TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Bác ơi (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Bác ơi gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 62 24/12/2024


Phân tích bài thơ Bác ơi

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Bác ơi (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Bác ơi của Tố Hữu.

Dàn ý Phân tích bài thơ Bác ơi

1. Mở bài:

Giới thiệu về tác giả và tác phẩm

2. Thân bài:

a. Bốn khổ thơ đầu: nỗi đau thương khi Bác ra đi

- Hình ảnh buồn bã trước sự rời bỏ của Bác:

+ Từ 'tuôn': Biểu tượng cho sự đau lòng của nhà thơ và cả tâm hồn thiên nhiên khi Bác từ giã cuộc sống.

+ Nhà Bác trống trơn, lạnh lẽo, không còn hơi ấm của Người: Chuông không vang, phòng tắt điện, rèm buông lơi...

+ Sử dụng nghệ thuật câu hỏi tu từ: 'Bác đã ...Bác ơi!': Điều giật mình, thảng thốt, không tin vào sự thật khi nghe tin Bác qua đời.

- Những hình ảnh quen thuộc trong vườn Bác vẫn nguyên vẹn: hoa thơm, trái bưởi chín, nhưng không có Bác nữa.

- Bốn khổ thơ chứa đựng nỗi đau sâu thẳm, lòng bi thương không tận của nhà thơ và cả dân tộc trước cái chết của Người.

- Tố Hữu mở rộng không gian nghệ thuật từ ngôi nhà của Bác đến cả thiên nhiên, đất trời để thể hiện niềm tiếc thương bất tận đối với Bác.

b. Sáu khổ thơ tiếp theo: Hình tượng Bác Hồ sống và hy sinh cho dân tộc:

- Tâm huyết và lý tưởng cao đẹp của Bác: Người hi sinh cả cuộc đời để đem lại độc lập cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân.

- Tình yêu thương của Bác dành cho mọi người, mọi gia đình, và cả thế giới, con người trên mọi miền đất nước.

+ Bác như 'lòng mẹ': Tình yêu cao cả, vô biên như lòng mẹ.

+ Bác quan tâm đến hiện tại, tương lai, và cả những thế hệ sắp tới.

- Tính khiêm tốn của Bác và lòng hy sinh cao cả cho đất nước 'Người để .. lối mòn'.

- Hình tượng Bác Hồ hiện diện đầy chân thật, gần gũi, giản dị, nhưng không kém phần tao nhã, tôn quý.

c. Ba khổ cuối: Cảm xúc trước sự ra đi của Bác:

- Bác rời đi mang theo niềm tiếc thương vô hạn của dân tộc Việt Nam, nhưng theo lời dặn của Bác, cả nước chấp nhận đau đớn, tiếp tục hướng về mục tiêu giải phóng miền Nam.

- Sự tôn kính đặt Người vào thế giới của những tâm hồn vĩ đại.

- Bác sẽ luôn là nguồn sáng soi bóng tâm hồn mỗi người Việt. Hình ảnh của Bác liên kết với đất trời, vững bền mãi mãi.

- Nhịp thơ mạnh mẽ, chứa đựng cảm xúc tiếc thương kết hợp với sự khẳng định vào sức mạnh bền vững của đất nước Việt Nam.

3. Kết bài:

- Chia sẻ cảm xúc cá nhân.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 1)

Trong lời điếu văn đầy xót thương và cảm động đọc trước linh cữu Chủ tịch Hồ Chí Minh, cố Tổng Bí thư Lê Duẩn đã khẳng định: "Dân tộc ta, nhân dân ta. non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại, và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta”.

Nhà thơ Tố Hữu cũng đã thể hiện điều đó trong một bài thơ khóc Bác – Bác - Bác ơi! là tiếng khóc tiễn biệt, là lời "điếu văn bi hùng" bằng thơ (Xuân Diệu). Bài thơ không chỉ bộc lộ nỗi đau xót và tiếc thương, mà còn là sự đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của tác giả về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Giữa lúc cuộc kháng chiến chống đế quốc Mĩ của dân tộc đang tiếp diễn vô cùng gay go, quyết liệt, ngày 2- 9- 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ trần. Người qua đời là một tổn thất lớn lao đối với cách mạng và dân tộc Việt Nam. Trong những ngày ấy, cả dân tộc ta và bạn bè quốc tế đã biểu lộ nỗi tiếc thương, nỗi đau xót vô hạn trước sự ra đi của Người. Trong những ngày ấy, “Đời tuôn nước mắt, đời tuôn mưa..

Bác ơi! của Tố Hữu ra đời trong không khí những ngày đại tang ấy. Bài thơ như một bài "điếu văn bi hùng" thể hiện ở cả kết cấu, giọng điệu lẫn hình ảnh, ngôn ngữ thơ,... Tất cả đã bộc lộ nỗi đau xót, tiếc thương của tác giả đồng thời đúc kết những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bài thơ mở đầu với khung cảnh đau buồn, tang tóc bao trùm lên toàn cõi Việt Nam trong những ngày mất Bác:

"Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

Không hiểu sao trong những ngày Bác mất, trời mưa tầm tã. Phải chăng tổn thất lớn của dân tộc ta đã lay động đến cả trời xanh làm cho cao xanh kia cũng tuôn trào nước mắt? Hay chính là nước mắt của con dân Việt Nam khóc người cha già dân tộc đã thăng hoa, hòa vào vũ trụ và ngưng kết thành mưa? Nhà thơ đã đồng nhất "đời" và "trời" tạo thành một ý thơ có sức khái quát diễn tả nỗi đau lòng mình và nỗi đau dân tộc trước tổn thất quá lớn lao.

Đó là những giọt nước mắt nóng bỏng chất sử thi - một dân tộc anh hùng tiếc thương một anh hùng dân tộc. Nỗi tiếc thương khiến cỏ cây, đất trời bỗng trở nên bùi ngùi, tâm hồn người bỗng trở nên ngơ ngác:

"Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa”

Khung cảnh thiên nhiên, khung cảnh nhà Bác,... tất cả vẫn còn đây, nhưng tất cả đều thẫn thờ:

"Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Chuông ôi chuông nhỏ còn reo

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!…

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây trắng bay”

Đoạn thơ với rất nhiều câu hỏi và câu cảm thán. Những dấu hỏi, dấu cảm, dấu chấm lửng, những thán từ cùng với cách ngắt nhịp chậm, nhịp dài ngắn đan xen đã diễn tả một cách xúc động nỗi tiếc thương nghẹn ngào trong lòng nhà thơ. Bài thơ với lối kết cấu như một bài điếu văn cổ điển (lung khỏi- thích thực- ai vãn).

Tính cổ điển trong kết cấu đã nâng hình tượng thơ và cảm xúc của nhà thơ lên tầm vóc lịch sử và thời đại. Đó là hình tượng của muôn đời và cảm xúc của muôn người. Hình tượng Bác hiện lên trong nỗi tiếc thương vô hạn xen lẫn niềm kính phục thiêng liêng.

Phần thứ hai của bài thơ thể hiện những suy ngẫm, những chiêm nghiệm sâu sắc của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chi Minh: Người là tình yêu bao la, Người mang nỗi lo " muôn mối như lòng mẹ", Người "nâng niu tất cả chỉ quên mình", Người luôn mang hình bóng miền Nam trong trái tim, Người "Một đời thanh bạch, chẳng vàng son",...

Đoạn thơ với chất giọng trầm hùng bi tráng, với những hình ảnh vừa giản dị. vừa lớn lao rất phù hợp với hình tượng Bác Hồ và nỗi tiếc thương, niềm thành kính của nhà thơ đối với Bác. Còn gì đẹp hơn, ý nghĩa hơn khi nhà thơ dùng hình tượng trái tim để biểu tượng cho tình cảm bao la của Bác: "Bác ơi, tim Bác mênh mông thếÔm cả non sông, mọi kiếp người". Còn gì giản dị gần gũi hơn và cũng bao dung trời biển hơn khi nhà thơ so sánh tấm lòng của Bác với tấm lòng của người mẹ:

"Chỉ lo muôn mối như lòng mẹ

Cho hôm nay và cho mai sau"

"Bác sống như trời đất của ta",

Bác đem “Tự do cho mỗi đời nô lệ" và Bác còn "Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa", Bác dành sữa cho em thơ và tặng lụa cho người già. Con người của "trời đất", của "tự do" được lồng trong con người của đời thường. Con người vĩ đại Hồ Chí Minh hòa vào con người bình thường Hồ Chí Minh tạo nên một vẻ đẹp vừa lớn lao, vĩ đại vừa gần gũi, thân thiết. Sinh thời, Bác Hồ luôn dành tình cảm đặc biệt đối với miền Nam.

Bác nói: "Miền Nam luôn ở trong trái tim tôi". Để đáp lại lòng mong mỏi của cháu con trong Nam, Bác đã dự định sẽ vào thăm nhưng dự định chưa kịp thực hiện thì... Tố Hữu đã so sánh:

"Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác nỗi mong cha"

Nỗi nhớ thương miền Nam của Bác giống như "nỗi nhớ nhà" và nỗi mong ngóng Bác của miền Nam giống như "nỗi mong cha". Nỗi nhớ thương gắn với nỗi đau chia cắt thân mình Tổ quốc và khát vọng thống nhất, đoàn tụ. Câu thơ diễn tả một thứ tình cảm rất gia đình nhưng ý thơ vượt lên câu chữ để diễn tả một vấn để mang tính sử thi của thời đại và dân tộc. Đoạn thơ khép lại bằng những hình ảnh suy tưởng mang tính khái quát cao mà vẫn chan chứa cảm xúc:

"Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn".

Bác để lại nhiều: độc lập, tự do, cơm no, áo ấm,... Nhưng tất cả đều xuất phát từ một thứ vô cùng quý giá: "tình thương"- "Bác thương các cụ già", "Bác thương đàn cháu nhỏ", "Bác thương đoàn dân công",... Bác thương dân, yêu nước nên đã ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Bác "nâng niu tất cả chỉ quên mình". Đúc kết cuộc đời Bác, nhà thơ chiêm nghiệm và nhận thấy hai phẩm chất nổi bật: tình yêu thương quên mình và sự giản dị thanh cao.

Tác giả dùng hình tượng "áo vải" mong manh để nói về "một đời thanh bạch", thể hiện phẩm chất giản dị mà thanh khiết vô ngần của Bác. Bác là vậy, giản dị mà vĩ đại, "áo vải" mà "hồn muôn trượng". Đoạn thơ với rất nhiều hình ảnh so sánh, ẩn dụ đã thể hiện một cách sâu sắc những suy ngẫm, chiêm nghiệm của nhà thơ về con người và cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tố Hữu đã vĩnh hằng hóa, bất tử hóa hình tượng Bác Hồ trong thiên nhiên, đất trời và trong lòng người. Đoạn thơ thể hiện niềm cảm phục thành kính, niềm tự hào thiêng liêng trước anh linh của vị cha già dân tộc. Trong niềm xúc động, niềm cảm phục và tự hào, nhà thơ đã thay mặt con dân nước Việt thầm nói lên lòng mình:

"Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!

Ra đi, Bác dặn: "Còn non nước..”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều".

Và thầm hứa với Bác:

"Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn

Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn".

Biến đau thương thành hành động, cả dân tộc Việt Nam đã đứng lên thực hiện di chúc của Bác. Sáu năm sau ngày Bác đi xa. chúng ta đã "đánh cho Mĩ cút, đánh cho Ngụy nhào", đem lại hòa bình, thống nhất, nối liền một dải non sông và xây dựng đất nước ngày càng "đàng hoàng hơn, to đẹp hơn". Trong số rất nhiều những bài thơ viết về Bác, cùng với trường ca Theo chân Bác, Bác ơi! là một thành công lớn của nhà thơ Tố Hữu.

Bài thơ là niềm xúc động dâng trào và những chiêm nghiệm sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị Cha già dân tộc, người anh hùng vĩ đại của thế kỉ XX. Bác ơi! là bài thơ khóc Bác nhưng đó là những dòng nước mắt nóng bỏng chất sử thi.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 2)

Bài thơ "Bác ơi!" của Tố Hữu được sáng tác vào ngày 6-9-1969, chỉ bốn ngày sau khi Chủ tịch Hồ Chí Minh qua đời, là một tác phẩm vô cùng xúc động và mang đầy ý nghĩa. Bài thơ này được viết theo thể thơ thất ngôn trường thiên, gồm 13 khổ, mỗi khổ có 4 câu, thể hiện nỗi đau xót, tiếc thương và lòng kính trọng vô bờ của nhân dân Việt Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu.

Mở đầu bài thơ là tiếng khóc ai oán. Sự ra đi của Bác Hồ để lại một khoảng trống vô cùng lớn trong lòng mỗi người dân Việt Nam và bạn bè quốc tế. Nỗi đau này như bao trùm cả vũ trụ, không gian và thời gian:

"Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa..."

Câu thơ "tuôn" được lặp lại hai lần, nhấn mạnh nỗi đau thương, mất mát vô cùng to lớn của dân tộc. Qua những dòng hồi ký của Tố Hữu, ta biết rằng khi Bác mất, nhà thơ đang đi công tác xa. Nghe tin, ông vội vã trở về, lòng đau đớn khôn nguôi:

"Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!"

Sự ra đi của Bác Hồ khiến ngôi nhà sàn nhỏ bé, nơi Bác từng sống và làm việc, trở nên vắng lặng, hiu quạnh. Tiếng chuông không còn reo, đèn đã tắt, rèm buông. Tất cả như ngừng lại trong nỗi đau thương:

"Chuông ôi chuông nhỏ còn reo nữa

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!"

Miền Nam, nơi Bác hằng mong mỏi được đến thăm, đang trên đà chiến thắng. Nhưng giờ đây, ước mơ được thấy Bác cười, được đón Bác vào thăm đã tan biến:

"Miền Nam đang thắng, mơ ngày hội

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười!"

Nỗi đau này không chỉ là của con người mà còn là của cỏ cây, hoa lá. Những hình ảnh quen thuộc trong cuộc sống của Bác như vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hoa nhài, ao cá, tất cả đều mang nỗi buồn, sự cô đơn:

"Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây bay..."

Tố Hữu đã khéo léo tạo nên một không gian nghệ thuật rộng lớn, từ đất trời, niềm Nam đến ngôi nhà sàn nhỏ bé của Bác, đồng hiện một tâm trạng chung: nỗi đau xót, tiếc thương ngấm sâu vào lòng người. Ngày 2 tháng 9 năm 1969, ngày Bác Hồ ra đi mãi mãi, trở thành ngày quốc tang của cả dân tộc.

Sáu khổ thơ tiếp theo của bài "Bác ơi!" ca ngợi tình yêu nước, lòng thương dân vô bờ của Hồ Chí Minh. Bằng hình ảnh hoán dụ, Tố Hữu tôn vinh phẩm chất cao đẹp của Bác:

"Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp người."

Tác giả dùng nghệ thuật liệt kê để nhắc lại tấm lòng nhân ái bao la của Bác, nỗi lo của Bác cho muôn dân, cho cả hôm nay và ngày mai:

"Bác sống như trời đất của ta Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa Tự do cho mỗi đời nô lệ Sữa để em thơ, lụa tặng già."

Tình cảm của Bác đối với chiến sĩ và đồng bào miền Nam luôn ấm áp, sâu nặng:

"Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa."

Tố Hữu không chỉ khóc thương Bác mà còn làm sống lại tâm hồn Hồ Chí Minh qua những câu thơ đầy cảm xúc. Điệp ngữ "vui" cùng các động từ "nâng niu, quên" thể hiện sâu sắc tâm hồn lạc quan, yêu đời, giàu đức hy sinh của Bác:

"Bác vui như ánh buổi minh

Vui mỗi mầm non, trái chín cành

Vui tiếng ca chung hòa bốn biển

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình."

Cuộc sống giản dị, thanh bạch của Bác được miêu tả qua những hình ảnh gần gũi: chiếc va li nhỏ, vài ba bộ quần áo đơn sơ, đôi dép cao su... Tất cả đều toát lên phong cách giản dị mà vĩ đại của Người:

"Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn."

Ba khổ thơ cuối là tiếng khóc, sự ghi nhớ và lòng biết ơn vô bờ của nhân dân đối với Bác. Sự nghiệp cách mạng và đạo đức của Bác mãi mãi là ánh hào quang soi đường, là tài sản tinh thần vô giá:

"Còn non, còn nước, còn người,

Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười ngày này."

Nhân dân ta nguyện ghi sâu trong lòng lời dặn của Bác, quyết tâm hoàn thành sự nghiệp cách mạng mà Bác để lại. Bài thơ kết thúc bằng lời thề chiến đấu, như một lời hứa sắt đá với Bác:

"Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn."

Tố Hữu là nhà thơ viết về Bác Hồ nhiều nhất, sâu sắc nhất. Hình ảnh Bác Hồ "Người là Cha, là Bác, là Anh - Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ" đã in đậm trong nhiều trang thơ của ông. "Bác ơi!" là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất viết về Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 3)

Chiều ngày 2/9/1969, tin Bác Hồ mất đến với Tố Hữu khi ông đang điều trị ở bệnh viện. Ông vội trở về, tìm đến ngôi nhà sàn thân quen. Trời mưa tầm tã, xung quanh vắng lặng. Lòng trĩu buồn, đêm hôm ấy ông ngồi viết bài thơ này. Xuân Diệu cho đây là bài “điếu văn bi hùng”. Bài thơ thể hiện nỗi đau thương tột độ và sự cảm nhận bao quát về cuộc đời, phẩm chất và đức độ của lãnh tụ.

Hai câu thơ đầu, nhà thơ nhắc đến không khí đau buồn bao trùm đất nước, tạo ra chất bi hùng của sự kiện Bác mất. Cả nước khóc thương Người:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt trời tuôn mưa…

Hình ảnh người con vắng Bác lúc đầu mang tâm trạng trống vắng bơ vơ dáng dấp, bước chân thẫn thờ trông thật tội nghiệp:

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Không gian nơi Bác ở cũng nhuốm màu tang thương li biệt:

Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Hoa lá cỏ cây vắng hơi Người cũng ngơ ngơ ngác ngác:

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!

Tác giả sử dụng bút pháp quen thuộc với thơ ca truyền thống, gởi tâm trạng vào cảnh vật, từ ngoại cảnh mà thấy bức tranh tâm trạng, tâm hồn – sự trống vắng hụt hẫng, nỗi thương lớn lao khi mất Bác. Ngôn ngữ đối thoại nội tâm làm cho chân dung nhân vật trữ tình hiện lên chân thực, tự nhiên. Dòng thơ tuôn chảy một cảm xúc dạt dào. Cảm xúc đau buồn tạm nguôi ngoai, nhà thơ nhắc đến chân dung lãnh tụ, những tâm sự vui buồn của Người khi còn sống:

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu.

…Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui nỗi mầm non trái chín cành (…)

Từ đó mà ý thơ chiêm nghiệm tổng quát:

Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông trọn kiếp người.

…Nâng niu tất cả chỉ quên mình.

Ở lãnh tụ có bao phẩm chất cao đẹp nhưng tình thương và đức hi sinh của Người đã làm nên sự vĩ đại và bất tử. Tình nhân ái của Người vừa cụ thể thiết thực: sữa để em thơ, lụa tặng già vừa bao quát cả nhân loại còn khổ đau: nỗi năm châu – sự chia rẽ của phong trào cộng sản thế giới lúc bấy giờ.

Biện pháp so sánh tấm lòng của Bác như lòng mẹ làm cho hình tượng lãnh tụ vừa gần gũi vừa cao cả trong tình thương. Những dòng thơ vừa có cảm xúc dạt dào vừa cô đọng, khái quát về lí tưởng sống của Người. Phong cách lối sống của Người khiến ai cũng phải ngưỡng mộ: Bác sống như trời đất của ta.

Khi đã thấu hiểu lòng người và lẽ trời thì con người sẽ có cách ứng xử phù hợp với tự nhiên nên hòa hợp với thiên nhiên. Con người ấy đã hòa nhập với tự nhiên vì đạt được những cái tự nhiên, nghĩa là đạt đến cái huyền diệu cao sâu của sự sống.

Và khi ấy con người sẽ nhận được sự nâng đỡ của tự nhiên để trường tồn cùng trời đất: Đó là ngọn nguồn sâu xa trong tinh thần lạc quan yêu đời của Bác, sinh thời Bác rất yêu thiên nhiên cây cỏ, chim muông và thích được sống giữa thiên nhiên. Cách ứng xử ấy biểu hiện bên ngoài của sự hòa đồng với trời đất.

Một đời thanh bạch chẳng vàng son

Mong manh áo vải hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi giữa lối mòn.

Nghĩ đến dân, đến nước mà không hề nghĩ đến mình là sự hi sinh và đức độ còn sống giản dị là hòa nhập với tự nhiên và là phong cách, phẩm chất trong sáng. Suốt cuộc đời người tận tụy hi sinh vì nước đến mức quên mình , còn bản thân Người sống đạm bạc, thanh sạch, cao khiết và rất mực giản dị.

Tấm gương đạo đức và nhân cách ấy làm cho Người trở nên vĩ đại giữa đời thường và bất tử trong lòng dân tộc, trở thành biểu tượng về con người Việt Nam đẹp nhất mọi thời đại. Những câu thơ giàu cảm xúc của Tố Hữu đã đạt đến sự cô đọng hàm súc và sức khái quát về nhân cách và lối sống Hồ Chí Minh. Ba khổ thơ cuối bài, cho dù tấm lòng có tiếc nhớ nhung nỗi buồn đã khuây khỏa nên tâm hồn bừng sáng lên niềm tin khi nghĩ về tương lai:

Bác đã lên đường theo tổ tiên

Mác-Lê nin thế giới Người Hiền

Ánh hào quang đỏ thêm sông núi

Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!

Nguyện theo con đường, lí tưởng mà Bác đã chọn, tiếp tục cuộc hành trình nên nhà thơ thấy vững vàng, cứng rắn hơn khi nghĩ rằng Bác luôn bên cạnh:

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.

Âm hưởng đoạn thơ cuối điềm tĩnh, sâu lắng. Tình thương dạt dào đã lắng lại nên trí tuệ lắng kết một chân lí. Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Trước kia, trong bài thơ Sáng tháng Năm, Tố Hữu cũng đã thấy: "Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta / Ta bỗng lớn ở bên Người một chút".

Đây là vẻ đẹp, sức cuốn hút kì diệu của lãnh tụ và ánh sáng tinh hoa của một nhân cách lớn có sức mạnh chinh phục, có tác dụng thanh lọc tâm hồn, nâng cao sức mạnh cho người đối diện. Sau này nhà thơ Việt Phương cũng viết:

Nguồn ánh sáng đến muôn đời chẳng tắt,

Vượt cao hơn sự chết, vẫn soi đường.

(Muôn vàn tình thân yêu bao trùm lên khắp quê hương)

Cuối bài thơ là niềm tin vào sự trường tồn của lãnh tụ trong sự nghiệp cách mạng, trong sự trường tồn của dân tộc. Bài thơ là tiếng khóc cao cả làm bất tử một con người cao cả.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 4)

'Bác ơi' là tác phẩm của Tố Hữu, sáng tác ngay sau khi Bác Hồ ra đi. Cảm xúc trải rộng khắp bài thơ là sự tiếc thương vô bờ với vị lãnh tụ được dân tộc Việt Nam trân trọng, ca ngợi tình yêu quê hương và nhân dân của Người.

Bài thơ bắt đầu bằng tiếng khóc nghẹn ngào của nhà thơ, cũng chính là âm thanh thương tâm của hàng triệu tâm hồn Việt Nam trước sự ra đi của Cha già dân tộc:

'Mấy ngày nay nước mắt tuôn dài
Đời đau mất Bác, trời cũng mưa...'

Nhà thơ Tố Hữu diễn đạt bằng từ 'tuôn' như muốn khẳng định sự đau lòng mãnh liệt của con người và cả thiên nhiên khi Bác rời xa. Nỗi đau ấy lan tỏa khắp tâm hồn và trời đất.

Tố Hữu, nhà thơ Cách mạng tràn đầy nhiệt huyết, gần gũi với Bác Hồ, người Cha già được dân tộc yêu mến. Nhưng khi Người ra đi, ông ở xa, nghe tin tức, ông 'chạy về thăm Bác'.

Những hình ảnh xưa vẫn giữ nguyên, căn nhà sàn Bác từng ở giờ đây trở nên trống trải, lạnh lẽo đến tận cùng:

'Con bước về theo con đường cũ
Đến chân thang, nhìn lên mặt trời
Chuông kia ơi, còn vọng lời kia?
Phòng trống, rèm buông, ánh đèn tắt!'

Những vật dụng bên trong ngôi nhà giờ đây trở nên đứng im, chuông không vang, phòng tối, rèm mành buông, gốc cau, gốc dừa ướt sương... tất cả đã mất đi hơi ấm của Bác. Đối với Tố Hữu, điều đó thật đau lòng, thật khắc sâu! Nhà thơ lang thang trên 'lối đá quen' nhưng tất cả chỉ là ký ức, vì Bác Hồ đã rời xa thế giới này, đau lòng và đắng cay biết bao!

Và như là nhà thơ vẫn chưa chấp nhận sự thật, ông nổi tiếng khóc nức nở, giật mình trong thảng thốt, gọi tên Bác:

'Bác đã ra đi, Bác ơi!
Mùa thu đẹp, nắng rơi xanh trời'

Mùa thu ấy tự nhiên trở nên tươi đẹp, mọi người đều hân hoan vì lúc đó, chiến trường vẫn tiếp diễn, cả miền Nam đang chứng kiến chiến thắng. Tất cả đều mơ ước về ngày thống nhất đất nước, Bác Hồ sẽ đến thăm miền Nam, cả miền Nam hân hoan chào đón Người trong nắng mới:

'Miền Nam hồi sinh, mơ về ngày hội
Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười'

Ngôi nhà Bác từng ở và làm việc vẫn hiện hữu, cây bưởi mọc trái ngọt, hoa nhài nở thơm, nhưng không còn 'bóng Bác đi sớm hôm'. Nhịp thơ ở đây chứa đựng sự nghẹn ngào, câu hỏi liên tục đặt ra như biểu hiện cho nỗi đau vô tận của nhà thơ:

'Trái bưởi kia vàng ngọt cho ai?
Hương thơm của hoa nhài dành cho ai!'

Bốn khổ thơ là biểu tượng của niềm tiếc thương không lối thoát của nhà thơ và cả dân Việt trước khi Bác Hồ rời đi. Nỗi đau không chỉ là của con người mà còn là của thiên nhiên, trời đất! Không gian nghệ thuật trong bốn khổ thơ được Tố Hữu mở rộng từ ngôi nhà Bác tới thiên nhiên, miền Nam, đất trời, tất cả hòa quyện trong nỗi đau khi Bác Hồ ra đi.

Sáu khổ thơ tiếp, Tố Hữu khắc họa hình ảnh Cha già dân tộc với tấm lòng yêu thương rộng lớn và những phẩm chất cao quý.

Cuộc đời Người đầy ước mơ giành lại độc lập cho đất nước, mang lại tự do và hạnh phúc cho nhân dân. Dù đã hi sinh cả cuộc đời cho sự nghiệp cứu nước, nhưng khi ra đi, sứ mệnh ấy vẫn chưa hoàn thành, tâm hồn Người vẫn chưa 'thảnh thơi':

' Ôi, ước gì lòng được nhẹ nhàng
Nặng trĩu nỗi thương vẫn chưa quên'

Câu thơ thể hiện sự kính trọng đối với Bác và cảm xúc bi thương cho những nỗ lực không ngừng của Người. Bác luôn tràn đầy yêu thương, dành cho mọi người và cho đất nước, làm hòa mình với lịch sử dân tộc. Tố Hữu sử dụng hình ảnh tinh tế để miêu tả điều này:

'Bác ơi, trái tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người'

Hai dòng thơ ca ngợi tình yêu nước sâu sắc và lòng thương người rộng lớn của Bác Hồ dành cho dân tộc Việt Nam, cũng như cho 'mọi kiếp người' đau khổ trên thế giới. Đây có lẽ là những câu thơ đặc sắc nhất, nổi bật trong bài thơ!

Khi Bác ra đi, miền Nam vẫn cháy lên trong hỏa lửa, Bác không buồn nhưng đau xót và lo lắng cho đất nước, cho năm châu vẫn chưa biết đến hòa bình. Nhà thơ sử dụng liệt kê để nói về những 'đau thương' mà Bác còn mang, khẳng định tình yêu vô biên của Bác với mọi người, mọi nhà, và với vạn vật trên thế giới này:

'Bác chẳng buồn, chỉ đau lòng thôi
Nỗi đau dân tộc, nỗi đau năm châu
Bác lo mối mọi như mẹ lo
Cho hôm nay và cho mai sau...'

Lòng Bác như trái tim mẹ hiền, thương con dại. Bác sống vĩ đại 'như trời đất của ta', yêu thương, chăm sóc 'ngọn lúa, cành hoa', cho 'mỗi đời nô lệ', đặc biệt là trẻ em và người già.

Bác dành tình cảm sâu nặng cho chiến sĩ ở tuyến đầu, miền Nam luôn trong tim Bác. Bác dõi theo từng 'bước trên tiền tuyền', hạnh phúc khi nghe tin thắng trận.

'Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha
Bác nghe từng bước trên tiền tuyến
Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa'

Các câu thơ ở đây đều chứa đựng cảm xúc, khẳng định tình yêu thương chân thành, lòng mong mỏi đất nước độc lập tuyệt đối. Tố Hữu khóc thương, nhưng từ đó, tâm hồn và tình yêu rộng lớn của Bác Hồ được làm sống dậy.

Khổ thơ tiếp theo, chúng ta bắt gặp một chuỗi từ 'hạnh phúc' hiện diện khắp các dòng thơ:

'Bác hạnh phúc như ánh buổi bình minh
Hạnh phúc mỗi mầm non, trái chín cành
Hạnh phúc tiếng ca chung hoà bốn biển
Nâng niu tất cả, chỉ quên mình'

Nhà thơ làm hồi sinh tâm hồn của Bác, khuấy động những ước mơ của Người. Bác 'nâng niu' mọi thứ nhưng lại 'quên' bản thân mình. Vì sống là để dành cho dân tộc Việt Nam, Bác đã hy sinh, đã quên mình. Tâm hồn cao cả, lý tưởng đáng tự hào!

Bác sống cuộc đời giản dị, thanh bạch, khiêm nhường và hy sinh. Khi Người ra đi, chỉ có vài bộ quần áo sơ sài, vài đôi dép cao su mộc mạc, 'chẳng vàng son', như một bức 'tượng đồng phơi lối mòn', để lại cho chúng ta tình yêu thương vô biên, một tâm hồn 'muôn trượng' thế gian:

'Bác gửi tình thương cho chúng con
Một đời thanh bạch, chẳng vàng son
Áo vải hồn mong manh nhưng trọn vẹn
Vĩ đại như tượng đồng phơi lối mòn'.

Đức tính giản dị là một trong muôn và một đức tính tốt đẹp mà Người để lại cho chúng ta học hỏi. Tố Hữu vẽ nên hình ảnh của Người giản dị nhưng vô cùng cao quý, tình yêu thương và sự hy sinh của Người cho dân tộc sẽ mãi mãi được kính trọng và yêu mến!

Ba khổ cuối cùng của bài thơ, nhà thơ đặt những cảm xúc của mọi con người vào đó để thể hiện niềm tiếc thương trước sự ra đi của Người.

Người đã rời bỏ chúng ta vĩnh viễn, để lại nỗi tiếc thương không lối thoát. Tuy nhiên, lời dặn dò của Bác vẫn còn đó, chúng ta phải kiềm chế đau buồn để tập trung vào công việc giải phóng miền Nam, thực hiện di chúc của Người trước khi lên đường xa xôi:

'Bác Hồ ơi, những chiều buồn
Nghìn thu nhớ Bác, lòng không thể nói!
Bác dặn: 'Còn non nước...' âm vang
Lòng chúng con, nặng trĩu khóc đau'

Bác đã rời bỏ, lòng thành kính của chúng con hướng về Người, tiễn đưa Người vượt biển cả. Lý tưởng và bài học Người để lại sẽ là ngọn đèn đỏ dẫn đường cho chúng con tiến lên, chiếu sáng con đường của cả dân tộc.

Người sẽ luôn là tấm gương hy sinh vì Tổ quốc mà chúng con theo đuổi. Bác đã liên kết tâm hồn với sông núi, theo dõi bước chân của chúng ta, để non sông Việt Nam sẽ mãi mãi vững bền:

'Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Khắc sâu như dãy Trường Sơn'.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 5)

Ngày 2 - 9 - 1969, Hồ Chủ Tịch tạ thế. Cả một rừng thơ khóc Bác xuất hiện, trong đó nổi bật lên cây đại thụ Tố Hữu với bài thơ "Bác ơi!". Bốn khổ thơ đầu nói cái đau xót tột cùng của thi sĩ trước sự kiện Bác ra đi:

Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa.

Trời mưa tầm tã cộng với nước mắt hàng triệu người khóc vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc đã làm cho cả không gian ướt lạnh, đau buồn. Khi Bác đi xa, Tố Hữu đang nằm điều trị ở bệnh viện. Nghe tin, nhà thơ hoảng hốt chạy về phủ Chủ tịch, nơi nhà sàn của Người: Chiều nay con chạy về thăm Bác. Từ "chạy" được dùng rất tài, nói lên sự nóng gan nóng ruột của người con khi nghe tin cha mất.

Con lại lần theo lối sỏi quen

Đến bên thang gác đứng nhìn lên

Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!

Ta thấy tác giả rất ý tứ cho nên "đến bên thang gác đứng nhìn lên" mà chưa vào nhà vội. Vì sao vậy? Vì đến thăm một người tạ thế là thăm vợ góa, con côi. Còn Bác không có gia đình thì xử lí như Tố Hữu là rất tinh tế. Nhà Bác hôm nay đã khác xưa rồi: Chuông không còn reo để báo tin với Người có khách đến. Đặc biệt câu thơ: "Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn", bị cắt ra làm ba nhịp như muốn diễn tả nỗi nghẹn ngào của Tố Hữu. Nhìn vườn cây Bác từng vun trồng, tác giả bâng khuâng:

Trái bưởi kia vàng, ngọt với ai

Thơm cho ai nữa hỡi hoa nhài!

Hai câu này làm cho một số độc giả thắc mắc: Chẳng lẽ Bác trồng cây chỉ cho một mình Bác thôi ư? Tôi đã có dịp hỏi nhà thơ Xuân Diệu; thi sĩ bảo: Ai lại đi thẩm định văn chương như vậy! Đây chỉ là một cách nói của thi ca để biểu lộ tình thương sâu sắc của con đối với Cha mà thôi. Cha chết không thương Cha hay sao?

Nhìn ao cá, nhà thơ bỗng tiếc nuối:

Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây trắng bay...

Bác hiện lên trong kí ức đẹp như một ông Tiên trong thần thoại. Đúng! Trong tâm trí nhà thơ cũng như trong tâm trí dân tộc ta, Bác là một "Ông tiên Mác - xít". Sau những ngày bàng hoàng đau xót, nhà thơ bình tâm lại, khắc họa hình tượng Bác. Tố Hữu đã viết nhiều bài thơ về Bác nhưng bài này hay hơn cả vì đây là thơ tổng kết một cuộc đời.

Hình ảnh bao trùm là: "Bác ơi tim Bác mênh mông thế". Đó là một trái tim giàu tình thương: "Ôm cả non sông, mọi kiếp người". Một trái tim thương nước, thương dân bao la, mênh mông. Từ "ôm" được dùng rất gợi cảm: ôm là nâng niu, che chở, giữ gìn. Thương bao nhiêu thì đau bấy nhiêu:

Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu

Từ "đau" là lấy lại chữ dùng của Bác trong di chúc. Đau dân nước vì dân nước đang bị đế quốc xâm lược; đau năm châu vì có sự bất hoà trong phong trào cộng sản quốc tế. Chỉ con người vĩ đại mới có nỗi đau đớn lớn lao như thế. Có một câu thơ tuyệt hay nói về cuộc đời của lãnh tụ: Bác sống như trời đất của ta.

Câu thơ giản dị mà hàm chứa một nội dung sâu sắc: Cuộc đời Bác đã hoà làm một với thiên nhiên, sẽ vĩnh hằng như thiên nhiên. Đó là nguồn gốc tinh thần lạc quan của Người:

Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui mỗi mầm non, trái chín cành

Vui tiếng ca chung hoà bốn biển

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình

Vì sao vậy? Vì giải phóng miền Nam là trung tâm của cách mạng Việt Nam lúc bấy giờ. Nhiều người gặp Bác đều kể lại mỗi khi trò chuyện, thế nào Người cũng nhắc đến miền Nam. Trong phòng của Bác có treo bản đồ miền Nam về sự bố trí binh lực của địch. Có lần phát biểu trước Quốc hội, Người nói: "Miền Nam luôn trong trái tim tôi". Đạo đức của Bác thật cao khiết:

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn.

Bác là vị lãnh tụ kiểu mới; khác với những người ưa sùng bái cá nhân. Vì tâm hồn Bác giàu quá (hồn muôn trượng) nên bề ngoài Bác rất giản dị (mong manh áo vải). Bác không cần tượng đồng vì nhân dân đã đúc cho Người hàng triệu tượng trong tim. Trong ba khổ cuối, nhà thơ nói lên cảm nghĩ của nhân dân ta trước sự ra đi của Bác. Trước hết là nhớ lời Di chúc:

Ra đi Bác dặn: "Còn non nước..."

Nghĩa nặng lòng không dám khóc nhiều

Câu thơ nhắc lại lời Người:

"Còn non còn nước còn người

Thắng giặc Mỹ ta sẽ xây dựng hơn mười ngày nay".

Vậy thì thương Bác tức là phải làm theo lời Bác dặn, tập trung sức để giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Bác Hồ nay đã nhập vào một thế giới đặc biệt: Mác-Lê Nin thế giới Người Hiền. Hiền ở đây là hiền minh, hiền triết - tức là những vĩ nhân có trí tuệ siêu việt có đạo đức cao cả. Chính những con người đó đã dẫn dắt lịch sử tiến lên không ngừng.

Kết thúc thi phẩm này, Tố Hữu có một câu thơ rất hay: Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn. Yêu Bác làm theo tấm gương trong suốt như pha lê của Người; sẽ có sức mạnh tẩy sạch những vết mờ đục trong lòng ta, nâng chúng ta lên tầm cao mới. Chúng ta quyết biến đau thương thành sức mạnh:

"Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn".

Bài thơ "Bác ơi" là một điếu văn bi hùng. Lối thơ thất ngôn tạo nên một nhạc điệu trang trọng, cùng với hình ảnh thơ kì vĩ đã diễn đạt rất tài tình những cảm xúc cao đẹp của toàn thể dân tộc ta trong những ngày quốc tang năm 1969.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 6)

Bác Hồ mất (2-9-1969) nhân dân cả nước và thế giới xúc động, đau đớn, tiếc thương vô hạn. Nhiều nhà thơ đã làm thơ viếng Bác. Mỗi bài thơ là cả tấm lòng của thi nhân tưởng niệm vị lãnh tụ kính yêu. Nhưng có lẽ bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là bài thơ cảm động nhất, hay nhất! Cũng dễ hiểu, Tố Hữu tài lớn hơn mà tình (lòng yêu mến, kính trọng, tiếc thương vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc) cũng lớn hơn.

Thơ tuôn chảy theo nguồn cảm xúc dào dạt một cách tự nhiên, hồn nhiên, không dụng công, không kĩ xảo:

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa

Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa...

Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn rau, mấy gốc dừa!”

Nhà thơ chỉ nói sự thật của lòng mình, của “lòng trời” mà chấn động tâm hồn người đọc. Mấy câu thơ mở đầu bài “Bác ơi!” gợi cho ta nhớ lại những ngày ướt át, đau buồn đó. Bác Hồ vừa mất, trời đổ mưa kéo dài suốt tuần lễ. Hàng triệu người đi viếng Bác trong mưa lạnh, không còn phân biệt được nước mưa hay nước mắt. Nhà thơ Tố Hữu “chạy về” từ bệnh viện, đến bên thang gác, nghẹn ngào:

“Chuông ôi, chuông nhỏ còn reo nữa?

Phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn!”

Nhạc thơ đã nói lên tất cả. Câu thơ cắt nhịp 2/2/3 (phòng lặng/ rèm buông / tắt ánh đèn) đứt đoạn, tức tưởi, đau đớn! Bác đã đi rồi! Làm sao nhà thơ có thể tin được điều đau lòng đó? Cuộc sống quanh Bác vẫn nguyên lành, tươi đẹp “Mùa thu đang đẹp, nắng xanh trời”, bao nhiêu tin tưởng, bao nhiêu hi vọng của nhân dân miền Nam đối với vị lãnh tụ kính yêu! Nhà thơ cảm thấy yếu đuối trước mất mát to lớn của dân tộc, một chút mềm lòng thành kính đó cũng rất đáng quý:

“Trái bưởi kia vàng ngọt với ai

Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!”

Mới đó mà vị lãnh tụ đã trở thành người thiên cổ, trong hoài niệm của thi nhân, Người đi như trong cõi tiên:

“Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm

Quanh mặt hồ in mây trắng bay...”

Nhà thơ nghĩ thương Bác, một đời chỉ biết lo toan cho thiên hạ:

“Ôi, phải chi lòng được thảnh thơi

Năm canh bớt nặng nỗi thương đời”

Và nhà thơ ca ngợi vị lãnh tụ kính yêu:

“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế

Ôm cả non sông, mọi kiếp người

Nhà thơ ca ngợi trái tim yêu thương “mênh mông” của Bác. Chính nguồn tình cảm cao quý này đã tạo ra sức mạnh vô biên cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc. Và Tố Hữu đã khái quát thành hai dòng tình cảm lớn là tình yêu nước (ôm cả non sông) và lòng thương người (mọi kiếp người). Tìm hiểu con người Bác và thơ Bác, chúng ta càng thấy khái quát của Tố Hữu thật là sâu sắc. Rồi tác giả mở rộng những khía cạnh của hai dòng tình cảm lớn đó:

“Bác chẳng buồn đâu, Bác chỉ đau

Nỗi đau dân nước, nỗi năm châu”

Nỗi đau của Bác là “nỗi đau dân nước”, nhân dân còn lầm than, Bác “đau”, đất nước còn chia cắt, Bác “đau”. Bác còn “đau” vì nhiều dân tộc của “năm châu” còn bị nhiều ách xiềng xích, Bác còn đau vì sự chia rẽ của phong trào cộng sản quốc tế lúc bấy giờ.

Mỗi một nhận định, một minh chứng của Tố Hữu vừa có giá trị khái quát lại vừa cụ thể sinh động, làm nổi bật những khía cạnh tình cảm và tư tưởng phong phú của vị lãnh tụ:

“Bác sống như trời đất của ta

Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa

Tự do cho mỗi đời nô lệ

Sữa để em tha, lụa tặng già.”

Tố Hữu cũng hiểu thấu nỗi lòng của Bác đối với miền Nam nên đã dành hẳn một khổ thơ để diễn tả tình cảm sâu nặng của Bác đối với nhân dân miền Nam và tình cảm thiêng liêng của nhân dân miền Nam đối với Bác:

“Bác nhớ miền Nam, nỗi nhớ nhà

Miền Nam mong Bác, nỗi mong cha

Bác nghe từng bước trên tiền tuyến

Lắng mỗi tin mừng, tiếng súng xa. ”

Tố Hữu đã cảm nhận được điều bao trùm và hết sức cơ bản trong cách sống của Hồ Chí Minh: con người ấy đạt đến cái tự nhiên như trời đất, tức là đã hòa đồng với tự nhiên, đã đạt đến cái cao sâu huyền diệu của sự sống. Và vì thế mà cũng trường tồn với trời đất. Phải chăng đó chính là ngọn nguồn sâu xa của niềm vui, tinh thần lạc quan và lẽ sống quên mình của Bác:

“Bác vui như ánh buổi bình minh

Vui mỗi mầm non, trái chín cành

Vui tiếng ca chung hòa bốn biển

Nâng niu tất cả, chỉ quên mình”

Tố Hữu sống gần gũi với Bác Hồ, hiểu sâu sắc con người và hoạt động của Bác, được “tỏa sáng” bởi đạo đức, tác phong của Người nên trong những giây phút xúc động, nhà thơ đã cô đúc lại trong hình thức ngôn ngữ giản dị, trong sáng thành những lời rung động lòng người:

“Bác để tình thương cho chúng con

Một đời thanh bạch, chẳng vàng son

Mong manh áo vải, hồn muôn trượng

Hơn tượng đồng phơi những lối mòn”

Đoạn kết của bài thơ, cũng là nỗi tiếc thương vị lãnh tụ quá cố, những xúc động đã dịu đi, lí trí hơn, tình được nén lại, “nghĩa nặng”:

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều.

Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu!

Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước....”

Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều.”

Những chi tiết trong Di chúc của Bác như “Còn non nước...”, “Mác Lênin” thể hiện sự suy nghĩ của nhà thơ về trách nhiệm của những người kế tục sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người, đồng thời cũng nói lên lòng trung thành của nhà thơ, người chiến sĩ cách mạng đối với vị lãnh tụ đã khuất. Nhà thơ tin tưởng vào sự trường tồn của sự nghiệp cách mạng mà Người đã gầy dựng và nguyện vươn lên vững chắc:

“Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn

Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi

Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn”

Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu xúc cảm dào dạt không bi lụy, lí trí sáng suốt đã chế ngự được tình cảm đau thương tang tóc. Hình ảnh vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc hiện lên trong thơ với đầy đủ phẩm chất cao quý như tình yêu nước, lòng thương người, tác phong giản dị hòa hợp với thiên nhiên, “một đời thanh bạch chẳng vàng son”.

Bằng nhạc điệu trang nghiêm, bằng hình tượng thơ hoành tráng, bằng triết lí nhân bản, sâu sắc. nhà thơ đã truyền đến người đọc niềm thương yêu, tôn kính vị lãnh tụ. Đúng như nhà thơ Xuân Diệu nhận xét: Bài thơ “Bác ơi!” của Tố Hữu là một “điếu văn bi hùng”.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 7)

“Bác ơi” là một bài thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta. Vào ngày 2-9-1969, Bác đã mãi mãi ra đi, bỏ lại sau lưng cả giang sơn, cả đất nước, cả đồng bào để đi vào cõi vĩnh hằng. Người ta kể lại rằng hôm Bác mất, trời mưa rất to, cả dân tộc Việt Nam cùng khóc tiếc thương cho vị cha già của dân tộc.

Bác đi rồi, cả một cuộc đời vì dân vì nước, chưa bao giờ Bác suy tính điều gì cho chính bản thân mình. Vậy mà khi đất nước đã giành được độc lập, cả mong ước vào thăm miền Nam của Bác cũng không bao giờ thực hiện được. Lúc bác mất người dân thương tiếc đến độ những người chưa làm thơ cũng làm thơ về Bác.

Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu được coi như một bài điếu văn tiễn biệt người ra đi, và ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã dồn hết tâm can của mình để tưởng nhớ và tiếc thương Bác. “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa”.

"Mấy hôm" ở đây chính là những ngày sau khi bác mất, đây là nỗi đau lớn của dân tộc Việt Nam, mới hôm qua đây thôi, Bác còn khỏe mạnh, còn chỉ đạo anh em cán bộ, nào ngờ từ năm 1965, Bác nói rằng đã tự nhìn thấy ngày phải vĩnh biệt cõi đời. Bác Hồ một đời luôn nghĩ cho dân cho nước lại có thể suy nghĩ như vậy, thực khiến cho ai cũng cảm thấy xót xa.

Bước sang năm 1969, sức khỏe của Bác đã không còn tốt nữa, nhưng trong những vần thơ Bác viết, vẫn chứa đựng niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Hà Nội vào thu trời trở lạnh, ngày 18-8-1969, nhà sàn đã lần cuối cùng được hơi ấm của Bác Hồ.

Ngày 24-8-1969, Bác ốm nặng, nhưng vẫn lo lắng cho vạn vật ngoài kia, Bác biết nước lên cao, các chiến sĩ ngỏ ý muốn đưa Bác đến nơi an toàn hơn, nhưng Bác vẫn một mực muốn ở lại với nhân dân. Bác lịm đi nhiều lần, nhưng mỗi lần tỉnh lại, Bác luôn luôn hỏi miền Nam đánh thắng đâu, giá như dòng chảy lịch sử có thể nhanh hơn một chút, có thể đẩy nhanh chiến thắng để có thể tiễn Bác ra đi thanh thản.

Ngày 2-9-1969, Bác trút hơi thở cuối cùng, đúng vào ngày Bác đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Mấy ngày sau đó cả dân tộc như nấc nghẹn, trọn một cuộc đời Bác có bao giờ được ngủ yên, bây giờ Bác ngủ cả giang sơn canh Bác ngủ. “ Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

Trong những ngày Bác mất, cả dân tộc Việt Nam, cả những chiến sĩ trước giờ chưa hề rơi nước mắt vì súng bom khói lửa, bây giờ ai nấy đều bưng mặt khóc như đứa trẻ con, tiếng khóc cất lên nghẹn ngào, có một nỗi đau to lớn len lỏi vào từng trái tim những người dân Việt Nam cũng như bạn bè khắp năm châu.

Mấy ngày tiễn Bác trời mưa tầm tã, đất trời dường như hòa chung vào nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam. Đó là một nỗi mất mát, nỗi đau khôn nguôi của cả dân tộc. Hàng triệu con người hướng về Hà Nội, hướng về một con người như dòng suối mát, thanh khiết, trong sáng như tấm lòng của Bác đối với con dân Việt Nam.

“Chiều nay con chạy về thăm Bác

Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa”

Nhà thơ về thăm Bác, nhưng ôi thôi, Bác còn đâu nữa, Bác đã đi về miền cực lạc, không kịp nữa rồi, giờ chỉ còn lại cảnh vật. Nhà sàn, vườn cau, gốc dừa vẫn còn đó, nhưng người nay đã không còn, hơi ấm của người cũng đã dứt, để lại cái lạnh lẽo cho cảnh vật, cho tác giả, cho cả dân tộc.

Bác đến với cuộc đời với màu áo nâu sần, nay Bác ra đi với bộ quần áo trắng, một con người luôn luôn sống tiết kiệm, giản dị cho đến những giây phút cuối đời. Lúc này đây, trên thế giới, không kể màu da, tiếng nói đều đang hướng trái tim về hòa cùng nỗi đau cùng mấy mươi triệu đồng bào ta đưa tiễn vị cha già của dân tộc.

Bác Hồ đã ra đi, Tố Hữu đã thốt lên tiếng gọi như xé lòng “Bác ơi!” nghe đau xót biết bao nhiêu. Bác đã ra đi nhưng niềm trăn trở của Bác đã được dân tộc thành toại. Bác sống mãi trong lòng của mỗi người dân chúng ta.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 8)

Tố Hữu là một nhà thơ có cuộc đời và sự nghiệp cách mạng, cũng như sự nghiệp sáng tác luôn gắn bó và song hành chặt chẽ với nhau với nhau. Có thể nói rằng Tố Hữu là định nghĩa của một nhà thơ lý tưởng, với những tình cảm cao đẹp, thơ ca của ông luôn gắn liền với từng sự kiện lịch sử quan trọng của đất nước, của dân tộc.

Sau cuộc tổng tiến công năm Mậu Thân 1968, đất nước ta bước vào một giai đoạn kháng chiến mới đầy cam go và ác liệt. Cùng lúc này sự ra đi của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã trở thành một mất mát vô cùng to lớn đối với đất nước, là nỗi đau lớn của toàn dân tộc Việt Nam.

Trước hung tin ấy, Tố Hữu dù đang nằm viện, nhưng đã lập tức trở về nhà sàn nơi Bác làm việc để nhìn Bác lần cuối. Bài thơ Bác ơi! đã ra đời trong hoàn cảnh vô cùng đớn đau và xúc động ấy, được Xuân Diệu ca ngợi là “bài điếu văn bi hùng bằng thơ”, mà cho đến ngày hôm nay mỗi lần đọc lại ta vẫn cảm thấy nghẹn ngào, thương tiếc không thôi về sự ra đi của lãnh tụ Hồ Chí Minh.

Bác ơi! là một bài thơ dài không chỉ có những cảm xúc xót thương vô hạn trước sự ra đi của Hồ Chủ tịch, mà nó còn đóng vai trò là một bản chiêm nghiệm, đúc kết sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp gắn bó với dân tộc, đất nước của Bác. Trong sáu khổ thơ đầu tiên là những nỗi niềm đau đớn, xót xa trước sự kiện trăm tuổi của Người, mà ở đây cảm xúc trong thơ của Tố Hữu không chỉ là nỗi đau riêng mà nó còn là nỗi đau chung, cảm nhận chung hàng triệu đồng bào lúc bấy giờ.

“Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa
Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…
Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa!

Trái bưởi kia vàng ngọt với ai
Thơm cho ai nữa, hỡi hoa nhài!
Còn đâu bóng Bác đi hôm sớm
Quanh mặt hồ in mây trắng bay…”

Trong suốt bốn khổ thơ đầu có lẽ rằng câu thơ đánh động tâm can người đọc nhất là hai câu thơ đầu “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa/Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa…” lời thơ nghe như trào nước mắt. Sự kiện Bác ra đi đã lại trong lòng nhân dân những nỗi đau khôn tả, mà không chỉ nước mắt con người đưa chân Bác, thậm chí những nỗi đau đớn mất mát ấy còn cảm động cả thiên nhiên, đến trời xanh cũng buồn không hửng nắng, mà rỏ những giọt mưa đầy hiu hắt.

Không khí tang thương bao trùm cả lòng người, cả cảnh vật, tất thảy vắng đi hơi thở của Người đều trở nên ảm đạm lạnh lẽo, những vườn cau, những gốc dừa, lối sỏi quen, thang gác, chuông nhỏ, phòng lặng, rèm buông, tắt ánh đèn đều như không còn sinh khí, như đang để tang cho vị lãnh tụ kính yêu.

Sự kiện bàng hoàng, đau đớn ấy không ngờ lại xảy ra khi đất nước sắp đến ngày thắng lợi, vậy mà Người đành ra đi trước, không kịp nhìn thấy cảnh Nam Bắc sum họp, không kịp nhìn thấy cái thành tựu mà mấy mươi năm Người dốc lòng vun đắp hy sinh, không kịp chung vui cùng dân tộc ngày đại thắng. Hỏi rằng có nỗi đớn đau, mất mát nào sâu đậm hơn thế nữa?

Tố Hữu dường như không thể tin vào sự thật rằng Bác đã rời nhân thế, không thể tin được Bác lại buông tay vào một ngày thu nắng đẹp, trước thềm độc lập của đất nước mà thốt lên đầy đau đớn rằng “Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!”.

Nghẹn ngào, chua xót làm sao khi những trái bưởi vàng ngọt, những hoa nhài ngát hương, những mặt hồ soi bóng mây nay bỗng như thừa thãi, bởi Bác còn đâu mà trông thấy, mà thưởng thức. Những cảnh có đẹp, có xum xuê biết mấy thì Bác đi rồi cũng trở nên ảm đạm, chán chường, bởi trong ngôi nhà sàn, trong nơi Bác ở, Bác chính là vầng hào quang soi sáng, làm nên sức sống cho tất cả.

Với sáu khổ thơ tiếp theo, Tố Hữu đã có những suy nghĩ, chiêm nghiệm thật sâu sắc, tràn đầy lòng kính trọng và yêu mến đối với Chủ tịch Hồ Chí Minh. Suốt cuộc đời 79 mùa xuân tươi đẹp, Bác chưa lúc nào để mình được thảnh thơi, trái tim chỉ nặng một “nỗi thương đời”. Bác đã vực dậy non sông Việt Nam, mang trong mình tấm lòng của người mẹ “Ôm cả non sông, mọi kiếp người”.

Người cả đời sống với một tâm hồn bao dung, chan hòa với thiên nhiên “yêu từng ngọn lúa mỗi cành hoa”, trái tim luôn chất chứa những tình thương người, cảm thông cho những số phận đớn đau bất hạnh trên khắp năm châu, địa cầu, là cơ sở cho lý tưởng, niềm tin và lẽ sống của Hồ Chủ tịch. Người suốt đời phấn đấu vì hòa bình, độc lập, tự do và hạnh phúc của nhân dân.

Thế nhưng không chỉ nằm ở tầm vĩ mô của những lý tưởng to lớn là khát vọng giải phóng dân tộc, mà trái tim Người còn rộng lớn hướng tới từng cá nhân, số phận con người cụ thể “Sữa để em thơ, lụa tặng già”. Đồn thời Người luôn có những tình cảm gắn bó, tha thiết, sâu đậm với từng mảnh đất quê hương, Bác nhớ miền Nam như nhớ quê nhà, để ý từng tiếng vọng của miền Nam thân yêu “Bác nghe từng bước trên tiền tuyến/Lắng mỗi tin mừng tiếng súng xa”.

Người sống mà chỉ để ý đến những niềm vui, những niềm hạnh phúc của vạn vật, vạn người xung quanh mình, nhưng lại quên đi chính bản thân. Bác nào có giữ riêng cho mình một thức gì, chỉ có mong ước một nỗi hạnh phúc cho dân tộc hôm nay và mai sau. Khi sắp ra đi Người cũng chỉ mong được mang đi một khúc hát của quê hương, một điệu hò xứ Nghệ, một bài quan họ Bắc Ninh.

Bao nhiêu tình thương dành cả cho dân tộc, cho đất nước, Bác chịu sống một đời thanh bạch, cần, kiệm, liêm, chính, không màng đến những cảnh hư vinh, vật chất. Một tấm áo vải, một đôi dép cao su chắp vá bao bận, Người đã trở thành tượng đài bất tử trong lòng hàng triệu người dân đất Việt. Tư tưởng, vẻ đẹp phẩm chất, những đóng góp vĩ đại cho dân tộc của Người mãi mãi được muôn đời ghi nhớ công ơn.

“Ôi Bác Hồ ơi, những xế chiều
Nghìn thu nhớ Bác biết bao nhiêu?
Ra đi, Bác dặn: “Còn non nước…”
Nghĩa nặng, lòng không dám khóc nhiều
Bác đã lên đường theo tổ tiên
Mác – Lênin, thế giới Người hiền
Ánh hào quang đỏ thêm sông núi
Dắt chúng con cùng nhau tiến lên!
Nhớ đôi dép cũ nặng công ơn
Yêu Bác, lòng ta trong sáng hơn
Xin nguyện cùng Người vươn tới mãi
Vững như muôn ngọn dải Trường Sơn.”

Trước sự ra đi của Bác, nhưng Tố Hữu cũng thấu hiểu rằng nỗi đau này tuy lớn nhưng không thể vì thế mà làm suy sụp tinh thần chiến đấu của nhân dân trong những ngày chiến tranh miền Nam trở nên cam go và ác liệt nhất.

Chúng ta phải nhanh chóng vượt qua nỗi đau để Bác bước vào nỗi nhớ nghìn thu trong trái tim mỗi người, tiếp tục hướng về phía trước hoàn thành nốt những trăn trở của vị cha già vĩ đại “Còn non nước …” mà như Bác đã dặn trong Di chúc nước ta sẽ còn phải “kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa,…” .

Bác ra đi nhưng đã trở thành những tượng đài bất tử cùng với Mác – Lênin, về với giới “Người hiền” vĩnh viễn ở trên cao dùng tư tưởng của mình để soi đường và dẫn dắt con dân Việt Nam trải qua những bước đường khó khăn phía trước.

Và không trái với tấm lòng của Bác, Tố Hữu đã khai thác được những sức mạnh mới từ sự ra đi của người lãnh tụ vĩ đại, cuộc đời luôn có những hy sinh, mất mát, nhưng không vì thế mà ta suy sụp, gục ngã, trái lại ta lại càng phải sống mạnh mẽ và luôn tiến bước về phía trước. Còn Bác sẽ sống mãi trong lòng nhân dân, trong dòng lịch sử nhiều đau thương, anh hùng của dân tộc, Người đã trở thành bất tử muôn đời.

Bác ơi! là một trong những bài thơ viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh xúc động và sâu sắc hơn cả. Không chỉ thể hiện tấm lòng đau đớn, xót thương vô hạn trước sự ra đi của Bác, mà nó còn là những suy nghĩ, chiêm nghiệm sâu sắc về cuộc đời và sự nghiệp gắn bó với đất nước với nhân dân của người cha già dân tộc, đồng thời thể hiện tấm lòng biết ơn, lời hứa sâu sắc của cả một dân tộc về sự tiến bước, nỗ lực trong công cuộc chiến đấu và xây dựng đất nước.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 9)

Nhà thơ Cuba Felix Pita Rodríguez đã từng viết: “Hồ Chí Minh tên Người là cả một niềm thơ”. Sau ngày Bác mất, thơ tưởng niệm về Bác có hàng trăm bài, bài nào xúc động, thành kính, thiêng liêng. Trong vườn thơ dâng Bác, có lẽ bài “Viếng lăng Bác” (Viễn Phương) và “Bác ơi” (Tố Hữu) là gần gũi nhất đối với bạn đọc.

Bài thơ “Bác ơi” thể hiện những cảm xúc của nhà thơ Tố Hữu khi hay tin Bác đã ra đi. “Viếng lăng Bác” ra đời khi nhà thơ Viễn Phương cùng đoàn cán bộ Nam lần đầu ra Bắc thăm lăng Bác. Cả hai đoạn thơ đều thể hiện những cảm xúc thiết tha, chân thành của tác giả dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong tâm tưởng của nhà thơ Tố Hữu và Viễn Phương và của nhân dân cả nước, Bác vẫn hiện diện trong đời sống của chúng ta đang đồng hành cùng sự nghiệp chung của dân tộc. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ghi lại khoảnh khắc nhà thơ Viễn Phương đang ở lăng, niềm tiếc thương Bác trào dâng mãnh liệt đọng lại thành mấy dòng:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

“Giấc ngủ bình yên” là cách nói giảm nói tránh, nhà thơ tự xoa dịu nỗi đau mất Bác, rằng Bác đang ngủ, giấc ngủ thanh thản của một người cách mạng vừa làm xong nhiệm vụ với dân với nước. Đến thăm lăng Bác có cả nghìn người nhưng ai cũng khẽ khàng không muốn đánh động giấc ngủ bình yên của Bác. Ánh đèn vàng ấm áp tỏa lan khắp gian phòng khiến tác giả ngỡ là ánh sáng dịu hiền của vầng trăng.

Tố Hữu viết bài thơ “Bác ơi” viết khi Bác đã mất khi mà sự nghiệp cách mạng của hai miền Nam – Bắc đang trên đà thắng lợi. Ngày thống nhất đất nước không còn xa nữa, đồng bào miền Nam tưởng như đang chạm vào giấc mơ:

“Miền Nam đang thắng mở ngày hội

Rước Bác vào thăm, thấy Bác cười”.

Bác không còn nữa nhưng trong tâm tưởng mỗi người, trên từng chặng đường chiến đấu, ta vẫn có Bác đồng hành. Ngày hội non sông với bản hòa ca chiến thắng ta vẫn có Bác là nhạc trưởng. Người đã chuẩn bị cho cuộc sum họp này đã lâu.

Bằng tình cảm chân thành, các tác giả đã nói hộ tấm lòng của nhân dân hai miền Nam, Bắc dành cho lãnh tụ Hồ Chí Minh: thành kính biết ơn Người.

Bác mất – niềm đau lớn của toàn dân tộc — Viễn Phương và Tố Hữu đã diễn tả được điều đó một cách xúc động và chân thành trong hai khổ thơ. “Viếng lăng Bác”: Trong các khổ thơ trên, tác giả dùng hình ảnh vĩnh hằng của thiên nhiên, vũ trụ để ca ngợi công ơn của Bác và mong muốn Bác luôn hiện diện trong đời sống của chúng ta mãi mãi. Bác đang ẩn mình trên bầu trời xanh mênh mông dịu mát để tiếp tục đồng hành với chúng ta trong sự nghiệp giữ nước, dựng nước.

“Biết” bằng lí trí, còn trong tình cảm thì “bảy mươi chín mùa xuân” đã dừng lại đó. Câu thơ vỡ òa niềm đau: “Mà sao nghe ở trong tim “Nhói” diễn tả nỗi đau trong tiềm thức, nỗi đau xoáy sâu trong tâm hồn, tác giả đã nói hộ cho con tim của cả dân tộc. Bởi Bác mất đi là một mất mát quá lớn của dân tộc. Chúng ta hiểu và chấp nhận điều này trong đau khổ tột cùng.

“Bác ơi”: Nhà thơ Tố Hữu về thăm ngôi nhà sàn của Bác, nơi từng in dấu chân Người. Bác đã đi xa, tác giả cũng cảm thấy bơ vơ. Cả vườn rau, gốc dừa, trái bưởi, hương nhài… tất cả đều côi cút, còn biết thơm ngọt cùng ai… Câu thơ nghẹn ngào nỗi tiếc thương:

“Bác đã đi rồi sao, Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời

Hình ảnh “mùa thu”, “nắng xanh” gợi ta nhớ đến bóng Bác năm xưa in trên bầu trời quảng trường Ba Đình trong một ngày mùa thu tháng Tám với “Tuyên ngôn độc lập”. Mùa thu năm nay Bác không còn, còn nồi đau nào hơn thế đối với mồi trái tim người Việt Nam.

Có người nói rằng “Thơ là thư kí trung thành của ti tim”. Nhà thơ Tố Hữu và Viễn Phương đều đã từng sống và chiến đấu dưới ngọn cờ của Bác nên hiểu Bác hơn ai hết và tình cảm dành cho Bác rất thiết tha, mãnh liệt. Tình cảm đó đã dệt nên những vần thơ đẹp, bất tử với thời gian

Về nghệ thuật: Cả hai đoạn thơ đều sử dụng những hình ảnh giản dị, giàu ý nghĩa, giọng điệu câu thơ thành kính thiêng liêng phù hợp với đề tài ca ngợi lãnh tụ. Tuy nhiên, chính sự chân thành trong tình cảm làm nên thành công của tác phẩm.

Về nội dung: Hình ảnh Bác hiện ra trong hai khổ thơ vừa vĩ đại lại vừa giản dị gần gũi. Tình cảm của các tác giả dành cho Bác cũng là tình cảm chung của muôn triệu đồng bào : biết ơn Người, tiếc thương Người.

Viếng lăng Bác (Viễn Phương) và Bác ơi! (Tố Hữu) đã đem đến cho người đọc biết bao niềm nhớ thương đối với bác Hồ Kính yêu. Dù hôm nay, Người đã mãi mãi ra đi nhưng tình cảm của người, hình ảnh của người vẫn mãi ấm áp và ngời sáng trong lòng dân tộc.

Càng kính yêu Người chúng ta càng phải sống xứng đáng với những kì vọng mà lúc sinh thời Người luôn mong mỏi là làm thế nào để đất nước ngày càng vững mạnh, có thể “sánh vai với các cường quốc năm châu”.

Phân tích bài thơ Bác ơi (mẫu 10)

“Bác ơi” là một bài thơ của nhà thơ Tố Hữu viết về vị lãnh tụ vĩ đại Hồ Chí Minh kính yêu của chúng ta. Vào ngày 2-9-1969, Bác đã mãi mãi ra đi, bỏ lại sau lưng cả giang sơn, cả đất nước, cả đồng bào để đi vào cõi vĩnh hằng. Người ta kể lại rằng hôm Bác mất, trời mưa rất to, cả dân tộc Việt Nam cùng khóc tiếc thương cho vị cha già của dân tộc.

Bác đi rồi, cả một cuộc đời vì dân vì nước, chưa bao giờ Bác suy tính điều gì cho chính bản thân mình. Vậy mà khi đất nước đã giành được độc lập, cả mong ước vào thăm miền Nam của Bác cũng không bao giờ thực hiện được. Lúc bác mất người dân thương tiếc đến độ những người chưa làm thơ cũng làm thơ về Bác.

Bài thơ “Bác ơi” của Tố Hữu được coi như một bài điếu văn tiễn biệt người ra đi, và ở khổ thơ thứ nhất, tác giả đã dồn hết tâm can của mình để tưởng nhớ và tiếc thương Bác. “Suốt mấy hôm rày đau tiễn đưa”.

"Mấy hôm" ở đây chính là những ngày sau khi bác mất, đây là nỗi đau lớn của dân tộc Việt Nam, mới hôm qua đây thôi, Bác còn khỏe mạnh, còn chỉ đạo anh em cán bộ, nào ngờ từ năm 1965, Bác nói rằng đã tự nhìn thấy ngày phải vĩnh biệt cõi đời. Bác Hồ một đời luôn nghĩ cho dân cho nước lại có thể suy nghĩ như vậy, thực khiến cho ai cũng cảm thấy xót xa.

Bước sang năm 1969, sức khỏe của Bác đã không còn tốt nữa, nhưng trong những vần thơ Bác viết, vẫn chứa đựng niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng cho dân tộc. Hà Nội vào thu trời trở lạnh, ngày 18-8-1969, nhà sàn đã lần cuối cùng được hơi ấm của Bác Hồ.

Ngày 24-8-1969, Bác ốm nặng, nhưng vẫn lo lắng cho vạn vật ngoài kia, Bác biết nước lên cao, các chiến sĩ ngỏ ý muốn đưa Bác đến nơi an toàn hơn, nhưng Bác vẫn một mực muốn ở lại với nhân dân. Bác lịm đi nhiều lần, nhưng mỗi lần tỉnh lại, Bác luôn luôn hỏi miền Nam đánh thắng đâu, giá như dòng chảy lịch sử có thể nhanh hơn một chút, có thể đẩy nhanh chiến thắng để có thể tiễn Bác ra đi thanh thản.

Ngày 2-9-1969, Bác trút hơi thở cuối cùng, đúng vào ngày Bác đã khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa. Mấy ngày sau đó cả dân tộc như nấc nghẹn, trọn một cuộc đời Bác có bao giờ được ngủ yên, bây giờ Bác ngủ cả giang sơn canh Bác ngủ. “ Đời tuôn nước mắt, trời tuôn mưa”

Trong những ngày Bác mất, cả dân tộc Việt Nam, cả những chiến sĩ trước giờ chưa hề rơi nước mắt vì súng bom khói lửa, bây giờ ai nấy đều bưng mặt khóc như đứa trẻ con, tiếng khóc cất lên nghẹn ngào, có một nỗi đau to lớn len lỏi vào từng trái tim những người dân Việt Nam cũng như bạn bè khắp năm châu.

Mấy ngày tiễn Bác trời mưa tầm tã, đất trời dường như hòa chung vào nỗi đau của cả dân tộc Việt Nam. Đó là một nỗi mất mát, nỗi đau khôn nguôi của cả dân tộc. Hàng triệu con người hướng về Hà Nội, hướng về một con người như dòng suối mát, thanh khiết, trong sáng như tấm lòng của Bác đối với con dân Việt Nam.

“ Chiều nay con chạy về thăm Bác
Ướt lạnh vườn cau, mấy gốc dừa”

Nhà thơ về thăm Bác, nhưng ôi thôi, Bác còn đâu nữa, Bác đã đi về miền cực lạc, không kịp nữa rồi, giờ chỉ còn lại cảnh vật. Nhà sàn, vườn cau, gốc dừa vẫn còn đó, nhưng người nay đã không còn, hơi ấm của người cũng đã dứt, để lại cái lạnh lẽo cho cảnh vật, cho tác giả, cho cả dân tộc.

Bác đến với cuộc đời với màu áo nâu sần, nay Bác ra đi với bộ quần áo trắng, một con người luôn luôn sống tiết kiệm, giản dị cho đến những giây phút cuối đời. Lúc này đây, trên thế giới, không kể màu da, tiếng nói đều đang hướng trái tim về hòa cùng nỗi đau cùng mấy mươi triệu đồng bào ta đưa tiễn vị cha già của dân tộc.

Bác Hồ đã ra đi, Tố Hữu đã thốt lên tiếng gọi như xé lòng “Bác ơi!” nghe đau xót biết bao nhiêu. Bác đã ra đi nhưng niềm trăn trở của Bác đã được dân tộc thành toại. Bác sống mãi trong lòng của mỗi người dân chúng ta.

1 62 24/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: