TOP 30 mẫu Phân tích hình tượng sóng (2024) SIÊU HAY

Phân tích hình tượng sóng lớp 12 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 1,113 18/12/2023
Tải về


Phân tích hình tượng sóng - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Sóng

Dàn ý Phân tích hình tượng sóng

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Xuân Quỳnh: là nhà thơ tiêu biểu thuộc thế hệ nhà thơ trẻ thời kì kháng chiến chống Mĩ, tiếng thơ của chị giàu chất nữ tính, trăn trở với những khát khao hạnh phúc đời thường, giản dị.

- Giới thiệu bài thơ và hình tượng sóng: Sóng là bài thơ tiêu biểu cho phong cách thơ của chị, hình tượng đặc đặc sắc làm nên giá trị bài thơ chính là hình tượng song

2. Thân bài

30 bài Phân tích hình tượng sóng  (ảnh 1)

2.1. Sóng – bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu

- Khổ 1: + Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu em, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).

+ Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn, đó là khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ.

- Khổ 2: + Trước thời gian “ngày xưa – ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la.

+ Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.

2.2Sóng – những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

- Khổ 3: Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”)

- Khổ 4: Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió ...” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải.

2.3. Sóng – nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

- Khổ 5: Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu – trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày - đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ.

+ Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.

- Khổ 6: : + Nghệ thuật tương phản “xuôi – ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

+ Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.

- Khổ 7: + Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.

2.4. Sóng – khát vọng tình yêu vĩnh cửu

- Khổ 8: + Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

+ Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng ... bay về xa.”

- Khổ 9: + Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

+ Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

3. Kết bài

- Nêu suy nghĩ về hình tượng sóng và nội dung bài thơ: bằng sự kết hợp hài hòa giữa hình tượng sóng và em, bài thơ là tiếng lòng khát khao tình yêu mãnh liệt, chân thành của người phụ nữ muốn vượt qua mọi giới hạn của không gian, sự hữu hạn của đời người để hướng đến cái tuyệt đích của tình yêu.

- Khái quát giá trị nghệ thuật: xây dựng hình tượng sóng song hành với hình tượng em, nhịp điệu tự nhiên, ngôn ngữ giản dị, trong sáng, ...

Bài giảng Ngữ văn 12 Sóng

Dàn ý Phân tích hình tượng sóng

a) Mở bài

- Giới thiệu khái quát tác giả, tác phẩm

+ Xuân Quỳnh là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại

+ "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu.

- Giới thiệu hình tượng sóng: Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

b) Thân bài

30 bài Phân tích hình tượng sóng  (ảnh 1)

Luận điểm 1: Sóng - bản chất và quy luật của người phụ nữ khi yêu

- Sóng giống như người phụ nữ đang yêu lúc "dữ dội" lúc lại "dịu êm".

- Sóng mang trong mình những tính chất đối lập: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, đó cũng là bản tính của phụ nữ khi yêu (mãnh liệt nhưng sâu lắng).

- Sóng không bằng lòng sống ở một nơi chật hẹp, “không hiểu mình” nên luôn khát khao, quyết liệt “tìm ra tận bể” rộng lớn. -> Khát vọng vươn tới sự tuyệt đích trong tình yêu của người phụ nữ, sẵn sàng từ bỏ không gian nhỏ hẹp để đến một nơi khoáng đạt hơn.

- Trước thời gian “ngày xưa - ngày sau”, những con sóng vẫn luôn dạt dào, sôi nổi, khát khao không gian bao la, vươn tới tình yêu.

- Cũng như sóng, trái tim của tuổi trẻ luôn khát khao tình yêu mãnh liệt, “bồi hồi trong ngực”, đó là quy luật vĩnh hằng.

Luận điểm 2: Sóng - những suy nghĩ trăn trở về cội nguồn tình yêu

- Xuân Quỳnh nỗ lực để cắt nghĩa tình yêu nhưng không được.

+ Xuân Quỳnh tìm kiếm nguồn cội của sóng “Từ nơi nào sóng lên”, đồng thời thể hiện sự trăn trở, muốn khám phá chính bản thân mình, người mình yêu và tình yêu (“em”, “anh”, “biển lớn”).

+ Nữ sĩ tự đặt câu hỏi và tự lí giải bằng quy luật của tự nhiên: “sóng bắt đầu từ gió...” nhưng nguồn gốc của sóng cũng như tình yêu đều bí ẩn, khó lí giải. -> Lời thú nhận hồn nhiên nhưng sâu sắc.

Luận điểm 3: Sóng - nỗi nhớ, lòng thủy chung của người phụ nữ khi yêu

- Nỗi nhớ bờ của sóng bao trùm mọi phạm vi không gian: “dưới lòng sâu - trên mặt nước”, phạm vi thời gian “ngày - đêm”, biện pháp nhân hóa “không ngủ được” càng nhấn mạnh nỗi nhớ. -> Nỗi nhớ lúc nào cũng cháy bỏng và khiến con người ta cồn cào không yên.

- Không chỉ bày tỏ gián tiếp nỗi nhớ qua sóng mà người phụ nữ bày tỏ trực tiếp nỗi nhớ của mình “lòng em nhớ đến anh”, nỗi nhớ luôn thường trực trong suy nghĩ, ăn sâu vào tiềm thức “cả trong mơ còn thức”.

- Nghệ thuật tương phản “xuôi - ngược”, điệp ngữ “dẫu”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng ngoài biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.

- Tấm lòng thủy chung của người phụ nữ, niềm tin chờ đợi trong tình yêu, dù ở đâu cũng “hướng về anh một phương”, nghĩ về “phương anh” bằng cả trái tim.

- Quy luật tất yếu của “trăm ngàn con sóng” là tìm đến “bờ” dù có “muôn vời cách trở” cũng như người phụ nữ khi yêu luôn hướng đến người mình yêu, tìm kiếm tình yêu đích thực dù phải trải qua bao khó khăn thử thách.

Luận điểm 4: Sóng - khát vọng tình yêu vĩnh cửu

- Sóng là sự lo âu, trăn trở của người phụ nữ về sự nhỏ bé của mình trước cuộc đời rộng lớn, sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn, sự dễ đổi thay của lòng người trước dòng đời đầy biến động.

- Ẩn sâu trong ý thơ vẫn là niềm tin, hi vọng mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu như mây có thể vượt qua biển rộng “Như biển kia dẫu rộng... bay về xa.”

- Sóng chính là biểu tượng cho tình yêu mãnh liệt, trường tồn: khát vọng được “tan ra” “thành trăm con sóng nhỏ” để được sống hết mình trong “biển lớn tình yêu”, để tình yêu bất diệt, vĩnh cửu.

- Đó cũng là khát khao chia sẻ và tan tình yêu nhỏ bé với tình yêu chung rộng lớn của cuộc đời.

c) Kết bài

- Khái quát ý nghĩa hình tượng sóng

- Cảm nhận của em về hình tượng sóng.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 1)

Xuân Quỳnh được biết đến là một nhà thơ của hạnh phúc đời thường. Những tác phẩm, những câu chuyện của bà xoay quanh cuộc sống thường nhật, cuộc đời, tình yêu, gia đình nhỏ của bà. Những câu chuyện dung dị mà sâu lắng, được thể hiện qua giọng thơ hết sức hồn hồn, sâu sắc. Nhắc đến Xuân Quỳnh ta cũng không thể không nhắc đến bài Sóng với hình tượng sóng nổi bật, chứa đựng nhiều giá trị, ý nghĩa

Viết về tình yêu, nói về tình yêu là đề tài muôn thuở của thơ ca. Có rất nhiều hình tượng khác nhau được lựa chọn để nói lên những cung bậc cảm xúc khác nhau. Riêng đối với Xuân Quỳnh bà lựa chọn “sóng” để nói lên những cũng bậc tình yêu mãnh liệt của mình. Có một điều rất đặc biệt trong kết cấu bài thơ ấy là bài thơ gồm có tất cả 9 khổ, bốn khổ đầu và 4 khổ cuối số lượng câu trong một khổ bằng nhau là những con sóng dồn dập, tới tấp ùa về. Còn riêng khổ thơ giữa lại có tận những sáu câu, nhưng những làn sóng vươn cao mãnh liệt, diễn tả tình cảm cuộn dâng của người con gái khi yêu. Kết hợp với kết cấu các khổ thơ là nhịp điệu dạt dào những những con sóng đồng điệu với nhịp đập của trái tim người con gái khi yêu. Với tất cả những điều đó, hình tượng sóng đã làm tròn nhiệm vụ biểu đạt những cung bậc tình cảm mãnh liệt của bà, của những người con gái khi yêu.

Bài thơ mở đầu bằng nỗi băn khoăn, thao thức của một trái tim khao khát yêu và được yêu:

Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Hai trạng thái đối lập, đầy mâu thuẫn, nhưng ấy cũng chính là trạng thái của những con người khi yêu. Câu thơ được ngắt nhịp 2/3 cùng với sự đối ứng của thanh điệu: dữ dội - ồn ào, dịu êm – lặng lẽ đã cho thấy sự đối nghịch của những con sóng đồng thời cũng chính là những nhịp đập bất thường của trái tim. Trong cái dữ dội vẫn có cái dịu êm, trong cái ồn ào vẫn có cái lặng lẽ. Cũng như trái tim người con gái, dù yêu đương nồng nàn vẫn còn những khoảng lặng thâm trầm, sâu sắc. Nhẹ nhàng mà lắng sâu trong trái tim, tâm hồn họ. Đồng thời con song nhỏ bé ấy cũng mang trong mình khát vọng lớn, muốn truy nguyên, cắt nghĩa lí giải tình yêu, bởi vậy cô gái tuy nhỏ bé ấy đã “ra tận bể” để tìm thấy cho mình câu trả lời.

Để rồi khổ thơ tiếp theo, hình tượng sóng tiếp tục ẩn hiện trong từng câu chữ, khẳng định tình yêu mãnh liệt:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Trước cái chảy trôi vô hạn của thời gian “ngày xưa” “ngày sau” nhưng người còn gái ấy “vẫn thế”. Vẫn khao khát yêu đương, trái tim vẫn không thôi nhiệt huyết, cháy bỏng. Cũng từ đó, Xuân Quỳnh bước đầu tìm hiểu, tìm cách cắt nghĩa lí giải về tình yêu. Đã từ ngàn đời nay người ta vẫn truy nguyên, lí giải của tình yêu, ấy vậy nhưng đã có ai làm được, đã có ai truy nguyên được, tình yêu là gì. Con sóng từ chỗ để cảm, để hiểu đã trở thành đối tượng để suy tư, triết lí. Mải miết để suy tư, để cắt nghĩa về tình yêu, để rồi cuối cùng chính Xuân Quỳnh cũng phải tự thừa nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Bởi tình yêu là như vậy, là sự ngự trị của con tim, là sự thúc đẩy của cảm xúc, làm sao có thể triết tự, có thể cắt nghĩa rạch ròi. Nếu tình yêu như một bài toán có lẽ lúc ấy đã không còn là tình yêu nữa, đúng như Pascal đã từng nói: “Trái tim có quy luật riêng mà lí trí không thể hiểu nổi”.

Dù đã thừa nhận rằng trái tim không thể lí giải khi nào ta yêu nhau, nhưng Xuân Quỳnh vẫn không ngừng tìm tòi và nhận ra: biểu hiện dạt dào mãnh liệt nhất của tình yêu chính là nỗi nhớ:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Đây chính là những lớp sóng cuộn trào, đẩy tình cảm của nhân vật trữ tình lên đến đỉnh điểm. Quả thực trong tình yêu còn gì dễ dàng nhận thấy hơn là nỗi nhớ, nỗi nhớ chìm trong đáy mắt u buồn, trong tâm khảm khắc khoải. Đó là những biểu hiện mà không ai có thể che giấu được. Và Xuân Quỳnh đã diễn tả vô cùng xuất sắc nỗi nhớ ấy trong từng câu chữ của mình, và biến nó trở thành khổ thơ hay nhất của bài. Chị đã diễn tả thật xúc động, nỗi nhớ “cả trong mơ còn thức” là nỗi nhớ đã ăn sâu, đã hằn lên trong nếp cảm, nếp nghĩ của người con gái. Đồng thời cũng cho thấy nỗi nhớ da diết, cồn ào, triền miên, như sóng biển lúc nào cũng dội vào bờ.

Sóng bắt đầu từ gió, cũng như tình yêu bắt nguồn từ nỗi nhớ. Lấy hình tượng song để diễn tả tình yêu, Xuân Quỳnh đã hoàn chỉnh quan niệm, chân dung về tình yêu. Sóng và em chính là nhịp đập trái tim của người con gái khi yêu, là tình yêu chân thành, mãnh liệt. Nhưng cũng đầy thủy chung, nữ tính, e ấp của người con gái.

Những khổ thơ cuối cùng của mình, bà không ngần ngại bộc lộ những ước mơ của một người con gái: “Ở ngoài kia đại dương/…/Mây vẫn bay về xa”. Bài thơ kết thúc bằng niềm khao khát cháy bỏng, mãnh liệt được sống, cống hiến hết mình cho tình yêu. Không chỉ cống hiến mà cò muốn được tan ra thành trăm ngàn con sóng nhỏ, để hòa vào biển lớn tình yêu: “Giữa biển lớn tình yêu/ Để ngàn năm còn vỗ”.

Với hình tượng sóng người đọc có thể cảm nhận một cách sâu sắc, toàn diện nhất về một tâm hồn nữ tính đầy khao khát yêu thương và được yêu thương, hướng đến một tình yêu trong sáng, vĩnh cửu. Bài thơ Sóng đã trở thành một tượng đài bất tử khi viết về tình yêu đôi lứa, đặc biệt là tình yêu của những người phụ nữ trong những ngày tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, cháy bỏng.

Phân tích hình tượng sóng (5 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 2)

Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm - hình tượng "sóng", cả bài thơ là những con sóng tâm linh của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm trạng của mình một cách chân thành, trong sáng.

Cả bài thơ, hình tượng "sóng" được gợi ra bằng âm điệu. Bài thơ có một âm điệu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, lúc thầm thì lắng sâu, gợi lên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp. Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm hồn không thể yên định, đầy biến động, chảy trôi và chất chứa những khát khao rạo rực.

Mỗi đặc tính của sóng đều tương hợp với một khía cạnh trạng thái của tâm hồn. Sóng "dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ", những trạng thái tương phản, cũng như tâm tính, tính khí của người con gái đang yêu: họ sống với những trạng thái trái ngược trong lòng, nó chứa đựng những khát khao và sức mạnh tiềm ẩn. Với khát vọng lớn lao như thế, sóng không chịu dừng lại ở sông, vì "không hiểu mình", sóng phải "tìm ra tận bể", hành trình ra bể rộng, từ bỏ những giới hạn chật hẹp tìm đến chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, nhận thức được mọi sức mạnh và khát khao của nó.

Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của loài người - nỗi khát vọng bồi hồi trong tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Sóng là sự nhận thức về cái (quy luật) không thể cắt nghĩa được của tình yêu.

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

Sóng là nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó lấp đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Như nỗi lòng người con gái:

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Nếu như ở trên, sóng thể hiện sự vô biên và những bí ẩn của tình yêu, thì ở đoạn này những khát khao của sóng lại thật rõ ràng và giản dị: sóng khát khao tới bờ như em mong có anh. Tình yêu của người phụ nữ ở đây thật mãnh liệt, nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.

Cuối cùng, sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu Để ngàn năm còn vỗ

Qua hình tượng "sóng" và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực "vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên" (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 3)

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:

Dữ dội / và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” - “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…

cứ thế:

- Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

- Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam ...

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm

… tận bể

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 4)

Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

“Dữ dội và dịu êm

ồn ào và lặng lẽ

...

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

“Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức

Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

“Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở”

Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/.../ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy...vẫn...” “Dẫu ...vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 5)

Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: "Hoa cúc xanh", "Sóng", "Thuyền và biển", "Nói cùng anh".

... "Tình anh đối với em là xứ sở

Là bóng rợp trên đường nắng lửa

Trái cây thơm trên miền đất khô cằn

Đó tình yêu, em muốn nói cùng anh

Nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng

Lòng tốt để duy trì sự sống

Cho con người thực sự Người hơn".

(Nói cùng anh)

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là "nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng", làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người "thực sự Người hơn". Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tỉnh yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng "sóng" là ẩn dụ về "em", về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì "dữ dội", lúc thì "dịu êm", có lúc lại "ồn ào", có khi rất lặng lẽ. .Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đối trong tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ".

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng của "muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mỏng cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bời lẽ " Làm sao sống được mà không yêu — Không nhớ không thương một kẻ nào" (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

"Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ".

Con sóng tình yêu có vồ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng "Những cô gái da mịn màng như lụa - Những chàng trai đang độ hai mươi" (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động "bồi hồi" như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, "Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần" (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, "em nghĩ về anh, em",và tự hỏi: "Từ kh nào sóng lên". Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hối tràn ngập tình thương yêu:

"Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau".

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Xuân Diệu). Câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đám. Cái giây phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đẩu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đâu lưu luyến" vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?".

Sóng được nhân hóa, "sóng nhớ bờ", sóng "ngày đêm không ngủ được", dù ở "dưới lòng sâu", hay "ở trên mặt nước". Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, "thôn Đoài thì nhớ thôn Đông..." người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức".

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm "cả trong mơ" và cả trong lúc "còn thức". Một chữ "nhớ" tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tinh yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua", chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược... nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

"Dẫu xuôi về phương Bắc

Dầu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng vê anh - một phương

Cấu trúc đoạn thơ: "dẫu ... cũng...",chữ "dẫu" được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: "cũng nghĩ", "hướng về" liên kết với số từ "một" (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong "Thề non nước":

"Dù cho sông cạn đá mòn,

Còn non còn nước hãy cồn thề xưa".

Tình yêu đẹp đem đến cho "em" một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có "muôn vời cách trở". Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hổn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

"Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa".

"Tuy... vẫn...", "dẫu... vẫn", cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. "Năm tháng" và "mây" là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được "tan ra", muốn được hóa thân thành "Trăm sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ". Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp , bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống "giữa biển lớn tình yêu" đến ngàn năm "còn vỗ"... Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

"Sóng" cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái "được yêu" như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là "sóng" ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình "Biển"của thi sĩ Xuân Diệu "sóng" lại là hình ảnh người con trai đa tình.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 6)

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:

“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ”

trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ” .

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”
(Xuân Diệu)

Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc ...

Hướng về anh một phương”.

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ” .

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được” .

Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 7)

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh có một giọng thơ rất duyên, vừa đằm thắm, vừa dịu dàng như chính tính cách của chị.

Đề tài tình yêu luôn thu hút nhiều thi nhân. Tất cả là để tìm câu trả lời cho tình yêu là gì và tình yêu bắt đầu từ đâu. Với Xuân Diệu: Làm sao định nghĩa được Tình yêu... Xuân Quỳnh đến với thơ tình là để bày tỏ niềm khao khát về một tình yêu lý tưởng, lại vừa hướng tới một hạnh phúc đời thường giản dị và thiết thực. Hình tượng "sóng" trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.

Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu.

Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội - dịu êm - ồn ào - lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do.

Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu muôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này.

Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp - nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió - gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau? Không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này.

Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn.

Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế.

Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) "Ngày đêm không ngủ được", cũng như thế em nhớ anh đến nỗi "cả trong mơ còn thức". Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt.

Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: "Dẫu xuôi về phương bắc - Dẫu ngược về phương nam". Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lý của tình yêu.

Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư.

Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, "Em" ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi "Em" cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc.

Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa.

Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. "Em" nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động.

Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời.

Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một. Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng.

Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm - Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nổi mình - sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn - từ nơi nào sóng lên),… Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt. Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ.

Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội.

Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng "Sóng", không thể không xem xét nó trong mối tương quan với "Em".

Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển.

Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu "sóng không hiểu nổi mình" thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để "tìm ra tận bể", đến cái cao rộng, bao dung..Đó là những nét mới mẻ " hiện đại" trong tình yêu.

Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không yên lặng. "Vì tình yêu muôn thuở - có bao giờ đứng yên" (Thuyền và Biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 8)

Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm - hình tượng "sóng", cả bài thơ là những con sóng tâm linh của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm trạng của mình một cách chân thành, trong sáng.

Cả bài thơ, hình tượng "sóng" được gợi ra bằng âm điệu. Bài thơ có một âm điệu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, lúc thầm thì lắng sâu, gợi lên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp. Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm hồn không thể yên định, đầy biến động, chảy trôi và chất chứa những khát khao rạo rực.

Mỗi đặc tính của sóng đều tương hợp với một khía cạnh trạng thái của tâm hồn. Sóng "dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ", những trạng thái tương phản, cũng như tâm tính, tính khí của người con gái đang yêu: họ sống với những trạng thái trái ngược trong lòng, nó chứa đựng những khát khao và sức mạnh tiềm ẩn. Với khát vọng lớn lao như thế, sóng không chịu dừng lại ở sông, vì "không hiểu mình", sóng phải "tìm ra tận bể", hành trình ra bể rộng, từ bỏ những giới hạn chật hẹp tìm đến chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, nhận thức được mọi sức mạnh và khát khao của nó.

Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của loài người - nỗi khát vọng bồi hồi trong tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Sóng là sự nhận thức về cái (quy luật) không thể cắt nghĩa được của tình yêu.

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Sóng là nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó lấp đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

Như nỗi lòng người con gái:

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Nếu như ở trên, sóng thể hiện sự vô biên và những bí ẩn của tình yêu, thì ở đoạn này những khát khao của sóng lại thật rõ ràng và giản dị: sóng khát khao tới bờ như em mong có anh. Tình yêu của người phụ nữ ở đây thật mãnh liệt, nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.

Cuối cùng, sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Qua hình tượng "sóng" và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực "vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên" (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 9)

Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: "Hoa cúc xanh", "Sóng", "Thuyền và biển", "Nói cùng anh", "Mùa hoa doi", v.v...

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là "nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng", làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người "thực sự Người hơn". Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng "sóng" là ẩn dụ về "em", về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì "dữ dội", lúc thì "dịu êm", có lúc lại "ồn ào", có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ".

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ "Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào" (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".

Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng "Những cô gái da mịn màng như lụa - Những chàng trai đang độ hai mươi" (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động "bồi hồi" như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, "Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần" (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, "em nghĩ về anh, em", và tự hỏi: "Từ khi nào sóng lên". Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:

"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau".

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Xuân Diệu). Câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đầu lưu luyến" vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?".

Sóng được nhân hóa, "sóng nhớ bờ", sóng "ngày đêm không ngủ được", dù ở "dưới lòng sâu", hay "ở trên mặt nước". Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, "thôn Đoài thì nhớ thôn Đông..." người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

"Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm "cả trong mơ" và cả trong lúc "còn thức". Một chữ "nhớ" tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua", chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược... nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

"Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Cấu trúc đoạn thơ: "dẫu ... cũng...", chữ "dẫu" được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: "cũng nghĩ", "hướng về" liên kết với số từ "một" (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong "Thề non nước":

"Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa".

Tình yêu đẹp đem đến cho "em" một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có "muôn vời cách trở". Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở"

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa".

"Tuy... vẫn...", "dẫu... vẫn", cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. "Năm tháng" và "mây" là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được "tan ra", muốn được hóa thân thành "Trăm sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ". Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống "giữa biển lớn tình yêu" để ngàn năm "còn vỗ"... Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

"Sóng" cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái "được yêu" như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là "sóng" ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình "Biển"của thi sĩ Xuân Diệu "sóng" lại là hình ảnh người con trai đa tình:

"Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...".

Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao "bồi hồi trong ngực trẻ" về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Phân tích hình tượng sóng (mẫu 10)

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng "Sóng" được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.

Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội - dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu" để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng "ngày xưa" và sóng "ngày sau" vẫn thế giống như "nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ".

Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: "Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức". Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất "sóng" và "em".

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu... thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: "Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương". Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến những thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

...Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 11)

“Sóng” được in trong tập “Hoa dọc chiến hào”, xuất bản năm 1968 của nữ nhà thơ tình nổi tiếng Xuân Quỳnh. Bài thơ nói về tâm trạng, tình yêu mãnh liệt của người con gái khi yêu. Hãy đến với bài thơ bằng nhạc điệu, bài thơ là âm điệu của một cõi lòng bị sóng khuấy động, đang rung lên đồng điệu đồng nhịp với sóng biển. Rạo rực đến xôn xao, khát khao đến khắc khoải, có một hình tượng sóng được vẽ lên bằng âm điệu, một âm điệu dập dồn, chìm nổi, miên man như hơi thở chạy suốt cả bài.

Sắc điệu trữ tình của bài thơ được gợi lên từ hình tượng sóng. Cả bài thơ là những con sóng tâm tình xôn xao trong lòng người con gái đang yêu khi đứng trước biển ngắm nhìn những con sóng vô hồi, bất tận. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, đó là sự hoá thân của cái tôi trữ tình của nữ sĩ, lúc thì hoà nhập, lúc sự phân thân của “em” - người con gái đang yêu một cách say đắm. Sóng đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi. Thông qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái.

Sóng biến hoá, sóng vỗ liên hồi, triền miên và bất tận:

“Dữ dội và dịu êm ồn ào và lặng lẽ” trạng thái của sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể” nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Sóng được làm biểu tượng của tình yêu. Miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu. Cũng giống như sóng biển, tình yêu là một hiện tượng kỳ diệu của con người. Con sóng “ngày xưa” và con sóng “ngày sau” vẫn thế - triền miên, bất tận. Cũng như tình yêu mãi mãi là khát vọng của tuổi trẻ, của đôi lứa, cuả anh và em:

“Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ” .

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Cũng như em “khát” được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Người con gái hỏi sóng hay đang tự hỏi chính mình:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Cái giây phút giao duyên của đôi lứa. “Khi nào ta yêu nhau” tìm được một câu trả lời thật khó, bởi tình yêu là một hiện tượng, một thứ tình cảm khó có thể cắt nghĩa được. Bởi vậy trong bài thơ tình số 21 của thi hào Tagor đã viết rằng :

“Trái tim anh cũng ở gần em như chính đời em vậy
Nhưng chẳng bao giờ em biết trọn nó đâu”

Câu thơ “khi nào ta yêu nhau” đã diễn tả đúng nỗi niềm điển hình của những trai gái đang sống trong tình yêu đẹp. Sóng vỗ “dữ dội - dịu êm” , “ồn ào - lặng lẽ”, sóng “dưói lòng sâu” “sóng” trên mặt nước”, sóng nhớ bờ, đó là biểu hiện của tình yêu và nỗi nhớ. Yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên. Nỗi nhớ ấy day dứt, dày vò, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bên đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

“Còn thức” tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh ... Một tình yêu cuồng nhiệt, say mê. Con sóng khao khát được đến bờ để được vỗ về, ve vuốt:

“Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi”
(Xuân Diệu)

Cũng như “em” muốn được gần bên anh, được hoà nhịp vào trong tình yêu với anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi.

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc ...

Hướng về anh một phương”.

Sóng đã bày tỏ nỗi lòng của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Người ta thường nói xuôi vào Nam, ngược ra Bắc; nhưng ở đây, trong nỗi nhớ chất đầy nhà thơ lại dùng ngược lại. Từ đó nhà thơ đã nói đến nỗi nhớ bất chấp vạn vật, khoảng cách, tình yêu là sự gặp gỡ giữa hai tâm hồn không có giới hạn.

Cuối cùng sóng đã nói hộ nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn trong tình yêu. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hoà nhịp vào biển lớn của tình yêu cộng đồng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ” .

Cả bài thơ, nếu kể đến nhan đề, thì tác giả đã mười một lần nhắc đến từ “sóng”. Sóng vỗ như tâm tình xôn xao. Sóng cho ta nhiều ấn tượng về âm điệu của sóng, cũng như giọng điệu tâm tình, nhịp điệu của bài thơ. Thơ hồn nhiên, liền mạch về cảm xúc, trong sáng trong cách diễn đạt của tác giả. Sóng vỗ trên đại dương mênh mông cũng chính là sóng vỗ trong lòng người con gái.

Từ hình tượng “sóng” Xuân Quỳnh cho ta thấy rõ vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu. Với tình yêu chân thành, thắm thiết, người phụ nữ muốn sống hết mình, sống trọn vẹn trong tình yêu đẹp. Yêu là nhớ ngày mong đêm, người phụ nữ khát khao được hoà nhập gần gũi trong tình yêu ấy. Họ yêu thật nồng nàn, say đắm, thủy chung !

Xuân Quỳnh viết bài thơ này vào những năm 1967, khi cuộc kháng chiến của nhân dân miền Nam ở vào giai đoạn ác liệt, khi thanh niên trai gái ào ào ra trận “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”, khi sân ga, bến nước, gốc đa, sân trường diễn ra những cuộc chia ly màu đỏ. Cho nên có đặt bài thơ vào trong hoàn cảnh ấy ta mới càng thấy rõ nỗi khát khao của người con gái trong tình yêu.

“Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được” .

Đọc xong bài thơ “Sóng” ta càng ngưỡng mộ hơn những con người phụ nữ Việt Nam, những con người luôn thuỷ chung, luôn sống hết mình vì một tình yêu. Xuân Quỳnh xứng đáng là một nhà thơ nữ của tình yêu lứa đôi, bà đã làm phong phú hơn cho nền thơ nước nhà.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 12)

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng “Sóng” được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.

Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất {dữ dội - dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu” để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng “ngày xưa” và sóng “ngày sau” vẫn thế giống như “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”.

Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: “Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức”. Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất “sóng” và “em”.

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu., thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến Iihừng thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

... Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 13)

Đến với bài thơ “Sóng”, Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng “sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, sắc thái tình cảm của “em” - một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.

Tình yêu là một đề tài muôn thuở của thơ ca. Nhiều nhà thơ nổi tiếng đã viết về tình yêu bằng một cảm hứng mãnh liệt, in đậm dấu ấn tâm hồn, tư tưởng và phong cách nghệ thuật của mình. Xuân Diệu trước đó đã mượn hình tượng “biển” để nói về tình yêu. Còn với Xuân Quỳnh, chị đã mượn hình tượng “sóng” để diễn tả những cảm xúc, tâm trạng, những sắc thái tình cảm vừa phong phú, vừa phức tạp, vừa thiết tha sôi nổi của một trái tim phụ nữ đang rạo rực, khát khao yêu đương.

Cùng với hình tượng “sóng”, bài thơ này còn có một hình tượng nữa là “em” - cái tôi trữ tình của nhà thơ. Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hoá thân, phân thân của cái tôi trữ tình - một kiểu đặc biệt của cái tôi trữ tình nhập vai. Hai "nhân vật" trữ tình này (sóng và em) tuy hai mà một, có lúc phân đôi ra để soi chiếu vào nhau, làm nổi bật sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Hai hình tượng này đan cài quấn quýt với nhau như hình với bóng, song song tồn tại từ đầu đến cuối bài thơ, soi sáng, bổ sung cho nhau nhằm diễn tả một cách mãnh liệt hơn, sâu sắc và thấm thía hơn khát vọng tình yêu đang cuồn cuộn trào dâng trong trái tim nữ thi sĩ.

Hình tượng "sóng" là một tìm tòi nghệ thuật độc đáo của Xuân Quỳnh. Trước hết, nó đã được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp triền miên vô hồi vô hạn. Thể thơ năm chữ không ngắt nhịp lên tiếp đã tạo nên nhịp điệu của những con sóng biển lúc dạt dào sôi nổi lúc sâu lắng chạy dài suốt bài thơ. Song âm điệu chung của cả bài thơ không phải chỉ là âm điệu nguyên con sóng. Nó còn là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập khao khát tình yêu vô hạn đang rung lên đồng điệu hòa hợp với sóng biển, hòa hợp tới nỗi không còn biết đâu là đâu là nhịp điệu của sóng biển đâu là nhịp điệu của thi sĩ nữa. Xuân Quỳnh đã mượn hình tượng sóng để thể hiện nhịp điệu tâm hồn mình đang bùng cháy một tình yêu mãnh liệt, không chịu yên định mà đầy biến động, khao khát. Qua hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động những trạng thái, tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người phụ nữ đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Mở đầu bài thơ là trạng thái tâm lý đặc biệt của một tâm hồn đang khao khát yêu đương, đang tìm đến một tình yêu rộng lớn hơn. Xuân Quỳnh đã diễn tả thật cụ thể cái trạng thái khác thường, vừa phong phú vừa phức tạp trong một trái tim đang cồn cào khao khát tình yêu. Tinh khí của người con gái đang yêu, cũng như sóng vậy thôi, vốn mang trong nó nhiều trạng thái đối cực: "Dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ”... Và cũng như sóng, trái tim người con gái đang yêu không chịu chấp nhận sự tầm thường, nhỏ hẹp, luôn vươn tới cái lớn lao có thể đồng cảm, đồng điệu với mình: “Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể” Có thể thấy, ngay trong khổ thơ đầu tiên này một nét mới mẻ trong quan niệm về tình yêu. Người con gái khao khát yêu đương nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu “sông không hiểu nổi mình” thì sóng nhất quyết từ bỏ nơi chật hẹp ấy để “tìm ra tận bể” đến với cái cao rộng bao dung. Thật là minh bạch và cũng thật là quyết liệt.

Nỗi khát vọng tình yêu xôn xao, rạo rực trong trái tim con người trong quan niệm của Xuân Quỳnh, là khát vọng muôn đời của nhân loại mà mãnh liệt nhất là của tuổi trẻ. Nó cũng như sóng, mãi mãi trường tồn, vĩnh hằng với thời gian. Với con người, khát vọng tình yêu luôn mãnh mãnh liệt:

"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"

Khi tình yêu đến, như một tâm lí tự nhiên, người ta luôn có nhu cầu tự lý giải nó. Nhưng tình yêu là một hiện tượng tâm lý khác thường, đầy bí ẩn không thể giải thích bằng lý lẽ thông thường. Làm sao có thể giải đáp được câu hỏi về khởi nguồn của tình yêu. Cái điềm mà trước đó từng làm Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”, thì nay, một lần nữa lại được Xuân Quỳnh bộc bạch một cách hồn nhiên, thật dễ thương. Tình yêu cũng giống như sóng biển, như gió trời vậy thôi, làm sao mà lý giải được. Nó cũng tự nhiên, hồn nhiên như thiên nhiên và cũng khó hiểu không ngờ như thiên nhiên:

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Tình yêu cũng gắn liền với nỗi nhớ khi xa cách. Nỗi nhớ của một trái tim đang yêu được Xuân Quỳnh diễn tả thật mãnh liệt. Một nỗi nhớ thường trực cả khi thức, cả khi ngủ, bao trùm lên cả không gian và thời gian. Một nỗi nhớ cồn cào, da diết, không khi nào yên, không thể nào nguôi. Nó cuồn cuộn, dào dạt như những đợt sóng biển triền miên, vô hồi, vô hạn. Nhịp thơ trong suốt bài thơ này là nhịp sóng, nhưng rõ nhất, dào dạt, hăm hở, náo nức nhất, mãnh liệt nhất là ở đoạn thơ này:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Và như trên đã nói, vẫn là hình tượng song hành của sóng và em bổ sung, đắp đổi cho nhau nhằm diễn tả sâu sắc hơn, ám ảnh hơn tình yêu và nỗi nhớ cùng với lòng thủy chung vô hạn của một trái tim đang rạo rực yêu thương. Nỗi nhớ được diễn tả qua hình tượng con sóng nhớ bờ “ngày đêm không ngủ được” vẫn chưa đủ, chưa thỏa, lai được thể hiện một lần nữa qua nỗi nhớ trực tiếp của nhà thơ: “Lòng em nhớ đến anh, Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ tràn đầy lòng yêu của nữ thi sĩ. Nỗi nhớ thường trực trong mọi không gian và thời gian, không chỉ tồn tại trong ý thức mà còn len lỏi trong tiềm thức, xâm nhập vào cả trong giấc mơ. Những đòi hỏi, khao khát yêu đương của người con gái được bộc lộ thật mãnh liệt nhưng cũng thật giản dị song chỉ khao khát tới bờ cũng như em khao khát có anh. Tình yêu của người con gái thiết tha, mãnh liệt, trong sáng, giản dị, thủy chung, duy nhất. Qua hình tượng "sóng" và "em", Xuân Quỳnh đã nói lên thật chân thành, táo bạo, không hề giấu giếm cái khát vọng tình yêu sôi nổi, mãnh liệt của mình - một phụ nữ, một điều thật hiếm thấy trong văn học Việt Nam.

Xuân Quỳnh viết bài thơ “Sóng” năm 1967, khi mà chị đã từng nếm trải sự đổ vỡ trong tình yêu. Song, người phụ nữ hồn nhiên tha thiết yêu đời này vẫn còn ấp ủ biết bao hy vọng, vẫn có một niềm tin vào hạnh phúc trong tương lai. Vừa tự động viên, an ủi mình, chị vừa tin vào cái đích cuối cùng của một tình yêu lớn như “Con nào chẳng tới bờ/Dù muôn vàn cách trở”. Vì thế, ý thức về thời gian chưa làm cho chị lo âu mà chỉ làm cho chị thêm tin rằng:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn qua đi
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa”

Tóm lại, “Sóng” là một bài thơ tình yêu rất tiêu biểu cho tư tưởng và phong cách thơ Xuân Quỳnh ở giai đoạn đầu. Một bài thơ vừa xinh xắn, duyên dáng, vừa mãnh liệt, sôi nổi, vừa hồn nhiên, trong sáng, vừa ý nhị, sâu xa. Sau này, khi đã nếm trải nhiều cay đắng trong tình yêu, giọng thơ Xuân Quỳnh không còn phơi phới bốc men say nữa, nhưng cái khát vọng tình yêu vẫn tồn tại mãi mãi trong trái tim tràn ngập yêu thương của chị.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 14)

Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu. Các tác phẩm của chị chủ yếu viết về tình yêu với những khát vọng hạnh phúc bình dị đời thường. Trong đó, “Sóng” có lẽ là bài thơ hay nhất khi nhà thơ đã xây dựng được hai hình tượng đẹp “sóng” và “em”.

Xuân Quỳnh đã xây dựng hình tượng “sóng” và “em” có lúc phân đôi để soi chiếu, từ đó cho thấy sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng.

Trước hết là bản tính và khát vọng của “sóng” và “em”. Hình tượng “sóng” đã khơi gợi một hồn thơ phong phú, hồn nhiên, sôi nổi và thông qua đó, Xuân Quỳnh đã có một cách nói rất hay để diễn tả tâm trạng của người con gái khi đang yêu hay đang mong chờ tình yêu. Trạng thái của con sóng cũng là tâm trạng khi yêu, là khát vọng to lớn, mạnh mẽ về một tình yêu chân thành. Hành trình của sóng từ sông ra đại dương, nó cũng dâng trào và cuồn cuộn như chính tình cảm của những cô gái đang yêu cũng nồng nàn với những nỗi nhớ, nhưng cũng có lúc nỗi nhớ nỗi khát khao ấy lại biến thành một con sóng tình, cuộn xô trong lòng họ:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Sóng thật mạnh mẽ, chủ động. Sóng muốn tìm tới một nơi mênh mông dạt dào, có đến nơi biển rộng trời cao sóng mới được vẫy vùng, mới thực sự tìm thấy mình trong sức sống mạnh mẽ với những khát khao to lớn. Nó sẵn sàng bỏ đi những thứ không thuộc về nó để đến với những nơi mà tiếng gọi của tình yêu ập tới. Sóng - biểu tượng của tình yêu, chính vì vậy miêu tả sóng biến hoá là cũng để nói lên cái phức tạp, đa dạng, khó hiểu của tình yêu.

Tiếp đến là những nỗi niềm của “em” và “sóng” về tình yêu. Để tìm đến với tình yêu đích thực, sóng tìm đến với biển lớn, sóng tìm đến với những nơi thuộc về nó. Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Em "khát khao" được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em. Những câu hỏi của "Em" dường như chỉ để nhấn mạnh "khi nào ta yêu nhau" mà thôi.

“Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Đặc biệt, câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" đã diễn tả đúng nỗi niềm của những con người đang sống trong tình yêu đẹp. Tình yêu chân thành tha thiết, nhớ bồi hồi triền miên và nó không bao giờ mất đi trong những con tim đang thổn thức. Nỗi nhớ ấy day dứt, choán đầy cả không gian, thấm trong chiều sâu, bề rộng, trải trong chiều dài thời gian:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được”

Không chỉ vậy, đó còn là nỗi nhớ, sự thủy chung của “sóng” và “em”. Thật tự nhiên và thơ mộng, con sóng nhớ bờ nên ngày đêm sóng vỗ, sóng thao thức với thời gian và đại dương. Cũng giống như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, lúc nào lòng người con gái cũng bồi hồi nhớ thương:

“Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Tới đây tác giả không mượn hình tượng sóng nữa mà nói luôn là "Lòng em nhớ tới anh/Cả trong mơ còn thức". Tình yêu là thế, sức mạnh tình yêu lại có một ma lực tới vậy. "Còn thức" tức là lúc nào em cũng nhìn thấy rõ hình bóng anh, ánh mắt anh. Tình yêu của người con gái thật mãnh liệt, nồng nàn. Sóng xa vời cách trở vẫn tìm được tới bờ, cũng như anh và em sẽ vượt qua mọi khó khăn để đến với nhau, để sống trong hạnh phúc trọn vẹn của lứa đôi:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng nhỏ
Con nào cũng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Người con gái đã bày tỏ lòng mình một cách chân thành, say đắm, thắm thiết. Chân thật và thuỷ chung là đặc tính của tình yêu:

“Dẫu xuôi về phương Bắc

Hướng về anh một phương”

Không những thế hình ảnh sóng còn cho ta thấy "lòng hướng về một phương" của người con gái" chỉ hướng về “phương anh”. Sự thủy chung son sắt của người con gái, khát vọng được sống hết mình trong một tình yêu đẹp, sắt son thuỷ chung. Con sóng đó cuối cùng lại nói hộ tác giả nỗi khát khao được sống trọn vẹn trong tình yêu mãi mãi không cách rời.

Cuối cùng, đó là khát vọng tình yêu vĩnh cửu của em, muốn được như con sóng tan hòa vào biển lớn: Sóng muốn hòa mình vào biển lớn cũng giống như em muốn hòa vào anh để thành một. Tình yêu lứa đôi đẹp đẽ, nồng nàn như trăm ngàn con sóng nhỏ giữa đại dương mênh mông, muốn được hòa nhịp vào biển lớn của tình yêu:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Với hình ảnh “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã giúp người đọc hiểu rõ hơn tâm hồn của những người người phụ nữ đang yêu.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 15)

Khi nhắc đến nhà thơ Xuân Quỳnh, người đọc sẽ nghĩ đến một nhà thơ của tình yêu. “Sóng” được coi là một trong những bài thơ tình hay nhất của chị. Khi viết bài thơ này, Xuân Quỳnh đã xây dựng hình ảnh “sóng” và “em” mang nhiều ý nghĩa.

Hình tượng “sóng” và “em” có lúc phân đôi để soi chiếu, từ đó cho thấy sự tương đồng, có lúc lại hoà nhập vào nhau để tạo nên sự âm vang, cộng hưởng. Trong tình yêu có thật nhiều cung bậc: khi lặng lẽ dịu êm, hiền hòa, êm dịu:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Hai trạng thái đối lập này cùng tồn tại trong một thể thống nhất là “sóng”. Cách miêu tả những trạng thái bất thường của sóng gợi lên những khát vọng tình yêu trong tâm hồn đầy bí ẩn của người con gái, khi bồng bộn, sôi nổi, khi kín đáo sâu sắc, vừa đắm say vừa tỉnh táo, vừa nồng nàn, vừa âm thầm, vừa mãnh liệt vừa ngàn lần yếu mềm. Điểm gặp gỡ đồng điệu và kì lạ giữa sóng và nhân vật trữ tình “em” cho thấy “sóng” chính là ẩn dụ của “em”, của khát vọng tình yêu nhiều thao thức nhưng hạnh phúc vô bờ.

Sóng tự ngàn năm vẫn từ sông ra bể, từ giới hạn chật hẹp tới không gian rộng lớn. Nếu như “sông” không thể hiểu nổi mình, “sóng” sẵn sàng tìm ra biển lớn:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Con sóng tìm đến biển, đến đại dương là để tự hiểu mình. Còn em "khát khao" được đến bên anh, đến với một tình yêu đẹp để hiểu rõ hơn về tâm hồn em về con người đích thực của em.

Và rồi đứng trước muôn trùng sóng bể, em băn khoăn về nguồn gốc của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể
Em nghĩ về anh, em
Em nghĩ về biển lớn
Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau”

Người phụ nữ trong tình yêu luôn trăn trở, suy nghĩ. Điệp từ “em nghĩ” đã cho thấy điều đó. “Em” khi đứng trước đại dương mênh mông, em nghĩ đến anh đầu tiên rồi mới nghĩ về biển lớn. Và em cũng tự hỏi lòng mình rằng sóng bắt nguồn từ nơi nào. Câu hỏi được đặt ra đã tự có được câu trả lời cho riêng mình: sóng bắt đầu từ những cơn gió - một cách lý giải rất thực tế. Nhưng nỗi băn khoăn vẫn không dừng lại: “Gió bắt đầu từ đâu?” thì lại không có câu trả lời. Cũng giống như tình yêu bắt nguồn từ lúc nào. Còn ông hoàng thơ tình Xuân Diệu lại từng bộc lộ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có khó gì đâu một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

(Vì sao?)

Nếu “sóng” nhớ đến “bờ” thì “em” nhớ đến “anh”. Dù ở không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước”, dù “ngày” hay “đêm” thì con sóng vẫn nhớ “đến bờ” mà thao thức bồn chồn đến nỗi “không ngủ được”. Xuân Quỳnh đã lấy không gian và thời gian để đo đếm nỗi nhớ trong tình yêu. Nhưng nào ai có thể đong đếm hết được nỗi nhớ? Nếu con sóng nhớ đến bờ có thể bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Thì nỗi nhớ của “em” lại vượt qua mọi khoảng cách về không gian, thời gian. Nếu sóng nhớ đến bờ thì em cũng nhớ đến anh. Nỗi nhớ ấy luôn thường trực trong tâm trí của “em”. Ngay đến trong giấc mơ cũng chẳng thể nào ngừng được. Ca dao đã từng diễn tả nỗi nhớ của những người yêu nhau:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi,
Như đứng đống lửa như ngồi đống than?”

Nỗi nhớ trong tình yêu đã không còn xa lạ gì, nhưng cách diễn tả của Xuân Quỳnh lại thật đặc biệt.

Đặc biệt nhất là ở khổ thơ cuối cùng:

“Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàm năm còn vỗ”

Câu hỏi tu từ “Làm sao” mở đầu khổ thơ như một lời tự vấn. Sóng khát khao được tan ra để hòa vào biển lớn. Cũng giống như em khát khao được sống trọn vẹn với tình yêu. à Người phụ nữ khi yêu cũng vô cùng mãnh liệt, họ ước mong được sống trọn vẹn với từng khoảnh khắc trong tình yêu. Ở đây, Xuân Quỳnh sử dụng từ “tan ra” thể hiện nét dịu dàng của người phụ nữ, khác hẳn với cái mạnh mẽ của Xuân Diệu:

“Đã hôn rồi, hôn lại
Cho đến mãi muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt…

Cũng có khi ào ạt
Như nghiến nát bờ em
Là lúc triều yêu mến
Ngập bến của ngày đêm”

(Biển)

Nhưng Xuân Diệu còn có ngày thôi “dào dạt”. Còn Xuân Quỳnh thì vẫn “ngàn năm còn vỗ”. Hai câu thơ cuối cùng là lời khẳng định của nhà thơ. Tình yêu của “em” sẽ tồn tại vĩnh cửu, cũng như con sóng kia đến “ngàn năm” vẫn còn vỗ.

“Sóng” và “em”, tuy hai nhưng là một, thể hiện những cảm nhận thật tình tế của Xuân Quỳnh trong tình yêu.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 16)

Xuân Quỳnh (1942 - 1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: "Hoa cúc xanh", "Sóng", "Thuyền và biển", "Nói cùng anh", "Mùa hoa doi",...

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là "nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng", làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người "thực sự Người hơn". Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng "sóng" là ẩn dụ về "em", về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì "dữ dội", lúc thì "dịu êm", có lúc lại "ồn ào", có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ".

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ "Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào" (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

"Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ".

Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng "Những cô gái da mịn màng như lụa - Những chàng trai đang độ hai mươi" (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động "bồi hồi" như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, "Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần" (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, "em nghĩ về anh, em", và tự hỏi: "Từ khi nào sóng lên". Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:

"Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau".

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Xuân Diệu). Câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đầu lưu luyến" vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy

Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?".

Sóng được nhân hóa, "sóng nhớ bờ", sóng "ngày đêm không ngủ được", dù ở "dưới lòng sâu", hay "ở trên mặt nước". Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, "thôn Đoài thì nhớ thôn Đông..." người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

"Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức".

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm "cả trong mơ" và cả trong lúc "còn thức". Một chữ "nhớ" tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua", chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược... nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

"Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương nam

Nơi nào em cũng nghĩ

Hướng về anh - một phương

Cấu trúc đoạn thơ: "dẫu ... cũng...", chữ "dẫu" được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: "cũng nghĩ", "hướng về" liên kết với số từ "một" (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong "Thề non nước":

"Dù cho sông cạn đá mòn,

Còn non còn nước hãy còn thề xưa".

Tình yêu đẹp đem đến cho "em" một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có "muôn vời cách trở". Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

"Ở ngoài kia đại dương

Trăm ngàn con sóng đó

Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở"

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

"Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa".

"Tuy... vẫn...", "dẫu... vẫn", cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. "Năm tháng" và "mây" là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được "tan ra", muốn được hóa thân thành "Trăm sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ". Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống "giữa biển lớn tình yêu" để ngàn năm "còn vỗ"... Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

"Sóng" cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái "được yêu" như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là "sóng" ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình "Biển"của thi sĩ Xuân Diệu "sóng" lại là hình ảnh người con trai đa tình:

"Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi

Đã hôn rồi hôn lại

Hôn mãi đến muôn đời

Đến tan cả đất trời

Anh mới thôi dào dạt...".

Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao "bồi hồi trong ngực trẻ" về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 17)

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, không thể không nhắc đến Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng “Sóng” được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương. Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt sóng liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ. Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội - dịu êm; ồn ào - lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu” để hiểu mình hơn (Sông không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng “ngày xưa” và sóng “ngày sau” vẫn thế giống như “nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ”.

Khổ thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ. Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: “Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức”. Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất “sóng” và “em”.

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu., thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: “Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến những thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

... Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Nhà thơ sử dụng những đại lượng lớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vẻ đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 18)

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:

Dữ dội / và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình

Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” - “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…

cứ thế:

- Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt nước

- Dẫu xuôi về phương Bắc

Dẫu ngược về phương Nam ...

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm

… tận bể

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày sau vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra

Thành trăm con sóng nhỏ

Giữa biển lớn tình yêu

Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 19)

Sóng vỗ vào bờ rì rào rì rào, ngàn năm nay vẫn luôn như thế, dường như sóng với bờ luôn gắn bó, luôn đi liền với nhau. Mượn hình ảnh những con sóng nối nhau liên tiếp xô vào bờ, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã dùng nó để nói lên nỗi khát khao tình yêu, những rạo rực, xôn xao, khắc khoải của một tình yêu nồng cháy trong lồng ngực người phụ nữ. Sóng là hơi thở miên man, trôi chảy, tràn ngập khắp những câu chữ trong bài thơ cùng tên của nhà thơ.

Sóng là biểu tượng, là hình ảnh xuyên suốt tác phẩm, song hành cùng với hình tượng em. Từng con sóng nhấp nhô, rì rào như tâm hồn của người phụ nữ đang yêu đang đứng trước biển Diêm Điền ngắm từng đợt sóng tung bọt trắng xóa. Sóng vô hồi, sóng bất tận, khi là "em", khi lại là cái tôi của tác giả, khi lại đứng riêng một mình mà thể hiện xúc cảm của mình. Chung quy lại, sóng trong bài thơ thể hiện quy luật bất diệt của tình yêu, những nỗi thao thức, mong chờ, những niềm trăn trở và ước mơ về tình yêu vĩnh cửu của một trái tim yêu đang nồng nàn. Sóng chính là bài thơ khơi gợi cho một hồn thơ vừa nhẹ nhàng, êm dịu lại phong phú, sôi nổi của Xuân Quỳnh.

Sóng luôn ngàn đời vỗ triền miên, bất tận vào bờ cát:

"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"

Sóng cứ luôn dạt dào, cứ luôn thao thức cũng như bản chất của một người phụ nữ đang yêu. Tâm trạng bồi hồi, rạo rực, cháy bỏng trong lồng ngực ấy là tâm trạng khi yêu của một người phụ nữ hết lòng vì tình yêu. Tình yêu có lúc êm dịu như tơ nhung, có lúc lại dữ dội, ồn ào như con sóng gào thét, có khi lại tư lự, trầm tư trong suy nghĩ mênh mang. Các cặp từ đối lập "dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ" được Xuân Quỳnh sử dụng liên tục trong hai câu thơ đầu đã làm sáng tỏ cái bản chất của một con sóng hay cũng chính là bản chất của tình yêu của người phụ nữ. Những tính cách ấy đối lập nhau, song song cùng tồn tại, ấy vậy mà lại bổ sung cho nhau, tạo nên một tâm hồn đầy khao khát. Hình tượng con sóng mang đầy những xúc cảm, những trạng thái khác nhau, đối lập nhau, bổ sung cho nhau, biểu trưng cho tâm hồn, cho bản chất chân thành của người phụ nữ, ẩn chứa trong đó là khát vọng tình yêu bồi hồi, cháy bỏng.

Và hành trình của con sóng cứ tiếp nối, tiếp nối từ sông ra tới biển:

"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể"

Làm sao ở một nơi chật hẹp có thể thấu hiểu hết cái tôi của mình, có thể tìm được bản thân mình trong đó, vậy nên, con "sóng" quyết tâm chảy ra tận "bể" để mà vùng vẫy. Biển mênh mông, dạt dào, trời cao, biển rộng, sóng mới có thể tìm thấy chính mình với sức sống mạnh mẽ, với những khát khao cháy bỏng, to lớn. Sóng ở đây là biểu tượng cho khát vọng tình yêu đích thực của người phụ nữ. Con sóng biến hóa phức tạp, đa chiều thì tình yêu cũng vậy, cũng phức tạp và khó hiểu như thế. Khát vọng được vùng vẫy ở biển lớn tình yêu chính là bản lĩnh kiêu hãnh của người phụ nữ đang yêu. Bởi yêu không thể chỉ bó hẹp trong một thứ xúc cảm mà nó còn là sự tự ý thức, sự thức tỉnh trong khao khát có được tình yêu, khao khát được vươn mình tới những nơi rộng lớn với những cảm xúc mới mẻ.

Con sóng vẫn luôn rì rào nơi biển cả, vậy "con sóng ngày xưa" và "con sóng ngày sau" có gì khác biệt hay chẳng? Không, chẳng có gì khác biệt khi con sóng vẫn luôn triền miên và bất tận như thế. Một phép so sánh nhỏ của tác giả đã khiến cho ta hiểu rằng muôn đời trước, muôn đời sau, sóng vẫn dạt dào và mãnh liệt như thế. Và tình yêu cũng như con sóng kia, nỗi khát khao có được tình yêu cứ mãi dạt dào trong những trái tim trẻ tuổi. Đây là một quy luật vĩnh hằng:

"Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ"

Con sóng bước tới với đại dương để hiểu về mình cũng như "em" tới bên "anh" để hiểu rõ tâm hồn và trái tim của em, con người đích thực của em.

Hình tượng sóng trong hai khổ thơ đầu là sự diễn tả tình cảm tha thiết của một trái tim yêu đang rạo rực. Những nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc êm dịu, lúc dữ dội như nhịp điệu của những con sóng đang vỗ vào bờ. Sóng, không chỉ thể hiện tình yêu, nó còn thể hiện cho quy luật vĩnh cửu vĩnh hằng của tạo hóa, cũng là của con người, của tình yêu: sóng luôn có mặt ở "bể" và khao khát yêu thương của con người cũng luôn luôn nồng cháy.

Thế nhưng, tình yêu bắt nguồn từ đâu, bắt nguồn từ khi nào, liệu có ai biết rõ? Những con sóng ngoài khơi xa bắt đầu từ đâu, liệu có ai biết chăng? Và thế là, người con gái băn khoăn tự hỏi bản thân mình hay cũng chính là hỏi những con sóng gợn:

"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau"

Đó là lời băn khoăn về nguồn cội của sóng, của tình yêu, là những băn khoăn, trăn trở của người con gái muốn được khám phá chính mình, khám phá người mình yêu, khám phá biển lớn. Câu hỏi "khi nào ta yêu nhau", một câu hỏi mà dường như không thể tìm được một lời lý giải hợp lý, bởi trong tình yêu đâu ai có thể biết trước được điều gì, đâu ai có thể cắt nghĩa được tình yêu:

"Làm sao cắt nghĩa được tình yêu
Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều
Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt
Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu"

Ngay cả Xuân Diệu – ông hoàng của thơ tình cũng chẳng thể lý giải nổi tình yêu, chỉ một sớm một chiều là nảy nở rực rỡ.

Một câu hỏi mà như diễn tả được tất cả tâm trạng của những đôi trai gái yêu nhau, họ băn khoăn tự hỏi nhau, tự hỏi lòng mình, thế nhưng chẳng ai có thể biết. Nếu như "Sóng bắt đầu từ gió" thì "gió bắt đầu từ đâu". "Sóng" là biểu tượng của tình yêu, là nỗi khát khao cháy bỏng của nữ thi sĩ, sóng bắt nguồn từ gió, tình yêu bắt nguồn từ những xúc cảm. Vậy xúc cảm bắt nguồn từ đâu? Chẳng ai có thể hiểu rõ! Chính nữ thi sĩ cũng chẳng thể biết được cảm giác tình yêu của mình bắt đầu từ khi nào! Vậy mới thấy cội nguồn của tình yêu, của "sóng" thật quá khó lý giải "từ nơi nào sóng lên", thật bí ẩn biết chừng nào!

Tình yêu chân thành với những nỗi nhớ triền miên trong tình yêu cứ day dứt, cứ bồi hồi, chiếm trọn lấy không gian, trải dài cả chiều sâu, chiều rộng, bề nổi, bề chìm của thời gian:

"Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được"

Con sóng cứ liên tiếp nối nhau mà xô vào bờ, cũng giống như nỗi nhớ của những người đang yêu, ở bất cứ nơi đâu, sóng cũng trào lên mạnh mẽ, xô vào bờ cát. Phạm vi của sóng mở rộng ra cả không gian, thời gian "dưới lòng sâu – trên mặt biển, ngày – đêm". Hình tượng sóng ở đây không đơn thuần là biểu tượng cho tình yêu nữa mà nó giống như một thực thể sống động. Nữ thi sĩ Xuân Quỳnh đã nhân hóa con sóng trở thành một nhân vật trữ tình với những xúc cảm của một con người thực thụ. Những nỗi nhớ bờ khiến sóng không thể đứng yên mà lúc nào cũng dạt dào vỗ vào bờ cát trắng. Thật tự nhiên, thật thơ mộng, đó là một quy luật không hề biến đổi qua năm tháng. Vì nhớ thương, con sóng cứ ngày đêm thao thức cùng thời gian, cùng đại dương mênh mông. Nỗi nhớ thương da diết trong tình yêu của người phụ nữ đã được Xuân Quỳnh nhấn mạnh trong hai câu thơ này. Tình yêu của người phụ nữ lúc nào cũng mãnh liệt, tha thiết như những con sóng ngoài biển cả.

Không chỉ bộc lộ qua hình ảnh của những con sóng, nhà thơ còn bộc lộ trực tiếp nỗi nhớ thương của mình qua lời thổ lộ:

"Lòng em nhớ tới anh
Cả trong mơ còn thức"

Nỗi nhớ đã ăn sâu, đi sâu vào trong tiềm thức của người phụ nữ, để đến trong mơ, ngẫm lại tình yêu đó cũng chợt mỉm cười hạnh phúc như đang còn thức, như đang mong nhớ người tình của mình.

Ở đây, con sóng trở thành một biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ, cũng dạt dào, mãnh liệt, mênh mông và liên tiếp như những con sóng ngoài đại dương đang nối nhau mà xô vào bờ.

Tiếp đến, nhà thơ dùng loại loạt những cặp từ đối lập nhau như "bắc – nam, xuôi – ngược" cùng các điệp từ "dẫu", "về", gợi lên hình ảnh của những con sóng cùng hành trình của nó ngoài đại dương xa xôi. Những con sóng cứ mải miết nối nhau gợi lên giữa mênh mông sóng nước, cũng như tình yêu của người phụ nữ và hành trình của cô đi tìm kiếm tình yêu đích thực của mình. Thế nhưng, dù ở bất cứ đâu, sóng cũng tìm cách để vỗ vào bờ, còn "em" dù ở nơi nào cũng luôn đăm đắm về phía "anh". Nỗi nhớ tình yêu sẽ lấp đầy những khoảng trống về khoảng cách, khó khăn. Hình tượng con sóng ở đây lại chợt biến chuyển trở thành hình ảnh gợi lên sự chờ đợi thủy chung của người phụ nữ, "em" tin vào tình yêu của mình, tin tưởng bằng tất cả tình yêu chân thành, tha thiết nhất, bằng trái tim nhiệt thành.

Bao nhiêu con sóng ngoài khơi xa, "trăm nghìn con sóng nhỏ", nhưng bất cứ ngọn sóng nào cũng luôn vỗ vào bờ, dù có vượt qua bao nhiêu gian nan, khó khăn và trắc trở. Tình yêu của "em" cũng vậy, "em" bằng lòng vượt tất cả để tìm đến được với tình yêu đích thực của mình.

"Ở ngoài đại dương kia
Trăm nghìn con sóng nhỏ
Con nào chẳng tới bờ
Dẫu muôn vàn cách trở"

Hình tượng con sóng cũng là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt, tha thiết của người phụ nữ. Hành trình tìm vào bờ của những con sóng, cũng là hành trình người phụ nữ đi tìm tình yêu của mình với một trái tim tha thiết nhất.

Yêu là thế, mãnh liệt, dạt dào là thế, nhưng không biết được tình yêu ấy có bền vững chăng? Vậy nên, sau tất cả những khát khao về sự tìm kiếm một tình yêu đích thực, người phụ nữ lại trăn trở về khát vọng có được một tình yêu vĩnh cửu. Nhìn những đám mây bay ngang qua mặt biển, những con sóng đang gợn lăn tăn mà nhân vật trữ tình chợt cảm thấy sự ngắn ngủi, nhỏ bé, sự hữu hạn của cuộc đời mình trước thời gian:

"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa"

Cuộc đời là một hành trình dài thế nhưng không phải là mãi mãi, "năm tháng" vẫn vội vã qua đi, nhanh đến nỗi chính như Xuân Diệu cũng đã từng ước để thời gian ngừng lại:

"Tôi muốn tắt nắng đi
Cho màu đừng nhạt mất
Tôi muốn buộc gió lại
Cho hương đừng bay đi"

Từng dòng thơ của Xuân Quỳnh cũng là từng lời trăn trở của nữ thi sĩ về lòng người trước cuộc đời. Biển dẫu rộng mênh mông là thế, mây cũng chẳng dừng chân ở lại vậy thì con người làm sao có thể biết trước được lòng người khác giữa những mênh mông của cuộc đời này?

Thế nhưng, sâu trong tâm hồn người phụ nữ vẫn có một niềm tin mãnh liệt với tình yêu của mình, sức mạnh của tình yêu sẽ giúp đôi lứa vượt qua cả không gian, thời gian để mãi mãi vững bền về sau. Những con sóng ở đây như nói hộ tấm lòng của người con gái:

"Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ".

Sóng lại trở lại là hình tượng của một tình yêu mãnh liệt với một khát vọng được trường tồn. Tình yêu được tạo nên từ những nỗi nhớ thương, từ những con "sóng" nhớ bé, thế nên, nhà thơ ước tình yêu ấy "tan ra" hòa chung với biển lớn tình yêu để trở lên bất diệt. Và đây có lẽ là khát vọng tha thiết và mãnh liệt nhất của người phụ nữ.

Hình tượng sóng trong bài thơ được gợi ra liên tiếp, là biểu tượng cho tình yêu của người phụ nữ đang yêu: mạnh mẽ, êm dịu, đằm thắm. Song hành với đó là khát vọng tìm được tình yêu đích thực, bất diệt trường tồn. Bài thơ là tiếng lòng của một người phụ nữ mong muốn vượt qua tất cả những giới hạn của thời gian, con người, không gian để hướng đến tình yêu vĩnh cửu, đích thực.

Ngay cả nhan đề của bài thơ, Xuân Quỳnh cũng đặt là "sóng", tất cả âm điệu của bài thơ, nhịp điệu thơ đều nhịp nhàng như tiếng những con sóng vỗ vào bờ. Nhịp thơ hồn nhiên, trong sáng, mạch thơ dìu dặt, êm đềm như âm điệu của những con sóng trên đại dương hay cũng là những con sóng ở trong lòng người phụ nữ.

Đặt bài thơ vào những năm 1967 khi mà cuộc kháng chiến chống Mỹ của dân tộc đang vào những hồi gay cấn nhất, ta mới hiểu được ý nghĩa nỗi khát khao tình yêu của người phụ nữ đến nhường nào.

Khép lại bài thơ, có một dư âm vẫn còn vang vọng mãi trong lòng người đọc chúng ta. Đó là dư âm về một người phụ nữ với một tấm lòng thủy chung, và khát vọng tình yêu mãnh liệt, khao khát có được tình yêu đích thực của đời mình. Với bài thơ này, Xuân Quỳnh xứng đáng trở thành một trong những nữ thi sĩ xuất sắc nhất trong nền thi ca Việt Nam.

Mô tả cuối: Sóng là bài thơ đặc sắc nhất của nhà thơ Xuân Quỳnh, đặt trong hoàn cảnh đất nước đang trong giai đoạn chiến tranh ác liệt, bài thơ không chỉ là tình yêu giữa đôi lứa mà còn là tình yêu của cái tôi với đất nước. Cùng tìm hiểu thêm các bài viết Bình giảng bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh, Phân tích hình tượng sóng trong bài thơ Sóng để hiểu rõ thêm về tác phẩm này của nữ thi sĩ.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 20)

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh có một giọng thơ rất duyên, vừa đằm thắm, vừa dịu dàng như chính tính cách của chị.

Đề tài tình yêu luôn thu hút nhiều thi nhân. Tất cả là để tìm câu trả lời cho tình yêu là gì và tình yêu bắt đầu từ đâu. Với Xuân Diệu: Làm sao định nghĩa được Tình yêu... Xuân Quỳnh đến với thơ tình là để bày tỏ niềm khao khát về một tình yêu lý tưởng, lại vừa hướng tới một hạnh phúc đời thường giản dị và thiết thực. Hình tượng "sóng" trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.

Phân tích hình tượng sóng để cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu:

* Hình tượng "sóng" và "em":

Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu.
- Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội - dịu êm - ồn ào - lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do.
- Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu nuôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này.
- Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp - nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió - gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau?

Không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này.

Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn.
- Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế.

* Hình tượng "sóng" và "em" bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ:

- Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) "Ngày đêm không ngủ được", cũng như thế em nhớ anh đến nỗi "cả trong mơ còn thức". Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt.
- Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: "Dẫu xuôi về phương bắc - Dẫu ngược về phương nam". Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lí của tình yêu.

Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư.
- Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, "Em" ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi "Em" cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc.
- Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa.
- Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. "Em" nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động.

Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời.

* Nét đặc sắc về nghệ thuật:

- Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một.
- Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng.
- Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm - Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nỗi mình - sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn - từ nơi nào sóng lên),v.v...
- Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt.
- Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ.
- Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội.

Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng "Sóng", không thể không xem xét nó trong mối tương quan với "Em".
- Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển.
- Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu "sóng không hiểu nổi mình" thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để "tìm ra tận bể", đến cái cao rộng, bao dung..Đó là những nét mới mẻ " hiện đại" trong tình yêu.

Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không yên lặng. "Vì tình yêu muôn thuở - có bao giờ đứng yên" (Thuyền và Biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 21)

Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn cùa nhà thơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm - hình tượng "sóng", cả bài thơ là những con sóng tâm linh của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm trạng của mình một cách chân thành, trong sáng.

Cả bài thơ, hình tượng "sóng" được gợi ra bằng âm điệu. Bài thơ có một âm điệu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, lúc thầm thì lắng sâu, gợi lên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp. Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm hồn không thể yên định, đầy biến động, chảy trôi và chất chứa những khát khao rạo rực.

Mỗi đặc tính của sóng đều tương hợp với một khía cạnh trạng thái của tâm hồn. Sóng "dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ", những trạng thái tương phản, cũng như tâm tính, tính khí của người con gái đang yêu: họ sống với những trạng thái trái ngược trong lòng, nó chứa đựng những khát khao và sức mạnh tiềm ẩn. Với khát vọng lớn lao như thế, sóng không chịu dừng lại ở sông, vì "không hiểu mình", sóng phải "tìm ra tận bể", hành trình ra bể rộng, từ bỏ những giới hạn chật hẹp tìm đến chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, nhận thức được mọi sức mạnh và khát khao của nó.

Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của loài người - nỗi khát vọng bồi hồi trong tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Sóng là sự nhận thức về cái (quy luật) không thể cắt nghĩa được của tình yêu.

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Sóng là nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó lấp đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Như nỗi lòng người con gái:
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Nếu như ở trên, sóng thể hiện sự vô biên và những bí ẩn của tình yêu, thì ở đoạn này những khát khao của sóng lại thật rõ ràng và giản dị: sóng khát khao tới bờ như em mong có anh. Tình yêu của người phụ nữ ở đây thật mãnh liệt, nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.

Cuối cùng, sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

https://thuthuat.taimienphi.vn/phan-tich-hinh-tuong-song-trong-bai-tho-song-42367n.aspx
Qua hình tượng "sóng" và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực "vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên" (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 22)

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ nữ khá nổi tiếng, xuất hiện trong thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Xuân Quỳnh có một giọng thơ rất duyên, vừa đằm thắm, vừa dịu dàng như chính tính cách của chị.

Đề tài tình yêu luôn thu hút nhiều thi nhân. Tất cả là để tìm câu trả lời cho tình yêu là gì và tình yêu bắt đầu từ đâu. Với Xuân Diệu: Làm sao định nghĩa được Tình yêu... Xuân Quỳnh đến với thơ tình là để bày tỏ niềm khao khát về một tình yêu lý tưởng, lại vừa hướng tới một hạnh phúc đời thường giản dị và thiết thực. Hình tượng "sóng" trong bài thơ đã thể hiện thật sinh động và hấp dẫn tâm trạng của người con gái đang yêu, bộc lộ vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu.

Những khổ thơ đầu tiên nhân vật trữ tình đang đối diện với sóng, cảm nhận về sóng, tìm thấy mối liên hệ giữa sóng và khát vọng tình yêu.

Hình tượng sóng ở khổ thơ đầu mang ý nghĩa tượng trưng cho tính khí và bản lĩnh của người phụ nữ. Con sóng là hiện thân của các đối cực dữ dội - dịu êm - ồn ào - lặng lẽ. Con sóng trung thực và thẳng thắn: khi sóng không hiểu nổi mình thì con sóng tìm đến biển, đến chân trời thoáng rộng, tự do.

Con sóng cũng tượng trưng cho khát vọng tình yêu muôn đời của tuổi trẻ. Con sóng ngàn đời nay vẫn thế, cứ đập vỗ vô hồi vô hạn. Tình yêu cũng vậy, luôn đồng nghĩa với tuổi trẻ. Tất cả chúng tồn tại vĩnh hằng trên mặt đất này.

Đứng trước sóng biển trùng trùng lớp lớp - nhân vật trữ tình (em) cảm nhận về nguồn gốc bí ẩn của tình yêu với hai câu hỏi: Sóng bắt đầu từ gió - gió bắt đầu từ đâu? khi nào ta yêu nhau? Không ai có thể trả lời cặn kẽ được câu hỏi này.

Đó chính là nỗi bí ẩn của tình yêu và cũng vì càng bí ẩn nên càng say đắm, hấp dẫn hơn.

Khi con người đối diện trước thiên nhiên rộng lớn như biển khơi rất dễ sinh ra cảm giác nhỏ nhoi, bất lực, thậm chí rơi vào cảm giác hư vô. Nhưng với tâm hồn nữ tính mang khát vọng tình yêu mãnh liệt thì Xuân Quỳnh hướng tất cả vào tình yêu trần thế.

Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ của người phụ nữ khi yêu, nhớ mọi nơi (không gian) lòng sâu, mặt nước, nhớ mọi lúc (thời gian) "Ngày đêm không ngủ được", cũng như thế em nhớ anh đến nỗi "cả trong mơ còn thức". Nghe qua có vẻ mơ hồ, vô lý. Nhưng không, em lúc nào cũng nhớ đến anh, trong mơ, khi thức, khi ngủ, khi tỉnh, khi mơ. Nhớ chính là biểu hiện của tình yêu, khi hết nhớ, cũng là lúc tình yêu chấm dứt.

Nhà thơ tiếp tục một cách nói rất lạ: "Dẫu xuôi về phương bắc - Dẫu ngược về phương nam". Đây là cách nói ngược với cách nói thông thường (ngược bắc xuôi nam). Nhà thơ cố ý lạ hóa ngôn từ để gây ấn tượng. Sự tinh tế nằm ngay trong cái nghịch lý của tình yêu.

Hơn nữa, đối với em, đâu chỉ có hai phương bắc và nam, mà còn có thêm một phương anh nữa, phương này là phương của tình yêu đôi lứa, là không gian của tương tư.

Cũng như Sóng, dù muôn vàn cách trở rồi cuối cùng cũng đến được bờ, "Em" ở đây, trên hành trình đi tìm hạnh phúc, cho dù gặp lắm chông gai, trắc trở, nhưng tin tưởng rồi "Em" cũng sẽ tới đến bến bờ hạnh phúc.

Cuộc đời tuy dài rộng, biển tuy vô tận bao la, nhưng tình yêu vẫn được cảm nhận thật cụ thể trong từng ngày tháng. Sống trong tình yêu con người không bao giờ cảm thấy hư vô mà cuộc đời luôn mới mẻ, đầy ý nghĩa.

Cũng như sóng giữa biển lớn tình yêu. Em cũng muốn có được một tình yêu lớn lao, bất tử. "Em" nhân vật trữ tình ở đây bỗng vụt lớn để sánh ngang với biển cả. Quả là một nỗi khao khát lớn lao và cảm động.

Quả thật, hình tượng sóng của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong tình yêu vừa tha thiết say đắm, vừa duyên dáng, nồng nàn mà vô cùng trong sáng cao đẹp của tình yêu đôi lứa muôn đời.

Sự liên tưởng hợp lí, tự nhiên giữa đặc điểm của sóng và đặc điểm của người con gái đang yêu. Sự liên tưởng này tạo nên hai hình tượng song song, nhưng hai mà một. Câu thơ năm chữ với những câu ngắn, đều nhau, tạo nên một ý niệm về hình thể của các con sóng, như con sóng dâng trào nhưng có khi chậm rãi nhẹ nhàng như lúc sóng êm biển lặng.

Nhịp điệu của các câu thơ thật đa dạng, mô phỏng cái đa dạng của nhịp sóng : 2/3 (dữ dội và dịu êm - Ồn ào và lặng lẽ). 1/2/2 (sông không hiểu nổi mình - sóng tìm ra tận bể), 3/1/1 (Em nghĩ về anh, em), 3/2 (Em nghĩ về biển lớn - từ nơi nào sóng lên),… Các cặp câu đối xứng xuất hiện liên tiếp, câu sau thừa tiếp câu trước, tựa như những đợt sóng xô bờ, sóng tiếp sóng dào dạt. Âm điệu của bài thơ với nhiều sắc điệu đa dạng, phong phú, tạo nên vẻ tự nhiên cho bài thơ.

Ngoài ra còn phải kể đến tính chất nữ tính trong cách diễn đạt của Xuân Quỳnh, trong cách nhìn sóng của chị: thật dịu dàng đằm thắm nhưng cũng thật dữ dội.

Sóng là hình ảnh ẩn dụ của tâm trạng người con gái đang yêu, là sự hóa thân, phân thân của cái "tôi" trữ tình của nhà thơ. Cùng với hình tượng "Sóng", không thể không xem xét nó trong mối tương quan với "Em".

Hình tượng sóng trước hết được gợi ra từ âm hưởng dào dạt, nhịp nhàng của bài thơ. Đó là nhịp của những con sóng trên biển cả liên tiếp, triền miên, vô hồi, vô hạn. Đó là âm điệu của một nỗi lòng đang tràn ngập, đang khát khao tình yêu vô hạn, đang rung lên đồng điệu, hòa nhập với sóng biển.

Qua hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã diễn tả vừa cụ thể vừa sinh động nhiều trạng thái, tâm trạng với những cung bậc tình cảm khác nhau trong trái tim của người phụ nữ đang rạo rực khao khát yêu đương. Mỗi trạng thái tâm hồn cụ thể của người con gái đang yêu đều có thể tìm thấy sự tương đồng của nó với một khía cạnh, một đặc tính nào đó của sóng.

Qua bài thơ Sóng, ta có thể cảm nhận được vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao yêu đương mãnh liệt và những rung động rạo rực trong lòng mình. Người phụ nữ ấy thủy chung, nhưng không còn nhẫn nhục cam chịu nữa. Nếu "sóng không hiểu nổi mình" thì sóng dứt khoát từ bỏ nơi chật hẹp đó để "tìm ra tận bể", đến cái cao rộng, bao dung..Đó là những nét mới mẻ " hiện đại" trong tình yêu.

Tâm hồn người phụ nữ đó khao khát, không yên lặng. "Vì tình yêu muôn thuở - có bao giờ đứng yên" (Thuyền và Biển). Nhưng đó cũng là một tâm hồn thật trong sáng, thủy chung vô hạn. Quan niệm tình yêu như vậy rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong tâm thức dân tộc.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 23)

Sóng là bài thơ tình đặc sắc của Xuân Quỳnh. Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn của nhà thơ cũng như những sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng trung tâm - hình tượng "sóng", cả bài thơ là những con sóng tâm linh của tác giả được khơi dậy khi đứng trước biển cả, đối diện với những con sóng vô hạn vô hồi. Sóng là một hình tượng ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ, lúc thì hòa nhập, lúc là sự phân thân của "em". Người phụ nữ trong bài thơ soi vào sóng để thấy rõ lòng mình, nhờ sóng để thể hiện tâm trạng của mình. Với hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã tìm được một cách diễn tả và biểu hiện tâm trạng của mình một cách chân thành, trong sáng.

Cả bài thơ, hình tượng "sóng" được gợi ra bằng âm điệu. Bài thơ có một âm điệu nhịp nhàng, lúc dạt dào sôi nổi, lúc thầm thì lắng sâu, gợi lên âm hưởng những đợt sóng liên tiếp. Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm hồn không thể yên định, đầy biến động, chảy trôi và chất chứa những khát khao rạo rực.

Mỗi đặc tính của sóng đều tương hợp với một khía cạnh trạng thái của tâm hồn. Sóng "dữ dội và dịu êm, ồn ào và lặng lẽ", những trạng thái tương phản, cũng như tâm tính, tính khí của người con gái đang yêu: họ sống với những trạng thái trái ngược trong lòng, nó chứa đựng những khát khao và sức mạnh tiềm ẩn. Với khát vọng lớn lao như thế, sóng không chịu dừng lại ở sông, vì "không hiểu mình", sóng phải "tìm ra tận bể", hành trình ra bể rộng, từ bỏ những giới hạn chật hẹp tìm đến chân trời bao la của tâm hồn. Ra đến bể rộng, con sóng mới thật sự tìm thấy mình, nhận thức được mọi sức mạnh và khát khao của nó.

Sóng là vĩnh hằng với thời gian, cũng như nỗi khát vọng tình yêu của loài người - nỗi khát vọng bồi hồi trong tim tuổi trẻ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Sóng là sự nhận thức về cái (quy luật) không thể cắt nghĩa được của tình yêu.

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Sóng là nỗi nhớ da diết, giày vò. Nó lấp đầy cả không gian, nó chiếm cả tầng sâu và bể rộng, nó trải dài trong mọi thời gian:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được

Như nỗi lòng người con gái:

Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Nếu như ở trên, sóng thể hiện sự vô biên và những bí ẩn của tình yêu, thì ở đoạn này những khát khao của sóng lại thật rõ ràng và giản dị: sóng khát khao tới bờ như em mong có anh. Tình yêu của người phụ nữ ở đây thật mãnh liệt, nhưng cũng thật trong sáng, dung dị, một tình yêu chung thủy và trọn vẹn.

Cuối cùng, sóng cũng nói giúp cho nhà thơ nỗi khát vọng được sống trọn vẹn, hết mình trong tình yêu, cho tình yêu và được hòa nhập với cái vĩnh hằng bằng chính tình yêu của mình:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Qua hình tượng "sóng" và cả bài thơ, chúng ta cảm nhận được sức sống và vẻ đẹp của một tâm hồn phụ nữ trong tình yêu. Người phụ nữ ấy mạnh bạo, chủ động bày tỏ những khát khao và rung động rạo rực của lòng mình trong tình yêu. Đó thật là một nét mới mẻ, thậm chí hiện đại trong thơ ca. Tâm hồn ấy giàu khát khao, không chút nào yên định mà luôn sôi nổi, rạo rực "vì tình yêu muôn thuở, có bao giờ đứng yên" (Thuyền và biển). Nhưng đó cũng lại là một tâm hồn trong sáng, tha thiết và đắm say, một tình yêu thủy chung, tuyệt đối dâng hiến trọn vẹn đến quên mình. Nó rất gần gũi với mọi người và có gốc rễ trong những quan niệm bền vững của dân tộc.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 24)

Xuân Quỳnh (1942-1988) là nhà thơ nữ giàu bản sắc trong nền thi ca Việt Nam hiện đại. Chị nổi tiếng với những bài thơ tình: "Hoa cúc xanh", "Sóng", "Thuyền và biển", "Nói cùng anh", "Mùa hoa doi", v.v...

Với Xuân Quỳnh thì tình yêu là "nguồn gốc của muôn ngàn khát vọng", làm nảy nở bao đức tính tốt, làm cho con người "thực sự Người hơn". Thơ tình của Xuân Quỳnh lúc nào cũng đằm thắm, nồng nàn, ngọt ngào, mê say. "Sóng" là bài thơ tình đặc sắc, thể hiện khát vọng tình yêu đắm say của người con gái trong mối tình đầu. Bài thơ được viết bằng thể thơ ngũ ngôn trường thiên, hình tượng "sóng" là ẩn dụ về "em", về người con gái đang mang trong trái tim mình một tình yêu đẹp.

Trạng thái của sóng trên biển, lúc thì "dữ dội", lúc thì "dịu êm", có lúc lại "ồn ào", có khi rất lặng lẽ. Và đó cũng là trạng huống tâm tình của lứa đôi trong tình yêu:

"Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ".

Hành trình của sóng từ sông ra biển cũng là khát vọng muốn vươn tới mọi chân trời mơ ước thương yêu. Sóng trường tồn với đại dương mênh mông cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của gái, trai, của lứa đôi xưa nay. Bởi lẽ "Làm sao sống được mà không yêu - Không nhớ không thương một kẻ nào" (Xuân Diệu), nên tình yêu đã trở thành khát vọng của tuổi trẻ. Lời giãi bày về tình yêu của người thiếu nữ rất chân thực và nồng nàn:

"Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ".

Con sóng tình yêu có vỗ triền miên, vỗ xôn xao trong lòng "Những cô gái da mịn màng như lụa - Những chàng trai đang độ hai mươi" (Hoa cúc vàng) thì mới xúc động "bồi hồi" như vậy. Có yêu đời thiết tha, có yêu cuộc sống một cách nồng hậu, "Không muốn đi, mãi mãi ở vườn trần" (Xuân Diệu) thì mới tìm thấy vị ngọt của tình yêu, khi tình yêu trở thành khát vọng.

Nhìn trùng dương sóng bể, người thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về mối tình đầu, nghĩ về duyên số, "em nghĩ về anh, em", và tự hỏi: "Từ khi nào sóng lên". Cái huyền diệu của vũ trụ, của sóng đại dương cũng như cái huyền diệu của tình yêu thật vô cùng. Thiếu nữ hỏi sóng hay tự hỏi mình, một câu hỏi tràn ngập tình thương yêu:

"Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau".

Tình yêu là sự sống muôn đời nơi "vườn trần" nhưng "Làm sao cắt nghĩa được tình yêu" (Xuân Diệu). Câu thơ "Khi nào ta yêu nhau" diễn tả đúng nỗi niềm những lứa đôi đã chớm vị ngọt của tình yêu nồng nàn, say đắm. Cái giây phút "thắm lại" của lứa đôi trong mối tình đầu, tuy không xác định được, nhưng không bao giờ có thể quên. Thi sĩ Thế Lữ, 70 năm về trước gọi đó là "cái thuở ban đầu lưu luyến" vô cùng đắm đuối và thiêng liêng:

"Cái thuở ban đầu lưu luyến ấy
Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?".

Sóng được nhân hóa, "sóng nhớ bờ", sóng "ngày đêm không ngủ được", dù ở "dưới lòng sâu", hay "ở trên mặt nước". Sóng ru, sóng reo, sóng hát ca, sóng vỗ suốt đêm ngày trên đại dương mênh mông. Cũng như bến đợi thuyền, thuyền nhớ bến, "thôn Đoài thì nhớ thôn Đông..." người con gái lúc nào cũng bồi hồi thương nhớ:

"Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức".

Đây là câu thơ rất hay nói lên một tình yêu nồng nàn, say đắm. Thiếu nữ đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của mình. Em nhớ anh triền miên, bổi hổi bồi hồi suốt ngày đêm "cả trong mơ" và cả trong lúc "còn thức". Một chữ "nhớ" tràn ngập tình yêu thương.

Thủy chung là một trong những phẩm chất cao đẹp của tình yêu lứa đôi. Tình yêu cho lứa đôi sức mạnh để vượt qua mọi thử thách "tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cũng qua", chiến thắng mọi cách trở về không gian và thời gian. Phương Bắc và phương Nam, dẫu xuôi và ngược... nhưng tình em vẫn thiết tha mặn nồng:

"Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương

Cấu trúc đoạn thơ: "dẫu ... cũng...", chữ "dẫu" được điệp lại hai lần cho ý thơ được nhấn mạnh, đó là lòng son sắt thủy chung. Các vị ngữ: "cũng nghĩ", "hướng về" liên kết với số từ "một" (một phương) là sự khẳng định một lời thề đinh ninh, như thi sĩ Tản Đà đã nói trong "Thề non nước":

"Dù cho sông cạn đá mòn,
Còn non còn nước hãy còn thề xưa".

Tình yêu đẹp đem đến cho "em" một niềm tin mãnh liệt. Sóng nhất định tới bờ dù trùng dương có "muôn vời cách trở". Sóng đã nói hộ lòng về niềm tin, con thuyền tình nhất định sẽ cập bến bờ hạnh phúc:

"Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở"

Xuân Quỳnh trong đời thường tuy đã uống bao vị ngọt tình yêu, nhưng chị cũng đã từng nếm ít nhiều cay đắng trong tình ái. Có điều, mỗi lần đối diện với những thử thách, chị vẫn hồn hậu dào dạt niềm tin về hạnh phúc mà tình yêu nhất định sẽ đem đến. Đây là một khổ thơ giàu ý vị và sáng ngời niềm tin:

"Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa".

"Tuy... vẫn...", "dẫu... vẫn", cấu trúc ấy làm cho ý thơ được khẳng định, niềm tin được khẳng định. "Năm tháng" và "mây" là hai hình ảnh ẩn dụ về niềm tin trong tình yêu. Năm tháng sẽ đi qua cuộc đời dài, mây sẽ vượt biển rộng để bay về xa. Có thời gian nào, không gian nào mà con thuyền tình không vượt qua để vươn tới hạnh phúc?

Khổ cuối là lời ước nguyện của em, của người thiếu nữ trong mối tình đầu. Em muốn được "tan ra", muốn được hóa thân thành "Trăm sóng nhỏ - Giữa biển lớn tình yêu - Để ngàn năm còn vỗ". Tình yêu không làm cho em bé nhỏ và ích kỉ. Em mơ ước về tình yêu đẹp, bền vững trong hạnh phúc, được yêu và được sống "giữa biển lớn tình yêu" để ngàn năm "còn vỗ"... Ước nguyện ấy mang tính nhân văn cao đẹp.

"Sóng" cũng như nhiều bài thơ tình khác của Xuân Quỳnh phản chiếu một tâm hồn trung hậu, rất yêu đời, sống hết mình với tình yêu, coi tình yêu và hạnh phúc là khát vọng. Lấy hình tượng "sóng", Xuân Quỳnh đã giãi bày rất chân thực về khát vọng tình yêu của người con gái: đinh ninh lời thề, thương nhớ bồi hồi, thủy chung sắt đá, tin tưởng về hạnh phúc tình yêu trọn vẹn vững bền.

Bài thơ cho thấy cái mới và tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Người con gái giãi bày về tình yêu chứ không phải người con gái "được yêu" như trong ca dao, trong nhiều bài thơ tình khác. Cũng là "sóng" ẩn dụ, nhưng trong bài thơ tình "Biển"của thi sĩ Xuân Diệu "sóng" lại là hình ảnh người con trai đa tình:

"Anh xin làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ thật êm
Hôn êm đềm mãi mãi
Đã hôn rồi hôn lại
Hôn mãi đến muôn đời
Đến tan cả đất trời
Anh mới thôi dào dạt...".

Qua đó, ta thấy rõ cá tính sáng tạo trong thơ tình của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng, nhịp điệu sóng, và tiếng xôn xao "bồi hồi trong ngực trẻ" về khát vọng tình yêu trong bài thơ tình này đã từng ru biết bao chàng trai cô gái thời áo trắng trong những giấc mộng đẹp!

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 25)

Nói về đề tài tình yêu trong thơ ca nói chung và trong thơ Xuân Quỳnh nói riêng, Sóng - một bài thơ tình nổi tiếng của Xuân Quỳnh. Hình tượng sóng thể hiện những trạng thái người phụ nữ trong tình yêu thấm đẫm chất trữ tình trong sáng.

Hình tượng "Sóng" được tái hiện qua nhạc điệu bài thơ. Hình tượng Sóng đi: tả những cảm xúc, những sắc thái tình cảm vừa phong phú đa dạng, vừa thiết tha, sôi nổi của một trái tim đang rạo rực yêu đương.Hình tượng sóng hiện lên qua nhịp điệu nhẹ nhàng, lúc sôi nổi dồn dập, dịu êm, sâu lắng như nhịp sóng ngoài biển khơi, cũng là nhịp của những con sóng tình cảm của một trái tim khao khát yêu đương.

Nhà thơ sử dụng thể thơ 5 chữ với những dòng thơ liền mạch ít ngắt nhịp. Sự trở đi trở lại hồi hoàn của hình tượng sóng, biện pháp điệp từ ngữ, điệp cấu trúc, những từ láy... đã tạo nên nhạc điệu của những con sóng, đợt song liên tiếp gối lên nhau lúc tràn lên sôi nổi, lúc lắng lại dịu êm.

Hình tượng sóng mang ý nghĩa biểu tượng cho tình yêu và tâm trạng nhân vật trữ tình (người phụ nữ) trong bài thơ.

Sóng là biểu tượng cho sự bí ẩn trong tình yêu, biểu tượng cho niềm khát khao một tình yêu lớn, một tình yêu mãnh liệt.

Khổ thơ thứ nhất thể hiện hai trạng thái của sóng cũng là hai trạng thái của tình yêu tưởng như đối lập nhưng rất thống nhất (dữ dội - dịu êm; ồn ào lặng lẽ). Đó là sự bí ẩn của tình yêu. Cũng như sóng, con người tìm đến với tình yêu" để hiểu mình hơn (Sóng không hiểu nổi mình/ Sóng tìm ra tận bể).

Khổ thơ thứ hai là sự phát hiện sự tương đồng giữa sóng và quy luật muôn thuở của tình yêu. Sóng "ngày xưa" và sóng "ngày sau" vẫn thế giống như "nỗi khát vọng tình yêu/ bồi hồi trong ngực trẻ".

Khố thơ thứ ba và thứ tư tác giả dùng để cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng và nơi bắt đầu của tình yêu. Cái hay của đoạn thơ là sự đầu hàng của nhận thức, là sự bất lực trong lôgic lí trí (Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau).

Sóng là biểu tượng cho nỗi nhớ trong tình yêu của người phụ nữ.Con sóng thao thức ở mọi chiều không gian, thời gian cũng như: "Lòng em nhớ đến anh / Cả trong mơ còn thức". Nhà thơ dùng liên tưởng đan cài để đồng nhất "sóng" và "em".

Sóng là biểu tượng cho sự thủy chung trong tình yêu của người phụ nữ. Nhà thơ sử dụng kết cấu: dẫu... thì... cùng với những đối lập (xuôi - ngược, bắc - nam) để khẳng định: "Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương". Ngoài việc khẳng định tình yêu chung thủy, Xuân Quỳnh còn muốn đề cập đến những thử thách trong tình yêu. Tình yêu cho ta sức mạnh vượt qua thử thách và qua thử thách tình yêu càng thêm bền vững.

Sóng là biểu tượng cho những trăn trở, lo âu trong cõi lòng người phụ nữ đang yêu. Đó là nỗi lo âu về cái hữu hạn của đời người, của tình yêu.

...Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Sóng là biểu tượng cho khát vọng mãnh liệt muốn bất tử hóa tình yêu. Những thơ sử dụng những đại lượng 1ớn có tính ước lệ (trăm, ngàn) cùng với những hình ảnh thuộc về vô biên (biển, sóng). Khát vọng của tâm hồn người phụ nữ đang yêu thật mãnh liệt. Đó là khát vọng của muôn đời, muôn người, khát vọng mang giá trị nhân văn sâu sắc, cao đẹp.

Sóng là một hình tượng không mới nhưng trở nên rất đẹp, một vè đẹp rất riêng trong cảm nhận của hồn thơ Xuân Quỳnh. Bằng hình tượng sóng, Xuân Quỳnh đã nói được những điều giản dị mà lớn lao của tâm hồn người phụ nữ đang yêu. Khát vọng tình yêu được gửi vào sóng khát vọng thành thực, khẩn thiết, nồng nàn và rất nhân văn.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 26)

Xuân Quỳnh là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mỹ. Trong giàn đồng ca của thơ trẻ chống Mỹ, Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ trẻ trung, đầy nữ tính. Cũng bám sát cuộc sống lao động và chiến đấu anh hùng của con người Việt Nam, nhưng Xuân Quỳnh còn thể hiện được cả một khát vọng mãnh liệt về tình yêu. Điểm đặc sắc trong thơ tình yêu của Xuân Quỳnh là: vừa khát khao một tình yêu lí tưởng vừa hướng tới một hạnh phúc thiết thực của đời thường. Tất cả những điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, tự nhiên và hồn nhiên gần như bản năng vậy. Nhắc đến Xuân Quỳnh người ta thường nhắc đến những bài nổi tiếng: “Thuyền và biển”, “Thơ tình cuối mùa thu”, “Tự hát”… và nhất là “Sóng” – bài này được rút ra từ tập “Hoa dọc chiến hào”. Có thể nói, “Sóng” đã kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ này.

Hình tượng bao trùm cả bài thơ này không có gì khác hơn là sóng. Sóng vừa được gợi ra trong một âm điệu rất phù hợp, vừa được tái tạo với hàng loạt ý nghĩa phong phú của nó. Một bài thơ chân chính bao giờ cũng tác động vào tâm hồn người đọc trước tiên bằng âm điệu của nó. Người đọc còn chưa kịp hiểu chi tiết hình ảnh thì đã bị cuốn theo âm điệu, nói một cách khác, âm điệu đã xâm chiếm tâm hồn người đọc. Âm điệu của một bài thơ bao giờ cũng là sự hoà điệu nhuần nhụy giữa cảm xúc thơ và tiết điệu ngôn ngữ. Vì thế âm điệu chứa đựng tính chất của tình cảm thơ. Ẩn náu trong âm điệu là cái hồn, cái thần của xúc động thơ. Vì những lý do ấy mà đọc thơ điều trước tiên và cũng là khó nhất, ấy là phải cảm nhận và nắm bắt cho được âm điệu của nó.

Đọc bài thơ “Sóng”, chúng ta còn chưa hiểu các ý nghĩa của sóng nhưng ai cũng dễ bị âm điệu cuốn hút. Bởi âm điệu thơ ở đây cũng là âm điệu của sóng biển. Thi sĩ đã khéo đưa nhịp triền miên của sóng vào thơ hay sóng biển đã khuấy động hồn người tạo nên sóng lòng và sóng lòng đã tràn ra câu chữ mà thành sóng thơ?

Âm điệu thơ phụ thuộc khá nhiều vào thể loại. Xem ra, thể thơ ngũ ngôn ở đây đã phát huy được sở trường riêng của nó. Khéo khai thác sự biến hoá phong phú về cả vần và nhịp của ngũ ngôn, Xuân Quỳnh đã sử dụng nhuần nhuyễn nhịp thơ để tạo ra nhịp sóng. Nói riêng khổ thơ đầu, hai câu đầu đi nhịp 2/7/3:

Dữ dội / và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ

thì hai câu tiếp theo đã chuyển nhịp 3/2 (cầu kỳ hơn là 1/2/2):

Sóng/ không hiểu /nổi mình
Sóng/ tìm ra tận bể

Nhịp thơ thay đổi như vậy đã giúp Xuân Quỳnh mô phỏng được nhịp sóng vốn biến đổi rất mau lẹ, biến hoá không ngừng. Cách tổ chức ngôn từ cũng góp phần tạo ra âm điệu của bài thơ. Thi sĩ đã triệt để tận dụng lối tổ chức theo nguyên tắc tương xứng, hô ứng, trùng điệp. Nhất là việc tạo ra các cặp từ, các vế câu, các cặp câu, thậm chí ngay cả các khổ thơ cũng hình thành những cặp đi liền kề, kế tiếp luân phiên đáp đổi nhau về bằng trắc nữa. Vế tiếp vế, câu tiếp câu. Ở đây vừa “dữ dội và dịu êm” - “ồn ào và lặng lẽ”, ngay đó đã là:

“Ôi con sóng ngày xưa – và ngày sau vẫn thế…

cứ thế:

- Em nghĩ về anh em
Em nghĩ về biển lớn

- Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước

- Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam ...

Cặp này vừa lướt qua, cặp khác đã xuất hiện, tựa như con sóng này vừa lịm xuống, con sóng khác đã trào lên. Nhờ đó âm điệu thơ gợi được hình ảnh những con sóng trên mặt biển, cứ miên man, khi thăng khi giáng, khi bổng khi trầm, vô hồi vô hạn. Ta cứ thấy trong âm điệu nhấp nhô những con sóng nối tiếp nhau, gối đầu lên nhau, xô đuổi nhau bất tận. Vậy là, trước khi sóng hiện hình qua những hình ảnh cụ thể thì chúng ta đã nghe thấy tiếng sóng trong âm hưởng, âm điệu.

Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ. Nhưng cũng cần phải thấy thi phẩm này có một lối cấu trúc hình tượng khá độc đáo. Mỗi bài thơ thường vẽ ra hình tượng tác giả của nó. Hình tượng tác giả trong bài thơ không hề đồng nhất với con người thi sĩ ở ngoài đời. Nhà thơ thường chọn một tư thế một dáng điệu trong thơ để phô diễn tâm tình của mình sao cho phù hợp nhất. Có thể Xuân Quỳnh viết bài thơ này tại nhà của mình. Nhưng hình tượng tác giả trong bài thơ lại là người phụ nữ đang đứng trước biển, đối diện với đại dương, với sóng để suy tư ngẫm nghĩ và khát khao. Mỗi một phát hiện về sóng người phụ nữ ấy lại liên tưởng đến mình và tình yêu. Bởi thế, mỗi một khám phá về sóng cũng là một khám phá về chính mình. Xuân Quỳnh nhìn thấy mình ở trong sóng và thấy sóng ở trong mình. Vì thế mà sóng là hoá thân, là phân thân của cùng một cái tôi Xuân Quỳnh. Sóng và Em trở thành hai hình tượng xuyên suốt, khi tách rời, khi hoà nhập, chuyển hoá sang nhau, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Đến nỗi, ta có thể khẳng định sóng là cái tôi thứ hai của Xuân Quỳnh, mỗi một khổ thơ là một khám phá về sóng, mỗi một khổ thơ, sóng lại hiện lên một ý nghĩa khác. Cho nên không thể lược qui riêng vào một ý nghĩa nào, mà phải nắm bắt hình tượng sóng với tất cả các ý nghĩa của nó. Và chỉ có thể nói rằng sóng là tâm hồn, là khát vọng, là tình yêu của người phụ nữ mà thôi.

Mở đầu bài thơ, sóng hiện ra với một ý nghĩa rất đặc biệt: sóng mang nữ tính. Nghĩ thật thú vị, nam thi sĩ Xuân Diệu thấy sóng biển là một chàng trai đang yêu bờ đắm đuối cuồng nhiệt. Còn nữ sĩ Xuân Quỳnh lại thấy sóng mang trong nó khí chất của người phụ nữ. Có phải nhà thơ trữ tình thường có thiên hướng áp đặt cái tôi của mình vào đối tượng chăng? Phải nói rằng đây là một tiếng nói đầy kiêu hãnh về giới mình;

Dữ dội và dịu êm
… tận bể

Trong khí chất của sóng, thấy có sự hài hoà của các đối cực, vừa dữ dội nhất vừa dịu êm nhất, vừa ồn ào nhất vừa lặng lẽ nhất. Và mỗi con sóng nhỏ lại mang trong mình một khát vọng lớn, và đó là khát vọng về sự lớn lao. Vì mang khát vọng lớn mà sóng trở nên quyết liệt. Vâng, nếu một khi xảy ra chuyện sông không hiểu nổi mình thì dứt khoát “Sóng tìm ra tận bể”. Sóng sẽ từ bỏ sư chật chội, nhỏ hẹp để tìm đến sự lớn lao, bao dung, khoáng đạt.

Đứng trước biển, con người ta dễ có cảm giác rằng: nghìn năm trước khi chưa có mình biển vẫn thế này, nghìn năm sau khi mình đã tan biến khỏi mặt đất rồi, biển vẫn thế kia. Vẫn những con sóng từ ngoài xa mải miết chạy vào bờ, tan mình trên bờ bãi. Biển vẫn xôn xao, cồn cào, xáo động thế! Biển là hình ảnh của sự bất diệt. Đối diện với sự bất diệt có thực của biển người ta liên tưởng đến sự bất diệt khác: sự bất diệt của khát vọng! Chừng nào còn tuổi trẻ, chừng ấy khát vọng tình yêu vẫn bồi hồi vỗ sóng trong lồng ngực họ:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Đến khổ thơ thứ ba, sống lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu! Đứng trước biển, người phụ nữ ấy muốn cắt nghĩa vẽ nguồn gốc của sóng. Những nỗ lực ấy trở nên bất lực. Nguồn gốc của sóng cũng huyền bí như nguồn gốc của tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

“Khi nào ta yêu nhau?”, câu hỏi ấy dường như làm băn khoăn mọi đôi lứa. Và không ai trả lời được tới cùng? Càng yêu nhau say đắm bao nhiêu người ta càng thấy rằng tình duyên của mình là không thể giải thích được. Người ta thường thiêng liêng hoá tình yêu. Nó là sự gặp gỡ trong kiếp này, nhưng biết đâu lại là sự hò hẹn từ kiếp trước. Người ta chỉ muốn tin thế! Và phải tin thế tình yêu của con người mới trở nên linh thiêng!

Rồi cứ thế, sóng là nỗi nhớ của tình yêu: “Con sóng dưới lòng sâu – Con sóng trên mặt nước – ôi con sóng nhớ bờ – Ngày đêm không ngủ được – Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức”, là lòng thuỷ chung: “Dẫu xuôi về phương Bắc – Dẫu ngược về phương Nam – Nơi nào em cũng nghĩ – hướng về anh một phương”. Là hành trình đến với hạnh phúc của những lứa đôi: “Ở ngoài kia đại dương – Trăm nghìn con sóng đó – Con nào chẳng tới bờ – Dù muôn vàn cách trở”. Là sự không cùng của khát vọng: ”Cuộc đời tuy dài thế – năm tháng vẫn đi qua – Như biển kia dẫu rộng – Mây vẫn bay về xa”… Cứ thế, lời thơ triền miên cùng với sóng. Để đến cuối cùng, nó hiện ra trong khao khát mãnh liệt nhất và cũng là khao khát vô biên tuyệt đích nhất: khao khát bất tử. Điều này là một lôgic hiển nhiên. Đứng trước biển, người ta đối diện với sự vô cùng vô tận của không gian, cũng là đối diện với sự vô thuỷ vô chung của thời gian và nhãn tiền là sự vô hạn vô hồi của biển cả. Người ta khó tránh khỏi cảm giác rợn ngợp. Thấy đời người thật là ngắn ngủi, kiếp người thật là nhỏ nhoi phù du, vô nghĩa. Chỉ có biển kia là vẫn thế. Chỉ có biển kia là bất diệt. Thân phận phù du nào cũng muốn hoá vĩnh hằng! Người ta thèm muốn được bất tử. Người phụ nữ này cũng thế. Chị muốn được có mặt mãi trên cõi đời này. Để được sống! Để được yêu! Sống trong tình yêu ấy là hạnh phúc. Thế là khát khao ấy đã dâng lên mãnh liệt khôn cùng:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Bài thơ dẫu đã khép lại, nhưng những con sóng đó vẫn cồn cào trong ngực biển, trong lồng ngực những lứa đôi không bao giờ ngừng nghỉ!

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 27)

Xuân Quỳnh nhà thơ của tình yêu và hạnh phúc đời thường. Những vần thơ của bà rất dung dị, nhưng lại diễn tả chính xác những cung bậc tình cảm, cảm xúc của người con gái khi yêu, khi có gia đình. Đó là nỗi băn khoăn, thắc thỏm, là tình yêu da diết, bùng cháy. Trong các thi phẩm của mình, ngày từ khi mới ra đời Sóng đã gây được tiếng vang lớn, với hình tượng sóng, tác giả đã góp phần thể hiện khát khao tình yêu mãnh liệt, bền bỉ của mỗi con người.

Sóng xuất hiện ngay từ nhan đề của tác phẩm. Sóng ở đây không chỉ là những lớp sóng ào ạt của biển khơi, mà con là sóng lòng trong tâm hồn con người, có lẽ đây mới là lớp sóng mà Xuân Quỳnh muốn hướng đến. Đọc cả chiều dài tác phẩm ta có thể thấy, sóng tồn tại hai lớp nghĩa song song, sóng biển và sóng là những khát vọng tình yêu, hạnh phúc của “em”.

Mở đầu bài thơ là những lớp sóng vừa dữ dội, vừa êm dịu đan cài vào nhau:

“Dữ dội và dịu êm
ồn ào và lặng lẽ

...

Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”

“Dữ dội” và “dịu êm”, “ồn ào” và “lặng lẽ” hàng loạt các trạng thái trái ngược nhau được diễn tả chỉ trong hai câu thơ. Đây trước hết là hình ảnh của những con sóng thật, khi dữ dội, mạnh mẽ khi lại êm đềm. Nhưng nếu chỉ có vậy, thì hình tượng sóng lại trở nên quá tầm thường. Đằng sau lớp nghĩa tả thực đó chính là những cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu, khi nồng nàn, tha thiết, cuồng nhiệt, có khi lại dịu dàng, êm đềm, lặng lẽ.

Người con gái không chịu bó mình trong không gian nhỏ hẹp mà vươn mình ra biển lớn để có thể lí giải mọi điều mình thắc mắc. Hành trình ấy chính là hành trình khám phá để tự hiểu mình hơn, để có thể hiểu được những khát vọng cháy bỏng đang tồn tại trong bản thân: “Nỗi khát vọng tình yêu/ Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Giữa muôn trùng sóng biển, người con gái nghĩ về chuyện tình yêu của mình và tự hỏi: “Sóng bắt đầu từ gió/ Gió bắt đầu từ đâu/ Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Nếu như sóng có thể truy nguyên được nguồn gốc, sóng bắt đầu từ những cơn gió, nhưng tình yêu em dành cho em không thể cắt nghĩa, lí giải. Xuân Diệu cũng đã từng tìm cách cắt nghĩa tình yêu: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu/ Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều/ Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt/ Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu...”. Nhưng dường như cả hai thi sĩ đều bất lực trước hành trình cắt nghĩa lí giải đó. Tình yêu là thế vừa thực, vừa hư, vừa trong tay mà phút chốc đã xã tầm với.

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Đoạn thơ được Xuân Quỳnh vận dụng linh hoạt các biện pháp điệp từ, nhân hóa “sóng nhớ bờ” “ngày đêm không ở được” đã diễn tả nỗi nhớ da diết, cồn cào, mãnh liệt, có sức lan tỏa rộng trong không gian của làn sóng cũng là nỗi lòng của người con gái khi yêu. Để rồi câu thơ tiếp theo, nỗi nhớ ấy không bộc bạch qua hình ảnh ẩn dụ nữa mà chính bằng lời thổ lộ của người con gái: “Lòng em nhớ đến anh/ Cả trong mơ còn thức”. Cụm từ “cả trong mơ còn thức” thực tế là vô lí, nhưng lại là logic hợp lí trong tình yêu.

Ông cha ta đã từng nói rằng, yêu nhau “tam tứ núi cũng trèo, ngũ lục sông cũng lội, thất bát đèo cùng qua”. Có tình yêu sẽ đem lại sức mạnh cho con người vượt qua mọi khó khăn, thử thách, dù muôn vàn cách trở như phương Bắc, phương Nam cũng không thể chia tách được tình yêu đôi lứa: “Dẫu xuôi về phương Bắc/ Dẫu ngược về phương Nam/ Nơi nào em cũng nghĩ/ Hướng về anh một phương”. Và như để khẳng định thêm về tình yêu thủy chung, về hạnh phúc tất yếu của lứa đôi, Xuân Quỳnh lại tiếp tục mượn hình tượng sóng:

“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó|
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”

Trong hai khổ thơ cuối cùng, tác giả đã sử dụng sóng để nói lên những khát vọng của mình trong tình yêu: “Cuộc đời tuy dài thế/.../ Để ngàn năm còn vỗ”. Cuộc đời tuy dài rộng, tuy nhiều thăng trầm, biến đổi nhưng tình yêu nhất định sẽ còn lại mãi, và ai cũng sẽ tìm được bến bờ hạnh phúc của mình. Cấu trúc “Tuy...vẫn...” “Dẫu ...vẫn” như một lần nữa khẳng định chân lí đó của Xuân Quỳnh. Khép lại bài thơ là nguyện ước chân thành của trái tim tha thiếu yêu đương, muốn được tan ra, muốn được tận hiến cho tình yêu. Tan ra ở đây không có nghĩa là mất đi mà là hòa nhập trọn vẹn trong tình yêu, và sống vững bền với tình yêu đó. Đây là mơ ước hết sức nhân văn, cao cả.

Với hình tượng sóng giàu giá trị biểu đạt, đã cho thấy sự sáng tạo của Xuân Quỳnh, tài năng nghệ thuật của bà. Thông qua hình tượng này, tác giả giãi bày một cách trọn vẹn tình yêu mạnh mẽ, táo bạo của người con gái khi yêu. Không còn là cái e ấp, rụt rè của những người con gái trong ca dao, mà là một trái tim mãnh liệt, khát khao và dám cống hiến trong tình yêu. Hình tượng sóng đã góp phần tạo nên sự thành công cho tác phẩm.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 28)

Xuân Quỳnh là một trong những nhà thơ viết về tình yêu hay nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Nhà thơ đã dể lại nhiều bài thơ tình đặc sắc: Thuyền và biển, Dẫu em biết ràng anh trở lại, Tự hát, Hoa cỏ may, Thơ tình cuối mùa thu.,. Trong đó bài thơ Sóng ngay từ khi ra đời đã được nhiều thế hệ thanh niên ưa thích. Sóng là hình tượng trung tâm của bài thơ đã góp phần diễn tả sức sống, niềm khát khao mãnh liệt của tâm hồn nhà thơ về tình yêu, về cuộc sống.

"Sóng” hiện lên như một hình tượng hai nghĩa: vừa là con sóng thật ngoài biển cả, vừa là hình ảnh tượng trưng cho nỗi khát khao hạnh phúc, khát vọng tình yêu của người phụ nữ trong bài:”Em”.

Nét đặc sắc đầu tiên của bài thơ là âm điệu, tự nó tạo thành một hình tượng sóng. Thể thơ năm chữ của bài thơ rất phù hợp với nhịp điệu tâm trạng của người con gái đang yêu. Bài thơ gồm mười khổ, chỉ có một khổ hai câu, các khổ còn lại: mỗi khổ bốn câu, Âm điệu của bài thơ chủ yếu được thể hiện bằng thanh bằng; các thanh trắc chiếm một tỉ lệ rất thấp. Chính đặc điểm này đã tạo nên sự nhịp nhàng cho âm điệu, nó vừa mô phỏng được nhịp điệu của sóng biển vừa mô phỏng nhịp điệu của tâm hồn. Mà xét đến cùng cái chính ở đây là nhịp của tâm hồn, nhịp của một tâm trạng tha thiết yêu thương. Nhịp điệu vào – ra, đều đều, vô tận của con sóng còn được tạo nên bằng những đối sánh liên tiếp phân thành hai cực: dữ dội – dịu êm, ồn ào – lặng lẽ, sông – bể, ngày xưa – ngày nay; lòng sâu – mặt nước, ngày – đêm, xuôi – ngược, phương Bắc – phương Nam, đại dương – bờ, dài – rộng, sóng nhỏ – biển lớn.

Sóng là biểu tượng của hình ảnh người con gái, đam mê và khao khát tình yêu, là biểu tượng của sự sống mãnh liệt, của một tình yêu muôn đời một tình yêu vĩnh cửu.

Tại sao nhà thơ dùng hình tượng sóng để bộc lộ lòng mình?

Đó là do sự trùng hợp đến lạ lùng giữa những trạng thái tâm hồn với những đặc tính của sóng; sự tương đồng giữa nhịp điệu của tự nhiên, của đời sống với nhịp điệu của tình cảm, của thế giới khát khao con người. Cũng không phải ngẫu nhiên mà nhiều nhà thơ đã dùng hình tượng biển, sóng để nổi lên sự mãnh liệt, nỗi khát khao, sự dâng đầy, niềm sôi sục, mê đắm của sự sống, của tình yêu (Xuân Diệu – Biển, Xuân Quỳnh – Thuyền và biển). Con sóng "dữ dội và dịu êm", "ồn ào và lặng lẽ" cũng là tâm tình của người phụ nữ đang yêu. Đó là trạng thái đối nghịch nhưng lại là sự thật của những bí ẩn tâm hồn. Vẻ ngoài bình lặng chứa đựng những sức mạnh ẩn tàng, những khát khao mạnh mẽ. Vẻ ngoài sôi sục, dữ dội che phủ một trái tim đằm thắm, nhân hậu, yêu mến và chở che. Chính cái bí ẩn kì lạ đó, nó khơi dậy những khát vọng lớn lao: Sóng tìm ra tận bể, vượt những giới hạn chật chội, con sóng mới thực sự tìm thấy mình, tức nhận thức được sức mạnh, nỗi khát khao, niềm sôi sục của mình, cũng như người con gái, khi đối diện với tình yêu mới hiểu nổi mình, hiểu được giá trị mình nhận thức được mình, cảm nhận hết được sức mạnh cùng khát vọng tình yêu của mình.

Và cũng chẳng khác gì với sóng, khát vọng tình yêu của loài người mãi mãi tồn tại, mãi mãi là chuyện của muôn đời: "Ôi con sóng ngày xưa, Và ngày sau vẫn thế, Nỗi khát vọng tình yêu, Bồi hồi trong ngực trẻ".

Sóng và sức mạnh của sóng là nỗi bí ẩn muôn đời, cũng như quy luật của tình yêu, một quy luật không thể nào cắt nghĩa, quy luật của muôn đời: Tình yêu là gì? Bắt đầu từ đâu? Vì sao yêu nhau: "Sóng bắt đầu từ gió, Gió bắt đầu từ đâu. Em cũng không biết nữa, Khi nào ta yêu nhau".

Sóng tượng trưng cho nỗi nhớ. Sóng nhớ bờ. Một nỗi nhớ chiếm kín cả không gian, chiếm đầy tâm hồn: "Lòng em nhớ đến anh. Cả trong mơ còn thức". Sóng còn là tượng trưng của lòng chung thủy: "Con nào chẳng tới bờ, Dù muôn vời cách trở". Cũng như lòng em: "Nơi nào em cũng nghĩ, Hướng về anh – một phương".

Con sóng, hình tượng trung tâm của bài thơ đã thể hiện nỗi khát khao, niềm đam mê tình yêu, cái vĩnh hằng, vô biên, nỗi bí ẩn, sự mãnh liệt và lòng chung thủy đối với tình yêu cùng niềm mong muốn sông chân thật, hết mình trọn vẹn vì tình yêu: Làm sao được tan ra, Thành trăm con sóng nhỏ, Giữa biển lớn tình yêu, Để ngàn năm còn vỗ".

Sóng trong bài thơ không chỉ là sóng theo nghĩa đen, mà còn là sự vận động của tâm hồn con người. Người con gái trong bài thơ cũng như con sóng vậy. Họ khao khát tình yêu, một tình yêu mạnh mẽ, rộng lớn, đằm thắm, thiết tha, một tình yêu tự nhiên, rất bình thường, rất đời vậy. Tình yêu ấy cũng thật rõ ràng và giản dị: con sóng khát khao tới bờ, như em mong có anh, Và chính tình yêu mãnh liệt và giản dị ấy lại là dấu hiệu của một tình yêu vĩnh hằng, muôn thuở của những trái tim đầy mong muốn yêu thương.

Xuân Quỳnh là nhà thơ của tình yêu. Hồn thơ của Xuân Quỳnh luôn tự bộc lộ khát vọng, những say đắm rạo rực, những suy tư day đứt, trăn trở của lòng mình trong tình yêu. Có thể thấy rõ đặc điểm cửa Xuân Quỳnh qua bài thơ Sóng. Người đọc yêu và thuộc thơ của Xuân Quỳnh có lẽ vì họ tìm thấy nhiều nỗi niềm tha thiết, nhiều ước vọng trong sáng, nhiều niềm vui và khổ đau của tình yêu trong thơ Xuân Quỳnh. Mà điều đó chỉ có ở những nhà thơ biết và dám giữ lấy cái riêng của mình, và bằng cách đó tạo nên sự cách tân, sự phong phú cho thơ, nhất là thơ tình yêu.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 29)

Trước Xuân Quỳnh đã có không ít thi sĩ viết về tình yêu – đề tài muôn thuở và không bao giờ vơi cạn của thi ca – thế nhưng, cũng với đề tài này, nữ sĩ Xuân Quỳnh đã thực sự để lại dấu ấn trên thi đàn Việt Nam. Từ những năm khói lửa chiến tranh, những vần thơ của Xuân Quỳnh đã làm bổi hồi bao trái tim người đọc. Thi sĩ đã đem đến cảm nhận về một tình yêu thuần khiết, dung dị và hết sức dạt dào, tha thiết. Sóng có thế coi là một trong số những bài thơ về tình yêu hay nhất của nữ sĩ. Có người đã từng nói Sóng của Xuân Quỳnh là một bài ca về một tình yêu giản dị mà đẹp đến mê lòng. Tình yêu luôn có nhu cầu được chia sẻ và giãi bày. Xuân Quỳnh đã mượn “sóng” – một hình ảnh đặc biệt – để bộc lộ tình yêu của mình. Ngay từ khổ thơ đầu tiên, nhà thơ đã có những phát hiện mới mẻ về “tính cách” của “sóng”:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ

Thi sĩ đã khám phá ra những trạng thái đôi lập trong con sóng: dữ dợi, ổn ào, mạnh mẽ đến cuồng nhiệt và “dịu êm”, “lặng lẽ”, sâu lắng đến dịu dàng. Bản tính của sóng thật thất thường như tâm hồn người con gái đang yêu. Đây là hai câu thơ tự bạch, tự thú táo bạo mà dịu dàng. Táo bạo vì nó quá mãnh liệt và chân thực. Dịu dàng vì sau những dữ dội, ồn ào, tình yêu vẫn đổ về phía cuối câu thơ để lắng vào dịu êm lặng lẽ – đó là cái dịu dàng con gái làm nên chất nữ tính của hình tượng sóng. Xuân Quỳnh đã tinh tế biết bao khi nhận ra hai trạng thái tưởng chừng như đối lập của con sóng để khám phá về tình yêu. Tinh yêu đâu phải dễ lí giải, nó cũng “nắng mưa thất thường”, cũng đầy mâu thuẫn. Trước trạng thái ấy, Xuân Quỳnh đã thổi vào con sóng một niềm khao khát:

Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể

Ngay từ đầu, con sóng tâm trạng đã ùn vào, vỗ sóng trong tâm hồn người đọc. Ta bỗng nhận ra trong bản thân mình sự đồng cảm với thi sĩ và với chính con sóng kia. Con người đâu phải lúc nào cũng hiếu rõ về mình. Chính vì thế trong khổ tiếp theo, tứ thơ chuyên từ hình tượng sóng sang những suy nghĩ về tình cảm con người, vừa đột ngột vừa tự nhiên:

Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ

Từ ngày xưa đến ngày sau, liên tưởng thơ đã vươn tới cái muôn đời. Ta cảm nhận sâu sắc về một tình yêu thủy chung, cháy bỏng lúc nào cũng phập phồng “trong ngực trẻ”. Từ sóng cho tới tình yêu vốn là tứ thơ quen thuộc xưa nay. Người xưa từng mượn sóng mà hạ lời thề:

Bao giờ cho sóng bỏ ghềnh,
Cù lao bỏ biển anh mới đành bỏ em.

(Ca dao)

Con sóng si tình của Xuân Diệu từng khát khao:

Cho anh làm sóng biếc
Hôn mãi cát vàng em
Hôn thật khẽ, thật êm
Hôn ôm đềm mãi mãi

(Biển)

Nét riêng của Xuân Quỳnh là tạo cho con sóng sự nữ tính đấy sức sống qua các trạng thái khác nhau: Có cái bồi hồi rất trẻ trung; có cái dữ dội, mãnh liệt nhưng còn có cá cái dịu đàng sâu lắng. Xuân Quỳnh xoay trở con sóng yêu đầy lo âu để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu trên cả hai mặt cảm xúc và nhận thức.

Những khổ thơ tiếp theo, sóng từ đối tượng cảm nhận được chuyển thành đối tượng để suy tư. “Trước muốn trùng sóng bể, dòng suy tư cuộn lên như sóng không cùng, những câu hỏi hóa thành cuộc đối thoại lớn với vũ trụ về tình yêu:

Sóng bắt đầu từ gió
Gió bắt đầu từ đâu?
Em cũng không biết nữa
Khi nào ta yêu nhau

Vói những câu hỏi, Xuân Quỳnh đang muốn truy tìm nguyên nhân, truy tìm ngọn nguồn của tình yêu. Song dường như những câu hỏi ấy chẳng bao giò có thể tìm được một câu trả lời thích đáng. Thiên nhiên bí ấn còn có thể cắt nghĩa nhưng “làm sao cắt nghĩa được tình yêu?” (Xuân Diệu), Xuân Quỳnh đã diễn đạt sâu sắc cái mà người ta gọi là “Trái tim có những quỵ luật riêng mà lí trí không thể hiểu được”. Tình yêu cần có lí trí nhưng trước hết đó là câu chuyện của trái tim, cho nên không thể dùng lí trí tính táo để xác định sự bắt đầu của tình yêu. Chính sự tưởng chừng như bất lực trong những câu trả lời đã đưa tình yêu trở về với bản chất của nó. Đặc biệt, câu thơ: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau” có một giọng điệu hết sức đáng yêu. Nếu đảo lại trật tự; “Khi nào ta yêu nhau – Em cũng không biết nữa”, ý thơ sẽ lăn về phía lí trí tỉnh táo. Bằng sự khéo léo tài tình của Xuân Quỳnh trong cách sử dụng ngôn ngữ, ta thấy những vần thơ dường như diễn tả rất chính xác nỗi choáng váng của cô gái khi vừa chạm vào cái vùng chói sáng của trái tim con người – tình yêu. Hai câu thơ không chỉ nói về tình yêu mà ta có cảm giác những câu chữ cũng đang rung động theo trái tím thiếu nữ, nó giống như cái lắc đầu đầy yêu thương và bối rối của một cô gái đáng yêu. Nỗi thổn thức ấy tiếp tục lăn mình cùng sóng nước, vươn dài theo thời gian, mênh mang cùng những câu thơ của Xuân Quỳnh:

Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức

Tình yêu von gắn liền với nỗi nhớ. Đến đây mỗi câu thơ dường như đểu chan chứa một nỗi nhớ – nỗi nhớ da diết, khắc khoải. Đoạn thơ có hai cặp hình ảnh so sánh song song, khá đắc địa: sóng vỗ bờ cả ngày lần đêm, em nhớ anh ” cả trong mơ còn thức”. Hai cặp hình ảnh song hành, cộng hưởng nhằm diễn tả tình yêu sâu sắc hơn. “Cả trong mơ còn thức” – câu thơ là một phát hiện đầy tinh tế về quy luật của tình yêu: sinh hoạt thường ngày của con người còn có giới hạn bởi thức và ngủ nhưng tình yêu phá vỡ mọi giới hạn, thông trị cả tiềm thức, giấc mơ, thao thức đến khôn cùng. Chỉ có những trái tim yêu hết mình mới thống trị cả thời gian, cả ý thức lẫn tiềm thức như vậy. Tình yêu quả là một sự “bất thường” giữa đời thường. Xuân Quỳnh đã thực sự thông suốt mọi ngỏ ngách của tình yêu vì bà chính là một con người có trái tim yêu không bao giờ mệt mỏi, luôn khát yêu, khát sống bằng cả trái tim. Tình yêu có mặt trong thơ, lên ngôi và tỏa sáng trong phần lớn các tác phẩm của bà. Ta đã bắt gặp không ít những tình yêu vượt qua mọi giới hạn của không gian, của thời gian để hướng tới cái vĩnh cửu trong thơ Xuân Quỳnh:

Những ngày không gặp nhau
Biển bạc đầu thương nhớ
Những ngày không gặp nhau
Lòng thuyền đau rạn vỡ
Nếu từ giã thuyền rồi
Biển chỉ còn sóng gió
Nếu phải cách xa anh
Em chi còn bão tố

(Thuyền và biển)

Thời gian chật chội bởi giới hạn, suy tư lại mở ra không gian:

Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương

Hai chữ xuôi, ngược thấp thỏm một linh cảm lo âu trước cuộc đòi bất trắc. Vì thế câu thơ “Hướng về anh- một phương” nôm na mà chắc nịch như một sự khẳng định tuyệt vời cho một tình yêu mãnh liệt. Người ta thường nói ngược vẽ phương bắc và xuôi về phương Nam nhưng có lẽ trong tình yêu luôn có những thứ trái ngang, những điều đi ngược lại cái bình thường nhưng suy cho cùng, điều quan trọng nhất của tinh yêu phải chăng chính là sự nhung nhớ, sự gặp gỡ của những trái tim yêu? Và đối với người con gái đang yêu, trái tim họ luôn chỉ hướng về một phương “anh” duy nhất. Những suy tư lấy hình ảnh “sóng” làm trung tâm là sự kết hợp tuyệt vời giữa cảm xúc vàlí trí, tạo cảm giác vừa bổi hồi vừa lắng sâu.

Cao trào của bài thơ dồn thành khát vọng trào dâng trong ba khổ thơ cuối – khát vọng tìm đến tựa từ một niềm tin:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm nghìn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Cái hay của lỗi diễn đạt của Xuân Quỳnh không chỉ ở chỗ mượn quy luật của sóng biển, mây trời để nói về quy luật của tình yêu. Độ sâu của nó bắt nguồn từ nhận thức rất đời thường : cuộc sống là dài, là rộng, là muôn vời cách trở, cuộc sống tràn đầy những điều bất ngờ vì thế mà cũng đầy bất trắc. Lời thơ như nỗi lo đau đáu luôn âm thầm giày vò, như những đợt sóng ngầm trong trái tím khát yêu của nữ sĩ Xuân Quỳnh. Song dù thế nào đi chăng nữa, tình yêu vẫn sẽ vượt qua mọi trở ngại để vươn tới đích như những con sóng “Con nào chẳng tới bờ

Dù muôn vời cách trở “.Với niềm tin ấy, khát vọng cúa Xuân Quỳnh vừa mạnh mẻ vừa ấm áp:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ

Mong ước hóa thân vào sóng thật lớn lao. Khát vọng được “tan ra” để bất tử cùng tình yêu (“ngàn năm còn vỗ”) thật cháy bỏng. Tứ tha có sự phát triển giống như sự nhận thức và lí giải về sự tồn tại mãnh liệt của tình yêu. Có lẽ chưa bao giờ ta thấy trên thi đàn Việt Nam có một nữ thi sĩ bộc lộ tình yêu một cách mãnh liệt mà cũng thật dung dị đến vậy.

Lưu Khánh Thơ nhận xét về thơ Xuân Quỳnh như sau: “Ở Xuân Quỳnh, tình yêu không bao giờ chỉ đơn thuần là tình yêu, nó còn tượng trưng cho cái đẹp, cái tôl, cái cao quý của con người, tượng trưng cho niềm khát khao được hoàn thiện mình”. Với sự hóa thân vào sóng, Xuân Quỳnh đã truyền sức sống dào dạt vào tác phẩm như sự khao khát tình yêu luôn cháy bỏng trong trái tim nữ sĩ, làm cho những Sóng hay Thuyền và biển sống mãi với thời gian nhu truyền thuyết về tình yêu mãi mãi làm say đắm bao trái tim người đọc.

Phân tích hình tượng Sóng (mẫu 30)

Trong thơ Việt Nam hiện đại, Xuân Quỳnh được coi là nhà thơ nữ viết hay nhất về tình yêu. Đặc sắc của thơ tình Xuân Quỳnh là tiếng nói trực tiếp, chân thành và mãnh liệt bày tỏ những khát vọng tình yêu của trái tim phụ nữ. Cùng với bài thơ Thuyền Biển, bài thơ Sóng được coi là “hai bài thơ tình thuộc loại hay nhất của Xuân Quỳnh nói riêng về thơ hiện đại Việt Nam nói chung” (Lưu Khánh Thơ).

Trong bài thơ có một hình tượng nghệ thuật xuyên suốt, tạo nên hình hài của tác phẩm. Hình tượng đó là sóng. Nhưng sóng cũng chính là trái tim Dữ dội và dịu êm của Xuân Quỳnh, vẻ đẹp của bài thơ hiện lên từ những phát hiện mới lạ của tác giả ở hình tượng sóng. Cùng với sóng, hình tượng em tạo thành cặp sóng đôi, gắn bó, quấn quýt suốt bài thơ. Trên cơ sở đó, nhà thơ bộc lộ mọi cung bậc tình cảm của mình về tình yêu.

Đầu tiên là tứ thơ. Điều phổ biến ở nhiều bài thơ trữ tình là thường dựa vào một cái cớ nào đó để mà cấu tứ. Chẳng hạn: tát nước đầu đình / Bỏ quên chiếc áo trên cành hoa sen… Rồi: Sáng trong như sáng năm xưa / Gió thổi mùa thu hương cốm mới Ngay ở một bài thơ trữ tình chính trị như Việt Bắc, khi cấu tứ, Tô Hữu cũng tạo ra một cái cớ: Mình về mình có nhớ ta / Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng… Ớ Sóng, cách cấu tứ hơi khác: Dữ dội và dịu êm / Ồn ào và lặng lẽ. Mới nhìn cứ tưởng không khác gì những cách cấu tứ kia. Song, thực ra, ngay từ ban đầu, cái cớ ấy đã là một sự ẩn dụ. Bài thơ mượn hình tượng sóng để tạo tứ, mượn sóng để nói về trái tim con người. Các lớp sóng gối lên nhau, trùng trùng, điệp điệp là những lớp sóng trong trái tim người phụ nữ đang yêu. Và, hẳn nhiên, cuộc kiếm tìm, khám phá về sóng cũng chính là tự khám phá trái tim mình. Ta hãy xem người phụ nữ ấy tự khám phá như thế nào?

Sóng hiện lên trước hết là đối tượng cần nhận thức:

Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ
Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Ôi con sóng ngày xưa
Và ngày sau vẫn thế
Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ.

Hóa ra, tính cách sóng thật phức tạp: Dữ dội và dịu êm, Ôn ào và lặng lẽ. Cả hai nét tính cách ấy cùng tồn tại ở sóng, có khi mạnh mẽ đến cuồng nhiệt, nhưng lắm lúc sâu lắng, dịu dàng. Bản tính sóng lại thất thường. Đến đây thì không ai nghĩ là nhà thơ nói về sóng nữa mà đó là những cung bậc trong trái tim người con gái đang yêu. Tình yêu luôn có nhu cầu được chia sẻ, giãi bày. Xuân Quỳnh mượn sóng – một hình ảnh rất đẹp, tương xứng với tình yêu để thổ lộ nỗi niềm. Tình cảm ấy chân thực và mãnh liệt. Nhưng dẫu quen thuộc, sóng vẫn hết sức lạ lùng, chưa dễ gì lí giải. Trước trạng thái mâu thuẫn ấy, sóng tự nhận thức:

Sóng không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể.

Nỗi trăn trở, khao khát tự khám phá trái tim người phụ nữ đã thổi hồn người vào sóng. Đến lúc tâm trạng dâng trào như những lớp sóng ùa vỡ, trái tim ấy không còn kiềm giữ được nữa. Vì thế, sang khổ thứ hai, tứ thơ chuyển từ sóng sang người, có phần đột ngột nhưng cũng hợp lí, dễ hiểu: Ôi con sóng ngày xưa / Và ngày sau vẫn thế / Nỗi khát vọng tình yêu / Bồi hồi trong ngực trẻ. Nhà thơ giãi bày nỗi trăn trở nhưng là giãi bày để mà khẳng định: Tình yêu, từ ngày xưa đến ngày sau, muôn đời vẫn thế!

Mượn sóng để nói về tình yêu, không phải chỉ riêng Xuân Quỳnh. Ca dao, dân ca và nhiều nhà thơ hiện đại đã từng có những liên tưởng thú vị. Có điều, “nét riêng Xuân Quỳnh là tạo ra con sóng mãnh liệt mà đầy nữ tính, giàu trạng thái: có cái bồi hồi rất trẻ trung, có cái dữ dội tương xứng với tình yêu, nhưng còn có cái dịu dàng sâu lắng rất con gái. Xuân Quỳnh xoay trở ngọn sóng yêu đầy âu lo để cảm nhận nó trên nhiều chiều đối lập. Đó là cách cảm nhận nồng nàn mà có chiều sâu, trên cả hai bề mặt cảm xúc và nhận thức” (Nguyễn Quang Trung).

Tiếp tục khai thác hình tượng sóng từ cách câu tứ của riêng mình, những khổ thơ tiếp theo (khổ 3 đến khổ 7), Xuân Quỳnh đẩy phát triển của bài thơ thêm một bậc nữa: từ sóng gợi lên bao nhiêu điều suy tư về cuộc đời, về con người. Nếu ở trên mới chỉ không hiểu mình thì đến đây là hàng loạt câu hỏi khác: Sóng bắt đầu từ gió / Gió bắt đầu từ đâu / Em cũng không biết nữa / Khi nào ta yêu nhau. Đành rằng làm sao cắt nghĩa được tình yêu (Xuân Diệu) nhưng người đời vẫn khát khao tìm kiếm, cắt nghĩa. Bài thơ của Xuân Quỳnh không đơn thuần là giãi bày nỗi lòng khi yêu. Nhu cầu tự nhận thức, nhận thức đến tận cùng khiến bài thơ có chất sâu lắng. Và, quả đúng vậy, tình yêu đâu chỉ là tình yêu, đó là thứ tình cảm mà mỗi khi giãi bày nó đồng thời bộc lộ bản chất con người. Bởi vậy, từ xưa đến nay, đây là thứ tình cảm phức tạp nhất, kì diệu nhất của con người và không ai có thể nói là mình đã hiểu hết.

Hỏi để cuối cùng một câu nói buột ra: Em cũng không biết nữa. Có người nói cái hay của bài thơ chính là hỏi nhưng không trả lời được, vì bản chất tình yêu là không thể cắt nghĩa. Thực ra, Em cũng không biết nữa là một sự khẳng định, một khẳng định theo kiểu của phụ nữ: không biết mà vẫn biết đấy. Vả lại, tình yêu đã vốn có từ rất lâu rồi. Chúng ta từng chấp nhận những câu thơ lãng mạn, đại loại: Tôi yêu em từ khi chưa có tuổi… thì làm sao không thể không chấp nhận, không thể hiểu được cách nói của một nhà thơ nữ?

Tâm trạng người phụ nữ đang yêu tiếp tục bộc lộ với cung bậc mới:

Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương Bắc
Dẫu ngược về phương Nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh – một phương.

Tình yêu luôn gắn liền với nỗi nhớ. Những câu thơ ở đây có một cặp hình tượng sóng đôi: sóng vỗ vào bờ cả ngày đêm, em nhớ anh cả lúc thức lẫn ngủ. Cặp hình tượng này song hành những cộng hưởng đều nhằm diễn tả nỗi nhớ sâu sắc hơn. Tình yêu đích thực dường như không có giới hạn về cả không gian lẫn thời gian. Nỗi nhớ bao trùm lên tất cả. Chỉ có trái tim yêu hết mình mới có được cung bậc như thế. So với nhiều cách thể hiện tình cảm của người phụ nữ đang yêu trước đó trong thơ Việt Nam, đây là lối bộc lộ có phần táo bạo. Khi đối diện với chính mình, không chút ngại ngần, trái tim yêu ấy đã tự hát và đã hát một cách thành thật. Song, dù mạnh mẽ và táo bạo đến đâu, đấy vẫn là lời tự hát của một trái tim phụ nữ Việt Nam: khát vọng gắn bó thủy chung.

Những khổ thơ cuối của bài, Xuân Quỳnh dồn hết vào việc thể hiện khát vọng đó. Và, ở đây, cũng vẫn là sóng mới đủ sức thể hiện khát vọng lớn lao trong tim người phụ nữ:

Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở
Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa
Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ.

Một lần nữa, Xuân Quỳnh thể hiện được sự thức tỉnh ở tâm hồn người phụ nữ khi yêu. Con sóng nào chẳng mong đến bờ? Trái tim yêu nào không thiết tha một sự gắn bó? Cuộc đời thật khó nói trước. Xuân Quỳnh và có lẽ rất nhiều người phụ nữ Việt Nam khác, khi yêu mãnh liệt vẫn có lúc thấp thỏm, âu lo. Song, dù dự cảm có muôn vời cách trở, trái tim yêu cũng không hề đắn đo. Nói đây là niềm tin bồng bột, dễ dãi chắc là không đúng. Tình yêu chân chính, nhất là với phụ nữ Việt Nam, luôn đồng nghĩa với sự hiến dâng.

Sóng là bài thơ tình tiêu biểu của Xuân Quỳnh. Đó là tiếng lòng vừa dữ dội vừa dịu êm, vừa thao thức không yên, vừa bồi hồi khát vọng. Nhà thơ đã khéo chọn sóng, một hình tượng giàu sức biểu cảm, để thể hiện tình yêu như là một giá trị văn hóa lớn của con người. Qua Sóng, người đọc càng thêm yêu quý trái tim nồng nàn, đôn hậu của người phụ nữ Việt Nam.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Phân tích hình tượng Lor-ca trong bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca

Phân tích Người lái đò sông đà

Phân tích hình tượng Người lái đò sông đà

Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà

Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà

1 1,113 18/12/2023
Tải về