TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Thời nắng xanh (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Thời nắng xanh gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 38 03/01/2025


Phân tích bài thơ Thời nắng xanh

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Thời nắng xanh (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Thời nắng xanh của Trương Nam Hương.

THỜI NẮNG XANH

Nắng trong mắt những ngày thơ bé

cũng xanh mơn như thể lá trầu

bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau

chở sớm chiều tóm tém

hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm

nắng xiên khoai qua lớp vách không cài

bóng bà đổ xuống đất đai

rủ châu chấu cào cào về cháu bắt

rủ rau má rau sam...

vào bát canh ngọt mát

tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình.

(Trích)

Dàn ý Phân tích bài thơ Thời nắng xanh

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm:

+Trương Nam Hương có một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, với nhiều suy tư và trắc ẩn. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi giọng dịu ngọt, gần gũi thân thương, ngôn ngữ uyển chuyển, linh hoạt, lạ, bất ngờ góp phần làm cho thơ ông nét độc đáo. Những hình ảnh bình dị, gần gũi của đời thường được Trương Nam Hương khéo léo đưa vào thơ và thổi hồn mình vào đó để tạo nên vẻ đẹp riêng.Vì thế, đến với thơ Trương Nam Hương, tâm hồn con người sẽ trở nên trong trẻo, đáng yêu và nhân hậu hơn.Thế giới hình ảnh đa dạng, độc đáo tạo ra được những tứ thơ hay.

+ Ở “Thời nắng xanh” người đọc vẫn thấy Trương Nam Hương trung thành với lối thơ truyền thống nhưng có sự giao thoa với hiện đại, sâu lắng và đầy ân tình.

2. Thân bài

a. Phân tích nội dung và chủ đề của tác phẩm.

Đoạn trích “ Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương là tình bà cháu ấm nồng, tha thiết.

- Hình ảnh người bà tần tảo, chịu thương, chịu khó, yêu thương con cháu.

+ Nhan đề “Nắng thời xanh” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi dường như một phần đời nơi tâm hồn ấy mãi ở lại với những hồi ức đẹp nhất, rực rỡ tựa ánh nắng của thiên nhiên đất trời. Và thi sĩ cũng dùng hình ảnh nắng để vẽ nên bức chân dung người bà kính yêu mang vẻ đẹp giản dị truyền thống, chân quê…

“Nắng trong mắt những ngày thơ bé

………………………………

Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm

+ “ Nắng xanh” là màu nắng trong trẻo, trẻ trung, được nhìn bằng cặp mắt tươi trẻ của tuổi xanh. Phải chăng đó là quãng thời gian hạnh phúc vui vẻ nhất của cháu trong suốt tuổi thơ của mình. Màu xanh gợi liên tưởng đến một sức sống thanh xuân khoẻ khoắn, bền lâu trong dòng chảy vô tình của thời gian.

+ Trong mắt cháu “nắng xanh mơn như lá trầu” - màu xanh mơn man rười rượi, nắng xanh mơn - cái nắng được lọc qua hồi ức về một người bà tóm tém nhai trầu, vì thế mà nó càng trở nên lung linh, huyền thoại. .

+ Bà bình dị trong cuộc sống lao động hàng ngày: Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền và giành để thưởng thức sớm chiều. Hình ảnh bà gắn với thói quen ăn trầu dân dã, cổ truyền (Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/Chở sớm chiều tóm tém), gương mặt bà trong ráng chiều (Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm) sự tần tảo đồng áng (Bóng bà đổ xuống đất đai)...

=> Cuộc đời bà vất vả, dãi dầu nhưng chính sự tần tảo của bà đã đem lại cho cháu một không gian bình yên để mơ mộng, để lớn lên. Bà đã trở thành một miền hoài niệm. Bà gắn với những gì đẹp đẽ nhất, trong trẻo nhất, làm nên “thời nắng xanh” của cháu.

- Những kỉ niệm về bà như một cuốn sách tiếp tục được lật mở đến không gian mới :

Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài

………………………………………….

Vào bát canh ngọt mát”

+ Bà một lần nữa xuất hiện cùng hình ảnh “nắng” trong những luống khoai liếp vách không cài. Nắng hồn nhiên như trẻ con tinh nghịch. Cả khu vườn rắc đầy bụi vàng của nắng. Hình ảnh thôn quê thanh bình, yên ả, đó là không gian êm đềm của tuổi thơ cháu.

“Bóng bà đổ xuống đất đai”

+ Bà mang dáng dấp của những người nông dân lao động cần cù, vất vả. Nhưng tất cả những gian truân ấy để đổi lấy niềm vui cho đứa cháu thơ “rủ châu chấu cào cào” và cả những món ăn dân dã trong những ngày còn thiếu thốn, khó khăn nhưng mát lòng, mát dạ.

+ Hạnh phúc của cháu là những khi được lắng vào bát canh yêu thương ngọt mát. Một thời thơ ấu bình yên bên bà, dù còn nhiều khó khăn nhưng cháu vẫn có được tuổi thơ trọn vẹn. Những kí ức bình yên ấy làm bóng mát cho tâm hồn cháu để khi nhớ lại bật thành thơ dồn nén cảm xúc: “Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình”.

+ Tất cả những kỉ niệm hồi cháu sống với bà đã hoá thân vào hình ảnh “bát canh” ngọt lành bà cho. Bát canh đầy ăm ắp những hạnh phúc giản dị bình yên ấy chan lên “thời nắng xanh” của cháu trở thành tuổi thơ không bao giờ quên. Chỉ với một câu thơ mà bao nhiêu phù sa tình cảm lắng đọng xuống đáy sâu trong lòng người đọc về tình cảm của cháu dành cho bà, cả một bầu trời thương nhớ gửi đến người bà kính yêu. Chính tuổi thơ ngọt ngào bên người bà đã nâng đỡ thi sĩ bước trên hành trình dài rộng của cuộc đời.

=> Qua những hồi ức về tuổi thơ của nhân vật trữ tình, ta nhận ra vẻ đẹp của bà: truyền thống, tần tảo, luôn bao bọc chở che để cháu có một tuổi thơ hồn nhiên trong trẻo. Đồng thời, ta còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn nhân vật trữ tình: nhạy cảm, tinh tế, giàu tình yêu thương. ( Liên hệ: Hình ảnh người bà trong thi ca là nguồn thi liệu khơi gợi cảm xúc của người nghệ sĩ như “Bếp lửa” của Bằng Việt hay “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương cũng đóng góp một cái nhìn mới vào dòng chảy của văn chương nghệ thuật).Hai khổ thơ đầu của “ Thời nắng xanh” và cả bài thơ là lời tự bạch, lời cảm ơn chân thành nhất đối với người bà thân yêu, với tuổi thơ, với quê hương, đất nước...của thi sĩ.Tất cả luôn đồng hiện trong tâm thức nhà thơ và trở thành những hình ảnh thân thuộc đằm sâu trong tâm tưởng và cũng là của tất cả những đứa cháu yêu bà, thương bà!

b. Phân tích hình thức nghệ thuật độc đáo:

- Lời thơ giản dị, nhẹ nhàng mà dồn nén tất cả cảm xúc chan chứa từ bên trong. Giọng thơ hiền lành, uyển chuyển nhưng lại có những câu óng mượt, long lanh như những sợi tơ vàng.

- Vẫn câu chữ nhẹ nhàng, ý thơ trong trẻo, mượt mà nhà thơ đưa ta về với những kỉ niệm thuở thiếu thời đầm ấm, vui vầy bên người bà thân yêu.

- Nhiều hình ảnh đẹp , các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp, lối nói lạ hóa làm nên sức hấp dẫn cho đoạn thơ. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những hình ảnh của cuộc sống quen thuộc “lá trầu”, “cào cào”, “châu chấu” , “bát canh” tạo dựng lên hình ảnh cuộc sống chân quê thanh bình, yên ả nhưng thật gần gũi thân thương trong ký ức.

- Cái hay là nhà thơ đã tạo ra được những liên tưởng mới mẻ, độc đáo với những tứ thơ lạ; ngôn ngữ trôi chảy theo mạch tự nhiên nhưng giàu cảm xúc, nhiều từ ngữ sử dụng rất đắt, hình ảnh thơ mang tính hình tượng cao, mang phong cách sáng tạo và bút pháp riêng của Trương Nam Hương.

3. Kết bài

- Khẳng định lại giá trị của bài thơ.

- Cảm xúc hoặc lời nhắn gửi tới mọi người.

Phân tích bài thơ Thời nắng xanh (mẫu 1)

Văn học nghệ thuật luôn gắn liền với đời sống hiện thực đem lại những bài học, trải nghiệm quý giá cho độc giả. Đồng thời những tác phẩm ấy còn đem lại những cảm xúc, hồi ức thú vị có sức lay động diệu kỳ đến trái tim của người yêu văn học. Và người con của nghệ thuật nhà thơ Trương Nam Hương đã tạo ra một tác phẩm mang “ sức lay động diệu kỳ ” ấy - bài thơ Thời nắng xanh.

Trương Nam Hương là một nhà thơ tài hoa và biết cách làm mới mình. Trải qua bao thập kỷ văn chương ông đã nhận được rất nhiều giải thưởng danh giá phải kể đến như: nhà thơ được yêu thích nhất năm 1992 , gương mặt Văn học 20 năm TP Hồ Chí Minh 1975 - 1995, gương mặt Văn học 30 năm TP Hồ Chí Minh 1975 - 2005, giải thưởng thơ Hội Nhà văn Việt nam 1991. Xuyên suốt hành trình ấy là hàng chục đứa con tinh thần ra đời : khúc hát người xa xứ (990), ngoảnh lại tháng năm (1995), thơ với tuổi thơ (2005), và gần đây nhất là Thời nắng xanh và những bài thơ khác (2022). Bài thơ Thời nắng xanh là một phần trong tác phẩm, bài thơ mang nét thâm trầm , thanh dịu, thể hiện rõ nét hơi thở hiện đại .

Khúc hát văn chương được mở đầu bằng những hình ảnh bình yên khi tác giả hồi tưởng lại thời thơ bé của mình. Mở đầu là một khung cảnh bình dị đầy mà sắc với màu vàng của nắng và màu xanh của lá trầu. Hai màu sắc tưởng chừng như không liên quan nhưng chúng lại được tác giả đem ra so sánh tại nên một tình huống tinh nghịch nhưng cũng rất độc đáo. Cũng có thể nói nhà thơ đã thực sự hóa thân thành một đứa trẻ để quay lại tuổi thơ của mình. Ông nhìn và cảm nhận mọi thứ qua đôi mắt của một đứa trẻ . Nhà thơ đã khéo léo kết hợp nghệ thuật so sánh cùng với ẩn dụ chuyển đổi cảm giác thật mới mẻ “ nắng ” và “ xanh mơn mởn như thể lá trầu ” , “ bổ cau thành tám chiếc thuyền cau ”. Hình ảnh trầu cau trong đoạn thơ cũng gợi đến một phong tục là phong tục ăn trầu. Phong tục ăn trầu là một phong tục lâu đời của Việt Nam thời xưa, nó được xem như một bản sắc văn hóa độc đáo khi ăn có một màu đỏ được tác giả ví như màu hoàng hôn . Xuyên suốt bài thơ nhân vật được tác giả nhắc đến nhiều nhất khi hồi tưởng lại thời thơ ấu của mình là nhân vật người bà. Người bà là một nhân vật trữ tình được tác giả gửi gắm bap lời yêu thương và trân trọng. Bà không vừa là người mẹ , bà vừa là người cha và bà còn là chỗ dựa tinh thần lớn nhất của ông. Bà không quản khó khăn nhọc nhằn nuôi ông khôn lớn:

Bóng bà đổ xuống đất đai

Rủ châu chấu cào cào về cháu bắt

Thành rau má rau sam…

Thành bát canh ngọt mát

Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình

Thấm đẫm được nỗi khó nhọc của người bà, nhà thơ không hề đòi hỏi hay oán trách mặt khác đã luôn đồng hành cùng bà, luôn âm thầm biết ơn sự hy sinh cao cả của bà. Có lẽ đứa trẻ hiểu chuyện ấy biết rằng bà luôn yêu thương và luôn bảo vệ mình. Và đứa trẻ ấy biết rằng gia tài duy nhất của bà là cháu:

Gia tài ngoại là các con các cháu

Là câu hát nương che ngày gió bão

Là chảo nồi, chum vại, lọ và chai…

Là mắm muối, tương cà, gạo đỗ

Là mụn vải vá viu ngày thương khó

Cúc tần xanh nghèo ngặt

Cúc tần xanh…

Bài thơ được triển khai theo kết cấu đan xen một câu tả hình ảnh thiên nhiên sau đó là một câu tả người. Người bà xuất hiện với hình ảnh chân chất của một người nông dân đích thực , một người nông dân lao động cần cù , vất vả. Khó nhọc là thế nhưng … gia tài của bà chỉ có con cháu cùng những câu hát , nào là nồi , chum vại hay mắm muối , tương cà , … Chỉ đôi ba câu thơ nhưng xót xa đến nhường nào , “ bán mặt cho đất bán lưng cho trời ” để vật vã kiếm ăn từng ngày . Có lẽ vì một tuổi thơ chẳng mấy dư giả tiền bạc vật chất mà tác giả rất thấm thía về sự đời , thấu hiểu cho nỗi lo toan nhọc nhằn của bà. Dù bài thơ không có sự xuất hiện của chữ “ yêu ” , chữ “ thương ” nhưng khi đọc bài thơ ai ai cũng cảm nhận được tình yêu và nỗi nhớ tác giả dành cho người bà kính yêu cũng như tình yêu thương con cháu của người bà .

Nhận thức được bà luôn xuất hiện trong mọi cột mốc của cuộc đời đứa cháu hiểu chuyện ấy đã không kìm nén mà luôn bộc lộ tình cảm của mình. Tuổi thơ của tác giả tuy khó khăn, tuy “thơm thao bùn đất ” nhưng chưa bao giờ ông than vãn nửa lời bởi ông biết ông đang được hưởng thụ một cuộc sống bình yên với bà của mình. Có lẽ với tác giả lúc ấy chỉ cần như thế là đủ và ông còn không biết được rằng mình còn được trải nghiệm cuộc sống này bao lâu nữa khi mà tóc của bà đã bạc . Trương Nam Hương đã khéo léo sử dụng những hình ảnh gần gũi trong cuộc sống hằng ngày tạo nên một bài thơ thật nhẹ nhàng , đồng thời giúp cho người đọc cảm nhận dễ dàng về tuổi thơ đáng nhớ của ông. Người bà một lần nữa xuất hiện trong hai câu thơ : “ Tôi đã dội vô tình bao nước mắt ” , “ Dội mát lành nỗi khó nhọc bà tôi ”. Hình ảnh người bà của nhà thơ liên tục khơi nguồn liên tưởng về những người nông dân chân lấm tay bùn đổ bao mồ hôi nước mắt để làm nương làm rẫy , nuôi lớn từng hại gạo để kiếm sống. Tất cả những vất vả ấy đều quy tụ thành quả về đứa cháu ngoan của bà. Tất cả những vất vả ấy đều để đổi lấy cái bụng no hay nụ cười của người cháu. Một thời thơ ấu bình yên bên người bà, tác giả đã ghim chặt vào lòng một sự trân trọng và biết ơn đối với bà .

Và rồi…đứa trẻ nào cũng lớn lên , tuân theo quy luật hiển nhiên của thời gian tuổi thơ ngày ấy bây giờ không còn được trải nghiệm nữa mà tất cả chỉ còn là những ký ức và kỷ niệm. Bóng làng dần xa đi trong tiềm thức cùng với dấu ba chấm đầu nghẹn ngào đã phần nào nói lên tình cảm lắng đọng bấy lâu của thi sĩ. Đó là tình cảm chân thành, kính trọng, nhớ thương da diết, giàu tình yêu thương mà một nhà thơ để lại .

Với lời thơ giản dị, nhẹ nhàng nhưng không kém phần tinh tế Trương Nam Hương đã lôi tất thảy những cảm xúc dồn nén trong mình ra để bộc bạch với độc giả. Đồng hành là những phép nghệ thuật so sánh kết hợp với những hình ảnh quen thuộc của cuộc sống đã góp phần chắp vá nên một bài thơ tuy giản dị đặc biệt là về đề tài tuổi thơ nhưng gây ấn tượng rất mạnh. Đây quả thực là một tác phẩm để đời của ông.

Như một thước phim quay chậm cùng những phân cảnh da diết, bồi hồi “ Thời nắng xanh ” đã khắc một nốt chạm vào diễn đàn văn chương. Nốt chạm ấy sẽ mãi được lưu giữ cùng với sự trường tồn của thời gian mặc kệ thời đại. Trương Nam Hương đã mở ra một cánh cửa mới , một áng văn mới, một cái nhìn mới độc đáo cho nền văn học Việt Nam. Hãy trân trọng những phút giây hiện tại và trao đi những tình cảm cần trao, nhận lại những gì xứng đáng .

Phân tích bài thơ Thời nắng xanh (mẫu 2)

Từ bao đời nay, thi ca luôn hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình là “ người dẫn đường đến xứ xở của cái đẹp”. Song thơ không chỉ là cái đẹp nó còn là “người thư kí trung thành của những trái tim” (Duybralay). Ngoài việc là tấm gương phản ánh cuộc sống, thi ca là dòng chảy của tình cảm - nơi thi nhân trải những cảm xúc lên trang giấy trắng chỉ có thể diễn đạt bằng thơ. Quả vậy, khi đến với “Thời nắng xanh” bạn đọc vô cùng thấm thía sâu sắc thứ tình cảm kì diệu trong thơ qua những hình tượng tưởng gần gũi nhưng được làm mới theo cách riêng dưới góc nhìn của người nghệ sĩ Trương Nam Hương.

Trương Nam Hương có một hồn thơ nhạy cảm, tinh tế, với nhiều suy tư và trắc ẩn. Dù viết về điều gì, viết về đối tượng, chủ đề nào thơ Trương Nam Hương vẫn mang những rung động rất đỗi chân thành, nhân văn, nhân ái và có chiều sâu của triết lý. Ở “Thời nắng xanh” người đọc vẫn thấy Trương Nam Hương trung thành với lối thơ truyền thống có sự giao thoa với hiện đại. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi giọng dịu ngọt, gần gũi thân thương, ngôn ngữ uyển chuyển, linh hoạt, lạ, bất ngờ góp phần làm cho thơ ông nét độc đáo. Những hình ảnh bình dị, gần gũi của đời thường nhưng Trương Nam Hương đã khéo đưa vào thơ và thổi hồn mình vào đó để tạo nên vẻ đẹp riêng.Vì thế, đến với thơ Trương Nam Hương, tâm hồn con người sẽ trở nên trong trẻo, đáng yêu và nhân hậu hơn.Thế giới hình ảnh đa dạng, độc đáo tạo ra được những tứ thơ hay.

Đoạn thơ trích là những hồi ức sinh động của nhân vật trữ tình về một “Thời nắng xanh" - thời thơ ấu hồn nhiên, trong trẻo. Đó là một tuổi thơ nhiều kỉ niệm gắn với hình ảnh người bà kính yêu và quê hương yêu dấu với những trò chơi tinh nghịch thuở thiếu thời. Chỉ bằng những hình ảnh dân dã, giản dị hai khổ thơ đã neo vào lòng người đọc hình ảnh người bà tần tảo yêu thương con cháu. Giọng thơ tâm tình tha thiết ăm ắp tình cảm chân thành của người cháu dành cho bà kính yêu.

Nhan đề “Nắng thời xanh” đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc bởi dường như một phần đời nơi tâm hồn ấy mãi ở lại với những hồi ức đẹp nhất, rực rỡ tựa ánh nắng của thiên nhiên đất trời. Và thi sĩ cũng dùng hình ảnh nắng để vẽ nên bức chân dung người bà kính yêu mang vẻ đẹp giản dị truyền thống, chân quê:

“Nắng trong mắt những ngày thơ bé

Cũng xanh mơn như thể lá trầu

Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau

Chở sớm chiều tóm tém

Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm

Nắng trong thi ca không còn là hình ảnh mới, từng xuất hiện trong rất nhiều thi phẩm như “Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên” trong “ Đây thôn Vĩ Dạ” ( Hàn Mặc Tử ). Hay nắng xanh cũng từng xuất hiện trong thơ Tố Hữu :“Bác đã đi rồi sao Bác ơi !/ Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời”. Và người ta hay nói nắng vàng, nắng hồng, cũng có cả nắng tía (Tia nắng tía nháy hoài trong ruộng lúa – Chợ Tết của Đoàn Văn Cừ). Nhưng nắng xanh thì ít gặp. Phải chăng đó là màu nắng trong trẻo, trẻ trung, được nhìn bằng cặp mắt tươi trẻ của tuổi xanh. Phải chăng đó là quãng thời gian hạnh phúc vui vẻ nhất của Trương Nam Hương trong suốt tuổi thơ của mình. Màu xanh gợi liên tưởng đến một sức sống thanh xuân khoẻ khoắn, bền lâu trong dòng chảy vô tình của thời gian. Một trong những điều làm nên nét đặc sắc nhất của đoạn thơ nói riêng, bài thơ nói chung chính là tác giả đã tạo dựng được một “bầu khí quyển” dân dã, đượm sắc màu cổ tích qua những hình ảnh đẹp, đầy sáng tạo. Trong mắt cháu “nắng xanh mơn như lá trầu” - màu xanh mơn man rười rượi, nắng xanh mơn - cái nắng được lọc qua hồi ức về một người bà tóm tém nhai trầu, vì thế mà nó càng trở nên lung linh, huyền thoại. Nhà thơ còn khéo léo kết hợp nghệ thuật so sánh cùng ẩn dụ chuyển đổi cảm giác hoàn toàn mới mẻ “ nắng” - xanh mơn thật tinh khôi mới mẻ.

Hai câu thơ đầu như cánh cửa dẫn lối người đọc đến với người bà bình dị trong lao động hàng ngày. Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền và giành để thưởng thức sớm chiều. Hình ảnh bà gắn với thói quen ăn trầu dân dã, cổ truyền (Bà bổ cau thành tám chiếc thuyền cau/Chở sớm chiều tóm tém), gương mặt bà trong ráng chiều (Hoàng hôn đọng trên môi bà quạnh thẫm) sự tần tảo đồng áng (Bóng bà đổ xuống đất đai)... Cuộc đời vất vả dãi dầu nhưng chính sự tần tảo của bà đã đem lại cho cháu một không gian bình yên để mơ mộng, để lớn lên. Bà đã trở thành một miền hoài niệm. Bà gắn với những gì đẹp đẽ nhất, trong trẻo nhất, làm nên “thời nắng xanh” của cháu.

Lắng nghe trong từng câu chữ là hình ảnh của bà mang vẻ đẹp, thói quen sinh hoạt của người phụ nữ Việt Nam truyền thống. Ôi! Chỉ là màu của trầu mà ngỡ cả ráng chiều đọng lại trên vành môi quạnh thẫm của bà. Nó đã trở thành mảng ký ức ghim chặt trong nỗi nhớ của người cháu về bà của mình. Một hình ảnh quá đỗi giản dị gần gũi thân quen nhưng bước vào thơ Trương Nam Hương lại dội nên một nỗi nhớ sâu sắc về bóng hình gắn bó với một thời nắng xanh tươi đẹp. Những kỉ niệm về người bà như một cuốn sách tiếp tục được lật mở đến không gian mới :

Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài

Bóng bà đổ xuống đất đai

Rủ châu chấu, cào cào về cháu bắt

Rủ rau má, rau sam

Vào bát canh ngọt mát”

Khổ thơ được triển khai theo kết cấu đan xen một câu tả hình ảnh “nắng” thiên nhiên và sau đó là những câu thơ xuất hiện hình ảnh người bà của nhân vật trữ tình. Người bà một lần nữa xuất hiện cùng hình ảnh “nắng” trong những luống khoai liếp vách không cài. Nắng hồn nhiên như trẻ con tinh nghịch. Cả khu vườn rắc đầy bụi vàng của nắng. Hình ảnh thôn quê thanh bình, yên ả, đó là không gian êm đềm của tuổi thơ cháu. Nắng “xiên khoai” là cái nắng nóng gay gắt của những ngày hạ chí nhưng bà vẫn lam làm, tất bật với công việc cày xới:“Bóng bà đổ xuống đất đai”

Hình ảnh thơ khơi nguồn liên tưởng về những người nông dân chân lấm tay bùn bà mang dáng dấp của những người nông dân lao động cần cù, vất vả. Nhưng tất cả những gian truân ấy để đổi lấy niềm vui cho đứa cháu thơ “rủ châu chấu cào cào” và cả những món ăn dân dã trong những ngày còn thiếu thốn, khó khăn nhưng mát lòng, mát dạ. Hạnh phúc của cháu là những khi được lắng vào bát canh yêu thương ngọt mát. Một thời thơ ấu bình yên bên bà, dù còn nhiều khó khăn nhưng cháu vẫn có được tuổi thơ trọn vẹn. Những kí ức bình yên ấy làm bóng mát cho tâm hồn cháu để khi nhớ lại bật thành thơ dồn nén cảm xúc: “Tôi chan lên suốt dọc tuổi thơ mình”. Gắn với bà là hình ảnh quê hương - Một quê hương nghèo khó nhưng thanh bình: Nắng xiên khoai qua liếp vách không cài, một vùng quê thuần nông với châu chấu, cào cào, rau má, rau sam.. Sự gắn bó hòa quyện sâu sắc đến mức người cháu không thể nhận ra bà hay chính là quê hương, không thể hình dung ra tuổi thơ nếu không có bà và hình bóng quê hương !

Tất cả những kỉ niệm hồi cháu sống với bà đã hoá thân vào hình ảnh “bát canh” ngọt lành bà cho. Bát canh đầy ăm ắp những hạnh phúc giản dị bình yên ấy chan lên “thời nắng xanh” của mình trở thành tuổi thơ không bao giờ quên. Chỉ với một câu thơ mà bao nhiêu phù sa tình cảm lắng đọng xuống đáy sâu trong lòng người đọc về tình cảm của cháu dành cho bà, cả một bầu trời thương nhớ gửi đến người bà kính yêu. Chính tuổi thơ ngọt ngào bên người bà đã nâng đỡ thi sĩ bước trên hành trình dài rộng của cuộc đời. Qua những hồi ức về tuổi thơ của nhân vật trữ tình, ta nhận ra vẻ đẹp của bà: truyền thống, tần tảo, luôn bao bọc chở che để cháu có một tuổi thơ hồn nhiên trong trẻo. Đồng thời, ta còn nhận ra vẻ đẹp tâm hồn nhân vật trữ tình: nhạy cảm, tinh tế, giàu tình yêu thương.

Những dòng thơ nhẹ nhàng nhưng neo đậu vào tâm hồn người đọc, đưa ta trở lại với miền đất kỉ niệm về một thời thương nhớ. Chắp vá kí ức bạc màu thành thước phim quay chậm sống dậy hồi ức ngọt ngào, hạnh phúc một thời không thể quên, thi sĩ đã phục dựng hình ảnh người bà mang nét đẹp của người phụ nữ truyền thống, chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó. Dù hoàn cảnh còn thiếu thốn nhưng người bà ấy vẫn yêu thương và mang đến cho đứa cháu những điều tốt đẹp nhất. Tuổi thơ của cháu có “châu chấu, cào cào”, có niềm vui từ bát canh ngọt mát và cả bóng hình của bà chở che. Có lẽ tình yêu của người cháu dành cho bà suốt bao năm không thể kìm nén mà chảy tràn trên ngòi bút mà hoá thành thơ. Đó là tình cảm chân thành, kính trọng, nhớ thương da diết, giàu tình yêu thương đối với người bà tần tảo của mình bởi “Thơ chỉ tràn ra khi trong tim, cuộc sống đã ứ đầy” (La mác tin). Hình ảnh người bà trong thi ca là nguồn thi liệu khơi gợi cảm xúc của người nghệ sĩ như “Bếp lửa” của Bằng Việt hay “Tiếng gà trưa” của Xuân Quỳnh, “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương cũng đóng góp một cái nhìn mới vào dòng chảy của văn chương nghệ thuật. Hình ảnh người bà truyền thống, giàu tình yêu thương, tần tảo, chăm chỉ cần cù sẽ mãi khắc ghi trong lòng người đọc. Tình cảm trân trọng, kính yêu với người bà của thi sĩ sẽ được văn chương lưu giữ vẹn nguyên và để lại trong lòng người đọc dấu lặng không thể nào quên. Những câu thơ của Trương Nam Hương đã cho ta "một vé đi tuổi thơ", khơi gợi trong tâm hồn ta tình yêu với quê hương, với người thân, biết trân trọng quá khứ, nguồn cội, trân trọng những kỉ niệm tuổi thơ. Đó là những tình cảm thường trực trong tâm hồn mỗi người, đủ sức lay động trái tim bạn đọc.

Mỗi một lần đọc “Thời nắng xanh” của Trương Nam Hương là thêm một lần những câu chữ tài hoa chạm đến tầng sâu cảm xúc để thêm lắng lòng với những điều tưởng như đã trôi qua, mà vẫn còn đâu đây trong tâm tưởng, trên những câu thơ đẹp cả ý lẫn lời của Trương Nam Hương.Thơ hay là “hay cả hồn lẫn xác”, thời nắng xanh đâu chỉ cuốn người đọc vào giai điệu tâm hồn mà còn vào cả thứ âm nhạc diệu kì của ngôn ngữ thơ. Nhiều năm qua Trương Nam Hương vẫn lặng lẽ như một con tằm nhả tơ với những sáng tác lấp lánh tài hoa. Lời thơ giản dị, nhẹ nhàng mà dồn nén tất cả cảm xúc chan chứa từ bên trong. Giọng thơ hiền lành, uyển chuyển nhưng lại có những câu óng mượt, long lanh như những sợi tơ vàng. Vẫn câu chữ nhẹ nhàng, ý thơ trong trẻo, mượt mà nhà thơ đưa ta về với những kỉ niệm thuở thiếu thời đầm ấm, vui vầy bên người bà thân yêu. Thơ Trương Nam Hương giàu hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật so sánh, ẩn dụ, điệp, lối nói lạ hóa làm nên sức hấp dẫn cho đoạn thơ. Nghệ thuật so sánh kết hợp với những hình ảnh của cuộc sống quen thuộc “lá trầu”, “cào cào”, “châu chấu” , “bát canh” tạo dựng lên hình ảnh cuộc sống chân quê thanh bình, yên ả nhưng thật gần gũi thân thương trong ký ức. Nhà thơ đã đi suốt dọc tuổi thơ, vào tuổi hoa niên tươi đẹp cùng tuổi thanh xuân đầy hoa mộng và tuổi đời đầy lên theo tháng năm, câu thơ vẫn dịu dàng, lắng sâu. Cái hay là nhà thơ đã tạo ra được những liên tưởng mới mẻ, độc đáo với những tứ thơ lạ; ngôn ngữ trôi chảy theo mạch tự nhiên nhưng giàu cảm xúc, nhiều từ ngữ sử dụng rất đắt, hình ảnh thơ mang tính hình tượng cao, mang phong cách sáng tạo và bút pháp riêng của Trương Nam Hương.

Hai khổ thơ đầu của “ Thời nắng xanh” và cả bài thơ là lời tự bạch, lời cảm ơn trân trọng nhất đối với người bà thân yêu, với tuổi thơ, với quê hương, đất nước...của thi sĩ. Tất cả luôn đồng hiện trong tâm thức nhà thơ và trở thành những hình ảnh thân thuộc đằm sâu trong tâm tưởng và cũng là của tất cả những đứa cháu yêu bà, thương bà!

1 38 03/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: