TOP 10 mẫu Phân tích Đứa con của vợ lẽ (2025) SIÊU HAY

Phân tích Đứa con của vợ lẽ gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 19 25/12/2024


Phân tích Đứa con của vợ lẽ

TOP 10 mẫu Phân tích Đứa con của vợ lẽ (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích truyện ngắn Đứa con của vợ lẽ của Kim Lân.

Đọc truyện: Đứa con của vợ lẽ

Tư nằm dán mình trên giường. Đầu anh nặng trĩu trên chiếc gối bông cáu ghét. Mắt nhìn trân trân lên sàn nhà; lúc ấy anh không nghĩ ngợi gì. Hai tay nặng nề rời rạc, thỉnh thoảng lại cố gượng đập nhẹ xuống phản, để xua đuổi những nỗi tê tê buồn buồn chạy trong các ống xương. Anh xoay mình lại cho đỡ mỏi. Mắt se sẽ nhắm lại, và lắng nghe những cảm giác chạy trong người. Ruột anh xót như cào. Bụng hóp lại. Mặt phờ phạc. Anh thấy cáu kỉnh vẩn vơ, những muốn càu nhàu mấy tiếng. Tư đói quá đói lả người đi. Đã hai hôm nay rồi, anh chưa có hột cơm nào vào trong bụng. Đồng năm xu mẹ anh cho, anh tiêu phăng ngay từ hôm đầu, tưởng chiều thế nào mẹ cũng về; ai ngờ, bặt tin đi hai hôm. Hai hôm vật lộn với sự đói nó hành hạ, anh chỉ biết nằm lại ngồi, phờ phạc trong mấy gian nhà chật hẹp. Đã có lúc anh lục tung cả hòm xiểng, chum chĩnh trong buồng, ngoài nhà ra để tìm. Biết không có gì anh vẫn tìm, xem trong nhà có còn sót tí ngô đỗ nào chăng. Hình như lúc tìm tòi ấy, anh đỡ đói đi chút ít.

Thấy khát nước, Tư chống tay ngồi dậy. Anh chớp vội mấy cái và lim dim cặp mắt cho đỡ chói.

Nắng vàng gay gắt rọi xuống sân, hắt ánh vàng và mùi nồng nực vào mấy gian nhà ngói cổ. Tư uống từng ngụm nước nhỏ. Những dòng nước mát mẻ chạy đến đâu, anh biết đến đấy. Hai hôm nay, anh vẫn uống nước cầm hơi như thế.

Tư là con vợ ba. Thầy mẹ anh lấy nhau không phải là đôi bên bác mẹ gả bán, không phải nhà hiếm hoi, không phải tình yêu. Cha anh hơn mẹ anh đến ba mươi tuổi. Mẹ già anh lấy mẹ anh về để có người cáng đáng việc đồng. Vốn là người quê mùa, nên việc đồng mẹ anh rất thạo. Mẹ già anh rất chiều quý, họ chiều vậy chẳng qua là muốn chạy việc. Thầy anh mất năm trước, mẹ già anh mất năm sau. Nhà không làm ruộng nữa. Các anh Tư đều đi chợ trên, Tư phải thôi học ở nhà. Hai mẹ con lâm vào cảnh thất nghiệp. Ruộng không có mà làm; đi buôn – buôn xùng buôn xằng thôi cũng không có vốn. Anh em họ mạc thì thờ ơ lạnh nhạt, họ coi hình như không có mẹ con Tư trong gia đình nữa. Vả lại dẫu rằng nghèo, nhưng mẹ anh rất khái, không muốn chịu tiếng nhờ ai. Bà đi khâu thuê vá mướn kiếm gạo về nuôi con. Nhiều khi không có việc làm, mẹ con đành chịu đói. Những hôm ấy, bà thường trốn tránh, bà rất sợ phải nhìn cảnh mẹ con đói khát. Muốn cho mẹ cất gánh nặng, đã nhiều lần Tư xin làm phó nhỏ mấy hiệu thợ may và sơn guốc, nhưng họ đều từ chối vì dạo này hàng ế. Họ hứa đến tháng tám này sẽ gọi anh làm. Bất đắc dĩ anh phải đóng vai ăn bám.

Tư nghĩ liên miên: anh thấy một niềm oán trách ngấm ngầm trong thâm tâm. Anh oán cha anh, người đã sinh ra anh mà săn sóc không chu đáo. Anh oán một cái gì không tên đã đẩy anh vào cảnh khốn quẫn. Tư nhếch một nụ cười thảm hại. Một ý tưởng chua chát hiện ra trong trí: là một thằng con vợ lẽ, không phải vì hương khói, chỉ là thằng thừa trong gia đình. Tư thấy bứt rứt khó chịu. Những ý tưởng hỗn loạn ở trong óc. Anh thong thả nằm xuống. Mắt nhắm lại, muốn ngủ đi, để những tư tưởng hắc ám khỏi đến quấy nhiễu. Nhưng không sao ngủ được với cái dạ dày. Chợt tiếng ông Cả gọi ngoài cổng ngõ, Tư vùng trở dậy, dạ lớn lên một tiếng, vội vã ra mở cửa.

Tư nhu nhú chào anh. Nhưng ông Cả không trả lời, ông bệ vệ bước vào. Khổ người phì nộn khác hẳn với vẻ gầy còm của Tư. Mặt ông tròn và ngắn, lúc nào cũng vui một cách vô tư lự. Nước da hồng hào, trắng nhễ trắng nhại, bóng loáng như bôi dầu. Ông vẫn tự phụ là có vẻ quan dạng lắm. Đi đâu, mặc dù là ông chủ hiệu vải vùng trên, ông cũng thắng bộ oai ra phết. Lúc nào cũng xách cái cặp phồng tướng trong toàn đựng quần áo hoặc quà bánh của con. Ông nghiêm nghị đảo mắt chung quanh nhà một lượt, sẽ cau mặt lại gắt:

– Nhà cửa bề bộn thế này thì thôi? Rỗi rãi ta cũng phải cất nhắc đôi chút chứ.

Ấy là ông gắt lấy oai đấy thôi. Thực ra ông cũng chẳng quan tâm gì đến nhà cửa. Chẳng có thế mà ở chợ trên về, ông chơi tổ tôm ờ nhà Quản Uyển, một nhà gá bạc, luôn hai hôm. Ông trật khăn quẳng lên bàn, rồi nằm thẳng rẵng trên tràng kỷ. Đầu ngửa lên xà nhà thở dài sườn sượt, ra dáng mệt nhọc lắm. Ông nói một mình.

– Mẹ kiếp, tổ tôm còm mà cũng thua ngót hai chục bạc, đen rấp đen rủi.

Ông ngáp thấp ngáp tháo một hồi, rồi ngủ lúc nào không biết.

Tư len lén quét nhà, khẽ xếp những đồ đạc bề bộn. Xong anh lỉnh xuống bếp ngồi cho đỡ mệt.

Trời đã về chiều, ánh nắng nhạt dần, lùi ra gần hết mặt sân. Mặt trời chếch là là xuống sau nhà, những cây cối ngả bóng trên mái. Thỉnh thoảng những bóng cây có giọt nắng rọi qua lại rung động lên vì gió. Mặt ao trong vườn gợn sóng, nổi giạt những váng ngầu về một góc. Trên cầu tre, một cô gái đang vo gạo, làm sóng sánh những ánh vàng của mặt trời rớt trên các đầu sóng. Mấy mái nhà tranh xám nhô ra khỏi bụi chuối lá óng như lụa, đang thong thả bốc khói. Những làn khói lặng lẽ bốc lên dật dờ bay theo gió, in trên nền trời xanh ngắt một nét nhẹ nhàng, thanh thoát. Cảnh đẹp như mỉa mai Tư. Anh ngồi phệt xuống đất, lưng dựa vào bức tường vàng sạm vì khói ám. Mặt lờ đờ nhìn làn khói xám vơ vẩn bốc lên trời. Tai nghe tiếng vo gạo sàn sạt trên rá ngoài cầu ao. Tâm trí anh xáo động lên, anh nghĩ đến bữa cơm nhà hàng xóm. Anh ngao ngán nhìn cái bếp lạnh lẽo của nhà, mấy ông đầu rau đen chũi, ngồi lặng lẽ như than thầm với nhau. Nước mắt anh trào ra âm thầm lăn trên gò má.

Trên nhà, ông Cả vùng thức dậy. Ông vươn vai, bẻ khục, vặn mình kêu răng rắc. Ông vừa ngáp vừa gọi:

– Tư ơi?

– Dạ.

– Thoáng cái là lỉnh. Thoáng cái là lỉnh thôi.

Tư gượng gạo đứng lên, lệt xệt bước lên trên nhà. Ông Cả vứt một hào ra bàn, dịu giọng:

– Đi mua một hào phở?

– Vâng.

– Đem bát nhà đi.

– Vâng.

Tư thất thểu lê bước. Tay bưng có bát phở mà mỏi rã rời. Khói bốc lên nghi ngút. Anh thèm quá. Trông những bánh tráng trắng phau mềm rẻo, ẩn hiện trong nước dùng váng sao, những miếng thịt bò mỏng tang xếp gọn ghẽ, những hành, mùi, hồ tiêu rắc lên trên, thơm ngào ngạt phả mãi vào mũi anh. Con tỳ con vị như thức dậy, bụng sôi sùng sục, vần lên chuyển xuống. Nước bọt cứ ứa mãi ra, anh ao ước được một bát.

Tư đặt bát phở lên bàn cho anh, rồi lặng lẽ ra ngoài thềm. Ông Cả vừa vừa cắm cáu gắt:

– Gớm! Phở! Ăn rẳng như đấm vào họng!

Tư se sẽ nuột nước bọt. Thật là mỉa mai. Ăn xong, buông đũa buông bát, ông Cả vội vã cắp cặp ra đi ông còn cay mấy hội bạch cược hôm qua.

Ông Cả đi rồi. Tư cũng chẳng buồn ra đóng cửa. Anh định đem bát ra chậu ngâm, nhưng lại thôi, là vì anh thấy còn đến lưng bát nước dùng ăn thừa. Lúc khác ai còn giữ lại làm gì? Nhưng lúc này… Tư đưa “bát phở” lên mũi ngửi, mùi thơm ngào ngạt bốc lên. Anh nếm một ngụm chèm chẹp miệng. Trời ơi sao mà ngon thế! Anh ước ao giá mà được một bát cơm nguội trộn ăn thì phải biết? Nghĩ đến cơm nguội, anh lại nhớ đến một hôm, cũng đói như hôm nay. Thân, bạn chí thiết của anh, đến chơi nèo mãi anh về nhà. Rồi mời anh:

– Nhà đi vắng cả, chỗ anh em với nhau, tôi nói thật: anh ở đây ăn cơm nguội – cơm nguội thôi – với tôi cho vui nhé.

Cái bữa cơm nguội với cà ấy sao mà ngon thế! Tư còn nhớ mãi, có lẽ suốt đời: Tư so sánh ông Cả với Thân. Nỗi căm hờn nổi dậy trong lòng. Hai mắt anh quắc lên một cách dữ dội. Anh nghiến răng ném mạnh “bát phở” ra sân. Tiếng bát vỡ làm cho lòng anh dịu. Anh bật cười thấy mình vô lý và thấy tiêng tiếc. Tư thấy mỏi rã rời. Toàn thân run lên. Anh nằm lả xuống.

Chiều tàn đã lâu. Cảnh vật thẫm lại. Gió khua lá lao xao. Những lùm cây đen thẫm lắc lư trên nền trời sẫm đục. Thân, một tay ôm gói bọc giấy báo, một tay đẩy mạnh cánh cửa. Một tiếng rít rền trong yên lặng. Anh xăm xăm bước, nhớn nhác nhìn vào mấy gian nhà tối om. Miệng lẩm bẩm:

– Quái sao nhà cửa để tối thế này?

Thân im bặt vì thấy mình nhỡ lời. Anh thong thả bước lên nhà. Đặt gói lên bàn, Tư vẫn nằm rũ trên thành kỷ không biết bạn đến, Thân lay bạn:

– Tư? Tư?

Tư thều thào:

– Thân đấy à?

– Ừ, Tư ngủ à?

Giọng Tư nhỏ, đầy mệt nhọc:

– Không… Thân vào tôi cũng biết… nhưng… mệt quá.

Thân ái ngại nhìn bạn trong bóng tối. Đoạn anh nói rất nhẹ nhàng:

– Tôi đem cho Tư ít hạt mít đây. Tư ăn đi.

Tư cảm động quá. Nước mắt chảy ròng ròng, anh nghẹn ngào:

– Thân tốt với tôi quá.

– Ồ? Anh.

Đôi bạn ngồi âm thầm trong bóng tối. Tiếng Tư nhai hạt mít trong im lặng. Tư chợt nghĩ đến mẹ, anh ngóc đầu bảo bạn:

– Thân cất đi cho tôi một nửa nhé.

Anh định tâm để dành cho mẹ. Thân ôn tồn:

– Ừ, còn nhiều anh ạ.

Tư lại nghĩ đến mình, đến tương lai. Một tương lai mờ mịt của đứa con vợ lẽ. Anh thôi não ruột.

– Gì thế anh?

– Không.

Hai người im lặng.

Phân tích Đứa con của vợ lẽ (mẫu 1)

Kim Lân, một nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm giàu chất trữ tình và khám phá sâu sắc tâm lý con người, đã để lại ấn tượng mạnh mẽ qua truyện ngắn “Đứa con người vợ lẽ”. Tác phẩm không chỉ gây xúc động bởi nội dung mà còn bởi nghệ thuật xây dựng tình huống truyện, nghệ thuật trần thuật và cách xây dựng nhân vật độc đáo.

Tình huống truyện trong “Đứa con người vợ lẽ” được xây dựng một cách căng thẳng và cảm động. Xuyên suốt tác phẩm, người đọc chứng kiến sự xuất hiện của những mâu thuẫn gia đình. Nhân vật chính, người vợ trẻ, luôn phải đấu tranh giữa tình cảm dành cho đứa con và vị trí của mình trong gia đình. Tình huống truyện trở nên kịch tính khi nỗi đau mất mát và sự mặc cảm về thân phận xã hội bùng lên. Kim Lân đã tạo ra một không gian tâm lý chật chội, nơi những cảm xúc chồng chéo và những ràng buộc tình cảm đan xen khiến nhân vật khó có thể thoát ra khỏi nghịch cảnh.

Thông qua tình huống truyện, Kim Lân đã khéo léo thể hiện những tư tưởng lớn lao về tình mẹ, bản chất con người và những giá trị đạo đức bị thách thức trong xã hội. Những đấu tranh nội tâm của nhân vật không chỉ biểu hiện cho sự đau khổ của riêng họ mà còn phản ánh hiện thực xã hội đầy trắc trở của những người phụ nữ thời bấy giờ.

Kim Lân sử dụng nghệ thuật trần thuật rất tinh tế, mang lại cho câu chuyện một giọng điệu hết sức gần gũi và cảm động. Ông chọn lối kể chuyện theo ngôi thứ ba, nhưng luôn luôn gắn liền với những suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật. Cách ông miêu tả tâm tư, tình cảm của người vợ lẽ khiến người đọc dễ dàng đồng cảm và hiểu rõ nỗi đau, sự hy sinh thầm lặng của cô trong bối cảnh khắc nghiệt của cuộc sống.

Ông cũng thường xuyên sử dụng những chi tiết cụ thể, sinh động để làm nổi bật tình huống và cảm xúc của nhân vật. Những hình ảnh mô tả cảnh vật, tâm trạng cùng với những câu thoại tự nhiên, nhẹ nhàng đã tạo nên một bức tranh tổng thể về đời sống nội tâm của nhân vật, qua đó gợi mở những trang dư âm còn vang vọng lâu dài trong lòng người đọc.

Nhân vật trong “Đứa con người vợ lẽ” được Kim Lân khắc họa một cách tinh tế và sâu sắc. Người vợ lẽ là một biểu tượng cho tình yêu thương mạnh mẽ nhưng cũng đầy bi kịch. Nhân vật này không chỉ đại diện cho những người phụ nữ hy sinh mà còn phản ánh nỗi đau của những người sống trong ít nhiều rào cản xã hội.

Kim Lân khéo léo xây dựng những nhân vật phụ như người chồng, người vợ cả không chỉ để tạo ra sự tương phản mà còn để làm nổi bật tính cách của nhân vật chính. Sự đối lập giữa sự thờ ơ của người chồng và sự ghen tuông của người vợ cả càng làm cho nỗi cô đơn và bất hạnh của người vợ lẽ trở nên sâu sắc. Điều này không chỉ góp phần xây dựng nên một bức tranh sống động về tình cảm gia đình mà còn phản ánh một xã hội còn nhiều bất công.

Qua việc phân tích đặc sắc nghệ thuật trong truyện ngắn “Đứa con người vợ lẽ”, chúng ta có thể thấy Kim Lân đã rất thành công trong việc khắc họa tâm lý nhân vật và tạo ra những tình huống truyện cảm động. Ông không chỉ dừng lại ở việc kể một câu chuyện mà còn mở ra nhiều vấn đề sâu sắc về con người, tình cảm và xã hội. Điều này đã tạo nên sức hấp dẫn và chiều sâu cho tác phẩm, khẳng định vị trí của Kim Lân trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích Đứa con của vợ lẽ (mẫu 2)

Được mệnh danh là " nhà văn của nông dân và nông thôn Việt Nam" - Kim Lân thường đưa vào những tác phẩm của mình những số phận, những câu chuyện về số phận éo le của người nông dân trong thời kỳ xã hội bấy giờ. Truyện ngắn " Đứa con người vợ lẽ" cũng là câu chuyện về một số phận bi thảm và éo le như thế.

Câu chuyện xoay quanh nhân vật chính là Tư - một người con vợ lẽ sinh ra trong một gia đình giàu có. Thế nhưng, khác với người anh Cả, mẹ và Tư không được gia đình quý trọng bởi mẹ Tư chỉ là một người vợ lẽ cưới về với mục đích làm việc đồng áng cho gia đình. Sau khi cha mất, Tư và mẹ lâm vào cuộc sống khó khăn, khốn khổ nhưng họ nhất quyết không chịu ngửa tay xin bố thí từ ai cả. Cả hai mẹ con đều cùng chung một suy nghĩ " đói cho sạch, rách cho thơm" nên người mẹ vẫn ngày ngày đi kiếm việc làm thuê để kiếm lấy cái ăn cho hai mẹ con. Thế rồi lần này mẹ đi mãi vẫn chưa về, Tư như bị cái đói che mờ con mắt. Anh Cả đi ngang qua nhà vào ngủ như càng tô đậm khoảng cách vị trí trong gia đình giữa hai người. Thấy bát nước phở còn thừa mà người anh ăn còn dở lại, Tư đã đấu tranh giữa cái đói và cái tôi của mình và anh quyết định thà chết đói chứ vẫn phải giữ lại phẩm hạnh của một con người. Tới tối, anh Thân là bạn thân của Tư sang thăm bạn. Tuy chỉ là món ăn bình dị, dân giã như hạt mít nhưng cũng đủ để khiến Tư cảm thấy ngon miệng, cảm thấy được an ủi.

Cuộc sống của con người vợ lẽ là không hề dễ dàng một chút nào khi cả mẹ anh lẫn anh đều được đối sử như kể hầu, kẻ tôi tớ trong nhà. Mang tiếng là vợ lẽ của nhà giàu, thế nhưng mẹ của Tư chỉ được cưới về để lo chuyện đồng áng cho gia đình. Không phải là tình yêu, cũng chẳng phải vì địa vị, cứ như vậy cả hai mẹ con nghiễm nhiên chỉ là vợ con của cha Tư trên danh nghĩa. Được mẹ Cả thương yêu, Tư mới được cắp sách tới trường đi học như bao đứa trẻ cùng trang lứa. Nhưng rồi khi cha anh và mẹ Cả lần lượt qua đời, tất cả mọi thứ như bỗng nhiên biến mất ngay trước mắt anh. Chẳng phải người con nối dõi như anh Cả nên Tư phải đi theo mẹ ra ngoài sống mà chẳng ai đoái hoài tới. Thậm chí, anh phải từ bỏ cả việc đi học để ở nhà đi kiếm việc làm. Nhưng mùa màng, xã hội khó khăn, lấy đâu việc để cho anh đi làm? Vậy là anh lại phải ở nhà ăn bám mẹ mình.

Những đồng tiền ít ỏi mà mẹ anh kiếm được chẳng đủ để có nổi một bữa no, thậm chí còn bữa được bữa không, hai mẹ con cùng phải nhịn đói. Vậy mà lần này mẹ anh đi lâu quá. Ta cảm tưởng như cái đói chuẩn bị tước đoạt mạng sống của một con người tới nơi rồi vậy. Anh đói đến hoa cả mắt, cái đói khiến anh không còn đủ sức lực để làm gì nữa. Anh thi thoảng vặn mình, đập hờ xuống cái phản là để chắc chắn mình còn sống, chắc chắn rằng mình vẫn đang hiện diện ở trên đời. Giờ đây, từng ngụm nước nhỏ cũng quý giá đối với anh. Đó là phao cứu sinh cho mạng sống của anh, là sợi dây duy nhất để anh có thể chờ đợi được cho tới khi hình bóng của mẹ mình xuất hiện.

Thế rồi, người đẩy anh tới cùng cực của giới hạn không phải là cái đói chết người mà lại là anh Cả của anh. Anh oán trách số phận mình vì sao cùng một người cha mà số phận của hai người lại khác xa nhau đến vậy. Nếu như anh Cả không bao giờ phải lo về tiền bạc, thậm chí còn có tiền để đi chơi cờ bạc thì anh Tư lại sống trong khó khăn, thậm chí là đói tưởng số phận mình sắp đến hồi kết. Anh nghĩ rằng nếu mình cũng là con nối dõi của gia đình không phải là con của người vợ lẽ có khi số phận anh đã không bi thảm tới thế.

Chi tiết bát phở đã khiến chúng ta có một cái nhìn, một cảm nhận khác về anh Tư. Bát phở trắng phau, thơm phức là biểu trưng cho những cám dỗ ngọt ngào, những giá trị vật chất đầy sức nặng trong cuộc sống con người. Tuy vậy dù có đói hoa mắt, có thèm tới đọng ứ nước miếng, anh Tư vẫn nhất quyết không mó tay vào ước mơ ngọt ngào kia. Rồi tới khi bát phở chỉ còn lại nước lõng bõng, anh đã nghĩ tới một bát cơm nguội với nước phở - thứ có thể xóa tan cái đói ngay trước mắt đây. Nhưng rồi, anh vẫn lựa chọn lí trí, lựa chọn danh dự của bản thân mình. Nếu như anh ăn bát nước đó chẳng phải là anh đã chấp nhận đầu hàng số phận hay sao? Chấp nhận rằng mình chỉ là con của một người vợ lẽ không xứng đáng được đối xử bình đẳng hay sao? Anh cầm "tô phở" ném xuống đất cũng chính là thể hiện sự dứt khoát của bản thân anh về quan niệm của bản thân.

Bát hạt mít của anh Thân chính là sự cứu rỗi dành cho Tư. Tuy không phải là món ăn cao sang, nhiều tiền gì cả chỉ là hạt mít luộc lên mà thôi nhưng đó là sự sẻ chia, là sự quan tâm giữa hai người bạn. Không phân biệt giai cấp, dù anh giàu tôi nghèo chúng ta cũng ăn những món ăn như nhau, cùng ngồi với nhau, cùng tâm sự và sẻ chia cùng nhau. Đó không chỉ là một hình ảnh đẹp cho tình bạn mà còn là một hình ảnh đẹp giữa hai giai cấp xã hội lúc bấy giờ.

Nghệ thuật xây dựng tâm lý nhân vật đặc sắc, kết hợp với những chi tiết gây nút thắt - mở tâm lý bất ngờ đã tạo ra một thành công cho truyện ngắn " Đứa con của người vợ lẽ " tới thế. Nội dung truyện không có nhiều chi tiết cao trào nghẹt thở, bất ngờ nhưng lại khiến cho độc giả ngạc nhiên và đồng cảm với những quyết định của nhân vật Tư. Những câu chuyện hết sức đời thường trong bối cảnh xã hội đó nhưng làm chúng ta cũng phải yên lặng và suy nghĩ lại về những quyết định giữa hoàn cảnh trước mắt và danh dự cá nhân.

Phân tích Đứa con của vợ lẽ (mẫu 3)

Kim Lân là một trong những nhà văn tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, đặc biệt nổi bật với những tác phẩm viết về nông thôn, về con người và cuộc sống của họ trong thời kỳ kháng chiến. Trong đoạn trích "Đứa con người vợ lẽ", ông thể hiện tài năng nghệ thuật qua việc xây dựng tình huống và nhân vật một cách khéo léo, sâu sắc. Từ đó, tác giả không chỉ khắc họa chân thực số phận con người mà còn bộc lộ những giá trị nhân văn cao đẹp, đầy tính nhân đạo.

Tình huống trong tác phẩm được mở ra trong hoàn cảnh đặc biệt: sự ra đời của đứa con người vợ lẽ giữa những biến động của cuộc sống. Tình huống này thật éo le, không chỉ đơn thuần là sự xuất hiện của một đứa trẻ, mà còn là một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của những người liên quan. Đứa trẻ không chỉ tượng trưng cho tình yêu, cho hy vọng mà còn gợi lên nỗi đau, sự phân chia trong mối quan hệ giữa các nhân vật.

Tình huống còn khắc họa rõ nét sự đấu tranh nội tâm của nhân vật. Người vợ cả khi biết tin phải đối diện không chỉ với sự ganh ghét mà còn với nỗi sợ hãi, lo lắng về vị trí và tương lai của mình trong gia đình. Điều này khiến tình huống trở nên gay gắt, đầy kịch tính, góp phần tạo nên những xung đột trong tâm hồn mỗi người.

Kim Lân đã thể hiện tài năng của mình qua việc xây dựng những nhân vật chân thực và giàu chiều sâu. Nhân vật người vợ lẽ được khắc họa với những nỗi đau riêng nhưng cũng đầy sức sống. Cô không chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh, mà còn là biểu tượng cho tình yêu thương và khát vọng sống. Qua hành động và suy nghĩ của nhân vật, tác giả bộc lộ sự yếu đuối và mạnh mẽ trong tâm hồn con người.

Người vợ cả, ngược lại, được xây dựng như một hình ảnh khắc khổ, phải đối diện với những mất mát và nỗi ghen tuông. Sự đấu tranh của cô giữa lý trí và cảm xúc được thể hiện một cách tinh tế, tạo nên mâu thuẫn nội tâm phức tạp, khiến người đọc không thể đánh giá một cách đơn giản về nhân vật. Đồng thời, mối quan hệ giữa các nhân vật cũng mang tính biểu tượng, phản ánh những mâu thuẫn gia đình và xã hội trong bối cảnh lịch sử.

Từ tình huống và nhân vật, Kim Lân truyền tải thông điệp sâu sắc về giá trị của tình yêu thương, sự cảm thông và sự đoàn kết giữa con người. Qua những xung đột và mâu thuẫn, tác giả muốn nhấn mạnh rằng mỗi con người đều mang trong mình những nỗi đau, khát vọng và ước mơ, dù ở vị trí nào trong xã hội.

Bằng việc khắc họa cuộc sống của những người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa, Kim Lân không chỉ tô đậm hình ảnh người phụ nữ mà còn khẳng định vị thế của họ trong gia đình và xã hội. Đoạn trích không chỉ dừng lại ở việc miêu tả số phận con người mà còn gợi mở những suy tư về số phận chung của dân tộc trong bối cảnh chiến tranh, khổ đau, nhưng vẫn luôn tràn đầy ánh sáng hy vọng.

Tóm lại, đoạn trích "Đứa con người vợ lẽ" của Kim Lân là một tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn với việc xây dựng tình huống và nhân vật tinh tế, sâu sắc. Qua đó, nhà văn không chỉ khắc họa chân thực cuộc sống, tâm tư con người mà còn gửi gắm thông điệp nhân văn cao cả. Tình huống éo le và những nhân vật đầy chiều sâu ấy đã để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc, gợi nhắc về tình người và sự sẻ chia giữa những số phận. đây nha

Phân tích Đứa con của vợ lẽ (mẫu 4)

Trong văn học Việt Nam, Kim Lân là một trong những tác giả nổi bật với những tác phẩm phản ánh sâu sắc đời sống nông thôn và tâm tư của con người. Đoạn trích "Đứa con của vợ lẽ" không chỉ là một câu chuyện đơn thuần về mối quan hệ gia đình mà còn chứa đựng những nghệ thuật độc đáo trong việc xây dựng tình huống và nhân vật.

Trước hết, tình huống trong tác phẩm rất đặc sắc. Câu chuyện xoay quanh tâm trạng của nhân vật chính - người mẹ có đứa con là con của vợ lẽ. Tình huống này đặt ra một mâu thuẫn gay gắt giữa tình yêu thương và sự phân biệt trong gia đình. Người mẹ phải đối diện với nỗi đau khi đứa con của mình không được chấp nhận, không được yêu thương như những đứa trẻ khác. Tình huống này không chỉ khắc họa rõ nét tâm lý nhân vật mà còn phản ánh thực trạng xã hội phong kiến, nơi mà địa vị và quyền lực thường chi phối tình cảm gia đình.

Về nhân vật, Kim Lân đã khắc họa xây dựng hình ảnh người mẹ với những cảm xúc chân thành và sâu sắc. Bà là biểu tượng của tình yêu thương vô bờ bến, luôn khao khát được yêu thương và chấp nhận. Sự hy sinh của bà cho đứa con thể hiện một tình mẫu tử thiêng liêng, đồng thời cũng là nỗi đau khi phải sống trong sự phân biệt. Qua nhân vật này, Kim Lân đã gửi gắm thông điệp về giá trị của tình yêu thương, sự chấp nhận và lòng nhân ái trong cuộc sống.

Ngoài ra, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật cũng được Kim Lân thể hiện một cách tinh tế. Những suy nghĩ, cảm xúc của người mẹ được khắc họa rõ nét qua những chi tiết nhỏ, từ ánh mắt, cử chỉ đến những dòng tâm sự. Điều này giúp người đọc cảm nhận được nỗi đau, sự bất hạnh và cả niềm hy vọng của nhân vật. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ giản dị nhưng đầy sức mạnh, tạo nên sự đồng cảm mạnh mẽ từ phía người đọc.

Tóm lại, đoạn trích "Đứa con của vợ lẽ" của Kim Lân không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật xuất sắc mà còn là một bức tranh sinh động về tâm tư con người trong xã hội phong kiến. Tình huống và nhân vật được xây dựng một cách tinh tế, góp phần tạo nên giá trị nhân văn sâu sắc của tác phẩm. Qua đó, Kim Lân đã khẳng định vị trí của mình trong lòng độc giả và trong nền văn học Việt Nam.

Phân tích Đứa con của vợ lẽ (mẫu 5)

Truyện ngắn "Đứa con người vợ lẽ" của Kim Lân là một tác phẩm xuất sắc thể hiện tài năng của ông trong việc xây dựng tình huống và nhân vật. Tác giả đã tạo nên một câu chuyện đầy cảm xúc và sâu sắc về cuộc sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám.

Một trong những điểm nổi bật nhất của truyện này chính là cách mà Kim Lân sử dụng tình huống để phát triển câu chuyện. Tình huống được đặt ra rất tự nhiên và hợp lý, đó là khi Tư bị bỏ rơi bởi gia đình sau khi cha mẹ anh qua đời. Anh phải đối mặt với sự cô đơn, tuyệt vọng và khó khăn trong cuộc sống hàng ngày. Từ đây, Kim Lân đã khéo léo dẫn dắt độc giả theo dõi hành trình trưởng thành và vượt qua nghịch cảnh của Tư. Ngoài ra, Kim Lân cũng thành công trong việc xây dựng nhân vật. Nhân vật chính, Tư, được miêu tả chi tiết và sinh động. Anh ta là một người đàn ông trẻ tuổi, thông minh và kiên cường. Dù gặp nhiều khó khăn và thử thách, nhưng Tư không bao giờ từ bỏ hy vọng và luôn nỗ lực để vươn lên trong cuộc sống. Những đặc điểm tính cách của anh ta được thể hiện rõ ràng qua lời nói, hành động và suy nghĩ.

Bên cạnh đó, Kim Lân cũng chú trọng vào việc mô tả tâm lý nhân vật. Ông đã thành công trong việc tái hiện những trạng thái cảm xúc phức tạp của Tư, từ niềm vui, hạnh phúc đến đau khổ, tuyệt vọng. Điều này giúp độc giả hiểu rõ hơn về nhân vật và đồng cảm với những khó khăn mà anh ta đang trải qua.

Tổng kết lại, "Đứa con người vợ lẽ" là một ví dụ điển hình cho khả năng xây dựng tỉnh huống và nhân vật của Kim Lân. Tác giả đã tạo nên một câu chuyện hấp dẫn, giàu cảm xúc và sâu sắc về cuộc sống nông thôn Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Qua việc sử dụng tình huống và xây dựng nhân vật, Kim Lân đã thành công trong việc truyền tải thông điệp về sức mạnh của lòng kiên nhẫn, ý chí và hy vọng trong cuộc sống.

1 19 25/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: