TOP 10 mẫu Phân tích Thăng Long thành hoài cổ (2025) SIÊU HAY
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ
Đề bài: Phân tích bài thơ Thăng Long thành hoài cổ của Bà Huyện Thanh Quan
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương,
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Dàn ý Phân tích Thăng Long thành hoài cổ
1. Mở bài
- Tác giả:
+ Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta.
+ Bà xuất thân trong một gia đình quý tộc thời Lê tại làng Nghi Tàm ven hồ Tây.
Bà Huyện Thanh Quan là một nữ nhà thơ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam.
- Tác phẩm: Trong số các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan thì bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” là một tác phẩm tiêu biểu nói lên nỗi niềm tâm sự nhớ quê hương, nhớ kinh thành của nhà thơ.
2. Thân bài
- Hai câu đề:
+ Hai câu đề mở đầu bài thơ vừa như một tiếng than, một lời trách móc với những đổi thay trong cuộc đời.
+ Từ “hí trường” có nghĩa là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui.
+ Liệu có phải nhà thơ đang than thở, trách móc ông trời đã tạo nên cuộc đời giống như một sân khấu để diễn hết trò này đến trò khác.
+ Lịch sử thay đổi, các triều đại cũng đổi thay, Thăng Long cũng cứ thế mà thay đổi theo thời gian. Điều này làm cho nhà thơ cảm thấy rất buồn.
- Hai câu thực:
+ Hai câu thực sử dụng phép đối đã cho thấy sự thay đổi đến đau lòng của kinh thành Thăng Long.
+ Long thành xưa kia ngày ngày nhộn nhịp xe ngựa đi lại nhưng ngày nay chỉ còn lại “hồn thu thảo”.
+ Mùa thu càng thêm buồn hơn với màu cỏ thu úa vàng, cảnh vật trở nên tàn tạ, những con đường đã vắng người qua.
Những cung điện nguy nga ngày xưa nay cũng đã thay đổi, giờ chỉ còn lại nền cũ.
+ Hai câu thơ đã vận dụng phép đối một cách linh hoạt, thanh điệu bằng trắc hô ứng nhau mang đến giai điệu du dương, trầm bổng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
- Hai câu luận:
+ Trong hai câu luận, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa: đá và nước giống như con người.
+ Nền đá cũ vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng năm tháng, vẫn buồn thương đau đớn. Nơi bến cũ, hồ xưa, nước còn cau mặt với những đau thương, mất mát.
+ Qua những hình ảnh ấy, tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tiếc nuối, buồn thương cho một thời vàng son chói lọi của kinh thành Thăng Long – nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên.
- Hai câu kết:
+ Gương cũ ở đây ý muốn nói đến chuyện đời, giữa quá khứ và hiện tại hay cụ thể hơn chính là Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay.
+ “Cảnh đấy” chính là những cảnh mà nhà thơ đã nêu ở trên: lối xưa, nền cũ, hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và nước…
+ Trước những cảnh vật như thế, nữ sĩ không khỏi đau xót trước cảnh hoang tàn của kinh thành Thăng Long.
3. Kết bài
- Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam.
- Ngôn từ, thi liệu, cảnh vật… tất cả đã được nhà thơ chọn lựa và sử dụng một cách tinh tế tạo nên bức tranh mang màu sắc cổ điển, thi vị.
- Bài thơ là nỗi buồn của nhà thơ nhưng qua đó cũng thể hiện tình yêu Thăng Long vô bờ bến của thi sĩ.
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ (mẫu 1)
Bà Huyện Thanh Quan chỉ để lại cho đời mấy bài thơ Nôm Đường luật mà gây ấn tượng suốt mấy trăm năm nay, và còn hứa hẹn trường tồn. Điều gì đã tạo ra sức hấp dẫn kì lạ của thơ Bà Huyện Thanh Quan? Có lẽ là bằng ngôn ngữ trác tuyệt, bằng thi pháp độc đáo, nữ sĩ đã phô diễn những điều bí ẩn trong tâm hồn hoài cổ của bà.
“Thăng Long thành hoài cổ” là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho triết lí nhân sinh sâu sắc và nghệ thuật trác tuyệt của thơ Bà Huyện Thanh Quan:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá cũng trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương,
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.”
Với học vấn uyên bác, tác giả mỏ đầu bài thơ bằng triết lí có giá trị khái quát rộng lớn:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mẩy tinh sương”
Thơ Bà Huyện Thanh Quan xúc cảm được nén lại mà lí trí nổi bật lên, điều đó hiếm thấy ở thơ của phụ nữ. Câu hỏi “tạo hóa gây chi cuộc hí trường” thật bất ngờ, với câu hỏi sâu sắc đó, bà vừa là người trong cuộc (sống) vừa là người ngoài cuộc. Bà làm sao tránh khỏi là “diễn viên” của cái “hí trường” (sân khấu hài) đó? Mặt khác bà đủ bản lĩnh đế thoát ra ngoài hí trường để quan sát, để xúc cảm, để suy ngẫm. Cùng thời với bà, bên trời Tây có Onôrê Đờ Bandấc (Pháp) viết 94 cuốn tiểu thuyết (có tên chung là “Tấn trò đời”) đế mô tả cái “hí trường” của nhân loại. Câu hỏi của Bà Huyện Thanh Quan đặt ra sẽ còn miên viễn vì “hí trường” của con người ngày càng sôi động hơn. Tạo hóa dường như ngày càng “thích đùa” hơn. Cảm nhận về thời gian của nữ sĩ cũng lạ. Cái “hí trường” của tạo hóa vận động không ngừng, “thấm thoắt” trong từng hình ảnh mọc, lặn của các vì tinh tú, “thấm thoắt” trong từng giọt sương đêm trên đầu ngọn cỏ và tan biến dưới ánh ngày. “Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”, hình tượng hóa về sự vận động của thời gian như thế thật là sinh động.
Trong sự vận động “thấm thoắt” của thời gian, mảnh đất ngàn năm văn vật của một thời vàng son chỉ còn lại những dấu tích của tháng ngày:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền củ lâu đài bóng tịch dương”
Hai câu thực giữ nguyên âm điệu cổ điển của câu thơ Đường luật, nhịp 4/3 quen thuộc như “lối xưa”, như “nền cũ”, thích hợp với điệu hoài cảm của bà. Tình cảm của nữ sĩ với Thăng Long là một dòng chảy ngược. Không có một hình bóng, một sắc màu, một âm thanh nào là của hiện tại. Bà nuôi dưỡng, e ấp hình bóng của quá khứ. Một lối đi nhỏ nhoi cũng hằn trong tâm trí bà vì đó là “lối xưa”, với âm thanh vang động của “xe ngựa” thời vàng son. Và ghê gớm hơn, sợi cỏ cũng sống mãi trong hồn bà, gợi lại cả hương thời gian, cả “hồn thu” xưa. Người đàn bà này kì dị thật, chỉ xúc động với những gì tàn phai. Ánh chiều tà chiếu trên “nền cũ lâu đài” cũng gợi cho bà cả một thuở huy hoàng. Ánh sáng của “bóng tịch dương” hay là ánh sáng tích góp trong lòng bà để làm sáng lên hình bóng của quá khứ mà theo bà là lí tưởng?
Hai câu thực thấm đẫm tinh thần hoài cổ, mà nào bà có giấu giêìn, bà đã diễn tả nỗi luyến tiếc quá khứ bằng một thứ nhạc điệu êm đềm, bằng hình thức ngôn ngữ đài các, sang trọng.
Chuyến sang hai câu luận, bút pháp đổi. Hình thức tu từ nhân hóa biểu hiện tình cảm mãnh liệt của nhà thơ với Thăng Long xưa:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt.
Nước còn cau mặt với tang thương”
Nữ sĩ đã chọn một hình ảnh tĩnh (đá) và một hình ảnh động (nước) tiêu biểu cho sự trường tồn trong không gian, thời gian. Dưới nhãn quan của bà, “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”. Hình ảnh nhân hóa “đá vẫn trơ gan” biểu hiện cự tuyệt sự đổi thay của năm tháng, của thời gian. Câu thơ đầy nội lực của một tình yêu son sắt với quá khứ huy hoàng. Hình ảnh nhân hóa “nước còn cau mặt” cũng là một hình ảnh bên trong, của tâm trạng. Nhận ra bộ mặt đau khổ cua nước trước sự biến đổi, “Nước còn cau mặt với tang thương” phải nói là Bà Huyện Thanh Quan là con người yêu quá khứ đến đớn đau. Bà là một thi sĩ hoài cổ kì lạ. Nhìn vào đá, bà thấy tấm lòng của mình, nhìn vào nước, bà thấy chính khuôn mặt của mình, bà yêu thành Thăng Long xưa biết nhường nào. Và bà đã phổ tình yêu non nước sâu thẳm của bà bằng một giai điệu buồn. Tất nhiên nỗi buồn cua bà không ủy mị vì bà hiểu được lẽ lớn của tạo hóa. Cái tịch mịch trong thơ bà vẫn có ánh sáng trác tuyệt của trí tuệ.
Kết thúc bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ”, Bà Huyện Thanh Quan lí tưởng hóa quá khứ và bộc lộ nỗi đau lòng trước sự đổi thay:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh dấy người đây luống đoạn trường”.
Bằng hình ảnh ẩn dụ “ngàn năm gương cù soi kim cổ”; nhà thi sĩ đã tôn vinh quá khứ thành mẫu mực cho xưa nay, cho “ngàn năm”. Đấy là tình cảm cùa một thời đại bế tắc. Tiếc thay một trí tuệ trác tuyệt như Bà Huyện Thanh Quan mà chỉ để hoài cổ. Song người đời có thể thông cảm với nữ sĩ vì nữ sĩ sống trong một chế độ phong kiến đến giai đoạn suy vong, bế tắc. Bà không thể phá phách được như Hồ Xuân Hương mà đành lòng quay về tôn thờ, hoài niệm một quá khứ vàng son đã mất. Cho nên, trở lại Thăng Long, nhìn thây cảnh đổi thay, nữ sĩ hết sức đau lòng “Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Khẳng định về một quá khứ hoàng kim, tác giả dùng động từ “soi” đầy tự hào, diễn tả nỗi đau đứt ruột của một tấm lòng hoài cố’, nỗi đau triền miên, đằng đẵng, tác giả đã dùng từ “luông” (Luông đoạn trường) là những nôt chủ âm kết thúc khúc ca bi thương, và khúc ca thì kết thúc, nhưng hoài niệm về một quá khứ vàng son thì cứ xôn xao mãi trong lòng thi nhân.
“Thăng Long thành hoài cổ” là bài thơ hay của Bà Huyện Thanh Quan. Thề thơ Đường luật điêu luyện, niêm luật chặt chẽ, từ ngữ chọn lọc, thủ pháp biến hóa. Xúc cảm được nén lại. Trí tuệ bộc lộ trong hình thức ngôn từ tráng lệ. Tư tưởng hoài cổ của nữ sĩ biểu hiện sâu sắc, mãnh liệt. Hoài niệm về những tàn dư của Thăng Long là một cách nhà thơ lí tưởng hóa quá khứ. Hoài cổ vốn dĩ là dòng tư tưởng phản lịch sử, ảo tưởng trí thức của một thời. Nhưng xét hoàn cảnh cụ thể lịch sử thì thái độ bất bình của bà đôì với thực tại suy vong tàn tạ của triều Nguyễn là một thái độ sáng suốt, tuy nhiên trí tuệ sáng suôt của bà chưa đủ sức mạnh để bà vượt qua bế tắc của thời đại và trở thành nhà tiên phong về tư tưởng, bà chi đủ quay về tôn vinh cái quá khứ mà bà cho là thời đại hoàng kim. Chúng ta yêu thích nghệ thuật trác tuyệt của bà và chia sẻ những hoài niệm của bà.
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ (mẫu 2)
Bài “Thăng Long thành hoài cổ" của Bà Huyện Thanh Quan, chỉ đọc qua một lần, nhưng cái điệu thơ, hồn thơ làm ta bâng khuâng mãi:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương.
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương.
Ngàn năm tương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà chỉ để lại khoảng 6 bài thơ Nôm, thể thất ngôn bát cú Đường luật. "Qua Đèo Ngang”, “Chiều hôm nhớ nhà", “Thăng Long thành hoài cổ”, “Chùa Trấn Bắc”... là những bài thơ kiệt tác trong nền thi ca trung đại của dân tộc. Ngôn ngữ trang nhã, giọng thơ du dương, điệu thơ chậm và buồn, màu sắc cổ kính, tài hoa... là phong cách thơ của nữ sĩ.
Làng Nghi Tàm ven Hồ Tây là quê cha đất tổ của Bà Huyện Thanh Quan. Xuất thân trong một gia đình quý tộc đời Lê, nên Thăng Long mãi mãi để lại trong tâm hồn nữ sĩ những tình cảm vô cùng sâu sắc. Đầu thế kỉ XIX, Phú Xuân trở thành Kinh đô của triều Nguyễn, Thăng Long được đổi thành Hà Nội. Nỗi niềm tâm sự nhớ xưa kinh thành Thăng Long là nỗi niềm của người đi xa. Có thể Bà Huyện Thanh Quan viết bài thơ này trong thời gian làm nữ quan “Cung trung giáo tập” tại Phú Xuân, những tháng ngày xa cố hương, xa nơi nghìn năm văn vật.
Hai câu trong phần “đề” như một tiếng than cất lên, suy ngẫm về lẽ phế, hưng, đổi thay trong cuộc đời:
"Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”.
“Hí trường” là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui. Ông Trời gây ra làm chi cái cảnh đời như sân khấu, diễn hết trò này đến trò khác. Hai tiếng “gây chi” vừa là lời trách, vừa là lời than. “Cuộc hí trường” ấy cứ diễn ra bao nhiêu trò: khóc, cười, buồn, vui, đã nhanh chóng trải qua nhiều năm tháng. Thăng Long... Đông Đô... Thăng Long... Hà Nội... Sau vần thơ là đôi mắt buồn, nhìn sâu thẳm vào dòng đời, thời gian lịch sử, một cái nhìn xa vắng mênh mông. Có cả tiếng thở dài ngao ngán.
Gần một thiên niên kỉ đã trôi qua. Còn đâu những “vàng son” một thời chói lọi nữa? Hai câu 3, 4 đối nhau, diễn tả cảnh hoang tàn, phế tích của kinh thành xưa:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương"
Đường bàn cờ dọc ngang nơi Long Thành xưa kia từng suốt đêm ngày rộn rịp ngựa xe của các ông hoàng, bà chúa, những xe tứ mã của các vương công, quốc thích. Nhưng nay chỉ còn lại "thu thảo”, cỏ mùa thu vàng úa. “Thu thảo” như một chứng nhân buồn và tàn tạ. Cái hồn mùa thu cũng là cái hồn thiêng sông núi, cái hồn thiêng Thăng Long được cảm nhận từ sắc màu cỏ thu úa vàng, cỏ cây cũng mang nỗi buồn. Con đường càng trở nên vắng vẻ. Những cung điện nguy nga, những lầu son gác tía, những bệ ngọc hành cung huy hoàng, tráng lệ thời Lê - Trịnh vì chiến tranh loạn lạc, vì sự thay chủ đổi ngôi, nay đổ nát hoang tàn, chỉ còn lại “nền cũ"'.
“Nghìn năm dinh thự thành quan lộ,
Một dải tàn thành lấp cố cung”.
“Thành Thăng Long" – Nguyễn Du)
Cảnh vật càng trở nên ảm đạm dưới “bóng tịch dương”, bóng mặt trời lúc sắp lặn. Bao trùm lên vần thơ là một màu vàng tàn tạ: màu vàng úa của “thu thảo”, màu vàng nhạt nhòa của “bóng tịch dương”. Nỗi hoài cổ, nỗi nhổ xưa như dồn nén bao nỗi buồn chất chứa trong lòng nữ sĩ.
Phép đối được sử dụng thần tình: “lối xưa” với "nền cũ", “xe ngựa” với “lâu đài”, “hồn thu thảo” với “bóng tịch dương” được cấu trúc cân xứng, hài hòa. Thanh điệu bằng, trắc hô ứng nhau tạo nên âm điệu du dương, trầm bổng như đưa hồn ta về xa xưa, năm tháng, những thuở vàng son của Kinh thành Thăng Long thời Lý, Trần, Lê, cái buổi hưng thịnh thanh bình...
Nỗi buồn hoài cổ ấy, một lần nữa lại được nữ sĩ diễn tả rất hay trong bài thơ “Chùa Trấn Bắc”, cảnh vật cỏ hoa như còn vương hương một thời quá vãng:
“Trấn Bắc hành cung cỏ dãi dầu,
Khách qua đường dễ chạnh niềm đau.
Mấy dò sen rớt hơi hương ngự,
Năm thức mây phong nếp áo chầu...”
Nhà thơ như đứng lặng trầm ngâm nhìn sắc màu thời gian, nỗi buồn tỏa rộng, càng trở nên thâm thía.
Vật có đổi, sao có dời, nhưng tàn “nước” và , “đá” vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng tuế nguyệt, cùng tang thương. Hai câu trong phần "luận ” nói về “nước” và “đá ” như những chứng nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương”
"Đá" và “nước” được nhân hóa, mang tình người và hồn người. Trên cái “nền cũ lâu đài”, đá thách thức cùng năm tháng “vẫn trơ gan” đau đớn, buồn thương. Nơi bến cũ, hồ xưa, “nước còn cau mặt” với mọi đổi thay, “với tang thương” cuộc đời. Lấy cái bất biến: “vẫn trơ gan", “còn cau mặt” của đá và nước để làm nổi bật cái tang thương cuộc đời là một nét vẽ “hoài cổ" làm rung động lòng người gần hai trăm năm qua. Có trải qua loạn lạc, chiến ưanh và phế hưng ở đời mới thấy hay, mới thấy thấm thía. Phép đối chặt chẽ, cách sử dụng, từ Hán Việt (tuế nguyệt, tang thương) tinh tế, đã làm tăng chất súc cảm của vần thơ. Qua hình ảnh ẩn dụ "đá” và “nước", nữ sĩ gửi gắm nỗi buồn thương nhớ và tiếc nuối kinh thành Thăng Long một thời vàng son, huy hoàng và chói lọi. Chất hoài cổ như thấm vào đáy tầng sâu của lòng người, cảnh vật, cỏ hoa...
Hai chữ "tang thương" (tang điền thương hải), “bể dâu” xuất hiện đậm nét trong thơ văn Việt Nam trong nửa đầu thế kỉ XIX, nhất là trong “Truyện Kiều”, trong không ít bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Đó là dấu ấn một thời:
“Cuộc thương hải tang điền mấy lớp,
Cõi nhân gian thành quách đổi dời.
Tây Sơn cơ nghiệp đâu rồi,
Mà làng ca vũ một người còn trơ!”.
(Long Thành cầm giả ca- thơ dịch)
Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần kết:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
“Gương cũ” là chuyện đời, là quá khứ và hiện tại, là Thăng Long xưa, là Hà Nội nay (thời nhà Nguyễn). Cảnh đấy là “lối xưa”, là “nền cũ”, “hồn thu thảo ” và “bóng tịch dương”, là “đá” và “nước”, là hồn nước thiêng liêng, là Kinh thành xa xưa... “Người đây” là nữ sĩ, là nhân vật trữ tình trong bài thơ. “Đoạn trường" nghĩa là đứt ruột, nỗi đau ghê gớm. Nữ sĩ vô cùng đau đớn trước cảnh hoang phế, hoang tàn của Kinh thành Thăng Long. Nhớ xưa thành Thăng Long là nhớ tới tất cả niềm tự hào những trang sử vàng chói lọi của tiền nhân... Hai chữ “ngàn năm" gợi nhớ thiên niên kỉ Thăng Long huy hoàng. Hai vế tiểu đối: “cảnh đấy" "người đây” làm nổi bật sắc điệu thẩm mĩ tả cảnh ngụ tình. Câu 1 nói về “cuộc hí trường”, câu 8 cực tả "đoạn trường" - đó là cảm xúc chủ đạo của bài thơ. Có chứng kiến, có nhìn thấy sự đổi thay đến thấm thoắt nhanh chóng nơi Kinh thành xưa thì mới có nỗi đau “đoạn trường” đến như vậy.
“Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Từ nhan đề đến thi liệu, từ phép đối đến cách lựa chọn từ Hán Việt, từ ngôn ngữ trang nhã đến nhạc điệu du dương - tất cả tạo nên màu sắc cổ điển, thi vị. Màu sắc hoàng hôn, bóng tịch dương đã tô đậm chất hoài cổ buồn man mác. Nỗi buồn hoài cổ mang tính nhân văn: nhớ tiếc một thời vàng son của Thăng Long cũng là trở về cội nguồn của dân tộc, tự hào về sức sống và nền văn hiến Đại Việt. Bài thơ giúp mỗi chúng ta yêu thêm, gắn bó tâm hồn mình với Thăng Long, Đông Đô, Hà nội, “hồn núi sông ngàn năm”...
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ (mẫu 3)
Bà Huyện Thanh Quan sống vào nửa đầu thế kỉ XIX ở nước ta. Bà xuất thân trong một gia đình quý tộc thời Lê tại làng Nghi Tàm ven hồ Tây. Bà Huyện Thanh Quan là một nữ nhà thơ nổi tiếng trong thời cận đại của lịch sử văn học Việt Nam. Bà tuy sáng tác không nhiều nhưng cái điệu thơ, hồn thơ trong các sáng tác của bà làm ta bâng khuâng nhớ mãi. Trong số các sáng tác của Bà Huyện Thanh Quan thì bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” là một tác phẩm tiêu biểu nói lên nỗi niềm tâm sự nhớ quê hương, nhớ kinh thành của nhà thơ.
Hai câu đề mở đầu bài thơ vừa như một tiếng than, một lời trách móc với những đổi thay trong cuộc đời:
“Tạo hoá gây chi cuộc hí trường,
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương”.
Từ “hí trường” có nghĩa là sân khấu, là nơi diễn trò mua vui. Liệu có phải nhà thơ đang than thở, trách móc ông trời đã tạo nên cuộc đời giống như một sân khấu để diễn hết trò này đến trò khác. Lịch sử thay đổi, các triều đại cũng đổi thay, Thăng Long cũng cứ thế mà thay đổi theo thời gian: Thăng Long… Đông Đô… Thăng Long… Hà Nội… Sự thay đổi ấy làm cho nhà thơ cảm thấy buồn và có chút gì đó như mất mát kèm theo những tiếng thở dài ngao ngán.
Thời gian thấm thoát cũng gần một thiên niên kỷ đã trôi qua, kinh thành xưa một thời hoàng son là thế mà nay chỉ còn lại phế tích, hoang tàn. Hai câu thực sử dụng phép đối đã cho thấy sự thay đổi đến đau lòng của kinh thành Thăng Long:
“Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo,
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”
Long thành xưa kia ngày ngày nhộn nhịp xe ngựa đi lại, nào là xe ngựa của các vương công quý tử, của hoàng thân quốc thích… nhưng ngày nay chỉ còn lại “hồn thu thảo”. Mùa thu càng thêm buồn hơn với màu cỏ thu úa vàng, cảnh vật trở nên tàn tạ, những con đường đã vắng người qua. Những cung điện nguy nga ngày xưa nay cũng đã thay đổi, giờ chỉ còn lại nền cũ. Khung cảnh hoang tàn, đổ nát ấy kết hợp với “bóng tịch dương” – bóng mặt trời lúc sắp lặn làm cho khung cảnh ngày càng ảm đạm hơn, con người cũng chất chứa nỗi buồn. Hai câu thơ đã vận dụng phép đối một cách linh hoạt, thanh điệu bằng trắc hô ứng nhau mang đến giai điệu du dương, trầm bổng, để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Đặc biệt là những người con kinh thành sẽ cảm thấy rất buồn và có chút mất mát trước sự đổi thay của quê hương giống như tác giả.
Dù vật đổi sao dời nhưng tàn “nước” và “đá” vẫn còn đó như những chứng nhân của lịch sử, của phế tích hoang tàn:
“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt,
Nước còn cau mặt với tang thương”
Trong hai câu luận, nhà thơ đã sử dụng biện pháp nhân hóa, trong đó “đá” và “nước” cũng giống như con người, mang tình người và hồn người. Nền đá cũ vẫn còn đó, vẫn thách thức cùng năm tháng, vẫn buồn thương đau đớn. Nơi bến cũ, hồ xưa, nước còn cau mặt với những đau thương, mất mát. Qua những hình ảnh ấy, tác giả đã gửi gắm nỗi niềm tiếc nuối, buồn thương cho một thời vàng son chói lọi của kinh thành Thăng Long – nơi nhà thơ sinh ra và lớn lên. Với cách sử dụng phép đối và từ hán việt (tuế nguyệt, tang thương) một cách tinh tế đã làm tăng chất xúc cảm cho vần thơ.
Cảm xúc hoài cổ dồn nén dâng lên ở hai câu trong phần kết:
“Ngàn năm gương cũ soi kim cổ,
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường”
Gương cũ ở đây ý muốn nói đến chuyện đời, giữa quá khứ và hiện tại hay cụ thể hơn chính là Thăng Long xưa và Hà Nội ngày nay. “Cảnh đấy” chính là những cảnh mà nhà thơ đã nêu ở trên: lối xưa, nền cũ, hồn thu thảo, bóng tịch dương, đá và nước… Trước những cảnh vật như thế, nữ sĩ không khỏi đau xót trước cảnh hoang tàn của kinh thành Thăng Long.
Bài thơ “Thăng Long thành hoài cổ” xứng đáng là viên ngọc quý trong nền thi ca cổ điển Việt Nam. Ngôn từ, thi liệu, cảnh vật… tất cả đã được nhà thơ chọn lựa và sử dụng một cách tinh tế tạo nên bức tranh mang màu sắc cổ điển, thi vị. Bài thơ là nỗi buồn của nhà thơ nhưng qua đó cũng thể hiện tình yêu Thăng Long vô bờ bến của thi sĩ.
Phân tích Thăng Long thành hoài cổ (mẫu 4)
Trong những cuộc săn tìm những bài thơ hay, có giá trị cao về nghệ thuật và nội dung của văn học trung đại Việt Nam, chắc chắn ta không thể quên những bài thơ nôm nổi tiếng của Bà Huyện Thanh Quan. Trong đó có bài “Thăng Long thành hoài cổ”.
Cát bụi thời gian đã cuốn trôi và xóa nhòa mất không ít những tài năng, những thành quả tốt đẹp của con người. Song, cũng rất may mắn khi chúng ta còn lưu giữ được 6 bài thơ nôm đặc sắc của Bà Huyện Thanh Quan, một bậc hiền tài mà tiếng thơm còn lưu danh muôn thuở. Đọc chùm thơ nôm của Bà, nhất là bài “Thăng Long thành hoài cổ”, ta càng hiểu thêm phần nào về tâm hồn, tài năng văn chương uyên bác của bà cũng như tình cảnh đất nước lúc bấy giờ. Bà là một hình ảnh đẹp, một niềm tự hào của phụ nữ Việt Nam thế kỉ XVIII.
Đất nước ngập chìm trong đau thương, ngang trái. Ngai vàng không còn có mặt trời chân lý mà chỉ có những kẻ ngang tàng đầy quyền uy ngự trị. Sự đổi thay đó đã đem đến cho nhà thơ những tiếng thơ đau lòng, bi thương, tiếc nuối thời vàng son đã đi vào dĩ vãng. Tâm trạng ấy, nỗi lòng ấy không chỉ có trong bài thơ “Qua Đèo Ngang” mà rất rõ ràng trong bài “Thăng Long thành hoài cổ”.
Từ hai câu mở đầu, tác giả đã nêu lên một vấn đề quan trọng của thế thời:
Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Không một dấu chấm hỏi, không một dấu chấm than mà câu thơ nghe như lời trách móc ai oán. Tác giả trách Tạo hóa, cỗ máy vạn năng của vũ trụ sao cứ sinh sự ra cho người trần thế những nỗi khổ đau. Trời đất đã sinh ra con người, cho họ được sống, lẽ nào lại cứ khiến xui ra những cuộc tranh giành đẫm máu. Phải chăng đời chỉ là những sân khấu mà tạo hóa đã dàn dựng nên những vở kịch để thưởng thức nó rồi lại xóa nhòa đi tất cả.
Đời người, xã hội như một cõi sắc sắc không không, có đấy rồi lại mất đấy. Hình ảnh sống động, đẹp đẽ của hôm nào đã không còn nữa. Cái hôm nay đã trở thành cái của ngày mai, ngỡ tưởng như giấc chiêm bao. Cái trôi qua nhiều khi lại là cái ta yêu, ta quý nhất nên không khỏi chạnh lòng tiếc nuối. Là một bậc trung quân ái quốc, nặng lòng với nhà Lê theo lý tưởng phong kiến, Bà Huyện Thanh Quan không thể dễ dàng đón nhận triều đại mới với những chính sách tàn bạo của triều Nguyễn. Tấm lòng bà luôn hướng tới thời vợ chồng bà làm quan cho nhà Lê và coi đó là thời vàng son của mình. Bởi vậy, tâm sự hoài cổ kín đáo, u hoài chính là đặc điểm nổi bật trong chùm thơ đường luật nổi tiếng của bà. Đặc biệt, Bà Huyện Thanh Quan còn là người luôn trân trọng, gìn giữ những gì là tốt đẹp của lịch sử dân tộc. Những tinh hoa, truyền thống, cốt cách đẹp đẽ của dân tộc đã trở thành thiêng liêng, bất khả xâm phạm với người quân tử. Ai đã dẫm đạp lên những thành tựu ấy, dẫm đạp lên sự thiêng liêng ấy cũng là dẫm đạp lên cõi lòng thi sĩ. Đâu phải “tạo hóa” mà chính là do con người gây ra. Mượn trách Tạo hóa, thi sĩ ngầm ý lên án mạnh mẽ hành động phi lý của triều Nguyễn đã hủy hoại bao công trình kiến trúc, di tích văn hóa của kinh thành Thăng Long, biến Thăng Long thành mảnh đất hoang tàn, trở về vùng thôn quê để thực hiện cuộc dời đô về Huế, xây dựng một cõi quyền uy, ăn chơi bậc nhất thế gian, làm cho dân tình khánh kiệt. Thành cổ Thăng Long, kinh đô đông vui và đẹp như truyền thuyết bị phá bỏ. Đó là nỗi đau đớn không chỉ của thi sĩ mà của toàn thể người dân Thăng Long, người dân miền Bắc bấy giờ.
Bước chân đi trên thành cổ xưa mà lòng thi sĩ quặn đau khôn xiết:
Lối xưa ngựa cũ hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
Hai câu thơ được phác họa bằng những hình ảnh đối xứng, vẽ nên bức tranh hoang tàn, sầu thảm của thành cổ Thăng Long thời đó. Những cảnh hoa lệ, phồn thịnh của phố xá với những con đường tấp nập ngựa xe, những cậu Hoàng cô Chiêu, những ông to bà lớn xen lẫn với những sĩ tử, thị dân thanh lịch không còn nữa. Lối cũ đưa tác giả trở về hoài niệm. Con đường thì vẫn còn đây mà cảnh xưa chỉ còn là ảo ảnh. Không có con đường mà đến cả những lâu đài nguy nga, tráng lệ cũng bị phá hủy điêu tàn. Chỉ còn “lối xưa - nền cũ”, vết tích của thời thịnh vượng. Là người sống trong thời kì đó, được tận mắt chứng kiến sự đổi thay đó nên tác giả càng xót xa, đau đớn. Một nồi buồn, nỗi đau đớn lớn lao hòa cảm với mọi người, hòa cảm với cả những linh hồn đã khuất của đất Thăng Long. Nhìn cảnh hiện tại chạnh lòng nghĩ tới chuyện xưa, bà không sao chịu nổi:
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Nếu như hai câu trên là bức tranh tả thực rõ đến từng đường nét thì hai câu luận bộc lộ thái độ rất mãnh liệt. Tác giả đã chọn hai đối tượng là “đá - nước” để gửi gắm lòng mình, thổi linh hồn vào đó bằng những cụm từ miêu tả nội tâm đặc sắc “trơ gan - cau mặt”. Hàm ý của hai câu luận rất sâu và rộng. Những tảng đá, mặt nước, trời đất như vẫn còn kia...tất cả được cảm nhận như những nhân chứng quan trọng nhất của lịch sử. sự phối hợp chặt chẽ, logic của phần thực và luận trở nên rất hoàn chỉnh. Thi sĩ không chỉ là viết thơ mà như đang làm việc của một luật sư, một thẩm phán tối cao tập hợp đầy đủ vật chứng, nhân chứng để kết tội, lên án tội ác tàn phá thành cổ Thăng Long của triều Nguyễn. Lịch sử sẽ mãi mãi còn nhắc đến, vạch tội, lên án hành động tội ác ấy, không bao giờ dung tha.
Sự đổi thay u uất của thành cổ là sự thật đã trở thành đề tài lớn để tác giả hướng tới một chủ đề tư tưởng:
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luống đoạn trường.
Ta lại bắt gặp một câu thơ tuyệt bút mà ít thi sĩ có được “Ngàn năm gương cũ soi kim cổ”. Một câu thơ có bút pháp cổ điển rất cao. Tác giả dùng ẩn dụ, so sánh “gương cũ” và nhân hóa ở từ “soi” nhằm xoáy sâu vào chuyện nhà Nguyễn tàn phá Thăng Long là chuyện mà thời gian không thể xóa nhòa. Các từ đồng nghĩa chỉ thời gian vừa là từ thuần Việt, vừa là từ Hán Việt được xếp sắp chặt chẽ ở vị trí đầu và cuối câu theo tình ý nghệ thuật hoàn hảo, sâu sắc như một lời tuyên án.
Những câu thơ tuyệt bút đó thường chỉ có ở người có tài năng sáng tác điêu luyện, có độ dài của sự hiểu biết và sự từng trải. Một nhà phê bình văn học Trung Quốc đã nhận xét rằng:
“Những câu thơ có sức sống nhất là những câu thơ diễn tả được chiều dài của lịch sử. Những câu thơ đó chỉ có được ở các bậc thiên tài”.
Ở Trung Quốc, ta đã bắt gặp câu thơ tuyệt vời như vậy:
Nghìn năm tuyết núi song in sắc
(Tuyệt cú)
Ở Việt Nam, Cụ Nguyễn Khuyến cũng từng có câu như vậy:
Mấy chùm trước giậu hoa năm ngoái
(Thu vịnh)
Câu thơ này của Bà huyện Thanh Quan lại là lời lên án, kết tội hùng hồn, đanh thép. Lấy lịch sử và thời gian làm lý lẽ luận tội, lên án thì quả là không có từ ngữ nào sắc sảo hơn thế. Hậu thế sẽ còn mãi mãi nhắc đến tình cảnh đất nước thời đó cùng nỗi đau tan nát lòng của bà “cảnh đấy người đây luống đoạn trường”. Câu cuối là câu thơ miêu tả tâm trạng đặc sắc, hiện lên chân dung tâm hồn, tính cách của tác giả đang đứng trước sự thật, đang đối diện với sự thật đau lòng này, đang đứng trước nỗi đau lớn lao này. Cùng với từ Hán Việt “đoạn trường” súc tích, có giá trị biểu cảm cao, tác giả đã bộc lộ sâu sắc cảm nhận của mình như đang phải trải qua những ngày tháng đau thương nhất của cuộc đời và của cùng dân tộc. Đó cũng là những từ ngữ đã tạo nên âm điệu buồn bã như tiếng kêu xé lòng trước tiếc nuối, đau thương.
“Thăng Long thành hoài cổ” là một bài thơ hay, có giá trị cao cả về nghệ thuật và nội dung, tư tưởng. Bài thơ mang đậm phong cách cổ điển, chính xác đến từng câu chữ, từng phép đối, thanh điệu theo thi pháp thơ Đường. Với nghệ thuật ẩn dụ, từ ngữ biểu cảm, tác giả đã tạo nên nhiều ngầm ý nghệ thuật và tạo nên nhiều cảm xúc sâu sắc cho người đọc. Qua bài thơ, ta không chỉ ngưỡng mộ tài năng thi ca uyên bác mà càng ngưỡng mộ hơn vẻ đẹp phong cách, tâm hồn, trí tuệ của nữ sĩ.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non (2024) theo Thông tư 12
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên tiểu học (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THCS (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT (2024)