Thơ thất ngôn bát cú đường luật là gì? Nguồn gốc, đặc điểm, bố cục của bài thơ thất ngôn bát cú

Vietjack.me gửi tới bạn đọc bài viết về thơ thất ngôn bát cú với đầy đủ khái niệm, ví dụ, cách nhận biết, ... Từ đó giúp các em nắm vững kiến thức về thơ thất ngôn bát cú để áp dụng khi làm bài. Mời các em tham khảo bài viết dưới đây:

1 193 03/12/2024


Thơ thất ngôn bát cú đường luật là gì? Nguồn gốc, đặc điểm, bố cục của bài thơ thất ngôn bát cú

1. Thế nào là thơ thất ngôn bát cú đường luật?

Thể thơ thất ngôn bát cú là thể loại thơ có 8 câu mỗi câu có 7 chữ. Như vậy thì tổng số chữ trong một bài là 56. Chính những quy luật ấy đã làm nên những cái hay cái quy định của thể thơ.

2. Nguồn gốc của thể thơ thất ngôn bát cú

- Thể thơ thất ngôn bát cú là cổ thi, xuất hiện sớm ở Trung Quốc. Đến đời nhà Đường mới được các nhà thơ đặt quy định cụ thể, rõ ràng, kéo dài trong chế độ phong kiến. Thể thơ này đã được các đời vua Trung Quốc và Việt Nam dùng cho việc thi cử tuyển chọn nhân tài, rất phổ biến ở Việt Nam vào thời Bắc thuộc, chủ yếu được những cây bút quý tộc sử dụng.

- Thể thơ có luật rất chặt chẽ. Tuy nhiên, trong quá trình sáng tác nhất là vào phong trào thơ mới tại Việt Nam từ năm 1925, bằng sự sáng tạo của mình, các tác giả đã làm giảm bớt tính gò bó, nghiêm ngặt của luật bằng - trắc để tâm hồn lãng mạn có thể bay bổng trong từng câu thơ.

3. Đặc điểm, cấu trúc, bố cục của bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

Cấu trúc: Bài thơ gồm tám câu, mỗi câu bảy chữ, tổng cộng là 56 chữ.

Niêm luật: Thơ thất ngôn bát cú tuân theo niêm luật rất nghiêm ngặt, bao gồm các quy tắc về thanh điệu và đối (đối xứng) giữa các câu:

- Câu 1, 2, 4, 6, và 8 thường theo luật bằng trắc hoặc trắc bằng.

- Câu 3, 5, và 7 thường tự do hơn nhưng vẫn phải tuân theo nguyên tắc đối xứng về thanh điệu.

Về vần và nhịp: Bài thơ thất ngôn bát cú chỉ gieo một vẫn là vần bằng ở chữ cuối các câu 1, 2, 4, 6, 8; riêng vẫn của câu thứ nhất có thể linh hoạt. Câu thơ trong bài thất ngôn bát cú thường ngắt theo nhịp 4/3.

Đối: Các câu 3 và 4, câu 5 và 6 phải đối nhau về nghĩa và về từ loại.

Chủ đề: Thể thơ này thường được dùng để diễn tả những tình cảm sâu sắc, triết lý sống, và mô tả cảnh vật thiên nhiên.

Bố cục: Một bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật có cấu tạo gồm 4 phần: Đề, Thực, Luận, Kết.

Cụ thể:

- Phần Đề: Bao gồm 2 câu đầu. Trong đó, câu 1 là phá đề dùng để mở bài, câu 2 là thừa đề được dùng để tiếp nối với câu 1 nói lên đầu đề của bài.

- Phần Thực: Bao gồm câu 3 và câu 4, được dùng để giải thích đầu bài.

- Phần Luận: Bao gồm câu 5 và câu 6, được dùng để nói lên cảm xúc với ý kiến khen chê hoặc so sánh.

- Phần Kết: Bao gồm 2 câu cuối tóm lược ý nghĩa chung của cả bài.

4. Luật bằng trắc trong thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

- Về luật bằng trắc trong thể thơ. Thanh bằng bao gồm những chữ có dấu huyền và dấu thanh ngang. Thanh trắc là những chữ có những dấu còn lại.

- Cách sắp xếp các thanh bằng, trắc theo kiểu "Nhất, tam, ngũ bất luận. Nhị, tứ, lục phân minh" và xen kẽ nhau. Tức là nếu tiếng thứ 2 là thanh bằng thì tiếng thứ 4 là thanh trắc, tiếng thứ 6 thanh bằng và dòng tiếp theo thì ngược lại (nếu câu đầu là 2 = bằng, 4 = trắc, 6 = bằng thì câu kế tiếp sẽ là 2 = trắc, 4 = bằng, 6 = trắc). Chẳng hạn như câu thơ trong bài:

“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn”

Thanh: B…………. T………. B……….

“Trơ cái hồng nhan với nước non. ”

Thanh: T……. . B………. T………. .

(Tự tình 2- Hồ Xuân Hương).

- Tiếp theo về luật thơ thông thường, thơ thất ngôn bát cú có thể làm theo 2 cách thông dụng:

+ Thất ngôn bát cú theo Đường luật: Có quy luật nghiêm khắc về Luật, Niêm và Vần và có bố cục rõ ràng.

+ Thất ngôn bát cú theo Cổ phong: Không theo quy luật rõ ràng, có thể dùng một vần (độc vận) hay nhiều vần (liên vận) nhưng vần vẫn phải thích ứng với quy luật âm thanh, có nhịp bằng trắc xen nhau cho dễ đọc.

- Còn một cách khác là theo Hàn luật. Những bài thơ thất ngôn bát cú chữ Nôm thường được gọi là thơ Hàn luật.

5. Thể thơ thất ngôn bát cú trong văn học Việt Nam

Trong văn học Việt Nam, thể thơ thất ngôn bát cú đã để lại dấu ấn sâu đậm với nhiều tác phẩm nổi bật của các nhà thơ danh tiếng. Dưới đây là một số bài thơ đường luật đáng chú ý và những nhà thơ tiêu biểu:

Bài thơ "Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác" của Phan Bội Châu:

Vẫn là hào kiệt, vẫn phong lưu

Chạy mỏi chân thì hãy ở tù

Đã khách không nhà trong bốn biển

Lại người có tội giữa năm châu

Bủa tay ôm chặt bồ kinh tế

Mở miệng cười tan cuộc oán thù

Thân ấy vẫn còn còn sự nghiệp

Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu.

Bài thơ "Cảnh khuya" của thi sĩ Hồ Xuân Hương:

Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn.

Xuyên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.

Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

Mảnh tình san sẻ tí con con."

Bài thơ "Thu điếu" - Nguyễn Khuyến:

Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,

Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.

Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,

Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.

Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.

Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,

Cá đâu đớp động dưới chân bèo.


Những tác phẩm trên chỉ là một phần nhỏ trong số các tác phẩm xuất sắc sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú trong văn học Việt Nam. Điều này cho thấy sức ảnh hưởng và giá trị của thể loại thơ này trong văn học nước ta.

6. Hướng dẫn phân tích một bài thơ Thất ngôn bát cú Đường luật

Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm và nhấn mạnh giá trị của tác phẩm trong lĩnh vực văn học.

Thân bài:

- Tổng quan về tác giả, bao gồm thông tin về cuộc đời và tác phẩm của ông, cùng với bối cảnh sáng tác để làm nổi bật sự đặc biệt của tác phẩm.

- Đề cập đến đề tài và thể loại của bài thơ, giải thích tại sao chúng quan trọng và có ảnh hưởng trong lĩnh vực văn học.

- Phân tích chi tiết nội dung chính của tác phẩm, bao gồm các sự kiện, ý tưởng và thông điệp của tác giả.

- Tìm hiểu về cảm xúc của nhân vật trữ tình trong bài thơ, nhấn mạnh tầm quan trọng và sự chân thành của những cảm xúc này.

- Đề cập đến những nét đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ, ví dụ: sử dụng phép tu từ, hình ảnh hay biểu tượng để tạo nên hiệu ứng mạnh mẽ và gợi cảm xúc cho độc giả.

- Phân tích cách tác giả sử dụng ngôn ngữ trong tác phẩm, nhấn mạnh những cách sáng tạo và độc đáo trong việc sử dụng từ ngữ và cú pháp.

Kết bài: Tổng kết và khẳng định vị trí và ý nghĩa của bài thơ trong lĩnh vực văn học, nhấn mạnh sự tác động của tác phẩm đối với độc giả và văn học nói chung.

Bài văn tham khảo

Đèo Ngang, một vùng đất nổi tiếng với vẻ đẹp tuyệt vời của nước ta, khiến cho lòng người đến thăm không thể không bị cuốn hút và để lại trong tâm hồn những ấn tượng sâu sắc. Đứng trên đỉnh đèo, ta có thể nhìn về mọi hướng và tận hưởng những khung cảnh tuyệt đẹp. Phía đông, biển xanh biếc tung tăng sóng vỗ vào sườn núi, phía tây, núi non trùng điệp điệp vô tận. Trong khi đó, về phía bắc và nam, sáng lập ở đây một khoảng trời màu đỏ thẫm của những tảng đá. Với sự hòa quyện của những cảnh vật tuyệt vời như vậy, Đèo Ngang đã trở thành nguồn cảm hứng không thể thiếu đối với các nhà văn và nhà thơ.

Trong số những tác phẩm nổi tiếng được truyền cảm hứng từ Đèo Ngang, không thể không nhắc đến bài thơ "Qua đèo Ngang" của Bà Huyện Thanh Quan. Đây là một tác phẩm thể hiện chân thành và cảm xúc của bà khi trên đường đi Huế nhận chức. "Qua đèo Ngang" chính là sự biểu đạt sâu sắc về nỗi nhớ nhà, nỗi nhớ quê hương đậm đà trong lòng bà.

Bà Huyện Thanh Quan được biết đến là một trong những nữ sĩ tài danh hiếm có của thế kỷ XIX. Dù chỉ để lại ít tác phẩm cho đời (hiện nay chỉ còn sáu bài thơ Đường luật), nhưng mỗi tác phẩm của bà đều mang giá trị đáng kể. Các bài thơ viết bằng chữ Nôm của bà thường tả cảnh vật và tình cảm, nhưng tất cả đều xuất sắc và thể hiện sự thanh tao, chính trực và sự tình cảm đối với quê hương và đất nước. Lời văn của bà luôn rất trang nhã và điêu luyện, như Dương Quảng Hàm đã nhận xét.

"Qua đèo Ngang" là một bài thơ được viết theo thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật. Cảm hứng sáng tác của bà chủ yếu đến từ khung cảnh quê hương và đất nước, và thông qua đó, bày tỏ tâm trạng của con người. Bài thơ bắt đầu với hai câu đề để miêu tả chung về cảnh vật ở Đèo Ngang, hai câu tiếp theo mô tả đời sống của con người tại đây, và hai câu sau đó thể hiện sự nhớ nhà và tình yêu quê hương của tác giả. Cuối cùng, hai câu cuối cùng biểu lộ sự cô đơn đến tột cùng trong lòng bà.

Gần như tất cả các tác phẩm của Bà Huyện Thanh Quan đều bắt đầu bằng hình ảnh hoàng hôn. Và bài thơ "Qua đèo Ngang" cũng không là ngoại lệ:

Bước tới đèo Ngang bóng xế tà

Cỏ cây chen đá, lá xen hoa

Đèo Ngang - một nơi mang đầy những kỷ niệm buồn, những câu chuyện chưa kể. Nhà thơ đã tận dụng mọi từ ngữ, mỗi câu thơ đều gợi lên một tâm trạng, một cảm xúc đặc biệt.

Cảnh đèo hiện ra trước mắt như một bức tranh thuỷ mặc sắc màu, tràn đầy nỗi u buồn. Từ "bóng xế tà" đã định rõ không chỉ không gian mà còn thời gian, tạo nên một không khí u ám, buồn tênh trong lòng người đọc.

Những câu ca dao, dân ca cũng không thiếu những bài thơ viết về buổi tà chiều, nơi mà nỗi buồn không thể nào diễn tả hết. Mặt trời dần lặn, ánh hoàng hôn len lỏi khắp nơi. Trong bức tranh của nhà thơ, cảm giác cô đơn và lạc lõng được tạo nên bởi cảnh vật u buồn, không một ai hiện diện. Chỉ có cây cỏ và hoa, "chen" vào nhau để tìm ánh sáng, để tìm sự sống. Từ "chen" được lặp lại hai lần, như một lầm lỗi, làm tăng thêm sự hiu quạnh, đau lòng tại địa điểm này.

Hình ảnh trong hai câu thơ không chỉ đơn thuần là những dòng lệ uất ức, mà còn là sự lựa chọn tỉ mỉ, tinh tế, gây ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc. Tác giả đã tạo ra một khung cảnh đầy màu sắc, đậm chất cảm xúc và tâm trạng.

Sau khi thấu hiểu và cảm nhận về khung cảnh, tác giả tiếp tục dẫn dắt chúng ta đi sâu vào con người. Thực tế, mọi hiện tượng của thiên nhiên khi gắn liền với con người sẽ trở nên tươi đẹp, sống động hơn. Nhưng tại đèo Ngang, sự hiện diện của con người chỉ làm cho cảnh vật trở nên u ám hơn, như muốn thể hiện sự hiu quạnh và cô đơn của nơi đây.

“Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ mấy nhà"

Câu thơ khởi đầu mang đến cho chúng ta hình ảnh trong bóng chiều lạnh lẽo, với những chú tiều phu đang mệt mỏi đi đốn củi, và những quán chợ thưa thớt. Đảo ngữ được sử dụng một cách khéo léo, đặc biệt là từ "lác đác" và "lày lom", đã tạo ra một hình ảnh sống động, bộc lộ cuộc sống tẻ nhạt và buồn chán. Nơi đây hoàn toàn khác biệt so với những khu phố sôi động, nhộn nhịp và đông đúc. Nhà thơ đang tìm kiếm sự sống, nhưng điều đó dường như chỉ làm cho cảnh vật tại đèo Ngang trở nên cô đơn, u buồn hơn gấp nhiều lần. Sự đối lập trong hai câu thơ thực sự này tạo ra một cảnh tượng thưa thớt dưới chân núi, trên dòng sông. Từ "vài" và "mấy" càng làm tăng sự vắng vẻ tại đèo Ngang này.

Trong không gian trống lặng ấy, từ xa xa, tiếng chim quốc quốc, chim gia gia vang lên một cách đều đều.

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia

Hai câu thơ trên, Bà Huyện Thanh Quan đã tận dụng khả năng thính giác của mình để truyền tải cảm nhận: tiếng chim quốc quốc, chim gia gia vang lên từ xa, truyền đi trong không gian êm đềm, yên tĩnh của buổi chiều trên đèo cao. Từ cảnh vật thiên nhiên đó và hoàn cảnh của nhà thơ lúc này đã khơi gợi trong bà những suy tưởng về sự nhớ nhà và tình yêu quê hương. Bà trước đây đã được triệu về Huế để đảm nhiệm chức vụ giáo tập cung trung, và có thể bài thơ này được viết trong khoảng thời gian đó, khi nỗi nhớ nhà được biểu đạt một cách rõ ràng. Đối với một phụ nữ phải xa quê hương để sinh sống ở một nơi xa lạ, trong lòng chắc hẳn chứa đựng không ít nỗi buồn. Tiếng chim gia gia gợi lên biết bao nỗi niềm thiết tha như vậy, nhưng tiếng chim quốc quốc mang theo một ý nghĩa đắng cay là gì? Nhà thơ thương nhớ cảnh quê hương đang chìm trong cảnh loạn lạc, gia đình tan rã không thể sum vầy bên nhau. Nỗi đau lòng khi nhớ đến quê hương có lẽ là vì những lý do như vậy. Tiếng "con cuốc cuốc" và "cái gia gia" tạo nên một âm điệu nghe thật du dương, nhưng cũng đau đớn đến xé lòng. Thủ pháp mô tả bằng những hình ảnh tĩnh của nhà thơ được sử dụng một cách khéo léo, trên nền tảng yên bình, lặng lẽ, đột nhiên có tiếng chim vang lên, tạo nên sự xao lòng và cảm xúc sâu sắc.

Hai câu thơ trong phần bàn luận của "Qua đèo Ngang" đã nhấn mạnh tình cảm mà Bà Huyện Thanh Quan dành cho Tổ quốc và gia đình. Những hiện thực xã hội và khung cảnh nơi đèo Ngang đã khiến tác giả nhớ về chính mình và thúc đẩy bà thốt lên:

Dừng chân dứng lại trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.

Dừng chân đứng lại để quan sát cảnh vật ở xung quanh nhưng hiện ra trước mặt bà chỉ là: trời, non, nước. Vũ trụ bao la, xung quanh bà là thiên nhiên rộng lớn với núi, sông khiến cho con người thật nhỏ bé, đơn độc. Nơi đây chỉ có một mình nhà thơ và cộng hưởng thêm tình cảm thiêng liêng dành cho nước, cho nhà khiến lòng bà càng thêm trống trải. Vũ trụ rộng lớn quá! Con người cô đơn biết nhường nào! Cụm từ “ta với ta” đã càng cho thấy rõ hơn tài năng điêu luyện của nhà thơ. Cũng là cụm từ này nhưng nhà thơ Nguyễn Khuyến lại viết:

Bác đến chơi đây ta với ta

Câu thơ của Nguyễn Khuyến là sự kết hợp của hai người: hai mà một, tuy một mà hai. Còn Bà Huyện lại nói:

Một mảnh tình riêng ta với ta.

Câu thơ đã nhấn mạnh vào sự lẻ loi, đơn côi của tác giả trong bối cảnh thiên nhiên rộng lớn. Qua đó, chúng ta cảm nhận sâu hơn về nỗi tâm sự của nhà thơ đối với quê hương và đất nước.

Bài thơ không chỉ có giá trị nội dung sâu sắc mà còn được người đọc yêu thích và đón nhận vì đó là một ví dụ hoàn hảo về nghệ thuật cổ điển của thể loại Đường thi. Tác giả đã sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú, tuân thủ đúng niêm, luật, vần và đối. Ngôn ngữ được chăm chút tỉ mỉ, mượt mà mặc dù đã được Việt hóa. Đảo ngữ và chơi chữ được sử dụng một cách linh hoạt, mang lại giá trị đặc biệt cho bài thơ. Nghệ thuật tả cảnh và ngụ tình xuất sắc, chỉ nói về cảnh vật nhưng nỗi niềm và tâm trạng của tác giả được thể hiện rõ nét. Toàn bộ bài thơ được gieo vần "a" như một cách tâm sự hoài cổ của nữ sĩ. Người đọc không tìm thấy bất kỳ sự ồn ào nào trong cách miêu tả của nhà thơ, mà mọi thứ đều mang tính trầm lặng, chính như nỗi niềm của Bà Huyện.

Từ trước đến nay, đã có rất nhiều nhà thơ viết về đèo Ngang, nhưng có lẽ không ai thành công như Bà Huyện Thanh Quan, bởi bài thơ của bà mang giá trị đặc biệt, không chỉ thành công trong việc miêu tả hình ảnh mà còn chứa đựng cả tâm hồn, tình cảm và nỗi nhớ quê hương, tình yêu nhà và tài năng của một cây bút tuyệt vời. Gấp trang sách lại, trong lòng mỗi người ta vẫn còn mang trong mình những cảm xúc về nữ sĩ đó. Bài thơ sẽ sống mãi với thời gian, với những điều tươi đẹp nhất mà nó đem lại.

1 193 03/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: