dòng địa chỉ

Trước khi bắt đầu hành trình, anh chẳng để lại gì cho riêng mình

Anh hy sinh cho tổ quốc mà không cần danh lợi. Những giọt mồ hôi, giọt máu của anh đã hòa quyện với máu của những chiến sĩ khác, tạo ra một màu cờ sắc thắm cho Tổ quốc Việt Nam yêu dấu. Sự hy sinh của anh đã tạo nên dáng đứng oai hùng, là điểm nhấn của thời kỳ đổi mới của tổ quốc, thời kỳ tiến bộ và hòa bình, nở rộ như mùa xuân.

Lê Anh Xuân đã khéo léo sử dụng ngôn ngữ hình tượng, cá thể hóa và truyền cảm cao để mô tả rõ nét và nổi bật hình tượng người lính đứng vững với dáng điệu oai hùng, anh dũng.

Phân tích bài thơ Dáng đứng Việt Nam (mẫu 5)

Đoạn thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân là một tác phẩm điển hình thể hiện nguồn cảm hứng thi ca dân tộc về những anh hùng thầm lặng, hy sinh cao cả vì đất nước. Bài thơ làm cho chúng ta hồi tưởng về thời kỳ kháng chiến chống Mỹ gian khổ nhưng hùng vĩ của tổ tiên chúng ta.

Ngay từ bốn câu đầu tiên, tác giả đã làm nổi bật nét hùng vĩ của người chiến sĩ:

Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chiến sĩ đã chiến đấu hết mình vì đất nước, cho đến khi sức lực cạn kiệt, anh ta phải ngã xuống trên bãi đường băng Tân Sơn Nhứt. Sự sống sót của anh không còn, nhưng sứ mệnh của anh với tổ quốc vẫn tiếp tục. Anh vẫn cố gắng đứng dậy, nâng súng lên trên xác trực thăng để bắn vào quân địch. Những giọt máu rơi xuống cũng là những chiếc mảnh xác tên lĩnh Mỹ. Anh ra đi với tư duy kiên trung, anh chết khi vẫn đang đứng dậy bắn.

Chính tư duy kiên trung ấy đã làm cho quân giặc phải kính phục, khiếp sợ.

Chợt thấy anh, địch hoảng sợ xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Mặc dù lực lượng của chúng ta yếu hơn so với địch, nhưng với tinh thần kiên cường, chúng ta đã chiến thắng vũ khí hùng mạnh. Anh để lại một bảng anh hùng dũng cảm, anh ra đi nhưng tư thế đứng của anh vẫn là minh chứng cho tâm hồn của một người con của cách mạng, người dùng của nhân dân.

Lê Anh Xuân đã mô tả hình ảnh đôi dép như biểu tượng cho sự hi sinh của chiến sĩ, mặc dù cái chết của anh chỉ là bình thường như một đôi dép, nhưng lại tạo nên những điều lớn lao.

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như một bức tượng đồng

Như đôi dép dưới chân Anh đạp lên xác Mỹ

Mà vẫn giữ được vẻ đẹp bình dị, tinh khôi

Không một bức hình, không một dòng địa chỉ

Anh ra đi mà không để lại gì cho bản thân trước khi bắt đầu hành trình

Tất cả những đóng góp thầm lặng của anh là cơ sở để tôn vinh hai chữ thân thương của tổ quốc. Sự ra đi của anh trên đường băng Tân Sơn Nhứt đã xây dựng nên một bảng anh hùng độc lập của dân tộc, máu của anh đã kết hợp với màu cờ phấp phới tung bay của tổ quốc. Đó chính là thành quả của hòa bình, thành quả của tinh thần kiên trung không khuất phục, nét hào hùng của “Dáng đứng Việt Nam”.

1 20 15/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: