TOP 10 mẫu Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ (2025) SIÊU HAY

Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 20 20/12/2024


Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ

Đề bài: Phân tích đoạn thơ Than nỗi oan trích từ tác phẩm Tự tình khúc của Cao Bá Nhạ

Dàn ý Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ

I. Mở bài

1. Giới thiệu tác giả Cao Bá Nhạ:

- Cao Bá Nhạ là một nhà thơ nổi tiếng trong văn học Việt Nam.

- Ông thường viết về những nỗi oan khuất, bất công trong xã hội.

2. Giới thiệu bài thơ "Than nỗi oan":

- Bài thơ thể hiện nỗi oan khuất và tâm trạng đau khổ của tác giả.

- Hai đoạn thơ được chọn là những đoạn tiêu biểu thể hiện rõ ràng nhất nỗi lòng của tác giả.

II. Thân bài

1. Phân tích đoạn thơ thứ nhất:

- "Mối tâm sự rối mười phần thảm":

+ Tâm sự của tác giả rối bời, đầy đau khổ và thảm thương.

+ Sử dụng hình ảnh "mười phần thảm" để nhấn mạnh mức độ đau khổ.

- "Gánh gia tình nặng tám năm dư":

+ Tác giả đã phải chịu đựng nỗi oan khuất trong suốt tám năm dài.

+ Hình ảnh "gánh gia tình" thể hiện trách nhiệm và gánh nặng mà tác giả phải mang.

- "Khi ngày mong bức xá thư":

+ Tác giả mong chờ một lá thư giải oan, một sự minh oan từ người có quyền lực.

+ Sự chờ đợi trong vô vọng, ngày qua ngày.

- "Khi đêm than bóng, khi tưa hỏi lòng":

+ Tác giả than thở, tự hỏi lòng mình trong những đêm dài cô đơn.

+ Sự đau khổ và tuyệt vọng được thể hiện qua hình ảnh "than bóng" và "tưa hỏi lòng".

2. Phân tích đoạn thơ thứ hai:

- "Hương thề nguyện khói lòng trước gió":

+ Hình ảnh "hương thề nguyện" và "khói lòng trước gió" thể hiện sự mong manh, dễ tan biến của lời thề nguyện.

+ Tác giả cảm thấy lời thề nguyện của mình không được ai lắng nghe, không có giá trị.

- "Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời":

+ Tác giả đã viết tờ tố oan, gửi lên trời cao, mong được minh oan.

+ Hình ảnh "mở ngỏ giữa trời" thể hiện sự công khai, minh bạch nhưng cũng đầy tuyệt vọng.

- "Tờ oan kể hết bao lời":

+ Tờ tố oan chứa đựng tất cả những nỗi oan khuất, những lời kêu cứu của tác giả.

+ Sự chân thành và đau khổ trong từng lời tố oan.

- "Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng":

+ Tác giả tự hỏi tại sao lời thề nguyện của mình vẫn chưa được thấu đến trời cao, đến nơi cửu trùng.

+ Sự tuyệt vọng và bất lực trước sự bất công của xã hội.

III. Kết bài

1. Tổng kết lại nội dung và ý nghĩa của hai đoạn thơ:

- Hai đoạn thơ thể hiện nỗi oan khuất, đau khổ và tuyệt vọng của tác giả.

- Sự chờ đợi trong vô vọng và sự bất lực trước sự bất công.

2. Đánh giá về giá trị nghệ thuật của bài thơ:

- Sử dụng hình ảnh, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc.

- Thể hiện sâu sắc tâm trạng và nỗi lòng của tác giả.

3. Liên hệ với hoàn cảnh xã hội và cuộc sống của tác giả:

- Bài thơ phản ánh hiện thực xã hội đầy bất công, nơi mà những người oan khuất không được minh oan.

- Tác giả Cao Bá Nhạ đã dùng thơ ca để lên tiếng, bày tỏ nỗi lòng và kêu gọi sự công bằng.

Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ (mẫu 1)

Cao Bá Quát là một nhà thơ nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam. Ông không chỉ có tài năng mà còn có cả tính và tư tưởng sâu sắc. Một trong những tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Cao Bá Quát là "Than Nỗi Oan". Bài thơ này thể hiện rõ nét cảm xúc của ông về cuộc sống và xã hội đương thời.

Bài thơ bắt đầu bằng việc miêu tả nỗi oan ức của Cao Bá Quát. Ông đã trải qua nhiều khó khăn và thử thách trong cuộc đời, nhưng vẫn giữ vững tinh thần kiên định và ý chí mạnh mẽ. Những từ ngữ được sử dụng để mô tả nỗi oan ức của ông rất chân thực và đầy sức gợi cảm. Tác giả đã khéo léo sử dụng các hình ảnh tượng trưng để diễn đạt tâm trạng của mình.

"Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son.

Những câu thơ này tạo nên ấn tượng mạnh mẽ về nỗi đau đớn và tuyệt vọng của nhân vật chính. Hình ảnh "châu sa" và "máu" kết hợp với nhau tạo ra một bầu không khí u ám và bị thương. Tác giả đã thành công trong việc truyền tải cảm xúc của mình đến độc giả thông qua ngôn ngữ và hình ảnh.

Ngoài ra, bài thơ còn đề cập đến vấn đề xã hội và đạo đức. Cao Bá Quát nhìn thấy sự bất công và tham nhũng trong xã hội, đồng thời cũng nhận thức được tầm quan trọng của đạo đức và giá trị con người. Ông lên án những hành vi xấu xa và kêu gọi mọi người cùng chung tay xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn.

Tuy nhiên, điểm đặc biệt của bài thơ nằm ở việc nó không chỉ đơn thuần là một tác phẩm văn chương mà còn mang tính chất tự truyện. Cao Bá Quát đã dùng ngòi bút của mình để chia sẻ những trải nghiệm và suy nghĩ riêng tư của mình. Điều này làm cho bài thơ trở nên gần gũi và chân thật hơn, giúp độc giả dễ dàng đồng cảm và hiểu rõ hơn về tác giả.

Tóm lại, "Than Nỗi Oan" là một tác phẩm xuất sắc của Cao Bá Quát. Nó không chỉ là một tác phẩm văn chương mà còn là một tấm gương phản ánh cuộc sống và xã hội đương thời. Qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tài năng, tư tưởng và trái tim nhạy cảm của một nhà thơ lớn.

Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ (mẫu 2)

Từng được đánh giá là “Một khúc ngâm lâm ly thống thiết nhất trong văn chương cổ điển Việt Nam” (Đái Xuân Ninh), “Tự tình khúc” xứng đáng là một áng văn bất hủ, là tiếng kêu tha thiết nói lên nỗi oan khổ của Cao Bá Nhạ. Trong đó “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc, thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của tác giả:

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
...

Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

Cao Bá Nhạ (chưa rõ năm sinh, năm mất) là cháu ruột của Cao Bá Quát. Năm 1855, Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa Mĩ Lương, chống lại triều đình nhà Nguyễn, bị triều đình kết án tru di tam tộc. Trong bối cảnh ấy, Cao Bá Nhạ đã phải tha hương cầu thực, trốn chui lủi khắp mọi vùng miền, nhưng đến năm 1862, ông bị tố giác, bị bắt vào ngục, đi đày và sau đó mất.

Ông đã để lại cho đời hai tác phẩm nghệ thuật vô cùng đặc sắc, trong đó phải kể đến “Tự tình khúc”. Đây là tác phẩm ngâm khúc, gồm 608 câu thơ song thất lục bát. Tác phẩm được viết khi ông đang bị lưu đày, sống trong cảnh tù tội. Tác phẩm là một khúc ngâm lâm ly, thống thiết, là một thiên tình cảm chân thực của một con người bị vạ lây, oan trái. Đoạn trích “Than nỗi oan” thuộc phần giữa của tác phẩm, đoạn trích là tiếng lòng, là lời than cho số phận oan trái của mình.

Mở đầu của đoạn trích, Cao Bá Nhạ đã khắc họa trước mắt người đọc một khung cảnh vô cùng thê lương buồn bã, hòa cùng với máu và nước mắt:

“Đuôi con mắt châu sa thấm giấy
Đầu ngón tay máu chảy pha son”

Ở trong chốn ngục tù tối tăm, đau đớn vì cảnh gia đình tan tác, Cao Bá Nhạ cảm thấy đau buồn cho cuộc đời của mình. Giọt nước mắt cứ thế mà lăn dài, thấm ướt hết trang giấy, máu chảy ra đầu ngón tay hòa vào trong son mực. Khúc tự tình như được viết bằng máu và nước mắt của ông vậy.

Mang trên mình cái án của một kẻ tội tù, tâm trạng của Cao Bá Nhạ không bao giờ có thể thư thái, vui vẻ một chút. Vì thế mà thiên nhiên, cảnh vật xung quanh cũng trở nên buồn bã, như muốn san sẻ, chia bớt nỗi buồn với tác giả:

“Người đau phong cảnh cũng buồn

Thông gầy như trúc, cúc mòn như mai”

“Thông”, “cúc”, “trúc”, “mai” là các hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp của người quân tử. Nhưng giờ đây vẻ đẹp ấy đang dần bị hao mòn đi vì cái án oan khất, khó mà giải được.

Bên cạnh các hình ảnh trên, việc sử dụng các từ ngữ như “châu sa”, “máu chảy”, “đau”, “buồn”, “gầy”, “mòn” cùng với các biện pháp tu từ như nói quá: châu sa thấm giấ, ngón tay máu chảy pha son; tả cảnh ngụ tình “người đau phong cảnh cũng buồn” cùng biện pháp tu từ so sánh thông gầy như trúc, cúc mòn như mai cũng đã góp phần diễn tả sự oan trái, khổ cực và nỗi đau buồn mà Cao Bá Nhạ đang phải gánh chịu.

Như vậy, chỉ trong vỏn vẹn bốn dòng thơ ngắn ngủi, nhưng những nỗi niềm của tác giả đã được thổ lộ dần. Câu thơ nhuốm một màu sắc bi thương khó tả, diễn tả nỗi đau và tâm trạng của Cao Bá Nhạ khi phải sống trong cảnh tội tù oan trái.

Với khổ thơ thứ hai, nỗi uất ức ấy đã dâng trào khiến cho tác giả bộc bạch mà tâm sự rằng:

“Mối tâm sự rối mười phần thảm

Gánh gia tình nặng tám năm dư”

Câu thơ là tiếng lòng, là lời tâm sự của nhân vật trữ tình về chính số phận oan trái của mình. Đã tám năm từ ngày cụ Cao Bá Quát tham gia khởi nghĩa chống lại triều đình nhà Nguyễn, cả gia đình họ Cao phải sống trong những ngày tháng khổ sở, người còn sống hay không cũng không rõ, người chết thì chết trong cảnh nhục nhã ê hề.

Cao Bá Nhạ đã gửi gắm mong ước của mình vào trong những vần thơ. Dù biết điều đó thật khó để xảy ra trong một chế độ phong kiến đầy sự mục rỗng như vậy, nhưng biết làm chi cho qua ngày qua tháng, tác giả chỉ đành ngậm ngùi gửi những mong ước ấy vào hư vô.

“Khi ngày mong bức xá thư

Khi đêm than bóng, khi trưa hỏi lòng”

Cùng với các hình ảnh trên, khổ thơ đã sử dụng các từ ngữ như: “mười phần thảm”, “nặng tám năm dư”, “mong”, “than bóng”, “hỏi lòng”... để thể hiện sự bất lực của tác giả trước hoàn cảnh của mình. Cạnh đó là các biện pháp đối, liệt kê: “mười phần thảm” với “tám năm dư”; “khi ngày mong bức xá thư/ khi đêm than bóng/ khi trưa khỏi lòng” để từ đó nhấn mạnh vào nỗi oan khuất và sự đau buồn của tác giả, chính điều đó vẫn luôn ám ảnh trong tâm hồn của nhân vật trữ tình âm ỉ từ đêm tới trưa, từ ngày này qua tháng khác. Khổ thơ trên là tiếng lòng tâm sự của tác giả, cũng như là lời thổ lộ mong ước được giải oan của chính mình.

Đứng giữa cuộc đời, đối chất với chính lòng mình, Cao Bá Nhạ không hề cảm thấy hổ thẹn, ông sẵn sàng thưa lên với trời cao nỗi oan của đời mình:

“Hương thề nguyện khói nồng trước gió

Tờ tố oan mở ngỏ giữa trời

Tờ oan kể hết bao lời

Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng”

Không thể trông chờ vào triều đình nhà Nguyễn, trông chờ vào chế độ phong kiến lúc bấy giờ, sự oan khuất này chỉ đành có thể gửi trời xanh chứng giám. Nỗi đau tru di tam tộc vẫn luôn âm ỉ trong suốt cuộc đời của tác giả. Kể sao cho hết nỗi oan ấy, kêu làm sao cho được chín cửu trùng đều nghe thấy tiếng oan khuất này. Câu thơ đã thể hiện nỗi đau giằng xé trong tâm hồn ông cũng như sự bất lực của tác giả trước thời đại.

Sự kết hợp của các từ ngữ cùng biện pháp điệp từ, điệp cấu trúc: “hương thề nguyện”, “hương thề”, “tờ tố oan”, “tờ oan” cùng câu hỏi tu từ: “Hương thề sao chửa thấu nơi cửu trùng?” cũng đã góp phần nhấn mạnh sự bất lực đến tột cùng của tác giả. Cao Bá Nhạ bất lực cất lên tiếng kêu giải oan đau xé lòng giữa một xã hội phong kiến thối nát, nhưng dường như tiếng kêu ấy chỉ có thể bay vào trong vô vọng, không một ai giãi bày.

Và để có thể chuyển tải một cách sâu sắc tâm trạng cũng như nỗi oan khuất trong lòng của Cao Bá Nhạ, đoạn trích đã xây dựng rất thành công một số biện pháp nghệ thuật, đặc biệt phải kể đến bút pháp tả cảnh ngụ tình. Xuyên suốt đoạn trích một màu sắc u tối nhuốm lên cảnh vật, nỗi buồn, nỗi oan của tác giả đã nhuốm lên cảnh vật khiến cho phong cảnh cũng phải đau buồn theo. Bên cạnh đó sự kết hợp của giọng điệu u buồn, sầu lắng, bất lực trước thời thế cũng đã góp phần trong việc làm nên cấu tứ và mạch cảm xúc cho bài thơ. Cùng với đó, việc sử dụng từ ngữ, hình ảnh chọn lọc cùng các biện pháp tu từ độc đáo cũng là một trong những phương diện quan trọng làm nên sự thành công cho tác phẩm.

Chính nhờ sự kết hợp tài tình của các thủ pháp nghệ thuật, mà các giá trị về mặt nội dung của đoạn trích đã được chuyển tải một cách sâu sắc. Đoạn trích “Than nỗi oan” đã khắc họa rất thành công tâm trạng của Cao Bá Nhạ trong những ngày tháng tác giả sống trong chốn ngục tù. Chỉ trong vỏn vẹn ba khổ thơ ngắn nhưng những nỗi đau xót cùng tiếng kêu oan khuất của tác giả đã được thể hiện rất rõ nét. Đoạn trích chính là một bản cáo trạng đanh thép lên án chế độ bất lương của giai cấp phong kiến nhà Nguyễn đã chà đạp lên tính mạng, tài năng, trí tuệ và quyền sống của con người mà chính Cao Bá Nhạ là một trong số nạn nhân đó. “Than nỗi oan” xứng đáng là một trong những đoạn trích sâu sắc nhất cả về nội dung lẫn nghệ thuật của thi phẩm.

Thơ là tiếng nói của tình cảm, là nơi để con người giãi bày cảm xúc của mình, vì thế đã không ít người tìm đến với thơ để cất lên lời ca ai oán của mình về cuộc đời. Trong đó có thể kể tới, tiếng kêu nghẹn ngào sầu oán của người phụ nữ trong “Cung oán ngâm khúc”:

“Đêm năm canh lần nương vách quế,

Cái buồn này ai để giết nhau,

Giết nhau chẳng cái Lưu Cầu,

Giết nhau bằng cái u sầu, độc chưa!”

Khác với “Tự tình khúc” của Cao Bá Nhạ, “Chinh phụ ngâm khúc” của Nguyễn Gia Thiều lại là tiếng thét oán hờn của một người phụ nữ bị chế độ phong kiến đối xử phũ phàng và tàn ác. Cung nữ chính là nạn nhân bi thảm cả những đặc quyền phong kiến vô nhân đạo, bị vua chúa biến thành một món đồ mua vui, thỏa mãn thói hoang dâm vô độ. Rồi lại một mình trở về chốn khuê phòng, chôn mòn tuổi xuân trong căn phòng đơn côi gối chiếc. Nỗi oán hờn ấy đã ngấm sâu vào trong từng trang chữ, cất lên những tiếng kêu tố cáo xã hội lúc bấy giờ.

Có thể thấy rằng, “Than nỗi oan” là một đoạn trích rất đặc sắc của tác phẩm “Tự tình khúc”, là tiếng kêu oan thống thiết của tác giả trước một cuộc đời đầy những ngang trái. Chính những cảm xúc chân thành ấy và sự tài năng của mình, mà tác phẩm ấy đã được lưu truyền muôn đời, sống mãi trong lòng của bạn đọc bao thế hệ về sau.

Phân tích Than nỗi oan của Cao Bá Nhạ (mẫu 3)

"Than nỗi oan" là một bài thơ nổi tiếng của Cao Bá Nhạ, tác giả sống vào thế kỷ 18, là một trong những tác giả tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam. Bài thơ này thể hiện sự tâm sự, oán thán của một con người trong xã hội phong kiến, với những cảm xúc dày vò về cuộc sống, những bất công và những số phận bị đẩy vào tình trạng bi kịch. Cùng với đó, bài thơ cũng thể hiện sự tinh tế trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh, và thể hiện những giá trị nhân văn sâu sắc.

Cao Bá Nhạ (?- 1767) là một nhà thơ sống trong thời kỳ phong kiến, khi đất nước trải qua nhiều biến động, đặc biệt là dưới sự cai trị của triều đại Lê – Trịnh. Cao Bá Nhạ là một người có tài năng thơ ca nhưng cũng gặp phải những khó khăn trong cuộc sống, có thể do những bất công trong xã hội phong kiến khiến ông cảm thấy bất mãn, và bài thơ "Than nỗi oan" là một cách ông thể hiện nỗi lòng của mình.

Bài thơ "Than nỗi oan" là sự bày tỏ nỗi niềm của tác giả khi đối diện với một cuộc đời đầy oan ức, bất công. Những cảm xúc của tác giả trong bài thơ thể hiện sự kìm nén và khát khao được thể hiện nỗi lòng.

Nhân vật trữ tình trong bài thơ chính là tác giả hoặc là một hình tượng nhân vật có sự đồng cảm sâu sắc với tác giả. Nhân vật này lên tiếng về một nỗi oan nghiệt, mà từ đó, ta cảm nhận được sự dày vò, đau đớn, bất mãn.

Bài thơ không chỉ đơn thuần là lời oán than mà còn là sự tố cáo những khổ cực, những khốn khó mà người dân phải chịu trong xã hội phong kiến. Từ đó, tác giả thể hiện cái nhìn bi quan về thực tại và khao khát sự công bằng.

Xã hội phong kiến trong bài thơ là một xã hội đầy rẫy sự phân biệt giai cấp, bóc lột và bất công. Những người bị đẩy vào nghịch cảnh thường là những người yếu thế, không có tiếng nói, giống như nhân vật trong bài thơ.

Bài thơ sử dụng những hình ảnh ẩn dụ, biểu cảm mạnh mẽ để làm nổi bật sự đau khổ của nhân vật trữ tình. Những hình ảnh đó mang tính chất hoang vu, tàn bạo, như là những ám ảnh về nỗi oan, không chỉ là sự mất mát mà còn là sự khổ đau không có lối thoát.

Ngôn ngữ trong bài thơ rất giản dị nhưng vẫn có tính biểu cảm cao. Cao Bá Nhạ sử dụng những từ ngữ mạnh mẽ, sắc bén để thể hiện nỗi oán thán của mình. Cùng với đó là cấu trúc câu từ đơn giản, dễ hiểu nhưng lại có sức nặng trong từng từ ngữ, gây ấn tượng mạnh đối với người đọc.

Bài thơ có nhịp điệu dồn dập, căng thẳng, phù hợp với cảm xúc nội tâm của nhân vật. Mỗi câu, mỗi chữ đều chứa đựng sự kiềm nén và dồn nén, giống như sự vỡ òa của những cảm xúc đã được tích tụ từ lâu.

Bài thơ phản ánh một cái nhìn đầy bi quan về cuộc sống phong kiến, nơi mà những người dân thấp cổ bé miệng bị áp bức, bóc lột không thương tiếc. Nó mang đậm nét phê phán những bất công trong xã hội đương thời.

Mặc dù là một tác phẩm oán thán, nhưng bài thơ cũng thể hiện khát vọng về sự công bằng, mong muốn được giải thoát khỏi nỗi oan khiên. Nó là tiếng nói của những người bị áp bức, những người không thể lên tiếng nhưng lại khát khao được sống một cuộc sống tốt đẹp hơn.

"Than nỗi oan" không chỉ là một tác phẩm phản ánh sự bất công trong xã hội mà còn là tiếng nói thể hiện sự cảm thông đối với những số phận đau khổ. Nó mở ra một chiều sâu tâm hồn của con người, khi bị đẩy vào tình thế không thể thay đổi.

"Than nỗi oan" của Cao Bá Nhạ là một tác phẩm tiêu biểu phản ánh sự bất công trong xã hội phong kiến, qua đó thể hiện những tâm tư, oán thán, và khát khao công lý của tác giả. Bài thơ không chỉ có giá trị văn học mà còn mang trong mình những giá trị nhân văn sâu sắc, là tiếng nói của những người bị áp bức trong một xã hội đầy bất công.

...........................

1 20 20/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: