TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 21 14/01/2025


Phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi

Dàn ý Phân tích bài thơ Tùng

1. Mở bài: Giới thiệu bài thơ Tùng và tác giả Nguyễn Trãi

2. Thân bài

- Nội dung của bài thơ Tùng chủ yếu tập trung vào việc miêu tả cảnh đẹp và đầy hùng vĩ của cây tùng, cùng với sự tưởng niệm về sự dũng cảm và quyết tâm của người Việt Nam.

- Bài thơ "Tùng " của Nguyễn Trãi bắt đầu bằng câu "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng", thể hiện sự tưởng niệm về sự đặc biệt và huyền bí của mùa thu.

- Đoạn thơ này của Nguyễn Trãi trong "Tùng " thể hiện sự bền bỉ và kiên nhẫn của cây tùng giữa những thách thức khắc nghiệt.

- Nghệ thuật của đoạn thơ tiếp tục thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ sinh động và hình ảnh miêu tả, tạo nên một tác phẩm thơ sâu sắc và lôi cuốn.

- Đoạn thơ này thể hiện sự kỳ vĩ của cây tùng, kết hợp với nghệ thuật sử dụng hình ảnh và từ ngữ sắc sảo, tạo nên một kết luận mạnh mẽ cho bài thơ “Tùng”.

3. Kết bài

- Tóm lại vấn đề, khẳng định ý nghĩa, giá trị của bài thơ.

Phân tích bài thơ Tùng (mẫu 1)

Bài thơ "Tùng " của Nguyễn Trãi là một tác phẩm văn học lớn của văn học Việt Nam, được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn. Bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam qua đặc điểm và công dụng của cây Tùng.

Nội dung của bài thơ Tùng chủ yếu tập trung vào việc miêu tả cảnh đẹp và đầy hùng vĩ của cây tùng, cùng với sự tưởng niệm về sự dũng cảm và quyết tâm của người Việt Nam trong cuộc chiến tranh. Cây tùng được sử dụng như một biểu tượng cho sức mạnh, sự kiên trì và lòng quyết tâm của dân tộc Việt Nam. Bài thơ "Tùng " của Nguyễn Trãi bắt đầu bằng câu "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng", thể hiện sự tưởng niệm về sự đặc biệt và huyền bí của mùa thu. Câu thơ này cũng có thể ám chỉ đến sự lạc quan và niềm hy vọng trong cuộc sống. Dòng thơ "Một mình lạt thuở ba đông" miêu tả cảm giác cô đơn và lạc lõng của cây tùng giữa trời đông giá rét. Đây có thể là biểu tượng cho sự cô đơn và khao khát của con người trong cuộc đời. "Lâm tuyền ai rặng già làm khách" đề cập đến sự bền chí và kiên nhẫn của cây tùng, làm nổi bật sự kiên cường của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh.

Cuối cùng, "Tài đống lương cao ắt cả dùng" có thể được hiểu là việc tài năng và phẩm chất của mỗi người sẽ được thể hiện và được sử dụng một cách đúng đắn, không phí hoài. Đoạn thơ này của Nguyễn Trãi trong "Tùng " thể hiện sự bền bỉ và kiên nhẫn của cây tùng giữa những thách thức khắc nghiệt. "Nhà cả đòi phen chống khỏe thay" cho thấy sự kiên cường và sức mạnh của cội rễ, tượng trưng cho lòng bền vững của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh. "Cội rễ bền đời chẳng động" thể hiện tầm quan trọng của cội rễ trong việc giữ vững và không chấn động giữa những khó khăn. Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày" là hình ảnh tuyết phủ trắng cây tùng, tạo ra một bức tranh tĩnh lặng và thời gian trôi qua một cách dài dòng, ám chỉ sự bền bỉ và kiên trì của dân tộc. Nghệ thuật của đoạn thơ tiếp tục thể hiện qua cách sử dụng ngôn ngữ sinh động và hình ảnh miêu tả, tạo nên một tác phẩm thơ sâu sắc và lôi cuốn. "Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày" miêu tả sự lâu dài và bền bỉ của cây tùng trong bối cảnh khắc nghiệt. "Có thuốc trường sinh càng khỏe thay" thể hiện cây Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh” tạo nên hình ảnh cây tùng ngày càng mạnh mẽ và khỏe khoắn. Hình ảnh "Hổ phách, phục linh nhìn mấy biết" ám chỉ sự hiểu biết và trí tuệ của cây tùng, khiến cho đối diện không thể hiểu rõ hết vẻ đẹp và giá trị của nó. "Dành còn để trợ dân này" là một tuyên bố về tầm quan trọng của cây tùng trong việc hỗ trợ và phục vụ nhân dân. Đoạn thơ này thể hiện sự kỳ vĩ của cây tùng, kết hợp với nghệ thuật sử dụng hình ảnh và từ ngữ sắc sảo, tạo nên một kết luận mạnh mẽ cho bài thơ "Tùng ".

Bài thơ ‘’Tùng’’ của Nguyễn Trãi đã thành công khi mượn hình ảnh cây Tùng để kể về phẩm chất cao quý, sự kiên cường anh dũng của những người anh hùng quê hương.

Phân tích bài thơ Tùng (mẫu 2)

“Tùng” là một đề tài, một hình tượng mang tính truyền thống trong nghệ thuật phương Đông. Các họa gia, các thi gia trung đại đã dành cho “Tùng” một vị trí trang trọng nhất trong “Tuế hàn tam hữu”. Ở Việt Nam nhiều thi sĩ đã nói lên những lời đẹp nhất để vịnh Tùng. Nhưng tiêu biểu nhất là bài “Tùng” của Nguyễn Trãi và bài “Tùng” của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao,

Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi.

Dùng thì ra giúp đời, không dùng thì ẩn núa

Ai bảo rằng: gỗ lớn dùng”

(“Tùng” - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

Tùng của Nguyễn Trãi là chùm thơ ba bài, đều viết theo tứ tuyệt, thất ngôn xen lục ngôn. Cấu trúc liên hoàn - thước kiều, tạo nên một chính thể nghệ thuật toàn bích, trong đó, ngôn ngữ
liên kết, liền mạch, hình tượng cây tùng mang ý nghĩa tượng trưng sâu sắc nhiều vẻ. Vịnh cây
tùng, Nguyễn Trãi khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình. Bài thơ “Tùng” này có thể được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn. Nó là bài thơ mang hàm nghĩa độc đáo. Nguyễn Trãi đã làm nổi bật đặc điểm và công dụng của cây tùng, từ đó khẳng định bản lĩnh và vai trò to lớn của kẻ sĩ quân tử đối với đất nước và nhân dân. Bao trùm cả chùm thơ là “tấc lòng ưu ái” của Ức Trai dào dạt “Đêm ngày cuồn cuộn nước triều đông”.

Mở đầu khổ thơ thứ nhất, Nguyễn Trãi tả cây tùng qua một tương phản thú vị:

Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đồng

Mùa thu mới đến thế mà “cây nào” cũng như cây nào đều “lạ lùng” khác lạ, chỉ “một mình” cây tùng là lạt lẽo, thản nhiên với cả ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Câu 1 là câu thất ngôn, câu thứ 2 rút ngắn lại thành lục ngôn, giọng thơ đĩnh đạc, chắc nịch như một thách thức: “Một mình lạt thuở ba đông”. Chỉ một mình cây tùng trước ba tháng mùa đông lạnh lẽo, nó vẫn “lạt”, vẫn coi thường, lá nó vẫn xanh tươi. Đặc điểm ấy của cây tùng cũng chính là phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường.

Đặc điểm thứ hai của cây tùng được nói rõ ở khổ thơ tiếp theo:

“Cội rễ bền, đời chẳng động,

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”.

Trong tuyết sương lạnh lẽo, ác liệt, cây tùng không chỉ “lạt thuở ba đông” 90 ngày mà dáng tùng, sắc tùng vẫn xanh tươi “thấy đã đặng nhiều ngày”, nghĩa là nhiều năm tháng, đứng vững trước những thử thách trong mọi thời gian. Sức sống mãnh liệt, kiên cường của tùng là do “sâu rễ, bền gốc”, là bởi “Cội rễ bền, dời chẳng động”. Tùng không chỉ coi thường sương tuyết mùa đông mà nó còn đứng vững, chẳng lung lay trước gió bão. Một làn nữa, câu lục ngôn xuất hiện với hai vế tiểu đối cất lên như một thách thức bất chấp mọi bão tố: “Cội rễ bền dời chẳng động”. Và đó chính là phẩm chất của người quân tử, của đấng trượng phu giữ vững khí tiết, bất chấp mọi gian khổ, mọi thử thách ác liệt trước những biến cố dữ dội trong cuộc đời, trong mình, của gia tộc mình, từng “nếm mật nằm gai” trong suốt hai mươi năm trời khi quân “cuồng Minh” giày chèn ép, Ức Trai vẫn “Chẳng động”, tấm lòng ưu ái, trung hiếu của ông vẫn trong trắng, sắt son “mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen”. “Cội rễ bền” bởi lẽ tâm hồn ông lúc nào cũng gắn bó với đất nước và nhân dân bằng “một tấm lòng son ngời lửa luyện - Mười năm thanh chức ngọc hồ băng”.

Giữa thiên nhiên, cây cỏ hoa lá nào mà chẳng đang quý? Nhưng chỉ riêng rừng tùng, cây tùng
mới có “hổ phách” và “phục linh”. Trong suốt, đỏ rực, đẹp và quý như ngọc, ấy là hổ phách, phải một nghìn năm tùng cất giữ trong lòng đất mới có. Hương thơm ngào ngạt để làm thuốc trường sinh, ấy là phục linh, phải một trăm năm, tùng mới “tiết chế” ra cho con người “dùng khoẻ thay”.

Phải trải qua một thời gian dài, tùng mới có hổ phách và phục linh, đâu chỉ là ngày một ngày hai? “Thiên niên sinh hổ phách, bách niên sinh phục linh”, vì thế hổ phách và phục linh rất hiếm, rất quý.

“Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay

Hổ phách phục linh nhìn mới biết”.

Hổ phách nằm sâu trong lòng đất, phục linh ẩn tàng trong rừng tùng bao la,cho nên phải có con mắt xanh “nhìn mới biết”. Cũng như người quân tử đức trọng, tài cao, đấng trượng phu có
phẩm chất vẹn toàn: nhân, trí, dũng, nhưng rất kín đáo, cung kính, khiêm nhường. Các bậc minh vương, thánh đế có biết trọng dụng hiền tài, có biệt đã kẻ sĩ thì mới có thể nhìn mới biết”.

Những đặc điểm như: “Một mình lạt thuở ba đông… Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày…, Cội rễ bền dời chẳng động…, Có thuốc trường sinh càng khoẻ thay…” cũng là bản chất của tùng. Cây tùng, rừng tùng thật đáng quý. Cây tùng, rừng tùng còn đáng quý hơn ở mặt công
dụng rất to lớn của nó. Thân tùng dẻo dai, gỗ tùng bền chắc dùng để làm rường cột cho ngôi nhà: “Tài đống lương cao ắt cả dùng - Đống lương tài có mấy bằng mày”. Đống lương là đòn nóc nhà, rường nhà, xà nhà. Tài đống lương, nghĩa bóng là tài năng gánh vác việc lớn của triều đình, đất nước. Phải là kẻ sĩ quân tử chân chính mới có tài đống lương ấy. Ba tiếng “ắt cả dùng” là sự khẳng định: gỗ tùng dùng được nhiều việc lớn, cũng như tài năng kẻ sĩ quân tử nhất định sẽ giúp vua trị quốc an dân, xây đời thịnh trị. Câu 4 đã viết: “Tài đống lương cao…”, tiếp theo câu 5 lại nói: “Đống lương tài…” biện pháp liên hoàn ấy làm cho giọng điệu thơ, âm điệu thơ liền mạch, ngân vang, ý tưởng thơ được nhấn mạnh đầy ấn tượng. Tùng còn được làm cột chống đỡ cho ngôi nhà lớn, “chống khoẻ thay” lúc bão táp phong ba: “Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay”. Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh”, những “phục linh” và “hổ phách” tích tụ qua hàng trăm năm, qua hàng ngàn năm để chữa bệnh, làm tăng sức khoẻ cho dân: “Dành, còn để trợ dân này”. Lần thứ ba câu lục ngôn lại xuất hiện, khép lại bài thơ.

Như một lời tâm niệm tự nhắc nhở mình vừa tự hào, vừa thấm thía. Ức Trai chỉ rõ tác dụng to lớn của cây tùng trong cuộc sống, không chỉ hoàn chỉnh hình tượng cây tùng mà còn hướng tói một ý nghĩa thẩm mĩ rộng lớn hơn nhằm khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của kẻ sĩ quân tử đối với quốc gia và dân tộc. Tài đống lương - cái nhân, cái trí, cái dũng - của họ là nguồn sức mạnh to lớn để dẹp loạn yên dân, đem lại thái bình cho trăm họ, xây dựng đất nước cường thịnh muôn đời. Cây tùng được nhân hoá: “Đống lương tài có mấy bằng - Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay… Có thuốc trường sinh… hổ phách phục linh… Dành, còn để trợ dân này” – đó cũng là hình ảnh kẻ sĩ quân tử đức trọng, tài cao:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,

Có nhân, có trí, có anh hùng”.

Cây tùng là hình bóng kẻ sĩ quân tử. Cây tùng là hình bóng, là sự hóa thân của Ức Trai. Nguyễn Trãi tự hào về những kẻ sĩ chân chính trong cuộc đời. Qua hình tượng cây tùng, ông ca ngợi vai trò to lớn và tài đức của họ. Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã trải qua bao thăng trầm, bao biến cố dữ dội giữa dòng thác lịch sử, lúc tiễn cha lên ải Bắc, lúc bị Trương Phụ giam lỏng ở thành Đông Quan, lúc dâng “Bình Ngô sách” lên Lê Lợi, lúc viết thư tháo hịch, lúc về Côn Sơn ở ẩn… ông đã gắn bó với đất nước và nhân dân, đã nếm bao cay đắng ngọt bùi, “Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”. Nguyễn Trãi gọi cây tùng bằng “mày”, đối thoại với cây tùng cũng chính là ông đã tâm sự với mình. Vịnh cây tùng cũng là để tỏ lòng mình, hiểu tâm hồn mình. Đọc bài Tùng, ta cảm thấy, nghe thấy tiếng nói của Ức Trai “vọng về”. Nguyễn Trãi đã tự nhắc nhở mình: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày”. Nguyễn Trãi đã tự răn mình:

“Nợ cũ chước nào báo bổ?

Ơn thầy, ơn chúa liễn ơn cha

(“Tự thán” – 24)

Lòng trung hiếu, niềm ưu ái của Nguyễn Trãi là chất ngọc Ức Trai, là hổ phách, phục linh của cây Tùng - Nguyễn Trãi để lại cho đất nước và nhân dân ta. Suốt đời, Nguyễn Trãi đã đem tài
đức làm đẹp cho đất nước, phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân. Bài thơ “Tùng” tiêu biểu cho một nét đẹp trong thơ Nguyễn Trãi: bình dị, thâm trầm, hàm súc. Hình tượng cây tùng được thể hiện rất đẹp. Tùng vẫn tươi xanh trong sương tuyết mùa đông, tài đống lương, thuốc trường sinh của tùng… đã “có mấy bằng mày”? Biện pháp nghệ thuật liên hoàn và ẩn dụ đã làm cho sắc điệu trữ tình và cảm xúc thẩm mĩ tỏa rộng trong tâm hồn ta. Hình tượng cây tùng, những liên tưởng thấm thía về vai trò, tài đức của kẻ sĩ quân tử trong cuộc đời để lại những ấn tượng sâu sắc trong trái tim ta.

Cây tùng Nguyễn Trãi xanh biếc và tỏa bóng mát đến muôn đời, bởi lẽ ông là “một bậc đại nho,
một đấng công thần, sự nghiệp dày khắp thiên hạ. Văn chương vang đến muôn đời” như vị danh nho Dương Bá Cung đã ca ngợi.

Phân tích bài thơ Tùng (mẫu 3)

Bài thơ "Tùng " của Nguyễn Trãi là một tác phẩm văn học lớn của văn học Việt Nam, được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn. Bài thơ thể hiện tinh thần yêu nước và lòng dũng cảm của nhân dân Việt Nam qua đặc điểm và công dụng của cây Tùng.

Nội dung của bài thơ Tùng chủ yếu tập trung vào việc miêu tả cảnh đẹp và đầy hùng vĩ của cây tùng, đồng thời ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử.

‘’ Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đông
Lâm tuyền ai rặng già làm khách
Tài đống lương cao ắt cả dùng.’’

Cây tùng được miêu tả như một biểu tượng cho sức mạnh, sự kiên trì và lòng quyết tâm của dân tộc Việt Nam. Bài thơ bắt đầu bằng câu "Thu đến cây nào chẳng lạ lùng", mùa thu đến cây nào cũng lạ lùng đến lạ thế mà ‘’Tùng’’ lại một mình thản nhiên giữa ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Câu thơ này cũng có thể ám chỉ đến phẩm chất của người quân tử có bản lĩnh kiên cường, sự lạc quan và niềm hy vọng trong cuộc sống. Những người quân tử ấy luôn có tinh thần vượt qua mọi khó khăn, không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường. "Lâm tuyền ai rặng già làm khách" phải chăng chỉ để được hiểu một điều hiển nhiên rằng tùng già chỉ còn làm khách chơi thôi, nhưng qua đây tác giả muốn gửi gắm sự bền chí của cây tùng, làm nổi bật sự kiên cường của một bậc nam chân chính. Cuối cùng, "Tài đống lương cao ắt cả dùng" có thể được hiểu là việc tài năng và phẩm chất của mỗi người sẽ được thể hiện và được sử dụng một cách đúng đắn, không phí hoài với một niềm tin sắt đá vào sự nghiệp phụng sự việc lớn của đời mình.

‘’ Đông lương tài có mấy bằng mày
Nhà cả đòi phen chống khỏe thay
Cội rễ bền dời chẳng động
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.’’

Ở khổ thơ thứ hai, tác giả tiếp tục khắc họa đặc điểm của cây tùng . "Nhà cả đòi phen chống khỏe thay" cho thấy sự kiên cường và sức mạnh của cội rễ, tượng trưng cho lòng bền chí của nhân dân Việt Nam trong cuộc chiến tranh. "Cội rễ bền đời chẳng động" thể hiện tầm quan trọng của cội rễ trong việc đứng vững trước những thử thách trong mọi gian khổ của cuộc đời. ‘’Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày" là hình ảnh tuyết phủ trắng cây tùng, nhiều năm tháng vẫn đứng vững trước những thử thách. Và đó chính là phẩm chất của người quân tử, dù cuộc sống có khó khăn thì là một bậc quân tử mà không ngại, một lòng gắn bó với đất nước với nhân dân.

‘’Có thuốc trường sinh càng khỏe thay.
Hổ phách, phục linh nhìn mấy biết,
Dành còn để trợ dân này.’’

Câu thơ thể hiện cây Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh” tạo nên hình ảnh cây tùng thật đáng quý, làm tăng sức khỏe cho dân. Hình ảnh "Hổ phách’’ nằm sâu trong lòng đất cho nên phải có con mắt xanh ‘’nhìn mưới biết’’. Cũng giống như người quân tử mộ bậc trượng nghĩa vừa hiền tài, đức độ nhưng cũng khiêm nhường. "Dành còn để trợ dân này" là một tuyên bố về tầm quan trọng của cây tùng trong việc hỗ trợ và phục vụ nhân dân. Cây tùng trong bài thơ biểu tượng cho người quân tử với tính cách cương trực, dũng cảm, bản lĩnh, có ý chí bất khuất trước mọi khó khăn.

Bài thơ ‘’Tùng’’ của Nguyễn Trãi đã thành công khi mượn hình ảnh cây Tùng để kể về phẩm chất cao quý, sự kiên cường anh dũng của những người anh hùng quê hương đã thức tỉnh tư tưởng của thế hệ trẻ ngày nay.

Phân tích bài thơ Tùng (mẫu 4)

Nguyễn Trãi là 1 tác giả lớn của nền văn học Việt Nam ông đã co rất nhiều những tác phẩm nổi tiếng và nổi bật lên những tác phẩm đó là bài thơ Tùng, đây là một bài thơ chữ Hán nổi tiếng. Nói về cảnh vật thiên nhiên đẹp hàng vĩ và mơ mộng.

“Tùng” của Nguyễn Trãi là bài thơ thất ngôn xen lục ngôn. cây tùng khẳng định, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người quân tử, đồng thời kín đáo gửi gắm những nỗi niềm tâm sự của riêng mình. Bài thơ “Tùng” này có thể được Ức Trai viết vào những năm cuối đời, khi sống ở Côn Sơn.

Nguyễn Trãi đã làm nổi bật đặc điểm và công dụng của cây tùng, từ đó khẳng định bản lĩnh và vai trò to lớn của kẻ sĩ quân tử đối với đất nước và nhân dân. Mở đầu bài thơ đó là hình ảnh cây tùng sống một mình giữa những tháng ngày trơ trọi:

“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,
Một mình lạt thuở ba đồng”.

Mùa thu mới đến thế mà “cây nào” cũng như cây nào đều “lạ lùng” khác lạ, chỉ “một mình” cây tùng là lạt lẽo, thản nhiên với cả ba tháng mùa đông lạnh lẽo. Dù cảm giác có cô đơn lạnh lẽo nhưng cây tùng vẫn thản nhiên mà sống không cần biết đến hoàn cảnh có như thế nào nó vẫn ung dung sống cứng chắc. Cây Tùng sống vững trãi thể hiện phẩm chất tốt đẹp của người quân tử có một bản lĩnh kiên cường, có tinh thần vượt khó khăn thử thách, đứng vững trước mọi hoàn cảnh ác liệt, quyết không a dua theo thời, không sống một cách tầm thường. Hình ảnh tiếp theo tác giả đã nói về sự kiên trì của Cây tùng:

“Cội rễ bền, đời chẳng động,
Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày”.

Dù hoàn cảnh có khắc nghiệt như thế nào thì cây tùng vẫn vững chắc và sống, cội rễ bền và đứng vững chắc, dù có sương gió bão bùng thì cũng không làm nó lay động, nó có phẩm chất giống như những người anh hùng của đất nước dù có vất vả gian nan nhưng vẫn cố gắng chiến đấu để giành được độc lập dân tộc, dù cho quân thù có gian ác như thế nào nhưng những người chiến sĩ đó vẫn kiên cường anh dũng chống lại giặc ngoại xâm. Tác giả thật xuất sắc khi sử dụng cây tùng để ngầm nói về người chiến sĩ của Việt Nam. Tiếp theo trong khoảng không gian rộng lớn giữa thiên nhiên mênh mông bao la rộng lớn cây cỏ hoa lá nào mà cũng đang quý. Nhưng đối với riêng cây tùng, cây tùng mới có “hổ phách” và “phục linh”. Trong suốt, đỏ rực, đẹp và quý như ngọc, ấy là hổ phách, phải một nghìn năm tùng cất giữ trong lòng đất mới có. Hương thơm ngào ngạt để làm thuốc trường sinh, ấy là phục linh, phải một trăm năm, tùng mới “tiết chế” ra cho con người “dùng khỏe thay”. Phải trải qua một thời gian dài, tùng mới có hổ phách và phục linh, đâu chỉ là ngày một ngày hai? “Thiên niên sinh hổ phách, bách niên sinh phục linh”, vì thế hổ phách và phục linh rất hiếm, rất quý:

“Có thuốc trường sinh càng khỏe thay,
Hổ phách phục linh nhìn mới biết”.

Cây tùng có sức sống rồi dào như những vị thuốc trường sinh, có những khí phách hiên ngang của những người anh hùng của Đất nước,Tùng còn được làm cột chống đỡ cho ngôi nhà lớn, “chống khỏe thay” lúc bão táp phong ba: “Nhà cả đòi phen chống khoẻ thay”. Tùng còn cho người, để lại cho đời “thuốc trường sinh”, những “phục linh” và “hổ phách” tích tụ qua hàng trăm năm, qua hàng ngàn năm để chữa bệnh, làm tăng sức khoẻ cho dân. Tác giả Nguyễn Trãi đã chỉ rõ tác dụng to lớn của cây tùng trong cuộc sống, không chỉ hoàn chỉnh hình tượng cây tùng mà còn hướng tới một ý nghĩa thẩm mĩ rộng lớn hơn nhằm khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của kẻ sĩ quân tử đối với quốc gia và dân tộc. Những phẩm chất kiên cường sẽ tạo ra những vị anh hùng cho đất nước:

“Trừ độc, trừ tham, trừ bạo ngược,
Có nhân, có trí, có anh hùng”.

Những phẩm chất cao quý đó chỉ có ở những người có tài đức, có trí, có những phẩm chất tốt đẹp để phụng sự cho sự nghiệp của Đất nước. Qua hình tượng cây tùng, tác gia còn ca ngợi vai trò to lớn và tài đức của những vị anh hùng trong đất nước. Còn Cuộc đời của Nguyễn Trãi đã từng trải qua bao thăng trầm, bao biến cố dữ dội giữa dòng thác lịch sử. Lòng trung quân ái quốc, niềm ưu ái của Nguyễn Trãi là chất ngọc Ức Trai, là hổ phách, phục linh của cây Tùng. Nguyễn Trãi để lại cho đất nước và nhân dân ta. Suốt đời, Nguyễn Trãi đã đem tài đức làm đẹp cho đất nước, phấn đấu cho hạnh phúc của nhân dân.

Bài thơ Tùng của Nguyễn Trãi đã mượn hình ảnh cây Tùng để nói về những phẩm chất cao quý của những anh hùng của đất nước, những phẩm chất anh dũng kiên cường.

Phân tích bài thơ Tùng (mẫu 5)

Một nhà chính trị tài giỏi, là một trong những tác gia lớn của dân tộc Việt Nam, ông là tác giả Nguyễn Trãi. Ông hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, nhà thơ dưới thời nhà Hồ và nhà Lê Sơ Việt Nam. Ông từng là “Thái học sinh”, từng làm quan dưới triều Hồ sau đó nhà Minh xâm lược ông đã tham gia vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn do Lê Lợi lãnh đạo chống lại ách xâm lược nhà Minh. Ông có vai trò quan trọng trong cuộc khởi nghĩa này. Đến năm 1442 thì biến cố lớn đã xảy ra, toàn thể gia đình Nguyễn Trãi bị tru di tam tộc trong vụ án Lệ Chi Viên. Đến sau này vua Lê Thánh Tông xuống chiếu giải oan cho ông vào năm 1464. Ông nằm trong danh sách 14 vị anh hùng dân tộc Việt Nam, không chỉ vậy mà ông còn là một nhà văn hóa lớn, có đóng góp to lớn vào sự phát triển của văn học Việt Nam. Ông có rất nhiều các tác phẩm để đời, ông làm thơ làm văn gắn liền với cuộc đời và sự nghiệp của ông. Các tác phẩm lớn của ông như là: “Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo, Ức trai thi tập, Quốc âm thi tập, Chí linh sơn phú,…” toàn là những tác phẩm nổi tiếng, những viên ngọc quý để lại cho nền văn học Việt Nam. Trong đó có một tác phẩm tiêu biểu đó là bài “Tùng” được trích trong tập “Quốc âm thi tập”.

Tùng là một đề tài trong hệ thống đề tài Đông thiên tam hữu (Ba người bạn mùa đông) rất phổ biến trong văn học trung đại Việt Nam và các nước trong khu vực Đông Nam Á. Thơ vịnh tùng thường thì được các thi sĩ viết nhiều hơn và cả người đọc họ nhớ và thuộc hơn so với hai người bạn là trúc và mai. Tùng có ý nghĩa là hình tượng, phẩm chất của kẻ sĩ quân tử: sự chịu đựng gian khổ , thử thách, sống kiên cường, thanh cao, được dùng vào việc lớn, có khả năng giúp ích đất nước,.. Nhưng còn tùy vào hoàn cảnh của mỗi thi sĩ sẽ vịnh tùng ở cách khía cạnh khác nhau. Ví dụ Mộng Nguyên qua hình tượng cây tùng trong chậu đã thể hiện ý chí, hoài bão của nam tử hán không chịu sống trong sự gò bó, sống cuộc đời quẩn quanh, chật hẹp. Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng vịnh tùng, ông vẫn nói đến chí khí, tài năng của người anh hùng nhưng trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm mục đích chính của ông là bày tỏ thái độ đối với xã hội: “Dùng thì ra giúp đời,không dùng thì ẩn náu. Ai bảo cây to là khó dụng”.

Tùng trong thơ Nguyễn Trãi là một trong chùm thơ “Đông thiên tam hữu”. Ba bài “Tùng, Trúc, Mai” đều được vịnh ở phần “Hoa mộc môn” của tập “Quốc âm thi tập”. Nguyễn Trãi đã khai thác đề tài thiên nhiên để thể hiện chủ đề phẩm chất của kẻ sĩ quân tử, đồng thời là gửi gắm tâm tư cá nhân vào trong bài Tùng. Bài Tùng, tác giả đã sử dụng bút pháp vịnh là chủ yếu giống như thơ viết về cây chuối, bút pháp này không dùng để tả. Cái mục đích tác giả hướng tới do sự vật gợi lên nhưng lại nằm ngoài sự vật.

Vịnh tùng, Nguyễn Trãi đã chú ý làm nổi bật đặc điểm của cây tùng đó là tác giả muốn nói nên phẩm chất của kẻ sĩ và khả năng đóng góp to lớn của kẻ sĩ đối với xã hội như công dụng của cây Tùng. Hai nội dung này được đề cập và xuyên suốt trong cả bài. Ngoài điều đó thì còn có tâm sự cá nhân của tác giả.

Mở đầu bài thơ, tác giả đã nói lên một đặc điểm rất quý, hiếm có của cây Tùng, mà hầu như ở các cây khác không có:

“Thu đến cây nào chẳng lạ lùng,

Một mình lạt thuở ba đông

Lâm tuyền ai rặng già làm khách

Tài đống lương cao ắt cả dùng.”

Ở câu mở đầu bài Tùng là một mệnh đề mang tính chất khẳng định: hầu hết các loại cây “cây nào” khi mùa thu đến cũng rụng lá, cành cây khẳng khiu, khi lá rụng hết chỉ còn mỗi cành cây trơ trọi, còn cây tùng thì khác cây tùng vẫn xanh tươi, cành lá xum xuê, vượt qua cái giá lạnh của màu đông được thể hiện càng rõ ở câu thứ hai biểu thị rõ nhất ở từ “lạt”- ý niệm về sự vượt qua mùa đông không có gì là khó khăn, nhưng cái hay ở đây đó là cách rút gọn câu chỉ còn sáu chữ và dùng tiểu đối “một mình- ba đông” lại càng cho ta thấy sự chống chọi mạnh mẽ mãnh liệt của cây tùng một mình trước thời tiết khắc nghiệt lạnh giá và dữ dội. Tác giả ý muốn nói người quân tử có phẩm chất vượt khó, thắng mọi gian lao, thử thách của hoàn cảnh khách quan như cây tùng vậy dù là tác động thời tiết khách quan nhưng nó vẫn tươi tốt. Như trong bài Tùng của Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“Vui cùng suối đá, tính cách riêng thanh cao

Ngoại với tuyết sương, sắc xanh không biến đổi”

Tùng xanh tươi trong khi bao nhiêu loại cây khác bị tác động và biến đổi theo mùa, cũng giống như “quân tử cố cùng” chứ không chịu a dua theo đời.

“Đông lương tài có mấy bằng mày

Nhà cả đòi phen chống khỏe thay

Cội rễ bền dời chẳng động

Tuyết sương thấy đã đặng nhiều ngày.”

Ở khổ tiếp theo, khổ II tác giả tiếp tục khắc họa một đặc điểm nữa của cây tùng mà ít loài cây có được thể hiện rõ ở 2 câu cuối, tiếp ý của hai câu thơ đầu của khổ I như vừa giải thích, vừa chứng minh thêm vào làm nổi bật đặc biệt của cây Tùng. Cây tùng sở dĩ “lạt thuở ba đông”, “đặng nhiều ngày” tuyết sương, là do “cội rễ bền” dễ bám chặt, cắm sâu dưới lòng đất. Dù gió to, bão lớn thế nào vẫn không lay chuyển. Ở câu thơ “Cội rễ bền dời chẳng động” còn thể hiện sự khỏe khoắn, kiên cường, mạnh mẽ của cây tùng. Qua những thử thách lớn về cả cường độ và thời gian (nhiều ngày) mới bộc lộ sức mạnh không chỉ trong chốc lát mà là sự bền bỉ, bền vững của cây tùng. Trong ca dao ta cũng có câu nói về phẩm chất, kiên cường cứng cỏi của cây tùng trong những ngày giông bão:

“Có gió lay mới biết tùng bách cứng,

Có ngọn lửa lừng mới biết thức vàng cao.”

Hình tượng cây tùng qua câu thơ “cội rễ bền dời chẳng động” chính là biểu tượng về người quân tử có ý chí kiên định, không bị tác động của những thứ như vàng, bạc, châu báu, quyền thế,.. làm mờ mắt.

Tiếp đến là một đặc điểm khác của cây tùng, tùng có “hổ phách”, “phục linh” mà không loài cây nào khác có được, đây là đặc điểm rất riêng của cây tùng. Xưa tương truyền thì “hổ phách” đẹp như ngọc là do tinh dầu tùng qua một nghìn năm hóa thành, còn tùng khẩn qua một trăm năm thì thành “phục linh”, nếu có lõi sẽ thành phục thần. Hổ phách là trang sức quý hiếm, còn phục linh, phục thần thì là những vị thuốc quý làm tăng tuổi thọ. Tuy rằng, tùng có loại thuốc quý như vậy nhưng những thần dược được tạo ra lại nằm dưới đất, phải nhìn mới biết, cũng như người quân tử có đức lớn, tài cao nhưng lúc nào cũng khiêm nhường, khiêm tốn đó là một đức tính tốt của người quân tử: “Quân tử khiêm nhi bất kiêu”. Những đặc điểm trên cho chúng ta thấy rằng cây tùng rất quý, nhưng đáng quý hơn cả là công dụng của nó: làm rường cột cho ngôi nhà thể hiện ở câu bốn khổ I “Tài đống lương cao ắt cả dùng”, công dụng tiếp theo là chống đỡ cho nhà lớn “Nhà cả đòi phen chống khỏe thay” và công dụng đặc biệt của nó có vị thuốc quý để chữa bệnh, tăng tuổi thọ, nâng cao sức khỏe cho nhân dân: “Có thuốc trường sinh càng khỏe thay- Hổ phách, phục linh nhìn mới biết”. Tác giả đã sử dụng hình thức nghệ thuật liên hoàn pha ô thước kiều- câu cuối của khổ thơ trước được nhắc lại toàn bộ hay một phần ở câu đầu của khổ thơ tiếp theo. Nhưng ý của tác giả đâu chỉ muốn nói đến công dụng về mặt sinh học của cây tùng mà tác giả đã có ngụ ý muốn thông qua công dụng của cây tùng để nói về người quân tử.

Ba khổ thơ đã hoàn chỉnh hình tượng cây tùng cũng như muốn nói về hình tượng của người quân tử có tất cả các phẩm chất: nhân, trí, dũng. Bài thơ cũng là lời tâm sự, tự nhủ lòng mình, với bài này như là ông nói cùng mình hơn là nói với người. Cuộc đời của ông cũng đầy những biến cố thăng trầm, gặp nhiều trở ngại, nhưng không được nhụt trí, ông tự nhắc nhở mình, tự bồi dưỡng lý tưởng sống cho mình làm người quân tử phải như cây tùng.

Bài thơ cho chúng ta thấy Nguyễn Trãi là một nhà chính trị với ý chí, lí tưởng sống vì nước, vì dân. Thông qua bài thơ ta còn thấy được ông là một người “văn võ song toàn” không chỉ giỏi về mặt thao lược binh đao mà ông còn giỏi về văn chương với những chùm thơ hay để người đời sau thán phục. Bài thơ của ông giúp thức tỉnh ý chí của thế hệ trẻ hiện nay cần cố gắng hơn nữa để khắc phục những mặt yếu kém, tạo thêm ý chí kiên cường, chí khí vững chắc bảo vệ nền độc lập nước nhà.

1 21 14/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: