TOP 10 mẫu Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (2025) SIÊU HAY

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 10 10/01/2025


Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà

TOP 10 mẫu Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích tác phẩm Người ngồi đợi trước hiên nhà của tác giả Huỳnh Như Phương.

Dàn ý Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà

I. Mở bài:

Tác phẩm "Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà" của tác giả Huỳnh Như Phương là một câu chuyện đầy xúc động về cuộc đời dì Bảy, một người phụ nữ dũng cảm và chung thủy, đặc biệt là tình yêu của bà trong cuộc kháng chiến và sau chiến tranh. Dì Bảy đã trải qua bao sóng gió, và câu chuyện của bà được tác giả diễn đạt một cách chân thực và đầy tình cảm.

II. Thân bài:

1. Khái quát:

a. Tác giả:

Tác giả Huỳnh Như Phương là một nhà văn và nhà nghiên cứu văn học nổi tiếng. Sinh năm 1955 tại Quảng Ngãi, ông đã gắn bó với việc giảng dạy văn học tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia TP.HCM. Ông là một trong những nhà nghiên cứu và phê bình văn học trước năm 1975 hàng đầu của Việt Nam.

b. Tác phẩm:

- "Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà" là một trích đoạn từ tập văn bản "Thành phố những thước phim quay chậm" của tác giả. Tác phẩm kể về cuộc đời của dì Bảy, một người phụ nữ mạnh mẽ và kiên trì.

2. Phân tích:

a. Tình cảnh của hai vợ chồng dì Bảy:

- Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau mới một tháng thì chồng dì phải đi tập kết tham gia kháng chiến chống quân xâm lược. Điều này đã chia cắt họ ngay sau đám cưới, và họ chưa bao giờ có cơ hội được sống cùng nhau.

b. Cuộc sống dì Bảy trong thời kỳ kháng chiến:

- Dì Bảy và dượng Bảy luôn hướng về nhau suốt những năm tháng kháng chiến. Dượng đã tìm mọi cách để liên lạc với dì, thậm chí gửi lá thư vào đêm khuya. Những lá thư đó mang theo tin tức và hy vọng, giữ cho tình yêu của họ luôn sống mãi.

c. Cuộc sống của dì Bảy sau khi hòa bình lập lại:

- Vào năm 1975, dượng Bảy đã hi sinh trong một trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn. Mặc dù gia đình đã nhận được giấy báo tử, dì Bảy vẫn không chấp nhận đi bước nữa. Tình yêu và lòng trung thủy của dì đã không bao giờ mất đi.

3. Đánh giá:

Giá trị nội dung: Tác phẩm "Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà" là một câu chuyện đầy ý nghĩa về lòng chung thủy và tình yêu không bao giờ mất đi. Đồng thời, nó cũng lên án sự tàn khốc của chiến tranh và hình ảnh của những người phụ nữ dũng cảm và kiên trì trong những thời điểm khó khăn.

Giá trị nghệ thuật: Huỳnh Như Phương đã diễn đạt câu chuyện này một cách tinh tế và đầy cảm xúc. Cách ông lồng ghép từng chi tiết và miêu tả nhân vật vô cùng chân thực. Tác phẩm này là một bài học sâu sắc về lòng trung thủy và tình yêu vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

III. Kết bài

"Người Ngồi Đợi Trước Hiên Nhà" không chỉ là một câu chuyện về quê hương, về lòng trung hiếu, mà còn là tấm gương sáng về tình yêu và lòng trung thành. Tác phẩm này như một bài học sâu sắc, khiến chúng ta nhớ mãi về những giá trị đẹp đẽ của tình yêu và lòng trung thành trong cuộc sống.

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (mẫu 1)

“Em tiễn đưa anh như ngọn lửa

Dấy lòng anh mãi chiến trường xa”

Những cuộc tiễn đưa, những cái nắm tay, những lời chào chia ly trong chiến tranh đã đi vào văn chương một cách bình dị mà sâu lắng. “Người ngồi đợi trước hiên nhà “ của tác giả Huỳnh Như Phương cũng là câu chuyện về tình yêu, sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian của con người trong và sau chiến tranh.

Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Vợ chồng dì Bảy mới lấy nhau vỏn vẹn một tháng thì chồng dì phải tập kết ra Bắc. Khi ấy, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm ròng rã, dì vẫn chung thủy chờ chồng. Kể cả khi đã nhận giấy báo tử, dì vẫn không đi bước nữa. Ngôi kể thứ nhất, xưng là “tôi” đã giúp cho những chi tiết, sự kiện trong truyện hiện lên chân thật, khách quan hơn.

Bối cảnh mở đầu của câu chuyện chính là những năm tháng đất nước đang chìm trong đau thương của chiến tranh. Sau khi hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, có biết bao người dân vì đấu tranh cho Tổ quốc mà phải rời xa quê hương. Trong đó, ở phía sau là hình bóng những người mẹ, người vợ, những đứa con. Gia đình dì Bảy và dượng Bảy cũng là một trong số đó. Họ lấy nhau mới được một tháng thì dượng Bảy đã phải đi tập kết ra Bắc. Với một cặp vợ chồng mới cưới, thì việc ở bên cạnh nhau cũng là một cách để có thể vun vén hạnh phúc gia đình và chăm lo, đỡ đần cho nhau trong những ngày tháng gian khó. Ấy vậy mà dì Bảy và dượng Bảy phải sống trong cảnh mỗi người một phương.

Cuộc chiến tranh đã gieo vào lòng người đi, kẻ ở muôn vàn nỗi xót xa. Dù đã bị chia cắt làm nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng còn dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”. Tình yêu thương thì vẫn luôn tồn tại nơi trái tim mỗi người, vượt lên khoảng cách địa lí.

Khi dượng ra đi, dì Bảy tròn hai mươi tuổi. Suốt hai mươi năm sau đó có những người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì giữ niềm tin có ngày chồng mình sẽ trở về. Thế mới thấy tình yêu thương dì Bảy dành cho chồng lớn lao và cao cả biết bao: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”.

Tưởng rằng sự chờ đợi sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh thật tàn độc khi cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: "dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng". Nước mắt như nghẹn lại, tác giả không khỏi thương xót thay cho dì Bảy trước sự hi sinh của chồng. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, "mỏi mắt nhìn ra đường cái" nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, "mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử". Chiến tranh thì ắt hẳn sẽ có những giọt máu rơi xuống nền đất, sẽ có những xác người bạt ngàn nẻo đường. Với dì Bảy, đó là một nhát dao cứa thẳng vào trái tim khi mất đi người mà mình đã yêu thương chờ đợi.

Không còn chồng ở bên cạnh, mất đi bóng hình thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Nhân vật người cháu đã xót thương và cảm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của dì.

Bằng sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ, lắng đọng cảm xúc, Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc khắc họa chân dung dì Bảy và dượng Bảy trong hoàn cảnh bấy giờ một cách chân thực nhất. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là biểu tượng cao đẹp cho người phụ nữ Việt Nam với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hy sinh tình cảm cá nhân để góp vào sự hòa bình Tổ quốc. Qua đó, tác giả đã phơi bày hiện thực tàn khốc của chiến tranh đẩy những gia đình vào cảnh chia ly, tan tác, đồng thời ca ngợi những người phụ nữ tần tảo, thủy chung, son sắt họ chính là những người hi sinh âm thầm lặng lẽ, góp công lớn cho công cuộc giải phóng đất nước.

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (mẫu 2)

Đầu tiên ta đi vào hoàn cảnh chia ly của đôi vợ chồng dì dượng Bảy. Năm 1954 hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết khiến cho những người con ở Quảng Nam phải ra Bắc sống và làm việc. Dì Bảy và dượng Bảy lấy nhau mới được một tháng trời thì người chồng phải tập quân ra Bắc, hoàn cảnh chưa được hạnh phúc bao lâu mà đã phải nói lời từ biệt. Không chỉ riêng gì dì dượng Bảy mà tất cả mọi người đều vậy, chiến tranh đã khiến cho các gia đình lâm vào cảnh ly tán, vợ tiễn chồng, tiễn con lên đường “đôi người đôi ngả”. Cuộc kháng chiến chống Mỹ lúc bấy giờ của đất nước ta đã khiến dượng Bảy và nhiều người con đất Quảng khác phải lên đường gánh vác trên vai trách nhiệm to lớn với đất nước, tất cả cho thấy chiến tranh thật tàn nhẫn, nó đã chia cắt hạnh phúc gia đình lứa đôi đẩy cuộc sống của người dân vào hoàn cảnh cô đơn chia cắt.

Đau lòng vì phải chia ly là vậy nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau trong suốt khoảng thời gian sau đó. Dì Bảy ở nhà vẫn luôn hướng ra Bắc vì người chồng cong dượng Bảy ở ngoài Bắc vẫn luôn hướng về quê nhà với gia đình và vợ. Dượng Bảy vẫn luôn tìm cách để liên lạc về với gia đình cho mọi người yên tâm: “Thỉnh thoảng là một lá thư gói trong bọc ni lông…”, “gần cuối cuộc chiến tranh tin tức của dượng về nhà thường xuyên hơn”, “… dượng nhờ người báo tin cho gia đình và gửi tặng dì tôi một chiếc nón bài thơ mua được trên đường hành quân." Mặc dù chiến tranh đã chia cắt nhau là vậy nhưng họ vẫn luôn hướng về nhau, nó có thể chia cắt được thể xác chứ tình cảm thì không. Dì Bảy vẫn luôn chờ đợi dượng Bảy suốt hai mươi năm trời với niềm tin nung nấu rằng chồng mình sẽ quay trở về dù có người ngỏ ý dạn hỏi. Dì Bảy hết sức yêu thương chồng: “Mỗi ngày, sau khi đi làm đồng trở về, dì tôi thường ngồi trên bộ phản gỗ ngoài hiên nhìn ra con ngõ, nơi ngày xưa dượng cùng những người đồng đội lần đầu đến nhà tôi xin chỗ trú quân”, “cầu nguyện cho dượng tránh hòn tên mũi đạn nơi chiến trường”. Thế rồi chuyện gì đến cũng vẫn sẽ đến, chiến tranh đã cướp đi mạng sống của ba người trên năm người trong một gia đình: "dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng". Đến đây tác giả đã bộc lộ cảm xúc xót thương cho nhân vật dì Bảy trước sự hi sinh của dượng Bảy. Dì bảy luôn mong ngóng sự trở về của dượng, "mỏi mắt nhìn ra đường cái" nhưng mãi vẫn không có tin tức của chồng mình, "mãi đến năm 1975 mới nhận giấy báo tử",. Bom đạn trong chiến tranh không những chia cắt con người mà còn cướp đi mạng sống của những người thân yêu, đẩy họ vào đau khổ tột cùng, để lại nỗi khổ đau, nhớ nhung cho những người ở lại như dì Bảy cũng như người dân Việt Nam ta lúc bấy giờ.

Dù dượng Bảy đã mất nhưng lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi: “Ngày hòa bình, dì tôi đã qua tuổi bốn mươi. Vẫn có người đàn ông để ý đến dì nhưng lòng dì đã không còn rung động.”, “Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ giữa khu vườn ít bàn tay vun xới.”, “Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình, cứ vào chiều muộn dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng.” Qua lời kể của tác giả cho thấy tác giả đầy xót xa thương cảm. Đứa cháu thương cho người dì cô quạnh, đồng thời cũng cảm phục lòng chung thủy, kiên cường của người phụ nữ ấy. Tác giả thương cảm cho số phận của người dì, dì rất mực yêu thương chồng nhưng hoàn cảnh chiến tranh đã đẩy dì và thế chia ly và mất đi người chồng đầu gối tay kề với mình. Cuộc sống cô đơn lẻ loi trong những ngày bão lụt, không biết nương tựa vào ai. Dù vậy nhưng dì Bảy vẫn một lòng chung thủy với người chồng đã khuất của mình. Hình ảnh dì Bảy hiện lên cũng chính là hình ảnh tượng trưng cho người phụ nữ Việt Nam ta với những phẩm chất đức tính cao đẹp, luôn âm thầm chịu đựng, hi sinh tình cảm cá nhân để góp phần vào nhiệm vụ lớn lao đối với Tổ quốc. Tác phẩm được kể theo ngôi thứ nhất, xưng là tôi. Đó chính là tác giả trong vai người cháu chứng kiến toàn bộ câu chuyện và kể lại khiến cho câu chuyện trở nên chân thật, khách quan hơn. Từ đó tác giả muốn lên án chiến tranh tàn khốc đã chia lìa và cướp đi sinh mạng của bao người dân ta, đồng thời để lại cho người ở lại nỗi đau buồn không gì có thể bù đắp được.

Với sự kết hợp của tự sự và biểu cảm, giọng kể đầy xúc cảm, tác giả Huỳnh Như Phương đã thành công trong việc kể lại câu chuyện của dì dượng Bảy một cách chân thật nhất. Đồng thời tác giả muốn lên án chiến tranh phi nghĩa đã làm chia cắt bao gia đình và nó đã cướp đi sinh mạng của bao con dân Việt Nam ta trong thời kỳ chống Mỹ, xót thương cho những người lính phải bỏ mạng nơi chiến trường, ca ngợi đức tính hy sinh cao cả mà thầm lặng của những người phụ nữ anh hùng dân tộc Việt Nam ta.

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (mẫu 3)

Tản văn "Người ngồi đợi trước hiên nhà" của tác giả Huỳnh Như Phương thể hiện một câu chuyện về tình yêu và sự chờ đợi vượt qua giới hạn của thời gian trong và sau chiến tranh. Nói về những cuộc tiễn đưa, những nắm tay, và những lời chào chia ly trong chiến tranh, tác phẩm tạo ra một bức tranh đậm chất nhân văn và đầy xúc động.

Tản văn bắt đầu bằng việc đặt bối cảnh vào thời kỳ chiến tranh Việt Nam. Sau hiệp định Geneva vào cuối năm 1954, nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền, và nhiều người phải rời xa quê hương để tham gia vào cuộc chiến tranh chống quân xâm lược. Trong bối cảnh đó, tác giả lồng ghép câu chuyện về cuộc đời của nhân vật dì Bảy, một phụ nữ trẻ, mới lấy chồng một tháng, nhưng đã phải đối mặt với việc chồng mình phải đi tập kết ra Bắc.

Dì Bảy và dượng Bảy, mặc dù chỉ mới kết hôn một tháng, bị chia cắt do chiến tranh. Dì Bảy vẫn chăm sóc nhà, vườn và nhà thờ của gia đình. Dượng Bảy, dù ở xa, luôn tìm cách liên lạc với dì qua các lá thư, mang theo tin tức và hy vọng. Dì Bảy không bao giờ mất niềm tin vào việc chồng mình sẽ trở về.

Khi dượng Bảy hy sinh trong trận đánh ở Xuân Lộc, Dì Bảy tiếp tục chăm sóc gia đình và sống cô đơn. Tình yêu thương và lòng chung thủy của dì vẫn không bao giờ mất đi. Dì Bảy luôn nhớ về người chồng mình và cất tiếng chờ đợi, ngồi trước hiên nhà như một biểu tượng cho sự kiên trì và tình yêu chân thành.

Tác phẩm "Người ngồi đợi trước hiên nhà" giá trị cao về nội dung và nghệ thuật. Nó lên án sự tàn khốc của chiến tranh và tôn vinh tình yêu và lòng chung thủy của dì Bảy. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giàu chất thơ và lời kể tinh tế để diễn đạt cảm xúc và tình cảm của nhân vật. Bằng cách khắc họa chân thực nhân vật dì Bảy và dượng Bảy trong bối cảnh chiến tranh, tác phẩm tạo ra một bức tranh rõ nét về cuộc sống và tình yêu trong thời kỳ khó khăn. Nó cũng tôn vinh lòng kiên nhẫn và trung thủy của người phụ nữ Việt Nam, những người đã hy sinh và chờ đợi trong bão táp của chiến tranh. Sự kiên nhẫn, trung thực và lòng kiên định của dì Bảy là biểu tượng cho tình yêu và lòng chung thủy của người phụ nữ Việt Nam trong thời gian chiến tranh. Cuộc sống của dì Bảy, sau khi mất đi chồng, tiếp tục sống cô đơn và luôn nhớ về người chồng mình, đặc biệt là việc ngồi trước hiên nhà làm cho người đọc cảm nhận được sự kiên định và chờ đợi của bà.

Tác phẩm khắc họa chân thực và đầy cảm xúc cuộc sống và tình yêu trong thời kỳ khó khăn. Nó giúp người đọc hiểu thêm về sự hy sinh và lòng kiên nhẫn của những người phụ nữ trong gia đình, những người đã đối mặt với những khó khăn và đau thương trong thời gian chiến tranh.

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (mẫu 4)

Trước hết, hãy bắt đầu với tình huống chia ly của đôi vợ chồng dì dượng Bảy, một câu chuyện mà năm 1954, hiệp định Giơ-ne-vơ đã đẩy họ phải chia xa nhau khiến cho những người con ở Quảng Nam phải di cư về Bắc để sống và làm việc. Dì Bảy và dượng Bảy chỉ kết hôn được một tháng trời, người chồng đã phải tập quân ra Bắc, mang theo đau đớn và sự chia ly. Không chỉ dì dượng Bảy mà tất cả mọi người đều trải qua cảnh lạc bốn phương, chiến tranh đã làm tan rã hạnh phúc gia đình, buộc con đường tiễn biệt trở nên quen thuộc.

Cuộc kháng chiến chống Mỹ đã đưa dượng Bảy và nhiều người con khác từ Quảng Nam phải gánh vác trách nhiệm lớn với đất nước, một hình ảnh khẳng định rằng chiến tranh không chỉ tàn bạo với thể xác mà còn với tình cảm gia đình. Dì Bảy và dượng Bảy, mặc dù xa cách về địa lý, vẫn luôn hướng về nhau trong lòng và niềm tin.

Đau lòng vì sự chia ly, nhưng dì Bảy và dượng Bảy không bao giờ quên nhau trong suốt thời gian đau khổ đó. Dì Bảy, ở nhà, vẫn dõi theo hướng Bắc, trong khi người chồng ở phía Bắc luôn gửi về những tin tức và lá thư trong bọc ni lông để chia sẻ niềm vui và nỗi buồn. Tình cảm chung thủy của họ không bị phai nhòa, mặc dù chiến tranh đã chia cắt họ về địa lý.

Dì Bảy không ngừng chờ đợi dượng Bảy suốt hai mươi năm, với niềm tin rằng chồng mình sẽ trở về, dù có người ngỏ ý muốn kết hôn với dì. Hình ảnh dì Bảy ngồi trước hiên nhà, mỗi chiều muộn, nhìn ra con đường dài vẫn giữ nguyên, là biểu tượng của hy vọng không nguội.

Dù dượng Bảy đã ra đi, lòng chung thủy của dì không bao giờ mất đi. Dì Bảy sống cô đơn, nhưng vẫn tiếp tục giữ vững trách nhiệm của một người phụ nữ Việt Nam, chăm sóc gia đình và giữ gìn ngôi nhà. Hình ảnh dì Bảy ngồi trước hiên nhà nhìn con đường như biểu tượng của sự chờ đợi vô vọng, làm cho tác giả cảm thấy xót xa và thương cảm.

Người cháu, là người kể chuyện, chứng kiến những bi kịch trong cuộc sống của dì Bảy, và qua lời kể chân thực, tác giả muốn truyền đạt sự đau lòng, cảm xúc sâu sắc đằng sau hình ảnh dì Bảy. Đồng thời, tác giả cũng muốn lên án sự tàn bạo của chiến tranh, đã làm chia cắt và cướp đi sinh mạng của nhiều người dân Việt Nam.

Sự kết hợp giữa tự sự và biểu cảm, giọng kể đầy xúc cảm của tác giả Huỳnh Như Phương đã giúp câu chuyện trở nên sống động và chân thực. Tác giả không chỉ muốn kể về cuộc sống của dì Bảy mà còn muốn làm nổi bật thông điệp về sự hy sinh và lòng chung thủy của những người phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ chiến tranh.

Phân tích Người ngồi đợi trước hiên nhà (mẫu 5)

Những lời chia tay, những cái nắm tay, những lời từ biệt trong chiến tranh đã đi vào văn học một cách giản dị nhưng sâu sắc. “Người ngồi đợi trước hiên nhà” của tác giả Huỳnh Như Hương cũng là câu chuyện về tình yêu và sự chờ đợi vượt qua ranh giới thời gian của con người trong và sau chiến tranh.

Tản văn là câu chuyện về cuộc đời của một nhân vật tên là Dì Bảy dưới góc nhìn của người cháu. Dì Bảy và chồng vừa lấy nhau được một tháng trước khi chồng dì phải tập kết ra Bắc. Lúc này dì Bảy mới 20 tuổi. Dì đã chung thủy chờ đợi chồng suốt 20 năm. Ngay cả sau khi nhận được giấy báo tử, dì cũng không đi bước nữa. Người kể chuyện ở ngôi thứ nhất tự xưng là “tôi” làm cho các chi tiết, sự việc trong câu chuyện có vẻ chân thực và khách quan hơn.

Bối cảnh mở đầu câu chuyện là những năm đất nước còn trong chiến tranh. Sau khi Hiệp định Geneva được ký kết vào cuối năm 1954, đầu năm 1955, nhiều người dân đã phải rời bỏ quê hương để chiến đấu cho Tổ quốc. Ở phía sau có thể nhìn thấy hình bóng của những người mẹ, người phụ vợ và những đứa con. Gia đình của dì Bảy và dượng Bảy là một phần trong đó. Họ mới cưới nhau được một tháng thì dượng Bảy phải tập kết ra Bắc. Với cặp vợ chồng mới cưới, việc ở bên nhau cũng là cách để gìn giữ hạnh phúc gia đình, chăm sóc và hỗ trợ nhau trong những ngày khó khăn. Tuy nhiên, dì Bảy và dượng Bảy đã phải chia ly mỗi người một phương.

Chiến tranh đã để lại vô số nỗi buồn trong lòng những người ở lại. Dù đã xa nhau nhưng dì Bảy và dượng Bảy vẫn luôn hướng về nhau. Dì Bảy luôn quay mặt về hướng bắc vì người chồng dì còn dượng Bảy sống ở phía bắc vẫn luôn hướng về với gia đình và vợ. Dượng Bảy luôn tìm cách liên lạc với gia đình để họ cảm thấy an toàn. “Thỉnh thoảng một lá thư gói trong bọc ni lông bé tí chuyển đến nhà tôi giữa đêm khuya mang theo tin tức của dượng như một niềm hy vọng đáp lại nỗi trông chờ mòn mỏi của dì”.. Đáp lại sự chờ đợi lâu dài của dì tôi, tôi đã làm theo. Tình yêu vượt qua khoảng cách địa lý và luôn tồn tại trong trái tim mỗi người.

Dì Bảy mới 20 tuổi khi dượng ra đi. Trong 20 năm sau đó, có nhiều người ngỏ ý dạm hỏi nhưng dì vẫn tin tưởng rằng một ngày nào đó chồng mình sẽ quay trở lại. Điều này cho thấy tình yêu của dì Bảy dành cho chồng mình lớn lao và cao cả đến nhường nào.

Tưởng rằng sự chờ đợi ấy sẽ được đền đáp xứng đáng, nhưng chiến tranh tàn khốc đã cướp đi sinh mạng của 3 trong số 5 người trong gia đình.”dượng ngã xuống trong trận đánh ở Xuân Lộc, cửa ngõ phía Đông Bắc Sài Gòn, chỉ mươi ngày trước khi chiến tranh ngưng tiếng súng”. Tác giả như kìm nước mắt, không khỏi thương xót cho dì Bảy trước sự hy sinh của chồng. Dì Bảy luôn mong chờ sự trở lại của dượng nhưng dù “mỏi mắt nhìn ra đường cái” vẫn không có tin tức gì về chồng, và “mãi đến năm 1975 mới nhận được giấy báo tử”. Đối với dì Bảy, điều đó giống như việc bị một nhát dao cứa vào tim.

Dù chồng không còn ở bên cạnh, dù mất đi bóng người thân thuộc ấy nhưng lòng chung thủy của dì vẫn nguyên vẹn. Dì Bảy ở lại chăm sóc bà, trông coi nhà thờ. Khi bà ngoại mất, dì về quê sống một mình trong ngôi nhà cũ. Dì sống cô đơn một mình. Nhân vật người cháu đồng cảm và khâm phục trước lòng chung thủy, kiên cường của người dì.

Với sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và biểu cảm, ngôn ngữ giàu chất thơ mộng và cảm xúc, Huỳnh Như Hương đã thành công trong việc khắc họa dì Bảy và dượng Bảy một cách chân thực. Nhân vật Dì Bảy là biểu tượng đẹp đẽ của người phụ nữ Việt Nam với những đức tính cao đẹp, hy sinh thầm lặng tình cảm cá nhân để góp phần cho hòa bình của quê hương, đất nước. Qua đó, tác giả cho thấy hiện thực tàn khốc của chiến tranh đã làm chia cắt, tan nát gia đình, đồng thời tôn vinh những người phụ nữ cần cù, chung thủy đã âm thầm hy sinh mạng sống và đóng góp rất nhiều cho sự nghiệp giải phóng của đất nước.

1 10 10/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: