TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi của Trần Tế Xương (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi của Trần Tế Xương gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn hay hơn.

1 171 11/02/2025


Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi của Trần Tế Xương

TOP 10 mẫu Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi của Trần Tế Xương (2025) SIÊU HAY (ảnh 1)

Đề bài: Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi của Trần Tế Xương

Dàn ý Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi

1. Mở bài: Khái quát chung về tác giả, tác phẩm

2. Thân bài:

- Khái quát về tác giả Trần Tế Xương

+ Cuộc đời

+ Sự nghiệp

+ Tác phẩm tiêu biểu

- Khái quát về tác phẩm Buồn hỏng thi

+ Hoàn cảnh sáng tác

+ Khái quát về nội dung, nghệ thuật

- Phân tích bài thơ

+ Hai câu thơ đầu: tâm trạng buồn tủi của nhân vật trữ tình khi bị thi hỏng

+ Hai câu thơ tiêp theo: lời trách móc của bản thân tác giả

+ Bốn câu thơ cuối: lời tự trách chính mình

- Đặc sắc nghệ thuật trong bài thơ

- Đánh giá lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, thó trào phúng

3. Kết bài: khái quát lại vấn đề nghị luận.

Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi (mẫu 1)

Thời gian vẫn trôi đi và bốn mùa luôn luân chuyển. Con người chỉ xuất hiện một lần trong đời và cũng chỉ một lần ra đi mãi mãi vào cõi vĩnh hằng. Nhưng những gì là thơ, là văn, là nghệ thuật đích thực thì vẫn còn mãi mãi với thời gian. Tác phẩm “Buồn hỏng thi” của tác giả Trần Tế Xương là một trong số những tác phẩm nghệ thuật như thế

“Bụng buồn còn muốn nói năng chi,

Đệ nhất buồn là cái hỏng thi!

Một việc văn chương thôi cũng nhảm,

Trăm năm thân thế có ra gì?

Được gần trường ốc vùng Nam Định,

Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.

Rõ thực nôm hay mà chữ dốt,

Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”.

Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ nổi tiếng của nền văn học Việt Nam. Ông sinh ra ở Nam Định. Ông được mọi người gọi với tên là Tú Xương. Trần Tế Xương cưới vợ và sinh được 8 người con – 6 trai và 2 gái. Cuộc sống của gia đình ông rất khó khăn vì nhà con đông, nghèo, công việc lại không ổn định nên mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay vợ ông – bà Tú chăm lo và quán xuyến. Mặc dù cuộc đời của nhà thơ ngắn ngủ tuy nhiên ông đã để lại sự nghiệp văn học đồ sộ với hơn 100 tác phẩm tiêu biểu bao gồm các thể loại khác nhau. Hầu hết các tác phẩm của ông đều viết về khoa cử, nho học và hình ảnh một nền nho học đang thoái hóa và cảnh nghèo khó của dân trong hoàn cảnh đất nước. Ngoài ra, ông còn nổi tiếng là ngòi bút trào phúng, châm biếm phê phán chế độ phong kiến mục nát, bọn thực dân Pháp tàn ác, quan lại, tay sai cho giặc. Ông luôn đứng về phía người dân nghèo. Đặc biệt, trong sự nghiệp cầm bút của mình ông còn khai thác thêm đề tài viết về vợ của mình để bày tỏ tình yêu thương đối với người có sự hy sinh cao cả, chịu thương chịu khó lo cho gia đình và chồng con. Qua hình ảnh bà Tú trong các tác phẩm văn học của Tú Xương, tác giả còn ca ngợi vẻ đẹp của những người phụ nữ Việt Nam, tần tảo, chịu thương chịu khó, hết lòng vì chồng vì con.

Bài thơ “Buồn hỏng thi” là một trong những sáng tác tiêu biểu của tác giả Trần Tế Xương. Cuộc đời Tú Xương lận đận về thi cử. Tám khoa đều hỏng nên dấu ấn thi rớt in đậm nét trong tiềm thức Tú Xương. Bài thơ “Buồn thi hỏng “ cho thấy tâm trạng chán chường của ông. Với Tú Xương, buồn nhất là hỏng thi. Để tránh hỏng thi, ông cũng có đổi tên, nhưng cuối cùng vẫn thi trượt. Việc này khiến ông từng than:

“Tế đổi làm cao mà chó thế

Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!”.

Mở đầu bài thơ là lời than vãn, tự trách tâm trạng buồn của nhân vật trữ tình khi bị thi hỏng:

“Bụng buồn còn muốn nói năng chi,

Đệ nhất buồn là cái hỏng thi!

Từ "buồn” được nhắc lại hai lần diễn tả rõ tâm trạng của nhà thơ. Việc bị hỏng thi khiến nhà thơ buồn không nói năng gì. Với Tú Xương, không có nỗi buồn nào bằng nào việc hỏng thi “đệ nhất buồn”.

Đến hai câu thơ tiếp theo, nhân vật trữ tình tự đánh giá bản thân là con người nhàm chán, có mỗi việc văn chương cũng không xong:

“Một việc văn chương thôi cũng nhảm,

Trăm năm thân thế có ra gì?”

Cuộc đời của Trần Tế Xương là cuộc đời của một nghệ sĩ, nhưng trước hết là một trí thức phong kiến. Ông thuộc loại nhà nho “dài lưng tốn vải”. Mọi chi tiêu trong gia đình đều do một tay bà Tú lo liệu. Cuộc đời Tú Xương gắn liền với thi cử thất bại. Ông đã từng thi tới 8 lần nhưng chỉ đậu tú tài thiên chỉ lấy thêm. Nhà thơ tự trách bản thân, bản thân ông chỉ lo học hành thi cử nhưng không đỗ đạt, bản thân lại sống nương vào vợ, để bà Tú một mình gánh vác, lo toan cuộc sống.

Bốn câu thơ cuối, nhà thơ vẫn tự trách mình:

"Được gần trường ốc vùng Nam Định,

Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.

Rõ thực nôm hay mà chữ dốt,

Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy".

Nhân vật trữ tình tự trách bản thân dù được gần trường ốc vùng Nam Định nhưng vẫn thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ. Rõ thực nôm hay mà chữ dốt. Trường quy là những luật lệ học trò phải tuân theo khi làm văn bài, một phần để phòng ngừa gian lận, một phần để tỏ lòng tôn kính vua và các quan trường. Không tuân theo những luật lệ ấy thì gọi là "phạm trường quy". “ Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy”. Tám là số lần mà nhà thơ Tú Xương đã thi tú tài và chỉ đỗ lấy thêm. Ông luôn day dứt và tự trách bản thân mình.

Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đặc sắc. Ngôn ngữ thơ gần gũi, giản dị dễ hiểu. Qua bài thơ, nhà thơ bày tỏ tâm trạng buồn tủi, nỗi thất vọng về bản thân, lời tự trách than bản thân. Có thể nói thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lửng, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếng cười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương rất chắc, hiệu quả cao.

Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi (mẫu 2)

Trong văn học trung đại Việt Nam, nỗi buồn của con người trước những biến cố cuộc đời, đặc biệt là sự thất bại trong khoa cử, luôn là một đề tài quen thuộc nhưng không bao giờ cũ. Theo quan điểm của nhà lý luận văn học Hegel, bi kịch trong văn học thường bắt nguồn từ sự xung đột giữa khát vọng cá nhân và những quy luật, chuẩn mực khắt khe của xã hội. Bài thơ "Buồn Thi Hỏng" chính là một minh chứng tiêu biểu, khi tác giả khắc họa sâu sắc nỗi đau và sự chán chường của một trí thức Nho học trước thất bại lớn nhất đời mình – thi trượt. Tác phẩm không chỉ phản ánh tâm trạng cá nhân mà còn đặt ra những câu hỏi mang tính thời đại về ý nghĩa của văn chương, khoa cử, và giá trị con người trong bối cảnh xã hội đang chuyển mình. Với giọng điệu trào phúng nhưng đầy chua xót, bài thơ trở thành lời tự vấn và phản tư sâu sắc, vừa mang tính cá nhân vừa mang tính phổ quát, làm sáng rõ mối quan hệ giữa văn học và hiện thực.

Mở đầu bài thơ, tác giả bày tỏ nỗi buồn không thể nói thành lời:

Bụng buồn còn muốn nói năng chi,
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi!

Hai câu thơ mở đầu mang đậm sắc thái tự sự, thể hiện tâm trạng nặng nề, bế tắc của một người vừa trải qua thất bại lớn trong cuộc đời. Ở xã hội phong kiến, việc thi đỗ là con đường duy nhất để kẻ sĩ khẳng định giá trị bản thân, mở ra cơ hội được trọng dụng trong bộ máy nhà nước. Việc thi hỏng không chỉ là nỗi thất vọng cá nhân mà còn là sự xấu hổ với gia đình, làng xóm và xã hội. Nỗi buồn của tác giả không phải là nỗi buồn thoáng qua, mà là nỗi đau sâu sắc, được khắc sâu trong ý thức về vai trò và trách nhiệm của một người trí thức. Cụm từ “đệ nhất buồn” được nhấn mạnh, cho thấy tác giả xem việc thi hỏng là nỗi buồn lớn nhất đời người, lấn át mọi cảm xúc khác. Điều này phản ánh vai trò to lớn của kỳ thi khoa cử trong hệ giá trị của người trí thức Nho học xưa.

Tiếp đó, cây bút đã bộc lộ sự tự ý thức về thân phận và hoài nghi giá trị của văn chương

Một việc văn chương thôi cũng nhảm,
Trăm năm thân thế có ra gì?

Hai câu thơ tiếp theo bộc lộ sự mâu thuẫn trong tâm trạng của tác giả. Dường như sau cú sốc thi hỏng, ông bắt đầu đặt câu hỏi về giá trị thực sự của văn chương và của cuộc đời mình. "Một việc văn chương thôi cũng nhảm" là lời tự vấn đầy chua chát. Phải chăng tác giả đang cảm thấy việc đặt quá nhiều kỳ vọng vào khoa cử và văn chương là một sự phù phiếm? Đối lập với nỗi buồn ở hai câu đầu, hai câu thơ này mang tính phản tư, thể hiện sự trăn trở của tác giả về giá trị và ý nghĩa của đời người. "Trăm năm thân thế có ra gì?" không chỉ là một câu hỏi bi quan, mà còn mở ra một chiều sâu triết lý. Trong bối cảnh lịch sử mà hệ tư tưởng Nho giáo và hệ thống khoa cử truyền thống đang lung lay, câu hỏi này như một lời tự nhắc nhở về sự phù du của danh vọng và cuộc đời.

Sau tất thảy, ông rơi vào tâm trạng tự ti và tự trào của người thất bại

Được gần trường ốc vùng Nam Định,
Thua mãi anh em cánh Bắc Kỳ.

Hai câu thơ này vừa thể hiện sự tiếc nuối, vừa mang sắc thái tự trào. Tác giả nhận thức rõ vị trí của mình trong bối cảnh rộng lớn của khoa cử thời bấy giờ. Nam Định vốn là một trong những trung tâm giáo dục quan trọng của nước ta thời phong kiến, nhưng dù được học hành, tiếp cận với trường lớp, tác giả vẫn thất bại trước những người tài giỏi hơn, đặc biệt là “anh em cánh Bắc Kỳ.”

Cụm từ “thua mãi” vừa là lời thú nhận thất bại, vừa mang sắc thái hài hước, châm biếm chính bản thân mình. Đây là một đặc điểm nổi bật trong phong cách thơ trữ tình trung đại Việt Nam: mượn sự tự trào để xoa dịu nỗi đau và thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc về chính mình.

Cuối cùng, khép lại bài thơ bằng lời tự phê phán và sự tự thức tỉnh của bản thân:

Rõ thực nôm hay mà chữ dốt,
Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy.

Hai câu thơ cuối vừa là lời tự trách, vừa mang tính phê phán nhẹ nhàng về bản thân. Tác giả thừa nhận rằng mình có thể giỏi chữ Nôm – một loại chữ viết dân gian phổ biến ở Việt Nam – nhưng lại kém cỏi về chữ Hán, vốn là yêu cầu chính trong các kỳ thi khoa cử. Câu thơ này không chỉ nói về thất bại trong kỳ thi, mà còn là sự nhận thức về hạn chế của bản thân trong một hệ thống giáo dục lỗi thời. Chi tiết “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy” gợi lên hình ảnh một người kém may mắn, thi mãi mà không đỗ. Sự lặp lại thất bại này không chỉ là nỗi buồn cá nhân, mà còn phản ánh thực trạng khắc nghiệt và bất cập của chế độ khoa cử, nơi mà thành công không chỉ dựa vào tài năng mà còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như thời vận, gia cảnh, và cả sự thiên vị.

Bài thơ không chỉ là tiếng lòng của một cá nhân, mà còn mang tính đại diện cho cả một thế hệ trí thức Nho học đang phải đối mặt với sự khủng hoảng giá trị trong xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Trong bối cảnh ấy, việc thi đỗ hay thi hỏng không chỉ quyết định số phận của một con người, mà còn phản ánh sự chuyển mình của cả một thời đại. Qua bài thơ, tác giả không chỉ bộc lộ nỗi buồn, sự chán nản, mà còn gửi gắm một thông điệp sâu sắc về sự thức tỉnh. Trong cuộc sống, thất bại không phải là dấu chấm hết, mà là cơ hội để con người nhìn lại chính mình và tìm kiếm những giá trị mới.

Bài thơ "Buồn Thi Hỏng" của tác giả khéo léo kết hợp giữa cảm xúc chân thành và sự tự trào sâu sắc, mang đến một bức tranh sinh động về tâm trạng của một trí thức Nho học trong thời kỳ suy tàn của khoa cử. Với giọng điệu trào phúng nhưng không kém phần chua xót, bài thơ vừa là tiếng nói cá nhân, vừa phản ánh tâm trạng chung của cả một thế hệ. Qua đó, tác phẩm không chỉ ghi lại một lát cắt của lịch sử, mà còn để lại bài học nhân sinh sâu sắc về sự chấp nhận và vượt qua thất bại trong cuộc đời.

Phân tích bài thơ Buồn hỏng thi (mẫu 3)

Trần Tế Xương có tên gọi khác là Tú Xương. Ông là 1 trong những nhà văn có tiếng của nền văn học VN. Ông sinh ra ở Nam Định với cuộc đời đầy sóng gió , khó khăn. Tế Xương chọn lánh xa chốn quan trường ,lui về quê viết thơ. Trong đó , bài thơ " buồn thi hỏng" là một trong những tác phẩm tiêu biểu của ông viết về tâm trạng buồn bã, sầu vì thi hỏng . Vì thế , bài thơ đã để lại trong lòng bạn đọc nhiều cảm xúc, thành công ở đó một phần chính là nội dung tư tưởng của tác phẩm.

Đoạn thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Theo luật nhà đường với những quy định chặt chẽ.Với cách gieo vần chủ yêu là 4/3 tạo nên nhịp điệu , dễ thuộc cho bài thơ . Với nhiều từ ngữ đạt đến đỉnh cao nghệ thuật của thơ trào phúng.

Mở đầu là lời than vãn ,tự trách mình thi hỏng:

" bụng buồn còn muốn nói năng chi,

Đệ nhất buồn là cái hỏng thi"

Từ " buồn" được lặp lại 2 lần, có lẽ tác giả đang gửi gắm nỗi sầu vì thi rớt. Đến nỗi bản thân không muốn nói chuyện ,bày tỏ tâm tình." Đệ nhất" từ ngữ ấy còn cho thấy hẳn Tế Xương xem thi rớt là cái buồn nhất , không có nỗi buồn nào bằng." Bụng" chỉ việc ông nghĩ trong bụng, ông luôn suy nghĩ , dằn vặt , luôn nhớ trong mình mà chẳng buồn nói .

Hai câu thực sau , nhân vật trữ tình tự đánh giá bản thân kém cỏi, nhàm chán ,có mỗi văn chương cũng không xong:

" một việc văn chương thôi cũng nhảm

Trăm năm thân thế có ra gì"

Theo các nguồn , ông được bà Tú - vợ mình luôn đồng hành theo ông trong các cuộc thi. Ấy vậy mà bản thân lại nhiều lần thi rớt .bởi chế độ thị không công bằng , mặc dù ông là một ng trí thức , một nhà nho nhưng do chế độ cổ hủ mà ông thi trượt rất nhiều lần. Nỗi đau , u sầu của nhân vật rất lớn đến nỗi tự nhận bản thân làm mỗi văn chương cũng không thành .ông thấy bản thân mình dựa dẫm ,có lỗi với vợ mình . Ông hẳn là ng biết trân quý , cảm nhận ,yêu thương thì mới có nỗi đau xé lòng như vậy.

Hai câu luận ,nhà thơ vẫn tự trách mình :

" đc gần trg ốc vùng nam định

Thua mãi anh em cánh bắc kỳ"

Nhân vật trữ tình tự dày vò bản thân , dù được trường tốt nhưng vẫn thua ngưòi ta .tâm trạng canh cánh vì bị bỏ lại , vì phải xếp sau ngưòi khác ,vì thua cuộc . Ai chẳng muốn 1 lần đc vinh dự , Tế Xương dẫu vậy mà vẫn không thành , phụ bao sự kỳ vọng . Nhân vật tự cảm nhận rõ điều đó, buồn đến nỗi so sánh mình với ngưòi khác , hẳn có sự day dứt khó quên

Cuối cùng là 2 câu kết , ông vẫn nhấn mạnh việc do mình , tại mình , tự trách mình:

" rõ thực nôm hay mà chữ dốt

Tám khoa chưa khỏi phạm trường quy"

Tác giả xem mình dốt , dù có năng khiếu nhưng vẫn thua " rõ thực nôm hay mà chữ dốt" . Trường quy là những luật lệ học trò phải tuân theo với những quy định nghiêm ngặt phòng ngừa gian lận. Nếu không tuân theo thì sẽ bị phạt. Bởi đó chính là việc tỏ lòng , cách ứng xử của mk vs vua và quan trg. " tám kgoa ch khỏi phạm trg quy" .tám là số lần thi trượt , ông vẫn chưa ra khỏi vùng ,phạm vi của trg thi mà vẫn mãi loanh quanh chưa đỗ đc.ông luôn day dứt và trách bản thân mk

Bài thơ viết theo thể thơ thất ngôn bát cú .ngôn ngữ gần gũi giản dị dễ hiểu.Qua bài thơ, nhà thơ bày tỏ tâm trạng buồn tủi, nỗi thất vọng về bản thân, lời tự trách than bản thân. Những từ ngữ như nỗi lòng mà ông muốn gửi gắm đêuc trút trọn vẹn ở những dòng thơ .Có thể nói thơ trào phúng của Tú Xương hết sức đa dạng và phong phú. Có những bài tự trào, tự khoe về mình, dùng ngôn ngữ lấp lửng, ỡm ờ, hoặc những từ hoàn toàn thô tục . . . Tứ thơ thường độc đáo, đột ngột, táo bạo gây sự chú ý và bám vào linh hồn của chủ đề. Có thể nói, Tú Xương đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật kết cấu trong thơ trào phúng, trước hết vì tiếng cười của ông là sự phê phán của một lý trí và cảm xúc nhạy bén của con tim nên tiếng cười trào phúng của Tú Xương rất chắc, hiệu quả cao.

1 171 11/02/2025


Xem thêm các chương trình khác: