TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Thu Điếu (2025) SIÊU HAY
Phân tích bài thơ Thu Điếu gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.
Phân tích bài thơ Thu Điếu
Đề bài: Phân tích bài thơ Thu Điếu của Nguyễn Khuyến
Dàn ý Phân tích bài thơ Thu Điếu
1. Mở bài:
- Giới thiệu vài nét về Nguyễn Khuyến: được mệnh danh là "Tam nguyên Yên Đổ".
- Giới thiệu chung về chùm thơ thu và bài thơ Câu cá mùa thu (Thu điếu).
2. Thân bài
a. Cảnh mùa thu ở vùng quê Bắc Bộ
- Điểm nhìn: Cảnh vật được đón nhận từ gần đến cao rồi từ cao trở lại gần: điểm nhìn cảnh thu là chiếc thuyền câu , nhìn mặt ao, nhìn lên bầu trời, nhìn tới ngõ trúc rồi lại trở về với ao thu, với thuyền câu.
- Từ điểm nhìn ấy, từ một khung ao hẹp, không gian mùa thu, cảnh sắc mùa thu mở ra nhiều hướng thật sinh động với những hình ảnh vừa cân đối, hài hòa.
- Mở ra một khung cảnh với những cảnh vật hết sức thanh sơ:
+ ao nhỏ trong veo
+ thuyền câu bé tẻo teo
+ sóng biếc gợn
+ lá vàng khẽ đưa
+ tầng mây lơ lửng
+ ngõ trúc quanh co
+ sắc xanh của trời hoà lẫn cùng sắc xanh của nước
=> Tất cả tạo nên một không gian xanh trong, dịu nhẹ, một chút sắc vàng của lá rụng trên cái nền xanh ấy khiến cảnh thu, hồn thu càng thêm phần sống động. Những đường nét, màu sắc... gợi lên trong tưởng tượng của người đọc khung cảnh của một buổi sớm thu yên bình trên một làng quê miền Bắc với bầu trời thu cao rộng, khoáng đạt, những ao chuôm trong vắt phản chiếu màu trời, màu lá, thôn xóm với những con đường nhỏ quanh co hun hút xanh màu tre trúc, gió thu dịu mát khẽ làm xao động mặt nước, thỉnh thoảng một vài chiếc lá rụng cắt ngang không gian... Trong bức tranh thu này mọi cảnh vật hiện ra đều rất đỗi bình dị, dân dã. Khung cảnh ấy vẫn thường hiển hiện vào mỗi độ thu về trên những làng quê và đi vào tâm thức của bao người, nhưng lần đầu tiên được Nguyễn Khuyến vẽ ra với nguyên cái thần thái tự nhiên của nó và khiến ta không khỏi ngỡ ngàng xúc động. Đó là một mùa thu trong trẻo, thuần khiết, mát lành.
- Cảnh sắc mùa thu đẹp nhưng đượm buồn
+ Không gian tĩnh lặng, phảng phất buồn: vắng teo, trong veo, khẽ đưa vèo, hơi gợn tí, mây lơ lửng ,…
+ Đặc biệt câu thơ cuối tạo được một tiếng động duy nhất: “Cá đâu đớp động dưới chân bèo” -> không phá vỡ cái tĩnh lặng, mà ngược lại nó càng làm tăng sự yên ắng, tĩnh mịch của cảnh vật -> Thủ pháp lấy động tả tĩnh.
=> Cảnh sắc thu đẹp nhưng tĩnh lặng vắng bóng người, vắng cả âm thanh dù đó là sự chuyển động nhưng đó là sự chuyển động rất khẽ khàng và cả tiếng cá đớp mồi cũng không làm không gian xao động.
b. Tình thu
- Nói chuyện câu cá nhưng thực ra là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng:
+ Một tâm thế nhàn: Tựa gối ôm cần
+ Một sự chờ đợi: Lâu chẳng được.
+ Một cái chợt tỉnh mơ hồ: Cá đâu đớp động..
- Không gian thu tĩnh lặng như sự tĩnh lặng trong tâm hồn nhà thơ, khiến ta cảm nhận về một nỗi cô đơn, man mác buồn, uẩn khúc trong cõi lòng thi nhân.
=> Nguyễn khuyến có một tâm hồn hồn gắn bó với thiên nhiên đất nước, một tấm lòng yêu nước thầm kín mà sâu sắc.
3. Kết bài:
- Cảm nhận chung về bài thơ.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 1)
Thu điếu nằm trong chùm thơ thu gồm ba bài nức danh nhất về thơ Nôm của Nguyễn Khuyến. Bài thơ nói lên một nét thu đẹp tĩnh lặng nơi làng quê xưa, biểu lộ mối tình thu đẹp mà cô đơn, buồn của một nhà Nho nặng tình với quê hương đất nước. Thu điếu cũng như Thu ẩm, Thu vịnh chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà (1884)
Hai câu thơ: "Ao thu lạnh lẽo nước trong veo/ Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo" mở ra một không gian nghệ thuật, một cảnh sắc mùa thu đồng quê. Chiếc ao thu nước trong veo có thể nhìn được rong rêu tận đáy, tỏa ra khí thu lạnh lẽo như bao trùm không gian. Không còn cái se lạnh đầu thu nữa mà là đã thu phân, thu mạt rồi nên mới lạnh lẽo như vậy. Trên mặt ao thu đã có một chiếc thuyền câu bé tẻo teo tự bao giờ. Một chiếc gợi tả sự cô đơn của thuyền câu. Bé tẻo teo nghĩa là rất bé nhỏ; âm điệu của vần thơ cũng gợi ra sự hun hút của cảnh vật (trong veo - bé tẻo teo). Đó là một nét thu đẹp và êm đềm.
Hai câu thực: "Sóng nước theo làn hơi gợn tí/ Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo" tả không gian hai chiều. Màu sắc hòa hợp, có sóng biếc với lá vàng. Gió thổi nhẹ cũng đủ làm cho chiếc lá thu màu vàng khẽ đưa vèo, làm cho sóng biếc lăn tăn từng làn từng làn hơi gợn tí. Phép đối tài tình làm nổi bật một nét thu, tô đậm cái nhìn thấy và cái nghe thấy. Ngòi bút của Nguyễn Khuyến rất tinh tế trong dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng hơi gợn tí phối cảnh với độ bay xoay xoay khẽ đưa vèo của chiếc lá thu. Chữ vèo là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà vừa khâm phục, vừa tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu).
Bức tranh thu được mở rộng dần ra qua hai câu thơ:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Bầu trời thu xanh ngắt thăm thẳm, bao la. Áng mây, tầng mây (trắng hay hồng?) lơ lửng nhè nhẹ trôi. Thoáng đãng, êm đềm, tĩnh lặng và nhẹ nhàng. Không một bóng người lại qua trên con đường làng đi về các ngõ xóm: Ngõ trúc quanh co khách vắng teo. Vắng teo nghĩa là vô cùng vắng lặng không một tiếng động nhỏ nào, cũng gợi tả sự cô đơn, trống vắng. Ngõ trúc trong thơ Tam nguyên Yên Đổ lúc nào cũng gợi tả một tình quê nhiều bâng khuâng, man mác:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Ngõ trúc và tầng mây cũng là một nét thu đẹp và thân thuộc của làng quê. Thi sĩ như đang lặng ngắm và mơ màng đắm chìm vào cảnh vật.
Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Sáu câu đầu mới chỉ có cảnh vật: ao thu, chiếc thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc.. Mãi đến phần kết mới xuất hiện người câu cá. Một tư thế nhàn: tựa gối ôm cần. Một sự đợi chờ: lâu chẳng được. Một cái chợt tỉnh khi mơ hồ nghe cá đâu đớp động dưới chân bèo. Người câu cá như đang ru hồn mình trong giấc mộng mùa thu. Người đọc nghĩ về một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị hơn mấy nghìn năm về trước. Chỉ có một tiếng cá đớp động sau tiếng lá thu đưa vèo, đó là tiếng thu của làng quê xưa. Âm thanh ấy hòa quyện với một tiếng trên không ngỗng nước nào, như đưa hồn ta về với mùa thu quê hương. Người câu cá đang sống trong một tâm trạng cô đơn và lặng lẽ buồn. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng trọng.
Xuân Diệu đã hết lời ca ngợi cái diệu xanh trong Thu điếu. Có xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh tre, xanh bèo.. và chỉ có một màu vàng của chiếc lá thu đưa vèo. Cảnh đẹp êm đềm, tĩnh lặng mà man mác buồn. Một tâm thế an nhàn và thanh cao gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét thu là một sắc thu, tiếng thu gợi tả cái hồn thu đồng quê thân thiết, vần thơ: veo - teo - vèo - teo - bèo, phép đối tạo nên sự hài hòa cân xứng, điệu thơ nhẹ nhàng bâng khuâng... cho thấy một bút pháp nghệ thuật vô cùng điêu luyện, hồn nhiên - đúng là xuất khẩu thành chương. Thu điếu là một bài thơ thu, tả cảnh ngụ tình tuyệt bút.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 2)
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ vĩ đại của văn học trung đại Việt Nam. Ông là một học giả uyên bác, đỗ đầu cả ba kỳ thi (Thi Hương, thi Hội, thi Đình), được cộng đồng công nhận với danh hiệu Tam nguyên Yên Đổ. Mặc dù có trí thức và tầm nhìn rộng lớn, Nguyễn Khuyến chỉ phục vụ chính quyền trong mười năm trước khi rút lui về quê hương. Chính sự gắn bó sâu sắc với đất quê Bắc Bộ đã truyền cảm hứng cho ông viết về cuộc sống bình dị, gần gũi ở quê nhà. 'Câu cá mùa thu' là một ví dụ điển hình cho sự sáng tạo của Nguyễn Khuyến trong việc miêu tả về mùa thu. Bài thơ đã thể hiện được vẻ đẹp của mùa thu ở làng quê và cũng là cách tác giả thể hiện tình cảm với thời cuộc trong thời điểm đó.
“Câu cá mùa thu” là một phần trong bộ thơ với chủ đề mùa thu gồm ba bài thơ nổi tiếng: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, được sáng tác khi Nguyễn Khuyến trở về quê nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm, theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, với cấu trúc bốn phần: giới thiệu, sự thực, luận điểm và kết luận.
Bài thơ bắt đầu với một bối cảnh quen thuộc của làng quê - một chiếc ao thu và một chiếc thuyền câu nhỏ nhắn:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu”, “thuyền câu” - hình ảnh quen thuộc với cư dân vùng đồng bằng Bắc Bộ. Ao là không gian nhỏ, nên việc có một chiếc thuyền “bé tẻo teo” là điều tự nhiên. Làn nước trong veo của ao được mô tả một cách rất chi tiết. Trong veo biểu hiện sự trong suốt, yên bình và có thể nhìn thấy đáy. Và vào cuối thu, không khí của ao đã trở nên 'lạnh lẽo' vì tiết trời mùa đông. Từ 'lạnh lẽo' không chỉ mô tả về tiết trời se lạnh mà còn tạo ra cảm giác yên bình của không gian. Cảnh thu thật đẹp, trong trẻo và êm đềm. Tác giả tinh tế khi sử dụng bốn từ 'eo' trong hai câu thơ, không chỉ mô tả không gian và tiết trời mà còn gợi lên cảm xúc buồn bã, cô đơn trong lòng người.
Sang hai câu tiếp theo, bức tranh thu được vẽ chi tiết và sắc nét hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tác giả đã rất khéo léo áp dụng nghệ thuật mô tả động tĩnh. Việc miêu tả 'hơi gợn tí' của sóng và 'khẽ đưa vèo' của lá giúp tăng cường sự yên bình của mùa thu trong làng quê Việt Nam xưa. Bởi chỉ khi không gian yên bình thì ta mới có thể nghe được những âm thanh nhỏ nhặt, như vậy. Không chỉ tạo ra bức tranh yên bình, hai câu thơ còn làm nổi bật vẻ đẹp tinh khôi của mùa thu. Sự xuất hiện của màu vàng của chiếc lá rơi giữa không gian xanh ngắt cũng là một điểm nhấn quan trọng. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến không làm cho màu vàng trở thành màu chủ đạo mà chỉ là một điểm nhấn, xen vào trong màu xanh của trời, của nước, của ngõ trúc. Từ 'vèo' được sử dụng một cách tinh tế, diễn tả một hành động nhanh chóng và đầy quyết đoán. Một hơi gió nhẹ, chiếc lá vàng đã 'vèo' xuống mặt ao, rơi khỏi cành mà không hề do dự. Có thể nói, hai câu thơ đã tô điểm thêm cho vẻ đẹp yên bình và tĩnh lặng của mùa thu và qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu của tác giả dành cho thiên nhiên.
Bức tranh mùa thu tiếp tục mở rộng ở cả không gian cao và sâu:
Tầng mây lơ lửng, bầu trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, không có dấu vết của con người.
Nhà thơ nhìn lên cao, để chiêm ngưỡng bầu trời cao rộng, xanh ngắt, trong trẻo với những đám mây lơ lửng giữa không gian. Màu 'xanh ngắt' là đặc điểm nổi bật của bầu trời thu ở Bắc Bộ. Trên nền xanh thẳm đó, những đám mây 'lơ lửng' giống như không trôi theo gió mà thấm thoát lưu lại giữa trời, tạo nên một cảm giác mơ màng trong lòng người. Nhà thơ sau đó nhìn xuống, để quan sát cảnh vật xung quanh với những ngõ trúc uốn quanh, vắng vẻ, không có dấu vết của con người. Từ 'quanh co' không chỉ miêu tả con đường uốn lượn, sâu mà còn gợi lên ý niệm về sự khép kín của cuộc sống. Vì vậy, mặc dù cảnh vật đẹp, nhưng cảm giác mơ màng và lặng lẽ. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn cảm nhận được tâm hồn sâu lắng của tác giả dành cho thiên nhiên, cho cuộc sống.
Đến hai câu kết của bài thơ, người đọc mới thấy hình bóng của người đi câu cá:
Ngồi ôm gối, chẳng thấy gì lâu lắm
Cá đâu chẳng thèm cắn mồi dưới chân bèo.
Người đi câu lơ đãng, tựa đầu vào gối và ôm cần. Dường như họ ngồi đó câu cá, nhưng không quan tâm tới việc câu được cá hay không. Họ chờ đợi mà không chờ đợi, không than phiền khi cá không cắn mồi dưới chân bèo. Rõ ràng, việc câu cá không phải là mục đích khiến họ ôm cần. Đó là hình ảnh của nhà thơ trong những ngày rời bỏ quan trường, về quê ẩn dật. Cuộc sống ở thị trấn khiến họ bối rối, họ trở về quê làm nông. Họ đi câu chỉ để tìm sự yên bình, mong muốn thoát khỏi những suy tư về xã hội. Nhưng họ vẫn không thể tránh khỏi những lo lắng về đất nước, con người. Họ muốn tìm bình yên khi đi câu, nhưng vẫn bị ám ảnh bởi suy tư về cuộc sống.
Với phong cách thi ca của đất nước và kỹ thuật mô tả chân thực, Nguyễn Khuyến đã tạo ra bức tranh mùa thu tĩnh lặng, man mác và đầy nghệ thuật, từ tâm hồn của một nhà thơ.
Có thể nói “Câu cá mùa thu” là bài thơ điển hình nhất về mùa thu ở Việt Nam, như nhà thơ Xuân Diệu từng nhận định. Qua bài thơ này, chúng ta hiểu được tình yêu thiên nhiên và sự lo âu về thời cuộc của tác giả. Bài thơ này sẽ luôn ở trong lòng những người yêu thơ, qua nhiều thế hệ.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 3)
Nguyễn Khuyến nổi tiếng với tập thơ mùa thu gồm ba bài thơ bằng chữ Nôm, một trong số đó là bài “Câu cá mùa thu”. Xuyên suốt bài thơ là vẻ đẹp tĩnh lặng của cảnh quê xưa, thể hiện nét cô đơn trong tâm hồn của một nhà Nho yêu quê hương lúc bấy giờ. Sau một thời gian ông từ quan trở về, hàng loạt tác phẩm ra đời như “ Thu điếu”, “ Thu ẩm” , “ Thu vịnh”. Với kết câu thơ thất ngôn bát cú, bài thơ mở đầu với hai câu đề:
“ Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
Chỉ cần đọc hai câu thơ, ta có thể hình dung ra khung cảnh mùa thu, một không gian nghệ thuật bao trùm lấy ta. Ao thu là một hình tượng đặc trưng của làng quê vùng đồng bằng Bắc Bộ. Mỗi khi nhìn thấy ao làng, lòng người lại bồi hồi nhớ về quê hương. Nước ao trong vắt giúp ta có thể nhìn xuyên qua mặt ao, hơi lạnh đang lan tỏa khắp không gian. Không còn cái se lạnh của chớm thu mà đã là tiết thu phân, trời đã sang thu nên se lạnh đến nao lòng. Không biết từ lúc nào, giữa không gian bao la của mặt nước ao hiện ra một chiếc thuyền câu như thể nỗi cô đơn của con thuyền lan tỏa khắp không gian. "Bé tẻo teo" có nghĩa là rất nhỏ, cách sử dụng tính từ như khiến sự bé bỏng của chiếc thuyền càng thêm cô đơn, nhỏ nhoi. Âm điệu của bài thơ cũng gợi lên sự hun hút của cảnh vật quanh ao ("trong veo" - "bé tẻo teo"). Đó là một mùa thu đẹp và yên bình, làm bản lề cho thế giới nghệ thuật mà người đọc sắp sửa bước vào từ hai câu thực:
“ Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Hai câu thơ miêu tả cảnh vật xung quanh trong một không gian hai chiều mà mắt có thể nhìn thấy sóng gợn li ti, tai có thể nghe thấy tiếng lá xào xạc trong gió. Sự rung cảm trước cảnh vật của người thi sĩ vô cùng giản dị và mộc mạc nhưng cũng có thể cho người ta thấy sự hài hòa về màu sắc được tác giả miêu tả với sóng xanh và lá vàng. Làn gió hiu hiu đủ để lay nhẹ những chiếc lá thu vàng, cuốn những con sóng xanh lăn tăn từng đợt. Trong câu thơ chỉ vỏn vẹn 7 chữ của mình, nhà thơ còn kết hợp sử dụng phép tương phản một cách rất tài tình giúp nhấn mạnh vào trọng tâm để người đọc có thể hình dung ra không gian mà tác giả đang miêu tả như hiện ra trước mắt mình, rất chân thực và rõ ràng. Phải công nhận rằng ngòi bút của Nguyễn Khuyến vô cùng tinh tế trong cách dùng từ và cảm nhận, lấy cái lăn tăn của sóng "hơi gợn tí" phối cảnh với độ bay xoay xoay "khẽ đưa vèo" của chiếc lá thu. Chữ "vèo" là một nhân tự mà sau này thi sĩ Tản Đà rất khâm phục và tâm đắc. Ông thổ lộ một đời thơ mới có được một câu vừa ý: vèo trông lá rụng đầy sân (cảm thu, tiễn thu). Không dừng lại ở đó, Nguyễn Khuyến còn giúp ta mở rộng tầm mắt hơn ở hai câu luận của bài thơ:
“ Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Bên cạnh ao thu hoài niềm, ngõ trúc lại một lần nữa khắc khoải nỗi niềm của làng quê nơi tác giả, nơi khung cảnh. Một màu xanh bao la của bầu trời xanh, rộng lớn và xanh thẳm, hòa quyện với màu xanh của sóng nước bao trùm không gian nơi đây. Mây lặng lẽ trôi trên bầu trời bao la như nhấn mạnh thêm sự bao la của không gian nơi đây. Thoáng mát, yên tĩnh, êm đềm và mềm mại. Đường làng qua các ngõ không một bóng người qua lại: Ngõ trúc quanh co vắng vẻ không bóng người. "Vắng teo" là một tính từ giản dị, gần gũi, đời thường tưởng chừng vô vị nhưng lại được biến hóa khôn lường trong thơ của Nguyễn Khuyến. Nó gợi cho người ta cái yên lặng vô cùng của cảnh vật, lại cũng gợi sự cô đơn, trống trải của lòng người. Ngõ trúc trong thơ Tam Nguyên Yên Đổ luôn gợi lên một nỗi niềm da diết, không thể chối từ về tình quê:
Dặm thế, ngõ đâu từng trúc ấy
Thuyền ai khách đợi bến đâu đây?
(Nhớ núi Đọi)
Trong thơ về tình làng quên, có lẽ người đọc sẽ nhận ra một trong những sự vật quen thuộc với hình ảnh làng quê đó là ngõ trúc và tầng mây. Đây là nhưng sự vật từng xuất hiện rất nhiều trong các tác phẩm văn thơ nghệ thuật. Có vẻ như tác giả đang tự hòa mình và đắm chìm vào trong cảnh sắc nơi đây nên mới có thể miêu tả một cách vô cùng chân thực được như vậy. Đến hai câu kết thì bức tranh thu mới xuất hiện một đối tượng khác:
“ Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Thu điếu nghĩa là câu cá vào mùa thu. Sáu câu đầu chỉ có cảnh sắc: ao thu, thuyền câu, sóng biếc, lá vàng, tầng mây, ngõ trúc … Hình ảnh người câu cá đến tận đoạn cuối cùng mới hiện lên với tư thế tựa vào chiếc gối, trấn tĩnh và nhàn nhã. Đợi một lúc lâu, tác giả chợt tỉnh giấc khi nghe tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo. Sự chờ đợi bấy lâu nay đã được đền đáp phần nào. Người câu cá dường như thờ ơ với mọi phiền nhiễu, chỉ tập trung hòa mình vào cảnh sắc mùa thu, bỗng chợt tỉnh giấc mộng của mình để quay về hiện thực. Nhưng không! Nguyễn Khuyến đâu có còn chờ thời. Khi thả hồn ngồi chờ câ cá, nhà thờ đã chỉ muốn hòa mình vào thiên cảm nhận được hết không khí ở chính nơi thôn quê mình đang sinh sống. Có thể thấy, toàn bộ hình tượng thơ “Thu điếu” đã sửa soạn cho thái độ này.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, dộng) miêu tả một chút xao động trong làn ao và rất nhiều xao động trong lòng thật là tài tình khiến cho người khác phải ngã mũ thán phục. Kết hợp nghệ thuật lấy động tả tĩnh như khiến mạch suy nghĩ của nhân vật lại càng thêm khắc khoải vì luyến tiếc. Ngụ ý của câu thơ muốn ta hiểu được cái cảm giác nao nòng của người câu cá khi đi câu mà lòng lại xao xuyến không nguôi vì cảnh vật. Người đọc liên tưởng đến một Lã Vọng câu cá chờ thời bên bờ sông Vị cách đây mấy nghìn năm. Sau tiếng lá thu chỉ còn một tiếng cá đập, đó là tiếng thu của làng cũ. Âm thanh ấy hòa với âm thanh trong không trung, như đưa hồn ta về với mùa thu của quê hương. Người đánh cá sống trong một tâm trạng buồn cô đơn và lặng lẽ. Một cuộc đời thanh bạch, một tâm hồn thanh cao đáng quý.
Thu Điếu là một trong những tác phẩm lớn của tác giả Nguyễn Khuyến. Xuân Diệu từng tâm sự rằng ở bài thơ của Nguyễn Khuyến có một nét xanh tuyệt vời mà miêu tả không thể hiểu hết vẻ đẹp, sự tinh túy. Nào là xanh ao, xanh sóng, xanh trời, xanh trúc, xanh tre, bèo… và chỉ có một màu vàng của những chiếc lá mùa thu "khẽ đưa vèo". Tuy nhiên, ẩn sâu dưới đáy khoảng lặng này lại ẩn chứa một nỗi buồn miên man của tác giả. Tâm hồn thư thái, quý phái gắn bó với mùa thu quê hương, với tình yêu tha thiết. Mỗi nét của mùa thu là một màu thu, âm thanh của mùa thu gợi lên hồn quê tiết trời thu, vần: veo - teo - vo - teo - bèo, tương phản tạo nên sự hài hòa cân đối, giàu sức biểu lộ lại tạo nhạc điệu thơ nhẹ nhàng, trầm bổng. .thể hiện một phong cách nghệ thuật vô cùng điêu luyện và hồn nhiên - thực sự xuất sắc trong các chương. Thu điếu lá xứng đáng là một tác phẩm tả cảnh ngụ tình tiêu biểu xuất sắc trong chương trình ngữ văn lớp 11.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 4)
Được gọi là “Tam Nguyên Yên Đổ”, Nguyễn Khuyến không chỉ là một người tài có công với đất nước, ông còn là một nhà thơ với nhiều tác phẩm bền vững với thời gian. Bài thơ “Thu điếu” là một trong ba bài trong tập thơ thu của ông. Bức tranh mùa thu của làng quê Việt Nam được miêu tả khi thời tiết đã sang thu đầu đông. Ngoài ra, bài thơ cũng là cái nhìn sâu sắc vào hoạt động và tâm trạng của con người về cuộc sống.
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ vĩ đại của văn học Việt Nam, thơ của ông luôn nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng vẫn chứa đựng nhiều giá trị nhân sinh và triết lý sâu sắc. Ông cũng là một người hiền tài, yêu nước và quý trọng nhân dân, sẵn sàng hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích của quốc gia. Thơ của ông thường viết về thiên nhiên, con người và cuộc sống ở làng quê Việt Nam. Dù đã từng làm quan, nhưng khi đất nước rối ren, ông đã trở về quê sống một cuộc sống giản dị, an nhàn nhưng trong lòng vẫn đầy lo âu và suy tư về dân tộc.
Tập thơ thu của Nguyễn Khuyến gồm ba bài thơ “Thu Vịnh”, “Thu Điếu” và “Thu Ẩm”. Trong đó, “Thu Điếu” là một trong những bài nổi bật nhất. Bài thơ này đã mô tả một cách chân thực mà sâu sắc về mùa thu và tình cảm lớn lao của nhà thơ với quê hương. Trong hoàn cảnh ấy, bức tranh thu được vẽ ra là sự lặng lẽ của một thi sĩ tài năng.
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Mở đầu bài thơ, tác giả đã mô tả cho chúng ta khung cảnh nơi mà nhân vật ngồi câu cá, một không gian rộng lớn, có cảm giác như nó càng lớn hơn khi chỉ có một vật thể ở giữa. Mặt nước “trong veo” giống như một tấm gương lớn, phản chiếu lại cảnh vật xung quanh. Khi nhìn xuống, dường như có thể nhìn thấy những sinh vật ở dưới đáy. Tuy nhiên, khung cảnh lớn lẽo ấy lại làm ta cảm nhận được cái lạnh lẽo của không gian.
Tuy nằm giữa không gian lạnh lẽo, nhưng sự sống vẫn tồn tại rực rỡ. Hai câu thơ tiếp theo mô tả sắc màu hòa quyện, tạo nên sự hài hòa của cuộc sống. Màu xanh, dẫn đầu bằng các gam màu như “xanh biếc”, “xanh ngắt”, làm cho không gian trở nên trầm lặng và sâu sắc hơn, nhưng màu vàng của lá cây vẫn nổi bật. Một chấm vàng nhỏ nhưng đủ để làm sáng bừng cả không gian, mang lại cảm giác ấm áp. Phép đối tài tình làm nổi bật vẻ đẹp của mùa thu, nhấn mạnh hai giác quan mà con người cảm nhận được xung quanh. Từ “vèo” như một khám phá tuyệt vời, vừa khiến người đọc kính phục vừa khiến họ cảm động. Không gian mở rộng ra thêm trong hai câu thơ tiếp theo. Bầu trời cao, xanh thẳm là một trong những đặc điểm nổi bật của mùa thu. Mây trắng lười biếng, lơ lửng trôi nổi trên bầu trời trong vắt. Con người không có mặt, khi “khách vắng teo”. Tất cả cùng nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên tuyệt vời. Đây là cảnh quan thường thấy khi mùa thu đến.
Sáu câu thơ đầu tiên mô tả về thiên nhiên làng quê Việt Nam vào mùa thu. Chỉ đến hai câu thơ cuối cùng mới có sự xuất hiện của con người. Nhưng hình ảnh con người cũng thấm đẫm trong không gian. Họ yên bình, hòa mình vào vẻ đẹp của mùa thu. Người câu cá trầm lặng như đang được mênh mông trong mơ màng của mùa thu. Chỉ khi nghe tiếng cá quẫy nước, họ mới tỉnh dậy khỏi giấc mộng. Họ có tâm hồn thanh cao, không bị ảnh hưởng bởi cuộc sống bận rộn. Dường như cô đơn nhưng lại không cô đơn như chúng ta tưởng. Họ thảnh thơi, nhưng trong lòng đang trào dâng những suy tư về cuộc sống.
Bài thơ “Thu Điếu” (hay “Câu cá mùa thu”) là một tác phẩm ấn tượng, nổi bật trong văn học Việt Nam. Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến hay “Thu Điếu” sẽ mãi là một nguồn sáng trên bầu trời văn học nước nhà.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 5)
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ lớn, có đóng góp không nhỏ trong nền văn học trung đại Việt Nam. Ông thường mang vào trang thơ của mình những cảnh sắc đẹp đẽ, bình dị của làng quê yên bình. Thu điếu là một trong những bài thơ đặc sắc nằm trong chùm thơ thu (Thu điếu – Thu vịnh – Thu ẩm) của Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một bức tranh thiên nhiên mùa thu vắng lặng, lạnh lẽo và đượm buồn, đồng thời cũng thể hiện tình yêu thiên nhiên trong tâm hồn người thi sĩ.
Mở đầu bài thơ, nhà thơ đã giới thiệu khái quát không gian, địa điểm thân thuộc và yên tĩnh của một buổi câu cá mùa thu:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẹo teo”
Hình ảnh “ao thu” đặc trưng của làng quê Việt Nam bước vào trang thơ Nguyễn Khuyến thật chân thực. Mở ra trước mắt người đọc là cái ao mùa thu vùng chiêm trũng đất Bắc. Nhà thơ dùng tính từ “trong veo” để miêu tả “ao thu” ấy, trong veo chỉ sự trong vắt, trong đến mức mà người ta có thể nhìn xuống tận đáy hồ. Có lẽ, thời điểm này không còn là thời điểm chớm thu nữa mà là thời điểm giữa mùa thu hoặc cuối thu nên mới “lạnh lẽo” đến thế, chứ không se lạnh hay lành lạnh. Câu thơ gợi ra một khung cảnh với ao thu trong veo, trong vắt, tĩnh lặng nhưng lại lạnh lẽo, quạnh hiu. Giữa khung cảnh của một ao thu rộng và lạnh lẽo ấy lại xuất hiện thêm một chiếc thuyền nhỏ, càng làm cho không gian trở nên lạnh lẽo. Giữa cái rộng của ao thu đối lập với chiếc thuyền câu đã bé lại còn “bé tẹo teo” khiến cho hình ảnh chiếc thuyền trở nên nhỏ bé hơn, cô đơn hơn. Hai câu thơ mở đầu đều được nhà thơ gieo vần “eo” khiến không gian câu cá mùa thu trở nên lạnh lẽo mang một chút buồn.
Nếu như hai câu thơ đầu, nhà thơ giới thiệu cảnh sắc buổi câu cá mùa thu thật tĩnh lặng, thì ở những câu thơ tiếp theo, cảnh sắc mùa thu lần lượt hiện lên sống động hơn:
“Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Câu thơ bắt đầu xuất hiện sự chuyển động của vạn vật mùa thu, dù sự lay động ấy chỉ nhẹ nhàng, khe khẽ. Người thi sĩ vẽ lên những hình ảnh “sóng biếc” chỉ “hơi gợn tí” còn “lá vàng” cũng chỉ “khẽ đưa vèo”. Hai từ “hơi” và “khẽ” thể hiện sự chuyển động rất nhẹ nhàng trong cảnh sắc mùa thu. Hẳn là thi nhân Nguyễn Khuyến phải tinh tế lắm mới nhận ra sự khe khẽ đó của thiên nhiên. Hình ảnh “sóng biếc” gợi cho người đọc một màu xanh biếc trên mặt ao trong, một màu xanh rất đẹp mắt và có sắc thái biểu cảm. Không chỉ có sóng biếc mà “lá vàng” cũng được đưa vào thơ Nguyễn Khuyến một cách tinh tế. Người ta thường nói mùa thu là mùa thay lá, mùa lá vàng và rụng xuống. Bởi thế mà lá vàng đã từng bước vào rất nhiều trang thơ thu. Trong thơ về mùa thu, Lưu Trọng Lư có viết:
“Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô”
Nhà thơ tiếp tục miên man tả cảnh sắc mùa thu êm đềm khi hướng tầm mắt ra xa hơn với bầu trời thu:
“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo”
Đọc câu thơ, người đọc hình dung ra một bầu trời mùa thu cao vời vợi. Bởi lẽ một bầu trời cao trong vời vợi mới có một màu xanh ngắt. Nếu bên dưới ao thu được điểm tô là màu “biếc” của sóng thu, màu vàng của “lá” thu, thì ở ý thơ này lại là một màu “xanh ngắt” bao la, ngút ngàn. Và trên bầu trời thu ấy là những “tầng mây” đang “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả trạng thái dùng dằng, có trôi nhưng lại rất khẽ, rất thờ ơ của những đám mây. Dường như mùa thu cả không gian đất trời, cảnh sắc đều như trôi chậm lại. Nhà thơ trở lại với cảnh vật bên dưới, phía xa xa của những con ngõ nhỏ. Hình ảnh “ngõ trúc” hiện lên thật hoang vắng. Từ láy “quanh co” cùng “vắng teo” thể hiện một con ngõ ngoằn nghoèo, quanh co và không một bóng khách, gợi sự cô đơn, heo hút, man mác buồn.
Trước khung cảnh tĩnh lặng, quạnh quẽ và lạnh lẽo của mùa thu, nhà thơ trở lại với buổi câu cá mùa thu:
“Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo”
Xung quanh cái u buồn, vắng lặng của mùa thu, thi sĩ trở lại tập trung câu cá để khiến tâm hồn thêm thư thái. Hình ảnh “tựa gối” chỉ sự chăm chú nhưng đầy nghĩ suy thật lâu trước cảnh sắc đượm buồn mùa thu. Miên man trong những dòng cảm xúc buồn, cô đơn ấy nên khiến nhà thơ giật mình khi có chú cá nhỏ “đớp động dưới chân bèo”. Câu thơ cho thấy tậm trạng suy tư của nhà thơ, cảm giác buồn, một nỗi buồn xa vắng. Nhà thơ sáng tác bài thơ này khi ông về ở ẩn nơi thôn quê. Nếu đặt vào hoàn cảnh sáng tác bài thơ, người đọc càng hiểu hơn cái tình trong Thu điếu. Bởi bài thơ còn chất chứa cả một nỗi buồn thời thế, nhà thơ buồn cho thời buổi loạn lạc, lầm than lúc bấy giờ nhưng có ai để sẻ chia, giãi bày.
Thu điếu là một bài thơ đặc sắc của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Bài thơ là một trong những tác phẩm tiêu biểu khi viết về mùa thu. Đọc bài thơ người đọc ấn tượng bởi cảnh sắc mùa thu đẹp và tĩnh lặng cùng tình yêu thiên nhiên của Nguyễn Khuyến, đồng thời cũng cho thấy những nỗi niềm thời đại, tình yêu nước thương dân dạt dào trong trái tim thi sĩ.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 6)
Mùa thu là đề tài quen thuộc của thơ ca Việt Nam. Thơ thu của văn học trung đại thường miêu tả cảnh đẹp vắng vẻ úa tàn và u buồn. Cảnh thu được ghi lại một cách ước lệ tượng trưng với những nét chấm phá, chớp lấy cái hồn của tạo vật. Thu điếu của Nguyễn Khuyến cũng mang nét thư pháp ấy. Khi vị Tam Nguyên Yên Đổ được coi là quán quân về thơ thu, thì chùm ba bài Thu vịnh, Thu điếu, Thu ẩm được đánh giá là tam tuyệt của thơ thu Việt nam. Trong đó đặc sắc nhất có lẽ là bài Thu điếu. Nhận xét về bài thơ này, Xuân Diệu có viết: “ Bài Thu vịnh là có hồn hơn hết, nhưng ta vẫn phải công nhận bài Thu điếu là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam”. Không phải là Thu vịnh với không gian mênh mông bát ngát, mà là một Thu điếu được “gói gọn” trong một chiếc ao thu – ao chuôm đặc trưng vùng chiêm trũng Bắc Bộ – quê hương của cụ Tam Nguyên. Đằng sau cảnh thu vắng lặng là những nỗi niềm thầm kín của vị cao nhân:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo.
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió sẽ đưa vèo.
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt,
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Thu điếu cũng như Thu vịnh, Thu ẩm chỉ có thể được Nguyễn Khuyến viết vào thời gian sau khi ông đã từ quan về sống ở quê nhà. Thu điếu là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc. Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp luôn gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Bối cảnh của toàn bài dường như được hiện hữu trong hai câu đầu. Khung cảnh trong bức tranh được bao trùm bởi cái lạnh lẽo của mùa thu và sự cô đơn trong lòng thi sĩ:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Ấn tượng đầu tiên của người đọc với bài thơ, chắc hẳn là cách gieo vần “eo” đặc sắc, tinh tế và có chút mạo hiểm. Hai câu thơ trên thể hiện sự co lại, đọng lại cho ta cảm giác lạnh lẽo bao trùm toàn cảnh cùng sự yên tĩnh, lẻ loi. Sách Gia Ngữ nói: “Thuỷ chí thanh tác vô ngư” nghĩa là nước trong quá thì không có cá. Ấy thế mà, Nguyễn Khuyến lại nhè đúng lúc “nước trong veo” để mà ngồi thuyền đi câu. Vậy, đặt tựa bài thơ là Câu cá mùa thu âu chẳng phải là làm một việc dường như không thể. Hay điều này thể hiện cái tình cảnh ngặt nghèo của nhà thơ? Nhà Nho Nguyễn Khuyến đỗ đạt bậc nhất thời đó, làm quan to nhưng trước cảnh nước nhà nhiều biến động, ông đã phải từ quan về quê dạy học. Vua quan bạc nhược, chỉ biết theo Pháp cầu an, kẻ sĩ đã thấy rõ, cái hoài bão giúp dân giúp nước thật quá khó khăn, chẳng khác gì “câu cá nước trong” được đề ngay từ câu đầu vậy. Sự so sánh vô lí giữa con thuyền với cái ao chẳng phải là thân phận của Nguyễn Khuyến đối với thời thế thiên nan vạn nan đang trùm lên ông? Câu thơ được chọn lọc từ ngữ, gieo vần bình dị, thân mật mang tính gợi cảm cao và hàm ý sâu sắc, ắt hẳn cụ Tam Nguyên phải là một người có tầm nhìn sâu rộng và lòng yêu quê hương vô bờ bến mới lột tả được cảnh vật từ tâm đến diện.
Xuân Diệu: “Cái thú của bài Thu điếu ở cái điệu xanh: xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh trúc, xanh tròi, xanh bèo”. Không chỉ xanh, ở hai câu thực bức tranh thiên nhiên ấy còn được tô một nét vàng:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước ngõ khẽ đưa vèo
Mùa thu tiếp tục được hiện lên với hình ảnh “sóng biếc”, “lá vàng”. Cảnh vật động một cách khẽ khàng. Tác giả đã rất nhạy cảm, tinh tế khi chớp được những biến động tinh vi của tạo vật. Đó là sự chuyển động “hơi gợn tí” của sóng, là sự đưa nhẹ khẽ khàng của lá vàng, là sự mong manh uốn lượn của hơi nước mờ ảo trên mặt ao. Hai câu thơ đối nhau rất chỉnh, các sự vật có mối liên hệ với nhau chặt chẽ: gió thổi làm sóng gợn, làm lá rơi. Các tính từ, trạng từ “biếc”, “tí”, “vàng”, “khẽ”, “vèo” được sử dụng hợp lí, giàu tạo hình, vừa tạo ra bức tranh thanh nhã vừa có xanh vừa có vàng, vừa gợi được sự uyển chuyển của tạo vật. Nghệ thuật đặc sắc lấy động tả tĩnh của tác giả đã khiến cái tình nay càng tĩnh hơn. Cái tĩnh nó nhẹ đến vô hình, vị thi sĩ này quả là một người có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống sâu sắc thì mới có thể cảm nhận được sự im lặng đến thế.
Như trên đã nói, mở đầu bài thơ tác giả sử dụng vần “eo” nhưng khung cảnh lại không bị giới hạn mà đã mở rộng theo chiều cao, tạo nên sự khoáng đạt, rộng rãi cho cảnh vật:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Bầu trời xanh ngắt xưa nay vẫn là biểu tượng đẹp của mùa thu. Chiều cao được cụ thể bằng sự “lơ lửng” của tầng mây và thăm thẳm của da trời xanh ngắt. Màu da trời mùa thu dường như ám ảnh sâu đậm trong lòng Nguyễn Khuyến nên trong các bài thơ thu, ông thường nhắc tới: “Trời thu xanh ngắt mấy từng cao” – Thu vịnh hay “Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt” – Thu ẩm. Bởi vậy, màu xanh ngắt của da trời không chỉ đơn thuần là một màu sắc mà có lẽ đó còn chính là tâm trạng nhiều ẩn ức, là chiều sâu tâm hồn đầy trăn trở của thi nhân. Trước đây, Nguyễn Du đã từng viết về mùa thu với:
Long lanh đáy nước in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Ngay Nguyễn Khuyến cũng thế. Mở ra không gian riêng, cảm hứng Nguyễn Khuyến trở về với khung cảnh làng quê quen thuộc, cũng vẫn hình ảnh cây tre, cây trúc; vẫn bầu trời ngày nào cùng ngõ xóm quanh co…, tất cả đều thân thương đượm màu làng cảnh Bắc Bộ. nếu như chiều cao được đo bằng trời thì chiều sâu ắt là độ “quanh co” uốn lượn của ngõ trúc. Từ “vắng teo” cho thấy sự vắng lặng không một bóng người, không chút động tĩnh, âm thanh. Bởi thế, hai câu thơ gợi ra sự trống vắng, nỗi cô đơn trong lòng người.
Xuyên suốt sáu câu thơ đầu, tác giả cho ta thấy bức tranh mùa thu với điểm nhìn từ gần đến cao xa, từ cao xa trở về gần gụi. Bức vẽ mang màu sắc xanh thẳm, buồn bã, cô đơn và đầy tâm sự của thi sĩ. Chung quay lại, không gian thu cũng chính là không gian của tâm trạng: cõi lòng nhà thơ yên tĩnh, vắng lặng. mọi tâm tư, giãi bàu được dồn nén vào hai câu kết:
Tựa gối ôm cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Hình ảnh con người xuất hiện với tư thế ngồi ôm gối, trong trạng thái trầm tư mặc tưởng. Nhà thơ ngồi câu cá nhưng chẳng hề chú tâm đến việc câu, bởi vậy mới giật mình trước tiếng cá “đớp động dưới chân bèo”. Không gian phải yên tĩnh lắm, lòng người phải trong trẻo lắm mới nghe được âm thanh nhỏ nhẹ như vậy. Nói chuyện câu cá nhưng thực tế là để đón nhận cảnh thu, trời thu vào cõi lòng. Một tâm thế nhẫn: “tựa gối ôm cần”; một sự chờ đợi: “lâu chẳng được”; một cái chợt tỉnh mơ hồ: “cá đâu đớp động”. Nhà thơ mượn cảnh để tả tình. Câu cá chỉ là cái cớ để tìm sự thư thái trong tâm hồn. Âu cũng là cái sự vì nước vì dân. Đất nước ta đẹp thế, ấy vậy mà nhân dân lầm than. Cái hoài bão giúp dân từ đó mà mỗi ngày đều thêm khó khăn, và cũng tạo ra trong lòng cụ Tam Nguyên một rào cản; tạo sự buồn tẻ, cô đơn. Lòng người quạnh hiu chẳng cớ nào cảnh lại nhộn nhịp, vui tươi:
Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.
Thu điếu không chỉ đơn giản là một bài thơ thu. Từng câu chữ được nảy nở từ cảm nhận của các giác quan của vị thi nhân tài tình, lột tả được bức tranh thiên nhiên làng quê tươi đẹp của Việt Nam. Ai mà biết được quê hương mình đẹp và bình dị đến thế? Càng đọc, càng thấy được lòng yêu nước đang trào dâng. Từ đó, trong ta càng trỗi dậy mạnh mẽ hơn với cái ham muốn bảo vệ và phát triển đất nước này.
Không chỉ thế, Thu điếu còn để lại trong ta bài học quý giá bao đời nay. Lòng tự tôn dân tộc không cho phép ta đầu hàng trước kẻ địch. Hãy như cụ Tam nguyên, không ham hư vinh cái chốn quan trường mục nát mà ở lại làm quan; hay bán rẻ lương tâm, bán rẻ đồng bào vì một vài chức vụ, chỉ hận bản thân chưa làm được gì cho đất nước, cho Tổ quốc. Dù chỉ một chút, mong rằng bản thân con và toàn thể các thanh thiếu niên được sống trong hòa bình hiện nay sẽ ngày một cố gắng xây dựng đất nước.
Tất cả các tác phẩm trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến, có thể nói là vô cùng tuyệt vời. Tuy nhiên, nếu để chọn một bài thơ tâm đắc nhất thì chắc chắn đó là Thu điếu. Tác phẩm này có thể coi là kiệt tác trong nền văn học cổ điển nước nhà. Bài thơ như vẽ ra một bức tranh mùa thu ở trước mắt tôi vô cùng chân thực. Nhạc điệu độc đáo, cách gieo vần có phần mạo hiểm mà tự nhiên, không bị gò bó. Theo Xuân Diệu, Nguyễn Khuyến quả thực là một nghệ sĩ cao tay. Cái tình của nhà thơ đi đôi với cái tài. Với một tình yêu quê hương, đất nước và con người Việt Nam, từng câu từng chữ mà tác giả nhắc đến đều tạo ra những cảm xúc trong tâm hồn rất Việt của chúng ta. Cụ Tam Nguyên quả đúng là một nhà thơ của làng quê Việt Nam bình dị và gần gũi.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 7)
Đi câu là một sở thích cao cả của những người hiểu biết. Có những người đi câu để chờ đợi thời cơ, nhưng cũng có những người đi câu để thảnh thơi. Người ta có thể ngồi bên bờ suy nghĩ về thế giới bên ngoài, nhưng có thể cũng có người đang hòa mình vào tự nhiên, thưởng ngoạn cảnh vật xung quanh. Nguyễn Khuyến câu cá theo cách này. Ông dùng tất cả các giác quan để cảm nhận mùa thu, cũng là mùa câu cá ở miền Bắc. Như những đứa trẻ trong làng, ông câu cá với sự tập trung và sự say mê. Kết quả là ông đã sáng tác ra bài thơ “Thu Điếu”, một kiệt tác trong văn học Việt Nam:
Trên mặt ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu nhỏ bé nhẹ nhàng.
Sóng biếc theo làn hơi gợn nhẹ,
Lá vàng trước gió nhẹ nhàng lay đưa.
Tầng mây trôi lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt.
Cánh trúc xung quanh cong vòng, khách vắng teo.
Tựa gối, ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Hình ảnh mùa thu trong bài thơ được tái hiện với không gian hẹp của làng quê, trong chiếc thuyền câu nhỏ bé nhẹ nhàng trên mặt ao:
Trên mặt ao thu lạnh lẽo, nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu nhỏ bé nhẹ nhàng.
Cái tôi trữ tình ẩn sau những từ ngữ. Tác giả tinh tế mô tả cảm giác của thi nhân trong mùa thu sâu đậm. Chiếc thuyền câu trôi nhẹ nhàng trên mặt ao nhỏ, vừa bé tẻo teo, như một vẻ đẹp tự nhiên không cần sự tinh chỉnh.
Mặc dù thuyền câu đã hiện hữu, nhưng người câu vẫn chưa xuất hiện. Họ mê mải với vẻ đẹp của mùa thu, không cần phải nhớ hoặc suy nghĩ về bất cứ điều gì:
Sóng nhỏ biếc theo làn hơi gợn nhẹ,
Lá vàng, trước gió nhẹ nhàng lay đưa.
Ao thu không còn im lặng như trước mà giờ đây nổi sóng với hình ảnh của sóng nhỏ biếc theo làn hơi gợn nhẹ. Mùa thu mang đến cảm giác nhẹ nhàng, êm đềm với gió nhẹ nhàng. Sóng nhỏ, màu biếc cùng lá vàng đều tạo nên bức tranh mùa thu tuyệt vời. Những chi tiết nhỏ nhặt này thể hiện sự tinh tế và tài nghệ của tác giả.
Lá vàng trước gió nhẹ nhàng lay đưa.
Nhà thơ đã tận hưởng hình ảnh của chiếc lá vàng 'khẽ đưa vèo' trên mặt ao trong veo, biểu hiện cho vẻ đẹp của mùa thu mà nhiều người đã ca ngợi:
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô
(Lưu Trọng Lư)
Vàng rơi! Thu vàng rơi!
(Bích Khê)
Và đây là chiếc lá vàng của Nguyễn Khuyến trong bài thơ “Thu điếu” dưới ánh mắt của Xuân Diệu: “Cái thú vị của bài Thu Điếu ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi...”. Lời bình của Xuân Diệu thật là tâm đắc.
Nhà thơ mở không gian lên chiều cao tạo nên không khí khoáng đạt và không gian được mở rộng nên bức tranh 'Thu điếu” thêm đường nét, thêm màu sắc:
Tầng mây trôi lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt,
Con đường quanh co ven làng vắng vẻ teo tóp.
Màu xanh ngắt của bầu trời thật đẹp và sâu lắng. Mây trắng lơ lửng trên không trung xanh ngắt tạo nên không gian thanh bình. Còn đường quanh co ven làng, bóng trúc mát rượi, nhưng vắng vẻ, teo tóp với khách qua lại ít ỏi. Hình ảnh này tạo nên bức tranh thu đầy buồn bã. Sau Nguyễn Khuyến, nhà thơ lãng mạn Xuân Diệu cũng viết:
Đã nghe rét mướt xâm nhập trong cơn gió
Đã vắng bóng người sang những chuyến đò
(Thu đã về)
Bài thơ kết thúc với hình ảnh của người đi câu như một nét tự họa:
Tựa gối, ôm cần mãi chẳng thành,
Cá chẳng động dậy dưới bèo nước.
Nhà thơ khuấy động mình, “tựa gối, ôm cần”, nhưng cá không hề lộn xộn dưới đáy ao. Tưởng như người đi câu sẽ làm cho cảnh tượng sống dậy, nhưng không, chỉ có sự yên bình của nước ao.
Cá chẳng động dậy dưới bèo nước.
Ba chữ “đ” (đâu, đớp, động) tạo ra một sự xao lãng trong không gian ao hồ và nhiều xao lãng trong lòng thơ mộng.
Có người nói cách thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với Khương Tử Nha và họ khen ngợi cả hai. Không! Nguyễn Khuyến không đợi đến lúc thích hợp. Ông chỉ muốn hòa mình vào tự nhiên, vào cảnh đẹp của non sông. Toàn bộ bức tranh thơ “Thu điếu” đã chứng minh điều này. Khung cảnh hẹp, ao nhỏ, chiếc thuyền “bé tẻo teo”. Nhà thơ tựa gối, ôm cần, hòa hợp với thiên nhiên, tan hòa với dòng nước. Vậy thì làm sao thái độ đi câu của Nguyễn Khuyến giống với thái độ của Khương Tử Nha được? Sự đồng tình là điều tôi gìn giữ. Tôi đồng ý với Nguyễn Khuyến.
Trong tập thơ về mùa thu của Nguyễn Khuyến, nếu phải chọn một bài thơ, thì bài “Thu điếu” là ưu tiên hàng đầu. Được biết đến như một kiệt tác trong thơ cổ điển của Việt Nam, bài thơ “Thu điếu” đã vẽ lên bức tranh mùa thu một cách tinh tế, gợi cảm. Bản nhạc của nó cũng độc đáo, với những vần điệu tự nhiên, hồn nhiên. Theo nhận định của Xuân Diệu, không có một chữ nào bị lỗi thời trong bài thơ. Điều này chứng tỏ sự tài năng của người nghệ sĩ. Tình cảm của nhà thơ đối với quê hương, với vẻ đẹp của tự nhiên, thấm đẫm trong từng chữ từng câu, làm lay động mọi tâm hồn Việt Nam.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 8)
Cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, tưởng chừng như cùng với sự kết thúc của chế độ xã hội phong kiến suy tàn, lạc hậu, nền văn học Việt Nam trung đại sẽ rơi vào ngõ cụt của sự bế tắc với một phương thức phản ánh đã lỗi thời. Nhưng thật kì lạ là trong sự suy thoái tưởng chừng đã đến đỉnh điểm ấy lại xuất hiện một tài năng thơ ca vào hàng xuất chúng như Nguyễn Khuyến. Ông giống như một dấu cảm thán khẳng định tính cổ điển có sức lay động lòng người của văn học trung đại vào giai đoạn cuối cùng của thời kì văn học dài hàng chục thế kỉ này. Ông để lại cho quê hương, cho đất nước một di sản văn chương phong phú, đồ sộ. Nhưng nói đến nhà thơ Nguyễn Khuyến, người đọc mệnh danh ông là nhà thơ của quê hương làng cảnh Việt Nam, vì ông đã viết nhiều bài thơ hay về cảnh làng quê. Đặc biệt là chùm thơ thu của ông, trong đó có bài thơ Thu điếu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Tựa gối buông cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Chùm thơ ba bài Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dạt dào. Riêng Thu điếu, mà nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam, là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.
Bài thơ được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng là biểu cảm. Cảnh thu, trời thu của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngòi bút thần tình của Nguyễn Khuyến.
Hai câu đầu:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
Nhà thơ hầu như không hứng thú gì với chuyện câu cá mà đắm say với không khí cảnh sắc mùa thu, ngay câu đầu nhà thơ đã gọi cái ao của mình là ao thu, và với tính chất lạnh lẽo nước trong veo thì đó đúng là ao thu chứ không phải là môi trường thích hợp cho việc câu cá, bên cạnh đó cảm hứng của nhà thơ hoàn toàn đắm chìm trong cảnh sắc mùa thu, một cảnh trong và tĩnh gần như tuyệt đối, nước trong veo, trời xanh ngắt, khách vắng teo, giác quan của nhà thơ cực kì tinh nhậy và phải hết sức chăm chú thì mới nhận ra được những biểu hiện nhỏ nhặt tinh vi chỉ làm tôn thêm cho cái trong và tĩnh của một khung cảnh đầy màu sắc:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo.
Màu biếc của sóng hòa hợp với sắc vàng của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật trong phần thực rất điêu luyện, lá vàng với sóng biếc, tốc độ vèo của lá bay tương ứng với mức độ tí của gợn sóng. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được câu thơ vừa ý trong bài Cảm thu, tiễn thu:
Vèo trông lá rụng đầy sân
Đến câu luận:
Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo.
Không gian được mở rộng, bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời xanh ngắt với những tầng mây lơ lửng trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là xanh ngắt. Ở Thu vịnh là "Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao", Thu ẩm là "Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt", và Thu điếu là "Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt."
Xanh ngắt là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (xám) mà xanh ngắt, thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Xóm thôn vắng lặng, tĩnh mịch, con đường quanh co, heo hút, không một bóng người qua lại.
Ngõ trúc quanh co khách vắng teo
Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng thu. Tất cả cảnh vật, từ mặt nước, "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tí teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ "tầng mây lơ lửng" đến "ngõ trúc"... đều hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh thoáng chút bâng khuâng, man mác, rất gần gũi, thân thiết với mọi người Việt Nam.
Biết bao thời gian trôi qua trong không gian của sáng tĩnh mịch ấy, tư thế ngồi câu cá của ông như cũng bất động trong thời gian:
Tựa gối buông cần lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo
Tựa gối buông cần là tư thế đợi chờ mòn mỏi của người câu cá. Người xưa có kẻ lấy câu cá làm việc đợi thời, đợi người xứng đáng để phò tá. Văn thơ truyền thống lấy việc câu cá để từ chối việc làm quan và coi câu cá là việc câu người, câu quạnh, câu lưỡi. Bài thơ Thu điếu này cũng thể hiện khát vọng câu thanh, câu vắng cho tâm hồn của một nhà thơ có phẩm chất thanh cao.
Cái âm thanh cá đớp động gợi lên sự mơ hồ xa vắng, đánh thức tỉnh.
Bài thơ Câu cá mùa thu là một bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, nét vẽ xa gần tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa vèo trong làn gió thu, tiếng cá đớp động chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.
Thơ là sự cách điệu tâm hồn, Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình đồng quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh, chúng ta thêm yêu quê hương, thêm yêu xóm thôn, đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 9)
Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng với phong cách riêng biệt, đặc trưng. Trong số các tác phẩm tiêu biểu, bài thơ Câu cá mùa thu là một ví dụ điển hình cho phong cách thơ của ông.
Bài thơ mở đầu với hình ảnh thiên nhiên gần gũi với làng quê:
“Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo”
“Ao” là biểu tượng thân thuộc của người nông dân, gợi nhớ đến mùa thu với làn nước mát lạnh và trong veo. Trong cảnh mùa thu, ao nước xanh mướt với làn nước trong veo là nơi chiếc thuyền câu của thi sĩ xuất hiện, nhỏ bé giữa không gian rộng lớn, trở nên “bé tẻo teo”. Khung cảnh thiên nhiên, bức tranh mùa thu trở nên tuyệt đẹp và độc đáo.
Bức tranh mùa thu ở làng quê được tái hiện qua các cảnh vật thân quen khác:
“Sóng nước theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo”
Làn gió nhẹ nhàng làm sóng nước nhỏ gợn gợn, tạo nên cảnh vật tĩnh lặng nhưng sống động. Tiếng sóng nhỏ rì rào gợi lên cảm giác bình yên. Hình ảnh chiếc lá vàng rơi từ cây xuống đất được mô tả một cách tinh tế, với sự mảnh mai và yếu đuối của chiếc lá bị gió thổi đi, đồng thời gợi lên âm thanh mùa thu dịu dàng, tiếng lá rơi.
Bầu trời mùa thu mang lại vẻ đẹp thanh bình:
'Tầng mây trôi lơ lửng trên bầu trời xanh ngắt
Con đường quanh co ven bờ trúc vắng teo'
Bầu trời mùa thu được phủ lên bởi những đám mây nhẹ nhàng trôi dạt, tạo ra một không gian trời xanh ngắt dịu dàng. Xung quanh, con ngõ quanh co ven bờ trúc mát mẻ nhưng lại hoàn toàn vắng vẻ, tạo nên một cảm giác yên bình đặc biệt.
Trong bức tranh mùa thu thanh bình đó, người thi sĩ hiện lên với hình ảnh tự do và ung dung:
'Nằm nghỉ với cần câu trong tay lâu không đượt
Cá ở đâu mà không đớp động dưới bèo'
Trong bức tranh tự nhiên của mùa thu, người thi sĩ được miêu tả là thảnh thơi nằm ngả, cầm cần câu mà không gặp được cá nào cắn câu. Hình ảnh của đàn cá đang đớp động dưới chân bèo tạo ra một cảm giác thú vị. Mặc dù thường xuyên nhìn thấy cá và nghe thấy tiếng động của chúng, nhưng người thi sĩ không thể bắt được chúng. Bức tranh mùa thu với cảnh quan làng quê Việt Nam rất giản dị nhưng cũng vô cùng đẹp đẽ. Trong bức tranh tự nhiên đó, hình ảnh con người đang tận hưởng cuộc sống một cách tự do và thong dong được nêu bật lên.
Vần “eo” thường được cho là mang điềm xấu, nhưng Nhà thơ Nguyễn Khuyến đã làm mới vần này, tạo ra một bài thơ sáng tạo, độc đáo, mang lại niềm vui cho người đọc.
Phân tích bài thơ Thu Điếu (mẫu 10)
Nguyễn Khuyến là một nhà thơ lớn của nền văn học trung đại Việt Nam. Ông là người học rộng, tài cao, đỗ đầu cả ba kì thi (Thi Hương, thi Hội, thi Đình) nên được người đời tôn trọng gọi bằng tên Tam nguyên Yên Đổ. Tuy tài cao, hiểu rộng nhưng Nguyễn Khuyến chỉ làm quan có mười năm rồi cáo quan, về quê ở ẩn. Chính vì vậy, ông gắn bó rất sâu nặng với làng quê đồng bằng Bắc Bộ và thường viết về những sự vật bình dị, gần gũi ở quê hương. “Câu cá mùa thu” chính là bài thơ tiêu biểu cho hồn thơ Nguyễn Khuyến viết về đề tài mùa thu. Bài thơ đã làm nổi khung cảnh mùa thu ở làng quê và qua đó nói lên tâm sự thời thế của tác giả.
“Câu cá mùa thu” nằm trong chùm thơ có đề tài về mùa thu gồm ba bài thơ nức tiếng: Thu điếu, Thu ẩm, Thu vịnh được sáng tác khi Nguyễn Khuyến đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà. Tác phẩm được viết bằng chữ Nôm theo thể thất ngôn bát cú Đường luật với bố cục bốn phần: đề, thực, luận, kết.
Bài thơ mở đầu bằng một không gian quen thuộc chốn làng quê – một chiếc ao thu và một chiếc thuyền câu nhỏ bé:
Ao thu lạnh lẽo nước trong veo
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo
“Ao thu”, “thuyền câu” – một hình ảnh quá đỗi thân thuộc với người dân vùng đồng bằng chiêm trũng Bắc Bộ. Ao là một không gian nhỏ hẹp, vì thế mà sự xuất hiện của chiếc thuyền “bé tẻo teo” đã trở nên hài hòa, cân xứng. Chiếc ao nhỏ hẹp nên con thuyền cũng phải nhỏ bé theo. Nhà thơ đã đặc tả đặc điểm của ao thu đó là làn nước “trong veo”. Trong veo là rất trong, rất tĩnh lặng và có thể nhìn đến cả tận đáy. Và có lẽ, đã vào cuối thu nên không khí ao thu đã nhuốm hơi thở của tiết trời mùa đông và trở nên “lạnh lẽo”. Từ láy “lạnh lẽo” vừa gợi ra tiết trời se lạnh lại vừa diễn tả tĩnh lặng của không gian. Cảnh thu thật đẹp, thật trong trẻo, êm đềm. Tác giả rất tinh tế khi sử dụng tới bốn vần “eo” trong hai câu thơ, nó không chỉ có tác dụng miêu tả không khí lạnh lẽo, không gian eo hẹp rất đặc trưng của vùng chiêm trũng Bắc Bộ mà còn gợi ra cảm giác buồn bã, cô đơn trong lòng người.
Sang đến hai câu thực, bức tranh thu tiếp tục được khắc họa qua những nét vẽ cụ thể hơn, sắc nét hơn:
Sóng biếc theo làn hơi gợn tí
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo
Tác giả đã vận dụng rất tài tình nghệ thuật lấy động tả tĩnh. Tả cái động “hơi gợn tí” của sóng, “khẽ đưa vèo” của lá để tô đậm cái sự tĩnh lặng của mùa thu làng quê Việt Nam xưa. Bởi vì không gian có tĩnh lặng thì người ta mới nghe được những âm thanh rất nhỏ, rất khẽ ấy. Không chỉ miêu tả cái tĩnh, hai câu thơ còn tiếp tục làm nổi bật vẻ đẹp trong trẻo, nên thơ của mùa thu. Điểm xuyết vào giữa bức tranh thu tĩnh lặng ấy là màu vàng của chiếc lá thu rơi – một màu sắc rất đặc trưng cho mùa thu. Tuy nhiên, Nguyễn Khuyến không lấy màu vàng làm gam màu chủ đạo mà điểm xuyết, len lỏi giữa màu xanh của trời, của nước, của ngõ trúc mà thôi. Chữ “vèo” được tác giả sử dụng thật tinh tế, diễn tả trạng thái rất nhanh và dứt khoát. Chỉ cần một làn gió nhẹ, chiếc lá vàng đã nhanh chóng đánh “vèo” xuống mặt ao, rơi khỏi cành mà không hề lưu luyến. Có thể nói, hai câu thơ đã tô đậm thêm vẻ trong trẻo, tĩnh lặng, nên thơ của bức tranh mùa thu và qua đó, người đọc cảm nhận được tình yêu thiên nhiên tha thiết của nhà thơ Nguyễn Khuyến.
Bức tranh thu tiếp tục được mở rộng ở cả không gian chiều cao và chiều sâu:
Tầng mây lơ lửng, trời xanh ngắt
Ngõ trúc quanh co, khách vắng teo.
Nhà thơ hướng tầm mắt lên cao để ngắm nhìn bầu trời cao rộng, xanh trong, thoáng đãng với những áng mây lơ lửng giữa không trung. Màu “xanh ngắt” là nét đặc trưng đặc biệt của bầu trời thu Bắc Bộ. Trên nền trời xanh thẳm ấy là những áng mây “lơ lửng”. Từ láy “lơ lửng” diễn tả những áng mây dường như không trôi theo gió mà ngưng đọng lại lưng chừng trời đồng thời còn gợi ra trạng thái mơ màng trong lòng người. Nhà thơ lại hướng tầm mắt về gần hơn, dưới mặt đất để ngắm nhìn quang cảnh xung quanh với ngõ trúc quanh co, ngoằn ngoèo, sâu hun hút, không hề có bóng dáng qua lại của con người. Từ “quanh co” không chỉ để tả con ngõ nhỏ, sâu mà còn gợi cho người đọc liên tưởng đến những suy nghĩ không lối thoát của con người. Bởi vậy, cảnh tuy đẹp nhưng tĩnh lặng và đượm buồn. Đằng sau bức tranh phong cảnh, ta vẫn cảm nhận được tâm hồn tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống.
Tới hai câu kết của bài thơ, người đọc mới thấy bóng dáng của người đi câu cá:
Tựa gối ôm cần, lâu chẳng được
Cá đâu đớp động dưới chân bèo.
Người đi câu hiện ra với tư thế có phần nhàn tản: tựa gối ôm cần. Dường như người ngồi câu nhưng lại không để tâm đến việc câu cá. Sự chờ đợi mà không chờ đợi, không kêu ca, buồn phiền về việc không được cá “lâu chẳng được” mà dường như đang suy nghĩ mông lung để cuối cùng thờ ơ với việc “cá đâu đớp động dưới chân bèo”. Rõ ràng, người đi câu nhưng không chú tâm đến việc câu cá và đó cũng chẳng phải là mục đích khiến ông “ôm cần”. Đó chính là hình ảnh của nhà thơ trong những ngày cáo quan, lui về ở ẩn. Chốn quan trường khiến ông chướng tai gai mắt, ông tìm về quê với thú vui điền viên. Ông đi câu chẳng qua là để tìm một chốn thanh tĩnh mong thoát khỏi những ý nghĩ về thời cuộc. Thế nhưng, ông đã không làm được điều đó bởi tâm trí ông vẫn không nguôi những suy nghĩ miên man về non sông, đất nước. Nhà thơ muốn tìm sự bình yên khi ôm cần, buông câu, đắm chìm trong cảnh vật nhưng vẫn không thể thôi trăn trở, ưu tư với sự đời.
Với bút pháp thủy mặc Đường thi và vẻ đẹp thi trung hữu họa cùng với nghệ thuật đối tài tình và hệ thống từ ngữ giàu sắc thái biểu cảm , Nguyễn Khuyến đã vẽ nên bức tranh mùa thu trong trẻo, thanh sơ , tĩnh lặng và man mác đượm buồn từ cõi lòng của thi nhân.
Có thể nói “Câu cá mùa thu” thực sự là bài thơ “điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam” như nhà thơ Xuân Diệu đã từng nhận định. Qua bài thơ, ta hiểu được tấm lòng yêu thiên nhiên, đất nước và tâm sự thời thế của tác giả. Bài thơ nói riêng, chùm thơ thu nói chung sẽ còn mãi trong lòng người yêu thơ bao thế hệ.
Xem thêm các chương trình khác:
- Các dạng bài tập Tiếng Anh thông dụng nhất
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Tiếng Anh có đáp án
- Toàn bộ kiến thức về cụm động từ | Định nghĩa và cách dùng
- 500 đoạn văn Tiếng Anh thông dụng nhất và cách làm
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Công nghệ có đáp án
- 1000 câu hỏi ôn tập Giáo dục công dân
- 15000 câu hỏi ôn tập môn Toán có đáp án
- Wiki Toán | Khái niệm, định lí, tính chất, dạng bài, công thức
- Tuyển tập đề thi + chuyên đề ôn thi Toán Kangaroo các cấp độ (có đáp án 2024)
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Vật lí có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Vật lí
- Phương trình hóa học | Tổng hợp PTHH của các chất hữu cơ, vô cơ chính xác nhất
- Đồng phân & Công thức cấu tạo của các chất hữu cơ
- Nhận biết các chất Hóa học
- Cấu hình electron
- So sánh bán kính nguyên tử và bán kính ion
- 1000 câu hỏi ôn tập môn Hóa có đáp án
- Wiki các chất hóa học | Định nghĩa, tính chất, nhận biết, điều chế, ứng dụng
- Cách đọc danh pháp hóa học (chương trình mới) đầy đủ nhất
- Công thức Lewis của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức electron của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức cấu tạo của một số chất thường gặp (chương trình mới)
- Công thức hợp chất khí với hidro của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hợp chất khí với hidro
- Công thức hidroxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức hidroxit cao nhất
- Công thức oxit cao nhất của các nguyên tố (phổ biến) | Cách viết công thức oxit cao nhất
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Tin học có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Lịch sử có đáp án
- 3000 câu hỏi ôn tập môn Địa lí có đáp án
- 2000 câu hỏi ôn tập môn Sinh học có đáp án
- Tổng hợp Dạng bài - Công thức môn Sinh học
- Trò chơi Powerpoint | Game Powerpoint
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên mầm non (2024) theo Thông tư 12
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên tiểu học (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THCS (2024)
- Tổng hợp bài thu hoạch BDTX Giáo viên THPT (2024)