TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 23 25/12/2024


Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy.

NGỒI BUỒN NHỚ MẸ TA XƯA

Nguyễn Duy

Bần thần hương huệ thơm đêm

khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn

chân nhang lấm láp tro tàn

xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Mẹ ta không có yếm đào

nón mê thay nón quai thao đội đầu

rối ren tay bí tay bầu

váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa

Cái cò... sung chát đào chua...

câu ca mẹ hát gió đưa về trời

ta đi trọn kiếp con người

cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Bao giờ cho tới mùa thu

trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm

bao giờ cho tới tháng năm

mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...

bờ ao đom đóm chập chờn

trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Mẹ ru cái lẽ ở đời

sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn

bà ru mẹ... mẹ ru con

liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Nhìn về quê mẹ xa xăm

lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa

ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...

Saigon, mùa thu 1986

Dàn ý Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.

2. Thân bài

a. Phần 1: "Bần thần...thuở nào":

- Bài thơ được mở ra dưới một không khí rất thiêng liêng, thành kính, mà theo như Nguyễn Duy ấy là một buổi giỗ mẹ ông.

- Nỗi buồn tủi, xót xa khi nghĩ về người phụ nữ sớm lên Niết Bàn đã đưa Nguyễn Duy trở về với dáng hình mẹ xa xăm thuở nào, thông qua những ký ức mờ mịt và thông qua dáng hình của bà ngoại.

b. Phần 2: "Mẹ ta...bốn mùa":

- Bộc lộc niềm thương cảm với số phận của những người phụ nữ nông thôn như thân cò lặn lội.

- Mẹ của Nguyễn Duy cũng là một trong số những thân cò như vậy, đời bà khổ cực, vất vả, không có niềm vui may mặc với cái "yếm đào" xinh xắn, nón quai thao, khăn chít mỏ quạ.

- Đời bà chỉ biết những sự nghèo khó, làm lụng quanh năm với bòn mót những quả bí, quả bầu cắp ra phiên chợ bán lấy vài xu bạc. Quanh năm mặc những cái váy đen, nhuộm bùn ngâm nước đến mục, những cái áo cánh nâu, sờn vai bạc màu mà chẳng có tiền thay sắm mới.

c. Phần 3: "Cái cò...mẹ ru":

- "cái cò...sung chát...đào chua". Câu hát ru cũng chính là hình ảnh và tư vị của cuộc đời mẹ, thân cò lặn lội kiếm ăn, cả đời chẳng biết đến ngọt bùi, mà chỉ toàn những chát, những chua ngập tràn.

- "Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru" cũng lại là những câu thơ để bộc lộ tấm lòng trân trọng yêu thương, đề cao sự thiêng liêng, quý báu của tình mẫu tử, rằng chẳng có thứ tình cảm nào lại rộng lớn bao la, ôm lấy cả cuộc đời con như thế nữa.

d. Phần 4: "Bao giờ...xa xôi": Nỗi nhớ mẹ không chỉ gói trọn trong những lời ru và hình bóng mẹ, mà đó còn là những kỷ niệm trải dài trong suốt quãng đời ấu thơ của tác giả, với trái bưởi, trái hồng, những ngày "mẹ trải chiếu ta nằm đếm sao", rồi mẹ kể những chuyện tình Ngưu lang

- Chức nữ, chuyện chú Cuội - chị Hằng. Rồi những cảnh đom đóm chập chờn ban đêm, ...

e. Phần 5: "Mẹ ru...cá xương":

- Thông qua những lời ru ngọt ngào khi con còn ở trong nôi cho con biết những con cò con vạc, những nỗi đắng cay ở đời, cho con biết những cánh đồng cò bay thẳng cánh, cho con biết sự thiêng liêng của tình mẹ.

- Sữa mẹ nghèo khó nhưng ngọt ngào cho con được thể xác, máu thịt, lười ru mẹ êm ái đêm đông ru con vào giấc ngủ, cho con thấm thía linh hồn của dân tộc và theo con đến hết cuộc đời.

- Nguyễn Duy lại bộn lòng trăn trở "bà ru mẹ...mẹ ru con/liệu mai sau các con còn nhớ không" khi những giá trị truyền thống dần mai một.

- Cuối cùng Nguyễn Duy lại quay lại với nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết, nhớ về những đêm đông giá rét, những ngày mưa gió mái tranh chẳng đủ che mưa, mà thương con mẹ nhường chỗ ấm, chịu nằm chỗ ướt, chập chờn trong giấc ngủ mơ màng "ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá.

3. Kết bài

Nêu cảm nhận.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (mẫu 1)

Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ hiện đại, đã tạo nên một sự kết hợp độc đáo giữa truyền thống ca dao dân gian và thơ ca của mình. Trong các tác phẩm của ông, ta luôn cảm nhận được sự hiện diện nhẹ nhàng của những câu ca dao xưa, tạo nên một sắc thái đặc biệt và độc đáo cho thơ của ông. Bài thơ "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa" cũng không ngoại lệ, với tiêu đề và hai câu kết được trích dẫn từ những câu ca dao truyền thống về hình ảnh người mẹ. Điều này tạo nên một dòng cảm xúc chân thành, sâu lắng và mang trong mình những giá trị truyền thống thiêng liêng, lan tỏa khắp nơi trong bài thơ này

Bần thần hương huệ thơm đêm

Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn

Chân nhang lấm láp, tro tàn

Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào

Bài thơ được mở đầu trong một không khí đặc biệt, tôn kính và trang nghiêm. Theo lời của Nguyễn Duy, đó là buổi giỗ mẹ của ông. Sự mất mẹ sớm đã gợi trong ông những cảm xúc buồn bã và sâu sắc về hình ảnh mẹ, và ông tìm kiếm mẹ trong tâm tưởng vì không có cơ hội được ở bên mẹ suốt đời. Nỗi buồn và xót xa vô hạn khi ông nhớ về người phụ nữ đã ra đi, đưa ông trở về quá khứ, với hình ảnh mẹ xa xăm thuở ấy, thông qua những ký ức mờ ảo và cả hình dáng của bà ngoại

Mẹ ta không có yếm đào

Nón mê thay nón quai thao đội đầu

Rối ren tay bí, tay bầu

Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa

Thế hệ phụ nữ xưa trong các làng quê Việt Nam, trừ những phú bà giàu có, phụ nữ trong gia đình quyền quý, phần lớn đều trải qua những cuộc đời nghèo khó và gian truân. Đối với những người phụ nữ nông thôn, cuộc sống của họ vốn đầy gian khổ mà không biết đến khổ cùng. Họ không chỉ gánh vác trách nhiệm sinh con, nuôi dưỡng gia đình, mà còn phải làm mọi công việc để nuôi con, nuôi chồng. Họ chấp nhận sự hi sinh, chịu đựng và nhịn ăn nhịn mặc vì gia đình, suốt đời chẳng biết đến niềm vui và hưởng thụ. Mẹ của Nguyễn Duy cũng là một trong những phụ nữ kiên cường như vậy. Cuộc đời bà đầy khổ cực và vất vả, không có niềm vui nào, và những chiếc yếm đào xinh xắn, nón quai thao, khăn chít mỏ quạ đã trở thành những mơ ước xa xỉ, không thể đạt được. Từ khi biết ăn nói, bà chỉ biết về sự nghèo khó, làm việc cả ngày với những quả bí, quả bầu để mang ra chợ bán đổi lấy vài đồng bạc. Suốt năm tháng, bà mặc những chiếc váy đen như nhuộm bùn và nước, những chiếc áo nâu rách rưới, vai áo bạc màu đã cũ. Bởi vì lụng việc để có miếng ăn còn khó khăn, chưa kể đến việc mua sắm, mẹ đã mặc rồi, thì con phải chịu đói và chịu lạnh, vì lòng mẹ không chấp nhận điều đó.

Cái cò... sung chát... đào chua

Câu ca mẹ hát gió đưa về trời

Ta đi trọn kiếp con người

Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru

Quay về quá khứ mờ ảo, trong ký ức xa xăm, Nguyễn Duy khám phá hình ảnh người mẹ yêu dấu qua những kỷ niệm với người bà. Trong những lời ru, tác giả tràn đầy khao khát và nhớ thương mẹ, mang trong lòng trọng trọng câu ca mẹ hát, tạo nên một sự gần gũi, thiết tha với "cái cò... sung chát... đào chua". Hình ảnh của mẹ trong câu hát ru chính là biểu tượng và tâm hồn của cuộc đời, một cuộc sống gian truân và đầy chua xót, không biết đến hương ngọt mà chỉ có mùi chát, mùi chua tràn ngập.

Lời ru của mẹ là biểu tượng cho sự hy sinh và gian khổ trong cuộc đời, tình yêu mẹ dành cho con như dòng nước chảy trong nguồn, không mềm mãi, sự thông cảm và thấu hiểu mà mẹ trao cho con không thể đếm xiết. Con không kịp đáp lại, mẹ đã rời bỏ thế gian, điều đó gây đau đớn và sự chua xót trong tâm hồn Nguyễn Duy. Hai câu thơ tuyệt vời "Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru" khắc sâu lòng trân trọng yêu thương, ca ngợi tình mẫu tử thiêng liêng và quý báu, tình cảm mà không có gì có thể vượt qua, ôm trọn cả cuộc đời con

Bao giờ cho tới mùa thu

trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm

bao giờ cho tới tháng năm

mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...

bờ ao đom đóm chập chờn

trong leo lẻo những vui buồn xa xôi

Nỗi nhớ mẹ không chỉ trở thành những lời ru và hình bóng mẹ, mà còn là những kỷ niệm dài trong suốt quãng đời ấu thơ của tác giả. Những ngày hội quân quýt bên mâm ngũ quả trong tháng Tám tràn đầy ước mong, khi đứa con thơ ngắm nhìn trái bưởi, trái hồng trên mâm ngũ quả, tưởng tượng một cảnh ngày mai tươi sáng. Trải qua những ngày nắng nóng gay gắt, cuộc sống khó khăn, mẹ đã tạo ra những niềm vui tuyệt vời, "mẹ trải chiếu ta nằm đếm sao", kể những câu chuyện về tình yêu của Ngưu lang - Chức nữ, về Cuội - Hằng chịu chấp nhận. Cảnh đom đóm lấp lánh trong đêm, mang đến một bầu không khí tươi mát, yên bình đặc biệt của làng quê, vẫn còn vương trong tâm trí tác giả, gợi lên những kỷ niệm thân thương, gần gũi. Nhưng giờ đây, những kỷ niệm ấy đã trở thành quá khứ xa xăm, vì mẹ và ngày đó đã trôi qua rồi

Mẹ ru cái lẽ ở đời

sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn

bà ru mẹ... mẹ ru con

liệu mai sau các con còn nhớ chăng

Dù cuộc sống khó khăn, gian truân, mẹ không có nhiều học thức, nhưng mẹ đã truyền cho con những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Bằng những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao truyền thống hàng ngàn đời của ông cha, và đặc biệt là những lời ru ngọt ngào khi con còn bé, mẹ đã khắc sâu trong tâm hồn con những hình ảnh về cò con vạc, những khổ đau trong cuộc sống, cánh đồng cò bay thẳng cánh và tình mẹ thiêng liêng. Dù sữa mẹ nghèo khó, nhưng nó mang trong đó ngọt ngào để nuôi dưỡng thể xác và linh hồn của con, và mẹ êm ái ru con vào giấc ngủ trong đêm đông. Điều đó giúp con thấm thía linh hồn của dân tộc và theo con suốt cuộc đời. Nhưng ngày nay, khi đất nước phát triển mạnh về kinh tế và văn hóa, con người dường như đã quên những lời ru ân tình, tình mẹ đẹp đẽ, những câu ca dao và truyện cổ tích. Điều này khiến Nguyễn Duy bồn chồn, lo lắng: "Bà ru mẹ... mẹ ru con, liệu mai sau các con còn nhớ không?"

Nhìn về quê mẹ xa xăm

lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa

ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...

Trong ký ức xa xăm, Nguyễn Duy quay trở lại với nỗi nhớ mẹ, nỗi nhớ quê hương tha thiết. Ông nhớ những đêm đông lạnh giá, những ngày mưa gió khi mái tranh không đủ che mưa. Nhưng mẹ luôn âu yếm, hy sinh để con có được chỗ ấm, trong khi mẹ chịu nằm chỗ ướt, chập chờn trong giấc ngủ mơ màng. "Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương..." đặt lên môi lời nhắc nhở về tình yêu thương mẹ dành cho con, với sự hi sinh vô điều kiện và những kỷ niệm đọng lại trong lòng. Điều đặc biệt trong bài thơ là cách Nguyễn Duy mang đến một sự chân thực và cảm động với từng chi tiết. Những đêm đông lạnh giá và ngày mưa gió mái tranh không đủ che mưa trở thành biểu tượng cho sự hy sinh và tình yêu thương của mẹ. Mẹ dành cho con những chỗ ấm nhất, bất chấp khó khăn và đau đớn. Lời thơ mang đến sự đậm nét của tình mẹ và một trích dẫn cảm xúc tốt đẹp từ tình yêu thương và sự nhớ nhung sâu sắc.

Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa là một tác phẩm thơ tuyệt vời, mang tính biểu tượng và tiêu biểu cho tâm hồn nghệ thuật và phong cách sáng tạo của Nguyễn Duy, một nhà thơ đã trưởng thành trong giai đoạn khó khăn của cuộc chiến chống Mỹ. Bài thơ của ông mang trong mình sự đẹp như ca dao, sự đậm đà như dân ca, và hòa quyện với lời hát ru truyền thống. Tác phẩm thơ này đặc trưng bởi sự tươi sáng và hào hùng của tiếng nói dân tộc, nắm bắt cảm xúc và tình cảm trong nhịp điệu của lời ru. Từng câu thơ của Nguyễn Duy như những hình ảnh sống động và tình cảm sâu sắc, vẽ nên một bức tranh văn hóa và truyền thống văn hoá của dân tộc.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (mẫu 2)

Nguyễn Duy là một trong những nhà thơ tài năng của nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, đất nước mở cửa. Với những trải nghiệm của người lính đi qua những năm tháng đất nước đau thương cùng cực, cho đến khi đất nước hòa bình, xã hội đổi thay có nhiều những chuyển biến to lớn. Thế nên giọng thơ của Nguyễn Duy luôn có một vẻ triết lý sâu xa đối với cuộc đời và những thứ tình cảm đáng trân trọng với quê hương với gia đình, thường là tấm lòng biết ơn, tri ân sâu sắc. Thơ của Nguyễn Duy không chỉ đưa ta về một miền ký ức dịu dàng sâu lắng, với giọng thơ nhẹ nhàng, tình cảm, tha thiết mà còn có vai trò nhắc nhở, thức tỉnh nhiều con người đang mải miết giữa cuộc đời phải biết trân trọng lấy những gì mình đang có, phải gìn giữ được những thứ tình cảm thiêng liêng trong đời. Một trong số những bài thơ thể hiện nổi bật phong cách sáng tác ấy của Nguyễn Duy ấy là Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, nhắc nhở con người về tình mẫu tử thiêng liêng sâu sắc, về hình dáng người mẹ đã nuôi ta cả một thời non trẻ, bảo bọc cho ta cả cuộc đời khi "Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru".

Nguyễn Duy là một người rất nặng tình nghĩa với gia đình với quê hương, đặc biệt là ông thấu hiểu và dành nhiều những tình cảm sâu sắc cho người bà, người mẹ của mình hơn cả. Nếu như ông viết Đò Lèn để tưởng nhớ người bà tần tảo sớm trưa, thì bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa lại là tác phẩm tác giả viết để cúng mẹ mình vào năm 1986, bằng một tấm lòng thành kính và yêu thương son sắt. Nguyễn Duy từng tâm sự rằng "Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó... Những đêm hè trời trong, gió mát bà tôi thường trải chiếu cói trên mặt đê sông Mã, cùng các cháu nằm ngắm trăng, kể chuyện "Hằng Nga", chuyện "Thằng Cuội" hoặc là đếm "một ông sao sáng, hai ông sáng sao, ba ông sao sáng...". Sự thiếu thốn hơi ấm tình mẹ lại càng khiến Nguyễn Duy thêm trân trọng và yêu thương cuộc đời dãi dầu của những người mẹ Việt Nam từ bao đời nay, hi sinh tất cả vì những đứa con của mình. Mà đối với tác giả, bàn tay của người bà cũng như bàn tay của người mẹ, nếu mẹ ông còn tại thế chắc cũng sẽ trở thành một người bà thứ hai như thế.

Nguyễn Duy là một trong số ít những nhà thơ hiện đại gắn bó chặt chẽ với ca dao truyền thống của dân tộc, mà trong hầu hết các bài thơ của ông ta luôn thấy thấp thoáng đôi câu ca dao xưa, có lạ có quen, nhưng đều đem đến cho thơ ông một dáng vẻ độc đáo và riêng biệt. Với Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa cũng vậy, tiêu đề và hai câu kết của bài thơ chính là trích dẫn từ những câu ca dao của ông cha ta về hình ảnh người mẹ, trở thành mạch cảm cảm xúc tha thiết, đằm thắm, với những tình cảm truyền thống thiêng liêng nhất xuyên suốt cả bài thơ.

"Bần thần hương huệ thơm đêm
Khói nhang vẽ nẻo đường lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp, tro tàn
Xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào"

Bài thơ được mở ra dưới một không khí rất thiêng liêng, thành kính, mà theo như Nguyễn Duy ấy là một buổi giỗ mẹ ông. Với một người con sớm mất mẹ, Nguyễn Duy lại càng thêm buồn bã và thiết tha về dáng hình mẹ, ông không được ở với mẹ dài lâu thế nên đành tìm mẹ ở trong tâm tưởng. Nỗi buồn tủi, xót xa khi nghĩ về người phụ nữ sớm lên Niết Bàn đã đưa Nguyễn Duy trở về với dáng hình mẹ xa xăm thuở nào, thông qua những ký ức mờ mịt và thông qua dáng hình của bà ngoại.

"Mẹ ta không có yếm đào
Nón mê thay nón quai thao đội đầu
Rối ren tay bí, tay bầu
Váy nhuộm bùn, áo nhuộm nâu bốn mùa".

Thế hệ các bà, các mẹ ngày xưa ở vùng nông thôn Việt Nam xưa ngoại trừ những bà phú hộ, vợ quan viên ăn trên ngồi trước, thì đa số ai cũng có những cuộc đời nghèo khó, vất vả. Số phận của những người phụ nữ nông thôn như thân cò lặn lội, chỉ thấy khổ hơn chứ không có khổ nhất. Sinh ra làm người đàn bà, không chỉ gánh trách nhiệm sinh con đẻ cái mà còn phải làm mọi thứ để nuôi con, nuôi cả chồng, họ phải chấp nhận cái chuyện hy sinh, tằn tiện, nhịn ăn nhịn mặc cho chồng cho con, một đời có lẽ chưa biết đến cái ngon ngọt, đến cái sự hưởng thụ là gì. Mẹ của Nguyễn Duy cũng là một trong số những thân cò như vậy, đời bà khổ cực, vất vả, không có niềm vui may mặc với cái "yếm đào" xinh xắn, nón quai thao, khăn chít mỏ quạ đã trở thành niềm mơ ước xa xỉ, ngoài tầm với. Có lẽ rằng từ thuở biết nghĩ bà đã chỉ biết những sự nghèo khó, làm lụng quanh năm với bòn mót những quả bí, quả bầu cắp ra phiên chợ bán lấy vài xu bạc. Quanh năm mặc những cái váy đen, nhuộm bùn ngâm nước đến mục, những cái áo cánh nâu, sờn vai bạc màu mà chẳng có tiền thay sắm mới. Bởi làm lụng lấy miệng ăn còn khó, nói gì đến cái mặc, mẹ mặc rồi, thì con phải chịu đói, chịu rét, lòng mẹ không cho phép điều ấy.

"Cái cò... sung chát... đào chua
Câu ca mẹ hát gió đưa về trời
Ta đi trọn kiếp con người
Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru".

Lật ngược về một miền ký ức xa xăm, mờ mịt, thông qua những kỷ niệm với người bà, Nguyễn Duy lại mường tượng ra hình ảnh của người mẹ vắn số. Mà nhắc đến lời ru, có lẽ tác giả đã từng khao khát và nhớ thương mẹ nhiều lắm, người trân trọng những câu ca mẹ hát, thật dung dị, gần gũi và thiết tha với "cái cò...sung chát...đào chua". Câu hát ru cũng chính là hình ảnh và tư vị của cuộc đời mẹ, thân cò lặn lội kiếm ăn, cả đời chẳng biết đến ngọt bùi, mà chỉ toàn những chát, những chua ngập tràn. Lời mẹ ru con là ẩn dụ cho cả cuộc đời lắm hy sinh và gian khổ của mẹ, tình mẹ yêu con như nước chảy trong nguồn, nhiều không kể xiết, sự bao dung, thấu hiểu mà mẹ dành cho con có lẽ rằng đi hết kiếp con người, con cũng chẳng thể nào đền đáp và trả nghĩa cho trọn. Con chỉ có nhận mà chưa kịp đáp, thì mẹ đã về miền cực lạc, điều ấy đối với Nguyễn Duy là một việc thật đau đớn và chua xót. Đồng thời hai câu thơ rất hay "Ta đi trọn kiếp con người/Cũng không đi hết mấy lời mẹ ru" cũng lại là những câu thơ để bộc lộ tấm lòng trân trọng yêu thương, đề cao sự thiêng liêng, quý báu của tình mẫu tử, rằng chẳng có thứ tình cảm nào lại rộng lớn bao la, ôm lấy cả cuộc đời con như thế nữa.

"Bao giờ cho tới mùa thu
trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm
bao giờ cho tới tháng năm
mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao
Ngân hà chảy ngược lên cao
quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...
bờ ao đom đóm chập chờn
trong leo lẻo những vui buồn xa xôi"

Nỗi nhớ mẹ không chỉ gói trọn trong những lời ru và hình bóng mẹ, mà đó còn là những kỷ niệm trải dài trong suốt quãng đời ấu thơ của tác giả, với những ngày quấn quýt sum vầy bên mâm ngũ quả rằm tháng tám, đứa con thơ trông trái bưởi, trái hồng trên mâm ngũ quả thầm khao khát. Rồi những ngày tháng năm trời nóng bức, cuộc đời nghèo khó mẹ đã vẽ ra những thú vui thật tuyệt, "mẹ trải chiếu ta nằm đếm sao", rồi mẹ kể những chuyện tình Ngưu lang - Chức nữ, chuyện chú Cuội - chị Hằng. Rồi những cảnh đom đóm chập chờn ban đêm, trong cảnh tươi mát thanh bình hiếm có của một làng quê cứ mãi quanh quẩn trong tâm trí của tác giả, gợi về những kỷ niệm thật thân thương, gần gũi mà bây giờ sẽ chẳng bao giờ còn nữa, bởi mẹ và ngày đó đã xa lắm rồi.

"Mẹ ru cái lẽ ở đời
sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn
bà ru mẹ... mẹ ru con
liệu mai sau các con còn nhớ chăng".

Tuy nghèo khó vất vả, mưa nắng dãi dầu, mẹ cũng chẳng mấy học hành hiểu biết, thế nhưng mẹ vẫn truyền lại cho con những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc, thông qua những câu chuyện cổ tích, những câu ca dao nghìn đời của ông cha và đặc biệt nhất là những lời ru ngọt ngào khi con còn ở trong nôi cho con biết những con cò con vạc, những nỗi đắng cay ở đời, cho con biết những cánh đồng cò bay thẳng cánh, cho con biết sự thiêng liêng của tình mẹ. Sữa mẹ nghèo khó nhưng ngọt ngào cho con được thể xác, máu thịt, lười ru mẹ êm ái đêm đông ru con vào giấc ngủ, cho con thấm thía linh hồn của dân tộc và theo con đến hết cuộc đời. Ngày nay khi con đã lớn khôn, với sự phát triển mạnh mẽ của đất nước về kinh tế văn hóa xã hội, bỗng nhiên người ta chẳng còn mặn mà với những lời ru thắm thiết ân tình, đẹp đẽ tình mẹ, người ta quên đi nhiều những câu ca dao, những truyện cổ tích, mà Nguyễn Duy lại bộn lòng trăn trở "bà ru mẹ...mẹ ru con/liệu mai sau các con còn nhớ không".

"Nhìn về quê mẹ xa xăm
lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa
ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa
miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương..."

Cuối cùng Nguyễn Duy lại quay lại với nỗi nhớ mẹ, nhớ quê tha thiết, nhớ về những đêm đông giá rét, những ngày mưa gió mái tranh chẳng đủ che mưa, mà thương con mẹ nhường chỗ ấm, chịu nằm chỗ ướt, chập chờn trong giấc ngủ mơ màng "ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...".

Đã từng có nhiều bài thơ viết về đề tài người mẹ mưa nắng, tảo tần nuôi con, cũng nhiều bài thơ viết về người mẹ trong âm hưởng ca dao, âm hưởng lời ru tha thiết. Thế nhưng có lẽ rằng khó có bài thơ nào viết về mẹ hay và thấm đẫm ân tình, cũng như chứa đựng nhiều triết luận trữ tình sâu sắc như Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của Nguyễn Duy. Ở đó không chỉ là nỗi nhớ thương, xót xa cho cuộc đời tảo tần của người mẹ mà còn là triết lý về tình mẫu tử bao dung muôn đời, còn là cả nỗi trăn trở về những giá trị văn hóa truyền thống như lời ru, ca dao ngày càng bị mai một. Và con người ngày nay càng trở nên xa cách với gia đình, người thân, không còn gắn bó sâu nặng với những tình cảm gắn bó như trước đây nữa. Những triết lý kín đáo trong thơ của Nguyễn Duy không khỏi khiến độc giả phải trăn trở suy nghĩ và có phần "thức tỉnh" lại những giá trị đã dần mất đi trong đời sống thường nhật.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (mẫu 3)

Nguyễn Duy quê ở Thanh Hóa; anh viết bài thơ “Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa” tại Thành phố Hồ Chí Minh vào mùa thu 1986. Bài thơ gồm có 28 câu lục bát, chia thành 6 khổ thơ; khổ thứ tư có 8 câu, năm khổ còn lại, mỗi khổ có 4 câu thơ.

Chữ đầu mỗi khổ thơ đều viết hoa; các chữ đầu mỗi câu thơ còn lại không viết hoa. Toàn bài thơ chỉ có 4 dấu chấm lửng và một dấu gạch ngang mà thôi, không hề có dấu chấm, dấu phẩy... nào cả. Phải chăng đó là sự cách tân về hình thức nghệ thuật thơ lục bát của Nguyễn Duy? Tác giả đã vận dụng sáng tạo ca dao, tục ngữ để tạo nên những vần thơ trữ tình giàu âm điệu và nhạc điệu thiết tha ngọt ngào.

Mở đầu bài thơ là một không gian nghệ thuật thiêng liêng cổ kính, nhiều man mác bâng khuâng. Đứa con đứng bên bàn thờ mẹ, trong hương huệ thơm ngát, thành kính thắp nén nhang thầm khấn cầu mong hương hồn mẹ được siêu thoát lên cõi niết bàn:

“Bần thần hương huệ thơm đêm

khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn”.

Nhìn khói nhang tỏa, nhìn chân nhang “lấm láp tro tàn”, đứa con cảm thấy người mẹ hiền đang hiển hiện giữa cõi đời, đang tất tả ngược xuôi:

“chân nhang lấm láp tro tàn

xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”,

Các từ láy “bần thần”, “lấm láp“,“xăm xăm” là những nét vẽ tài hoa làm cho vần thơ giàu hình tượng và gợi cảm.

Khổ thơ thứ hai gợi tả hình ảnh người mẹ hiền ngày xưa. Người mẹ nghèo khổ, vất vả. Thời con gái chẳng có yếm đào, chẳng có nón quai thao mà chỉ có nón mê; áo quần chỉ một màu nâu nhuộm bùn:

“Mẹ ta không có yếm đào

nón mê thay nón quai thao đội đầu”.

Hai tiểu đối: “tay bí // tay bầu”,“váy nhuộm bùn // áo nhuộm nâu” - nói lên thật hay, thật cảm động sự tần tảo vất vả và đời sống nghèo khổ của mẹ:

“Rối ren tay bí tay bầu

váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa ”.

Suốt đời mẹ sống mộc mạc, giản dị như thế. Quanh năm bốn mùa mẹ vẫn sống và ăn mặc như thế!

Khổ thơ thứ ba, lời ru của mẹ hiền ngày xưa vẫn còn vang vọng trong hoài niệm. Ca dao đã nhập hồn vào thơ Nguyễn Duy:

“Cái cò...sung chát đào chua...

câu ca mẹ hát gió đưa về trời”.

Câu ca dao “Cái cò đậu cọc cầu ao - Ăn sung sung chát, ăn đào đào chua” đã được nhà thơ vận dụng tài tình sáng tạo gợi lên bao thương nhớ người mẹ hiền nay đã đi xa…

Hai câu thơ: “Ta đi trọn kiếp con người – cũng không đi hết những lời mẹ ru” hàm chứa chất triết lí sâu sắc. Lòng mẹ bao la. Tinh thương của mẹ mênh mông đào dạt. Suốt đời con cũng không thấu hiểu, hiểu hết lời ru của mẹ. “Gió mùa thu, mẹ ru con ngủ ...Năm canh chày thức đủ năm canh... ”. Mỗi giấc ngủ của con được nâng niu bằng lời ru của mẹ vô cùng sâu nặng với biết bao tình đời và tình người. Mọi đứa con từ bé thơ đến trưởng thành, không bao giờ có thể “đi hết mấy lời mẹ ru". Hai chữ “đi” trong vần thơ của Nguyễn Duy được chuyển nghĩa một cách thần tình.

Điệp ngữ “bao giờ cho tới” trong khổ thơ thứ tư đã làm sống lại tuổi thơ với bao kỉ niệm đẹp. Ước mong được sống lại đêm rằm trung thu để phá cỗ. Ước mong được sống lại những đêm tháng năm đẹp trời để “nằm đếm sao” giữa sân nhà:

“Bao giờ cho tới mùa thu

trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm

bao giờ cho tới tháng năm

mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao”.

Hai chữ “đánh đu “ đã nhân hóa trái hồng trái bưởi, món quà trung thu, tạo nên sự ngộ nghĩnh hồn nhiên. Cái giây phút thần tiên “mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao” là giây phút hạnh phúc nhất của tuổi thơ. Kỷ niệm ấy, Nguyễn Duy có bao giờ quên; mỗi chúng ta có bao giờ quên.

Các từ láy:“nghêu ngao ”,“chập chờn ", “leo lẻo”, “xa xôi” trong bốn câu thơ tiếp theo vừa nêu lên sự hồn nhiên của tuổi thơ, vừa nói lên mơ ước được sống lại trong khung cảnh thần tiên nơi quê nhà. Đứa con có bao giờ quên những kỉ niệm đẹp, đầy hạnh phúc ấy:

“Ngân Hà chảy ngược lên cao

quai mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm...

bờ ao đom đóm chập chờn

trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”.

Ký ức tuổi thơ đã trôi vào dĩ vãng, nhưng vẫn còn chập chờn trong tâm hồn yêu thương với “những vui buồn xa xôi”. Đứa con càng thương nhớ mẹ, càng biết ơn mẹ không thể nào kể xiết!

Tiếp theo là những suy ngẫm về lời ru của mẹ, về công ơn trời bể của mẹ. Mẹ ru con, ru “cái lẽ đời", ru cái đạo lí làm con, ru cái đạo lý làm người. Con lớn lên từng ngày từng tháng nhờ dòng sữa ngọt ngào của mẹ, bằng lời ru thiết tha êm đềm của mẹ. Điệp ngữ “nuôi” trong hai tiểu đối đã nói lên công ơn to lớn của mẹ hiền:

“Mẹ ru cái lẽ ở đời

sữa nuôi phần xác // hát nuôi phần hồn”

Các thế hệ sẽ nối tiếp sinh ra, rồi lớn lên theo lời ru tiếng hát của mẹ, của bà. Điệu ru của bà, của mẹ sẽ được những thế hệ mai sau nâng niu, giữ gìn. Điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ trong mỗi gia đình Việt Nam là dân ca, là tâm hồn dân tộc sẽ sống mãi đến muôn đời mai sau. Câu hỏi tu từ làm cho vần thơ trở nên thiết tha, lay động hồn người:

"Bà ru mẹ...mẹ ru con

liệu mai sau các con còn nhớ chăng”.

Nhớ mẹ, nhớ nơi chôn nhau cắt rốn, đứa con ly hương đêm ngày đăm đắm “Trông về quê mẹ ruột đau chín chiều”. Càng "nhìn về” càng bồi hồi nhớ mẹ, nhớ đức hy sinh cao cả, tình thương con bao la của người mẹ nay đã khuất núi. Câu tục ngữ "Chỗ ướt mẹ nằm, chỗ ráo nhường con" được tác giả vận dụng sáng tạo:

"Nhìn về quê mẹ xa xăm

lòng ta - chỗ ướt mẹ nằm đêm mưa”.

Tác giả khép lại bài thơ bằng hai câu thơ mang âm điệu ca dao trữ tình thể hiện bao nỗi ân tình sâu nặng của đứa con đối với người mẹ hiền thương yêu:

"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương”.

Dù mẹ đã mất, nhưng những kỉ niệm ân tình sâu sắc ấy của mẹ, đứa con mãi mãi ghi sâu trong lòng. Lòng hiếu thảo là một trong những tình cảm đẹp nhất của con người Việt Nam chúng ta. Thơ Nguyễn Duy man mác như điệu ru tiếng hát của bà, của mẹ sau lũy tre xanh, bên bờ dâu ruộng lúa đang vọng về năm tháng. Những suy tư triết lí của tác giả làm cho tư tưởng tình cảm trong bài thơ trở nên sâu sắc, mang tính chất dân tộc và hiện đại.

"Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa..." là một bài thơ rất hay, tiêu biểu cho hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Nguyễn Duy, nhà thơ trưởng thành trong khói lửa chiến tranh thời chống Mỹ. Quả vậy, thơ Nguyễn Duy đẹp như ca dao, đậm đà như dân ca, man mác như lời hát ru.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (mẫu 4)

Nguyễn Duy, một danh nhân văn hóa Việt Nam thời kỳ đổi mới, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả. Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là biểu tượng cho tình mẫu tử, sự tri ân đặc biệt dành cho người mẹ và quê hương. Bằng giọng thơ nhẹ nhàng, tình cảm và sâu sắc, Nguyễn Duy đã chạm đến trái tim của người đọc, nhắc nhở họ về giá trị thiêng liêng của tình mẹ.

Nguyễn Duy, người với trái tim nặng nghĩa vụ gia đình và quê hương, đặc biệt dành tình cảm sâu sắc cho người mẹ. Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa, tác phẩm cúng mẹ của ông vào năm 1986, là biểu hiện của tình kính trọng và tình yêu thương không ngừng. Hình ảnh mẹ trong bài thơ chính là hình ảnh bà ngoại của Nguyễn Duy, điều này làm cho tác phẩm trở nên ôm trọn tình cảm những đêm hè dịu dàng, những câu chuyện kể và những kỷ niệm ấu thơ.

Nguyễn Duy, một trong những nhà thơ hiện đại kết hợp chặt chẽ với ca dao truyền thống, đã mang lại cho thơ ông sự độc đáo và đặc sắc. Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa không chỉ là tác phẩm thể hiện triết lý sâu xa về cuộc sống, mà còn là sự kết hợp tinh tế giữa truyền thống và hiện đại. Với tiêu đề và hai câu kết được lấy từ ca dao, tác giả tạo nên một bức tranh thơ đậm chất văn hóa, làm tôn vinh tình cảm truyền thống nhưng vẫn giữ được tính chất cá nhân và độc đáo.

'Thơ hương tình mẹ, đêm thơ thắm
Mây nhang khói thắp lên Niết bàn
Chân nhang lấm láp, hương đàn
Vẽ bóng mẹ trần gian thuở ấy'

Khám phá bức tranh tâm hồn qua bài thơ, không gian thiêng liêng của buổi giỗ mẹ ông được mở ra. Nguyễn Duy, với trái tim mất mẹ sớm, khắc sâu nỗi buồn và tình yêu thương về hình ảnh mẹ trong trí tưởng. Mất mẹ khi còn nhỏ, ông tìm về trong ký ức, những cảm xúc chạm đến lòng người khi suy ngẫm về hình bóng của người mẹ và bà ngoại.

'Yếm đào mẹ chẳng kịp mặc
Nón quai thao thấp bằng đầu con
Tay bí tay bầu rối rồi
Váy nhuộm bùn, áo nâu mùa mùa'

Cuộc sống của phụ nữ nông thôn xưa thường đầy những khó khăn, vất vả. Bài thơ tả lại số phận của mẹ Nguyễn Duy, một phụ nữ nông thôn với đời sống khổ cực, đầy hy sinh. Hình ảnh của mẹ trở thành biểu tượng cho sự kiên cường, tình yêu thương và tấm lòng nhân ái của những người mẹ Việt Nam. Nguyễn Duy chia sẻ về cuộc sống khốn khó của mẹ, tôn vinh những đau thương, những nỗ lực không ngừng của những người phụ nữ nông thôn xưa.

'Câu hát ru chấn thương tâm Ngọt ngào cây đổ, mẹ ru con Đào chua, cá xương đen Lời mẹ hát ngân nga, lòng con thắm'

Quay trở về quá khứ hồi ấu, Nguyễn Duy mơ hồ nhìn lại những ký ức, đọng chất tình mẹ qua những lời ru dịu dàng. Mất mẹ sớm, ông nhớ mãi hình bóng mẹ qua những giai điệu dịu dàng, những câu ca mẹ hát như một thước phim đẹp của tuổi thơ. Cảm xúc chạm vào lòng người khi tưởng nhớ về mẹ thân yêu và những lời ru ấm áp.

'Khi trái hồng rực rỡ mùa thu Bước chân mẹ lấm láp bên cầu Chú Cuội chị Hằng mặc cười Mâm ngũ quả rạng ngời ánh trăng'

Nỗi nhớ mẹ không chỉ là những lời ru êm đềm, mà còn là những kỷ niệm ngọt ngào trong tuổi thơ. Nguyễn Duy ghi chép về những khoảnh khắc sum vầy bên mâm ngũ quả rằm tháng tám, những ngày hè nóng bức, và cả những đêm đầy đom đóm chập chờn. Mẹ và những khoảnh khắc ấy giờ chỉ còn lại trong ký ức đẹp đẽ, gợi nhắc về sự ấm áp và hạnh phúc của ngày xưa.

'Lời ru của mẹ là cái lẽ của cuộc sống Sữa nuôi phần thân thể, hát nuôi phần tâm hồn Bà ru mẹ, mẹ ru con Liệu mai sau, các con còn nhớ những giọt lệ ân tình đó chăng?'

Mặc dù cuộc sống vất vả, mẹ vẫn truyền đạt những giá trị truyền thống quý báu, từ câu chuyện cổ tích đến ca dao dân dụ. Lời ru ngọt ngào của mẹ giúp con hiểu về cuộc sống, về đắng cay và thiêng liêng của tình mẹ. Ngày nay, trong thị trường hiện đại, có lẽ nhiều người quên đi những giá trị truyền thống, nhưng Nguyễn Duy vẫn lo lắng: 'Bà ru mẹ... mẹ ru con/liệu mai sau các con còn nhớ không?'

'Nhìn về quê mẹ xa xăm Trái tim ta, ký ức mẹ nằm đêm xưa Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa Miệng nhai cơm, búng lưỡi lừa cá xương...'

Cuối cùng, Nguyễn Duy quay trở lại với nỗi nhớ mẹ, quê hương thân yêu. Những đêm đông giá rét, mái tranh chẳng đủ che mưa, nhưng mẹ vẫn âu yếm nhường chỗ ấm. Trong giấc ngủ mơ màng, hình ảnh 'ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa/miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương...' luôn vẫn còn hằn sâu trong tâm trí tác giả.

Có nhiều bài thơ đã viết về người mẹ, nhưng ít bài nào có sức thuyết phục và sâu sắc như Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa của Nguyễn Duy. Bài thơ không chỉ là biểu hiện của tình mẫu tử đậm đà, mà còn là lời nhắc nhở về những giá trị văn hóa truyền thống như lời ru, ca dao, đang dần mất đi trong xã hội hiện đại. Nguyễn Duy đã khéo léo kết hợp nỗi nhớ thương mẹ với triết lý sâu sắc, gợi mở cho độc giả sự suy ngẫm về tình cảm gia đình và giá trị tinh thần.

Trong sự nghiệp sáng tác, Nguyễn Duy thường xuyên đề cập đến chủ đề gia đình, và trong Ngồi Buồn Nhớ Mẹ Ta Xưa, ông không chỉ đơn thuần làm đề tài về người mẹ, mà còn tạo ra một tác phẩm đẹp, sâu sắc về tình thân, giúp độc giả nhìn nhận lại những giá trị quý báu của gia đình và tình cảm thân thương. Thơ của Nguyễn Duy là một lời nhắc nhở về sự quan trọng của việc giữ gìn và trân trọng những đồng đội gia đình trong cuộc sống hiện đại ngày nay.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa (mẫu 5)

Nguyễn Duy là một trong những thi sĩ tài hoa của nền Văn học Việt thời đổi mới. Ông đã trải qua những năm tháng đau thương khi đất nước chiến tranh cho đến khi hòa bình lặp lại và có nhiều chuyển biến to lớn. Do đó, giọng thơ của ông luôn mang vẻ triết lý sâu xa về tình người, về cuộc đời, về quê hương, đất nước.

Bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa được Nguyễn Duy viết vào năm 1986. Ông bảo ông viết để cúng mẹ mình với một tấm lòng thành kính và trân trọng sâu sắc. Tác giả từng chia sẻ: “Mẹ tôi mất sớm. Tôi và em gái tôi ở với bà ngoại. Hình ảnh về mẹ trong bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa chính là hình ảnh bà ngoại tôi hồi đó”.

Ngay trong những câu đầu tiên của bài thơ, tác giả đã mở tạo nên một không khí rất thành kính, linh thiêng. Đúng như lời Nguyễn Duy giới thiệu, đó là một buổi giỗ của mẹ ông:

“Bần thần hương huệ thơm đêm

khói nhang vẽ nẻo đường lên niết bàn

chân nhang lấm láp tro tàn

xăm xăm bóng mẹ trần gian thuở nào”.

Có lẽ chưa có nhà thơ nào lại miêu tả một bàn thơ với đầy sự tôn kính, đẹp đẽ đến vậy. Mùi hương hoa huệ, cùng với khói nhang, chân nhanh, đã khiến ông bỗng nhớ tới bóng mẹ nơi trần gian thủa nào. Đọc câu thơ lên khiến người đọc không có cảm giác sợ sệt với cái chết mà cảm thấy thật xúc động, thấy thật thương thay cho tác giả. Bởi mẹ nhà thơ sớm đã mất. Nên hình ảnh của người mẹ của ông trong ký ức vô cùng mờ mịt. Hình ảnh người mẹ với ông chỉ còn được thông qua những điều về bà ngoại. Khổ thơ lục bát, giúp người đọc dễ hiểu dễ nhớ. Như một khúc ngâm cho một người thân yêu đã ở bên kia thế giới.

Nếu như khổ 1, nhà thơ thể hiện sự tôn kính với mẹ bằng việc hương khói trên bàn thờ thì ở khổ thứ ông miêu tả cụ thể tới số phận của bà.

“Mẹ ta không có yếm đào

nón mê thay nón quai thao đội đầu

rối ren tay bí tay bầu

váy nhuộm bùn áo nhuộm nâu bốn mùa”

Mẹ ông cũng như bao người phụ nữ thôn quê khác, đều có số phận như những thân cò lặn lội, tần tảo nuôi con. Mẹ Nguyễn Duy hiện ra trong tâm trí ông là một người phụ nữ ngay cả chiếc yếm đào cũng không có. Cái tấm yếm giản dị nhất mà thường bất kỳ người phụ nữ nào cũng có. Không những thế, bà thậm chí còn không có được cả niềm vui của việc đội nón quai thao, mà phải đội nón mê. Một loại nón làm từ cây cỏ. Quanh năm bà chỉ biết làm lụng nuôi con cái. Chiếc váy bà mặc cũng chỉ toàn nhuộm bùn nâu. Đã thế, ngoài thời gian ruộng vườn, bà còn tranh thủ bán buôn bầu bí ở chợ. Thật là một người phụ nữ nghèo, lại tất bật nhiều việc.

Phân tích bài thơ Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa của nhà thơ mới thương làm sao những người mẹ lam lũ. Không chỉ mẹ ngày xưa mà ngay cả thời nay, các bà mẹ vẫn luôn chấp nhận cuộc sống khổ cực để mong sao con cái có cuộc sống tốt đẹp hơn.

Thương mẹ, nhà thơ nhớ cả những lời ru của mẹ. “Cái cò… sung chát đào chua…/ câu ca mẹ hát gió đưa về trời/ ta đi trọn kiếp con người/ cũng không đi hết mấy lời mẹ ru”. Lời ru ấy như nói lên chính cuộc đời của mẹ. Cuộc đời của cái cò, đầy chua cay chat đắng. Dù cho câu hát đó có về trời thì nó mãi ghi trong lòng của tác giả, mãi đậm sâu trong tâm trí của nhà thơ

Với Nguyễn Duy, lời ru ấy không chỉ đơn thuần là lời ru cho con ngủ ngon giấc, mà còn là những lời răn dạy về cuộc đời, về kiếp người.

“Mẹ ru cái lẽ ở đời

sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn

bà ru mẹ… mẹ ru con

liệu mai sau các con còn nhớ chăng”

Mỗi lời ru ấy đã nuôi lớn tâm hồn nhà thơ, giúp ông lớn lên biết lẽ sống ở đời. Trong khổ thơ có một câu thật hay và ý nhị: “Sữa nuôi phần xác hát nuôi phần hồn”. Rất nhiều người con đất Việt đã được nuôi dưỡng trong tiếng hát lời ru, nhưng không phải ai cũng hiểu tầm quan trọng của lời ru tiếng hát như tác giả. Thường người ta xem trọng chất dinh dưỡng, để thấy rõ chiều cao, cân năng. Chứ chẳng ai để ý đến tâm hồn thẩm thấu của đứa trẻ khi nghe mẹ ru, bà hát.

Không những, ở câu thơ tiếp theo, nhà thơ thể hiện nỗi lo lắng khi đến đời con cháu sau này liệu có được nghe những lời ru, có còn nhớ những câu ca đó nữa không. Ông cũng thể hiện niềm tự hào về truyền thống khi bà ru mẹ, xong mẹ ru con. Ông tự hào vì được nghe lời ru da diết mà nhiều ý nghĩa thâm sâu như thế.

Ngoài nỗi nhớ về những lời ru, hình bóng của mẹ, tác giả còn nhớ tới những khoảnh khắc vui chơi ấu thơ bên mẹ. Đó là những đêm hè, đêm thu, hai mẹ con trải chiếu nằm đếm sao. Khi đó mẹ còn kể cho tác giả nghe chuyện về Ngưu Lang – Chức Nữ, chú Cuội, chị Hằng, thằng Bờm. Ông cũng không quên hình ảnh chiếc quạt mo mà mẹ vẫn dùng để quạt cho mình mát rồi vừa nghêu ngao những khúc ca quen thuộc. Ông cũng không quên những hôm hai mẹ con đi tìm đom đóm, quanh bờ ao. Ôi biết bao là kỷ niệm đẹp đẽ mà tác giả sẽ chẳng bao giờ quên.

“Bao giờ cho tới mùa thu

trái hồng trái bưởi đánh đu giữa rằm

bao giờ cho tới tháng năm

mẹ ra trải chiếu ta nằm đếm sao

Ngân hà chảy ngược lên cao

quạt mo vỗ khúc nghêu ngao thằng Bờm…

bờ ao đom đóm chập chờn

trong leo lẻo những vui buồn xa xôi”

Đến cuối bài độc giả càng thấy rõ nỗi nhớ mẹ, nhớ quê hương da diết của tác giả. Đặc biệt là hình ảnh mẹ nằm chỗ ướt còn nhường con chỗ khô trong những đếm đông giá rét. Còn cả việc mẹ “miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương”. Ngày xưa, chưa có máy xay nên để bón cho con nhỏ ăn, mẹ thường phải nhai nhỏ. Nhai làm sao mà không nuốt hết chất dinh dưỡng vào mình mà vẫn có thể lần lựa được xương ra khỏi cơm cá cho con ăn. Việc đó ngay nay trông thật mất vệ sinh nhưng với ngày xưa thiếu thốn, đó lại là cách tốt nhất để giúp các con ăn no.

“Nhìn về quê mẹ xa xăm

lòng ta – chỗ ướt mẹ nằm đêm xưa

ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa

miệng nhai cơm búng lưỡi lừa cá xương…”

Kết thúc bài thơ vẫn là nỗi nhớ thương dai dẳng, sự tôn kính của tác giả dành cho mẹ. Dù số phận mẹ hẩm hiu, phải sớm lên niết bàn nhưng trong tâm trí ông mẹ vẫn sống mãi. Dù thời gian bên mẹ không nhiều nhưng với ông mẹ cũng như bà, luôn dành cho con tìm yêu vô điều kiện. Đúng là tình cảm gia đình, tình cảm người mẹ dành cho con luôn là thứ tình cảm thiêng liêng nhất trong mọi thứ tình cảm của con người.

Với nỗi nhớ thương mẹ sâu đậm, nhà thơ Nguyễn Duy đã viết nên một bài thơ làm lay động lòng người. Mỗi câu thơ như là một tiếng khóc mẹ nức nở tự sâu tận đáy lòng của tác giả muốn tỉ tê cùng mẹ. Bất kỳ ai đã từng sống qua gia đoạn chiến tranh nghèo khổ của đất nước sẽ dễ dàng tìm thấy bản thân mình đâu đó trong bài thơ.

1 23 25/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: