Tác giả Đoàn Thị Điểm - Cuộc đời và sự nghiệp

Bài viết Tác giả Đoàn Thị Điểm - Cuộc đời và sự nghiệp giới thiệu đến bạn đọc những nét tiêu biểu về cuộc đời cũng như những thành tựu trong suốt quá trình sự nghiệp của nhà văn Đoàn Thị Điểm.

1 8 20/01/2025


Tác giả Đoàn Thị Điểm - Cuộc đời và sự nghiệp

Hải khẩu linh từ - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

1. Tiểu sử nhà văn Đoàn Thị Điểm

- Ngày sinh: 1705-1749

- Hiệu: Hồng Hà Nữ Sĩ (紅霞女士), là nữ sĩ Việt Nam thời Lê trung hưng

- Quê quán: làng Giai Phạm, huyện Văn Giang, xứ Kinh Bắc (nay thuộc huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên)

- Gia đình: Theo gia phả họ Đoàn là Đoàn thị thực lục, thì tổ tiên của bà vốn họ Lê, đến đời cha bà là Đoàn Doãn Nghi (1678-1729), mới đổi ra họ Đoàn. Ông Doãn Nghi thi đỗ Hương cống (Cử nhân) thời Lê Trung Hưng, sau thi Hội không đỗ, có nhận chức quan Điển bạ, hàm bát phẩm nhưng không lâu sau thì từ quan, về nhà dạy học và bốc thuốc. Tại Thăng Long, ông Nghi cưới vợ (là con gái của Thái lĩnh bá họ Vũ định cư ở phường Hà Khẩu, kinh thành Thăng Long, không rõ tên, bà về làm kế thất ông Đoàn Doãn Nghi), sinh được hai con: con cả là Đoàn Doãn Luân (1700 - 1735) và con thứ là Đoàn Thị Điểm.

- Cuộc đời:

+ Mặc dù là phận gái, nhưng với tư chất thông minh đặc biệt, ngay từ thuở nhỏ bà Đoàn Thị Điểm đã được học đủ Tứ Thư, Ngũ Kinh… lại được mẹ dạy cho học nữ công gia chánh nên đến năm 16 tuổi, bà đã nổi tiếng là một tài nữ trẻ tuổi. Quan Thượng thư Lê Anh Tuấn, vốn quen biết Đoàn Doãn Nghi, lại mến tài văn chương và đức hạnh của Đoàn Thị Điểm nên đã nhận bà làm con nuôi. Kể từ đó, bà về ở nhà của dưỡng phụ tại trường Bích Câu, kinh thành Thăng Long. Đây là thời gian bà đọc được rất nhiều sách vở quý trong kho sách của quan Thượng thư, nên vốn kiến thức được mở rộng, lại tiếp xúc với nhiều người danh vọng, khoa bảng vì vậy tiếng tăm về tài ứng đối văn chương, về hoa tay khéo léo của tài nữ họ Đoàn càng lan xa. Khi dưỡng phụ có ý tiến cử bà vào cung Chúa Trịnh để dạy các cung nữ, bà kiên quyết từ chối, vì không muốn bị gò bó trong chốn triều đình. Năm 1724 nghe tin cha ốm nặng, tình hình chính trị ở Thăng Long lúc đó lại rối ren, bà đã xin phép Thượng thư về quê phụng dưỡng cha.

+ Sau khi cha mất, anh trai bà là Đoàn Doãn Luân mở trường dạy học. Nhưng ông Luân mất sớm, bà lại đem gia đình lên Sài Trang, ở đây bà được tiến cử vào cung Chúa Trịnh dạy học nhưng khi ở trong cung, thấy rõ sự thối nát của triều đình, nên bà lại xin trở về quê nhà. Năm 1739, giặc dã nổi lên khắp nơi, bà cùng mẹ, chị dâu và hai cháu tản cư đến làng Chương Dương bên bờ sông Nhị Hà, gần Hà Nội. Lúc đầu, bà làm nghề xem mạch, bốc thuốc, gần như một tay nuôi sống cả gia đình nhưng chí hướng của bà là nối nghiệp cha và anh mở trường dạy học, mong đem hết tài năng của mình để truyền lại cho thế hệ sau, đào tạo lớp người mới, vừa có kiến thức cao vừa có đạo đức để giúp dân giúp nước. Bà nhận thấy, từ trước tới nay chưa có một phụ nữ nào dạy học mà có học trò thành đạt cả. Với quyết tâm và tài năng của mình bà xin mở trường dạy học đào tạo nhân tài. Học trò theo học rất đông và đúng với lòng mong ước của bà, trong số học trò, có ông Đào Duy Doãn ở làng Chương Dương, sau này thi đỗ Tiến sĩ năm 1763.

+ Năm 1743 bà kết hôn với ông Nguyễn Kiều – một người học rộng tài cao ( 18 tuổi đỗ Giải nguyên, 21 tuổi đỗ Tiến sĩ). Sống với nhau chưa được bao lâu thì quan Thị lang Nguyễn Kiều nhận được lệnh phải đi sứ sang Trung Quốc. Bà Đoàn Thị Điểm, một mình chăm sóc cả hai gia đình nội ngoại. Trong khoảng thời gian này, bà nhận được bản Chinh Phụ Ngâm Khúc viết bằng Hán văn của Đặng Trần Côn. Đồng cảm với tâm trạng của người chinh phụ, bà dịch ra thơ Nôm bản Chinh phụ ngâmnày, cùng với Truyện Kiều của Nguyễn Du, Cung oán ngâm khúc Nguyễn Gia Thiều, Bản dịch Chinh phụ ngâm của Hồng Hà nữ sĩ được xem là tác phẩm ưu tú nhất của nền thi văn trung đại Việt Nam. Chính tác phẩm này đã đưa tên tuổi của bà lên đỉnh cao trong nền văn học nước nhà. Tương truyền, bà Đoàn Thị Điểm viết sách nhiều nhưng đến nay hầu hết bị thất lạc, hậu thế chỉ còn biết đến một vài tác phẩm của Hồng Hà nữ sĩ (trong đó có Truyền kỳ tân phả viết bằng chữ nho)

2. Sự nghiệp văn học của nhà văn Đoàn Thị Điểm

Theo Đoàn thị thực lục, lúc sinh thời bà thường xướng họa thơ với cha, với anh và với chồng. Song cho đến nay, về sáng tác, bà chỉ còn có tập truyện chữ Hán tên là Truyền kỳ tân phả (khắc in lần đầu năm Tân Mùi, 1811), chinh phụ ngâm là của Đặng Trần Côn và một số bài thơ văn (gồm chữ Hán, chữ Nôm) trong tập Hồng Hà phu nhân di văn mới được phát hiện gần đây, nhưng trong đó có không ít sai lẫn.

Ngoài ra, bà còn có tác phẩm thơ Nữ trung tùng phận gồm 1401 câu thơ (được viết sau khi bà mất) và bài thơ Bộ bộ thiềm-Thu từ- 步步蟾-秋詞 (tức Bộ bộ thiềm- Bài hát mùa thu).

Về bản dịch Chinh phụ ngâm (Chinh phụ ngâm khúc diễn âm) của bà, hiện nay vẫn chưa khẳng định là bản nào. Nhiều người cho đó là bản đang lưu hành rộng rãi, nhưng có ý kiến nói bản đó là của Phan Huy Ích, còn bản của nữ sĩ họ Đoàn là một bản khác. Ý kiến khác lại cho rằng sau khi từ quan về an dưỡng Phan Huy Ích (1751-1822) chỉ chủ yếu nghiên cứu, hiệu đính và chú giải các điển tích trong truyện. Song theo GS. Nguyễn Lộc, thì "một điều có thể khẳng định được là bản dịch Chinh phụ ngâm của Đoàn Thị Điểm (1705-1748) là bản dịch đầu tiên của tác phẩm này".

Bản của Phan Huy Ích (có tên là Chinh phụ ngâm diễn ca tân khúc) được viết sau bản của Đoàn Thị Điểm (có tên ban đầu là Chinh phụ ngâm khúc diễn ca) chừng 70 năm. Bản Chinh phụ ngâm phổ biến hiện nay được nhiều người biết đến chính là bản "Chinh phụ ngâm khúc diễn ca" (được trích đưa vào Sách giáo khoa Văn học lớp 10).

3. Về các tác phẩm tiêu biểu

3.1. Hải khẩu linh từ

Hải khẩu linh từ - Tác giả tác phẩm (mới 2024) | Ngữ văn lớp 12 Kết nối tri thức

a. Thể loại

- Tác phẩm Hải khẩu linh từ thuộc thể loại: Truyện.

b. Xuất xứ

- Chỉnh lí theo: Nguyễn Đăng Na, Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập một, Truyện ngắn, NXB Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr.329 – 343.

c. Phương thức biểu đạt

- Phương thức biểu đạt: tự sự.

d. Bố cục Hải khẩu linh từ

- Phần 1 (từ đầu đến “cung phi”): giới thiệu lai lịch, chân dung của nhân vật Bích Châu.

- Phần 2 (tiếp theo đến đem thi hành): nội dung bài biểu Kê minh thập sách.

- Phần 3 (tiếp theo đến hay xấu): Bích Châu và những lần giúp nhà vua thoát khỏi hiểm nguy.

- Phần 4 (đoạn còn lại): Bích Châu được minh oan và sự ghi nhớ công lao của nhà vua đối với bà.

e. Tóm tắt Hải khẩu linh từ

Bích Châu – người phụ nữ với những nét đẹp sáng ngời về cả ngoại hình lẫn phẩm chất. Bà đã giúp vua Lê Thánh Tông thoát khỏi những hiểm nguy trước thời thế đất nước bị xâm lược, bằng cách báo mộng về việc vua Chiêm Thành xâm lược, được bà cứu sống,... Nhờ công lao của bà, vua Trần Duệ Tông đã lập đền thờ bà với mong muốn tỏ lòng biết ơn, thể hiện sự tôn kính với bà.

f. Giá trị nội dung

- Chuyện kể về người con gái xứ Nam Định xinh đẹp và tài giỏi – Bích Châu. Ở bà, tác giả xây dựng lên một hình tượng theo đúng chuẩn mực thước đo của thời xưa: công, dung, ngôn, hạnh. Đồng thời ca ngợi, tỏ lòng biết ơn, thể hiện sự tôn kính với bà – người đã có công giúp vua, giúp đất nước thoát khỏi hiểm nguy.

g. Giá trị nghệ thuật

- Có sự đan xen giữa yếu tố lịch sử và yếu tố kì ảo.

- Nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ đối thoại đặc sắc.

1 8 20/01/2025


Xem thêm các chương trình khác: