TOP 20 mẫu Phân tích Đất nước - Nguyễn Đình Thi (2024) SIÊU HAY

Phân tích Đất nước của Nguyễn Đình Thi lớp 12 gồm dàn ý và 20 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 4,165 18/12/2023
Tải về


Phân tích Đất nước - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Đất Nước

Dàn ý Phân tích Đất nước

1. Mở bài

- Đây là một bài thơ hay của Nguyễn Đình Thi và của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp.

- Đoạn thơ mở đầu bài thơ Đất nước đánh giá là hay nhất bài thơ vì biểu lộ cảm xúc trực tiếp về một mùa thu mới đang tới trên quê hương.

2. Thân bài

- Đoạn thơ nguyên là những mảng của hai bài thơ khác nhau nối lại với sự điều chỉnh và sửa chữa chút ít.

- Mở đầu, nhà thơ gợi lại hình ảnh của một “mùa thu đã xa” với không khí “xao xác” và hình ảnh “người ra đi” lặng lẽ. Nỗi xao xác bâng khuâng là âm điệu chính của câu đầu này.

- Tiếp theo, tác giả bộc lộ niềm vui giao hòa giữa lòng người và vật khi chứng kiến “mùa thu nay” đầy âm điệu háo hức

- Mùa thu của đất trời giải phóng. Hai chữ “vui nghe” không chỉ diễn tả một trạng thái tình cảm nhận thời mà còn nói rõ cách nghe hay là một cách nhận thức mới của nhà thơ về cuộc đời.

- Từ niềm vui nói trên, đoạn thơ chuyển ý rất tự nhiên nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng với non nước mình, mặt khác, bộc lộ cảm xúc tự hào và sung sướng của nhà thơ trước vẻ đẹp đắm say của Tổ quốc.

- Phần cuối của đoạn thơ dẫn người đọc vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước, ở đây xuất hiện một định nghĩa rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi về Tổ quốc Việt Nam.

3. Kết bài

- Trong bài thơ “Đất nước” dường như cảm hứng thời đại đã hòa quyện với cảm hứng lịch sử trong một niềm xúc động thơ đẹp đẽ như vậy.

Phân tích Đất nước (Mẫu 1)

Từ xưa đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước. Quan điểm đó đã được ông thể hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường khát vọng.

Đất nước đối với mỗi người là một ý niệm khác nhau. Đối với Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm biết của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, lần lượt từng lớp lang của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở. Ông không định nghĩa bằng những khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể trong chính cuộc sống:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc

Qua khái niệm của tác giả, Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan quân xâm lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, thấm thuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ tấm bé.

Không chỉ vật Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho thấy nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta. Dù một nghìn năm Bắc thuộc, bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào xóa được những vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có sự vận dụng hết sực thuần thục ca dao: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước được hình thành từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng, cao quý.

Tiếp tục mạch cảm hứng đó, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất Nước không xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt của tất cả chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, không ngần ngại mà làm sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn, nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước chính là được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để làm sâu sắc thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào ta trong bọc trứng”. Từ sự lí giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý ông đã dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác” đã khẳng định trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng không được quên đi công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai chữ “cúi đầu” cũng đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ.

“Trong anh và em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã khẳng định, Đất Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của mọi người, là sự yêu thương của đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung và cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì khi ấy mới có đất nước vẹn tròn ton lớn. Và từ đó ông nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước: “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời”. Vì bởi:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Hàng loạt những địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.

Để làm nên đất nước chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống và lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là những người nào?

Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Quả đúng, đó chính là người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống và chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là người đã làm nên Đất nước. Với biện pháp liệt kê và điệp “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng tầng lớp lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến chính là:

Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân
Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Đến đây Nguyễn Khoa Điềm đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước nhân dân của mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước cũng là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của mọi truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Bài thơ kết lại bằng tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.

Đất Nước là bài thơ giàu suy tư và triết lí, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại được mở mang thêm tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm yêu mến, tự hào với nơi mình được sinh ra và lớn lên.

Phân tích Đất nước (Mẫu 2)

"Đất nước" là bài thơ nổi tiếng nhất của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ được sáng tác và hoàn thành trong thời gian khá dài (1948 – 1955) theo hành trình và phát triển đi lên của đất nước và dân tộc. "Đất nước" in trong tập thơ "Người chiến sĩ" của tác giả.

Bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi thể hiện những cảm nhận về đất nước Việt Nam và dân tộc Việt Nam hiền hòa, đẹp tươi, trong đau thương đã quật khởi đứng lên anh dũng chiến đấu và chiến thắng với sức mạnh phi thường. Hai câu thơ đầu nói về vẻ đẹp của đất nước khi mùa thu về:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Nguyễn Đình Thi chỉ gợi sắc thu, khí thu (mát trong), về gió thu về hương thu (hương cốm mới). Một cách viết hàm súc mở ra bao liên tưởng về bầu trời thu trong xanh, bao la và khí thu mát mẻ mơn man hồn người, về gió thu nhè nhẹ thổi từ những cánh đồng lúa mang theo hương cốm mới phả vào lòng người lâng lâng. Đó là vẻ hiền hòa, tươi đẹp của đất nước đã bao đời nay. Đoạn thơ tiếp theo là hoài niệm của "người ra đi" về "những ngày thu đã xa" – thu Hà Nội:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

"Chớm lạnh" là cái lành lạnh đầu thu; chỉ có sáng và chiều thu trong buổi thi sơ mới "chớm lạnh" như thế. Hà nội như mở rộng lòng đón nhận cái "chớm lạnh" đầu thu. Hơi may tỏa khắp mọi nơi. Lá thu, lá vàng rụng bay bay, xoay xoay theo chiều gió, để lại tiếng thu xao xác trên những phố dài.

Cảnh giã biệt phố cũ của "người ra đi" buồn lẳng lặng. Khách chinh phu của thời đại "ôm chí nhớn" ra đi, cố nén lại bao tâm tư trĩu lòng. "Đầu không ngoảnh lại" là một tâm thế của li khách. "Người ra đi" xa dần, xa dần năm cửa ô, chốn cũ yêu thương, tuy "đầu không ngoảnh lại" nhưng vẫn cảm thấy có bao nhiêu nắng thu, lá thu "rơi đầy" trên hè phố, thềm đường ở phía sau lưng mình. Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều.

Tâm trạng của người ra đi buổi sáng sớm đầu thu ngày xưa ấy như vương vấn mang theo một mảnh trời thu Hà Nội với nắng vàng và lá thu rơi. Có nhiều người đã đưa ra các cách ngắt nhịp cảm thụ vẻ đẹp câu thơ cuối đoạn: ngắt nhịp 3/4 hoặc 4/3; lại có người cho rằng nên ngắt nhịp 2/5 để làm rõ chủ thể trữ tình với không gian nghệ thuật: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Qua đoạn thơ, ta thấy ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Đình Thi thật là tài hoa. Lời thơ trong sáng, dịu buồn. Vẻ đẹp và hồn thu đất nước, hồn thu Hà Nội như được tinh lọc trong tâm hồn tác giả, trở thành hành trang của "người ra đi". Cuộc đời đã đổi thay, đất nước đã đổi thay nên vẻ đẹp mùa thu đất nước cũng đổi thay kì lạ. Câu thơ bảy tiếng bỗng co ngắn lại, giọng thơ như một tiếng reo cất lên náo nức:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Không gian nghệ thuật được nói đến là núi đồi chiến khu, là "rừng tre phấp phới" trong gió thu. Cả một trời thu bao la, xao động, tươi sáng lên, ánh lên tươi thắm như "thay áo mới". Đất nước buổi thu vẻ đẹp tươi lạ thường và dào dạt sức sống. Có sắc thu "trong biếc", có tiếng thu là âm thanh "nói cười thiết tha" xôn xao. Hình ảnh "tôi đứng vui nghe" biểu lộ một tâm thế một tư thế, một cảm xúc nhiều thơ mộng, nhiều tự hào trước vẻ đẹp và niềm vui khi đất nước vào thu. Đó là mùa thu chiến khu Việt Bắc, mùa thu kháng chiến thời chống Pháp.

Những câu thơ bảy tiếng, năm tiếng đan xen vào nhau hòa quyện vào nhau tạo nên giọng thơ mạnh mẽ, hào hùng. Hình ảnh đất nước hiện lên tráng lệ hùng vĩ với "trời xanh", với "núi rừng", với những cánh đồng, những ngả đường, những dòng sông… Các tính từ: "xanh, thơm mát, bát ngát, đỏ nặng" là những nét vẽ, những gam màu tô đậm cái hồn đất nước, không chỉ là một giang sơn gấm vóc mà còn biểu lộ biết bao yêu mến tự hào về sự bền vững của đất nước bốn nghìn năm.

Các điệp ngữ "đây là của chúng ta", "những" (cánh đồng, ngả đường, dòng sông) như những nốt nhấn, lúc bổng, lúc trầm của bài ca Tổ quốc, thể hiện ý chí tự lập tự cường và tinh thần làm chủ đất nước của quân và dân ta. Ngọn gió thời đại, ngọn gió của cách mạng và kháng chiến đã làm cho những vần thơ viết về mùa thu, về đất nước của Nguyễn Đình Thi cất cánh bay lên. Đây là đoạn thơ đẹp nhất trong bài thơ "Đất nước", trở thành câu thơ trong trí nhớ của hàng triệu con người Việt Nam hơn nửa thế kỉ qua:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Khổ thơ tiếp theo, tác giả nói lên những suy ngẫm về đất nước và dân tộc. Lời thơ vang lên như một tuyên ngôn về Tổ quốc và dáng đứng Việt Nam trong trường kì lịch sử:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng tiếng về.

Câu thơ thất ngôn bỗng rút ngắn lại còn ba tiếng; vần trắc (khuất – đất) như dồn nén lại, thắt lại, làm cho âm điệu thơ trầm hùng thể hiện niềm tự hào, kiêu hãnh về truyền thống anh hùng bất khuất của dân tộc. Tiếng nói của tổ tiên ông bà, tiếng gươm khua trên sông Bạch Đằng, "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc Tuấn, "Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi, … vẫn "đêm đêm rì rầm trong tiếng đất", vẫn "vọng nói về", nhắn nhủ con cháu ngẩng cao đầu đi tới để bảo vệ và xây dựng đất nước hùng cường bền vững đến muôn đời.

Phần thứ hai bài thơ nói về đất nước trong máu lửa. Một chữ "ôi" cảm thán cất lên đau đớn nghẹn ngào:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Các từ ngữ "chảy máu", "đâm nát" gợi tả cảnh đau thương của đất nước đang bị quân thù chiếm đóng, dân ta đang bị quân giặc tàn sát dã man. Luống cày, cánh đồng "chảy máu" . đồn giặc dựng lên khắp nơi . bầu trời quê hương đang bị "đâm nát " bởi trùng trùng dây thép gai đồn giặc. Người chiến sĩ hành quân ra trận với sức mạnh của lòng căm thù giặc và tình yêu quê hương. Các từ láy "nung nấu" , "bồn chồn" diễn tả thật hay quyết tâm và tình cảm mãnh liệt, sâu sắc ấy.

Trong chiến đấu gian lao và đau thương càng thấy vẻ đẹp quê hương "ngời lên". Lòng căm thù giặc càng thêm "sục sôi". Các từ " bay, thẳng, đứa" thể hiện lòng căm thù, sự khinh bỉ của nhân dân ta đối với quân xâm lược.

Thằng giặc tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da.

Độc lập tự do là lí tưởng chiến đấu, là niềm tin "đi tới và làm nên thắng trận". Tác giả phủ định: quân thù "không khóa được", "không bắn được", để từ đó khẳng định sức sống bền vững của đất nước ta, tinh thần yêu nước của nhân dân ta. Câu thơ như một chân lí lịch sử được cô đúc mà thành:

Trời đầy chim và đất đầy hoa
Lòng dân ta yêu nước thương người.

Cuộc kháng chiến chống pháp( 1946 - 1954) là một cuộc chiến tranh nhân dân thần thánh do đảng và bác hồ lãnh đạo, mang tính chất toàn dân, toàn diện, trường kì, nhất định thắng lợi. Cả đất nước, cả dân tộc quật khởi đứng lên. Cảnh tượng thật hào hùng đang diễn ra khắp mọi miền đất nước, từ rừng núi chiến khu đến khắp các cánh đồng làng quê:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quanh văng vẳng cánh đồng.

Anh bộ đội Cụ Hồ là người nông dân mặc áo lính. Người anh hùng thời đại là "những người áo vải", là la văn Cầu, Củ Chính Lan, Nguyễn Quốc Trí, Nguyễn Thị Chiến, Bế Văn Đàn, Tô Vĩnh Diệu... là hàng ngàn hàng vạn thanh niên yêu tú của dân tộc.

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

Con đường ra trận kéo dài hơn ba ngàn ngày khói lửa. Có biết bao máu đổ sương rơi. Trong "nắng đốt" và "mưa giội", trong chiến đấu và hi sinh, niềm tin vào một ngày mai chiến thắng, về đất nước độc lập, hòa bình tỏa sáng tâm hồn quân và dân ta như ngọn lửa " cháy rực" như ánh bình minh "bát ngát":

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Đất nước chiến thắng

Được viết theo thể thơ lục ngôn:

Người lên như nước vỡ bờ
Nước việt nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Tác giả đã vận dụng thành ngữ, tục ngữ "tức nước vỡ bờ" để ca ngợi tư thế và sức mạnh chiến đấu và chiến thắng của dân tộc ta . tác giả cho biết "Rũ buồn đứng dậy sáng lóa" là hình ảnh của người chiến sĩ Điện Biên từ các chiến hào dũng mãnh xông lên trong những ngày tổng công kích đầu tháng 5-1954.

"Đất nước" là hồn thơ chiến sĩ, tiêu biểu cho bốn hồn thơ Nguyễn Đình Thi. Viết về chủ đề quê hương , đất nước trong chiến tranh, thơ Nguyễn Đình Thi mang tính khái quát, chất trữ tình đằm thắm kết hợp hài hòa với chất chính luận sâu sắc để lại một số câu thơ, đoạn thơ đẹp, đầy ấn tượng. Ngôn ngữ thơ tinh luyện, sắc nét, chan chứa nồng độ xúc cảm. Câu thơ biến hóa : thất ngôn, lục ngôn, có lúc đan xen vào câu thơ ba tiếng , năm tiếng đã làm cho giọng thơ biến hóa: lúc man mác, bồn chồn, lúc dồn dập mạnh mẽ.

Hình tượng đất nước vừa mang vẻ đẹp hiền hòa trong sắc thu, hương thu, mang cái bát ngát của quân và dân ta trong những năm dài kháng chiến. "Đất nước" là bài thơ kiệt tác, mà người đọc lúc nào cũng cảm thấy mới mẻ, niềm tự hào dân tộc cứ lâng lâng mãi tâm hồn mỗi chúng ta.

Phân tích Đất nước (Mẫu 3)

Nguyễn Đình Thi (1924 – 2003) là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Pháp. Nguyễn Đình Thi là người đa tài. Thơ Nguyễn Đình Thi thể hiện sự tìm tòi về hình ảnh. Bài thơ “Đất nước” chính là những tìm tòi độc đáo nhất. Bài thơ lấy hình tượng đất nước làm trung tâm với hai màu sắc vừa tươi đẹp vừa bất khuất.

Trước hết, Nguyễn Đình Thi cảm nhận đất nước trong mùa thu hoài niệm và mùa thu hiện tại. Mùa thu trở thể hiện nối tiếp từ hiện tại về quá khứ rồi trở lại hiện tại. Thi sĩ mở đầu “Đất nước” bằng một vài chiêm nghiệm:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới”

Không gian vô cùng tươi sáng của một buổi sớm thu đặc trưng quê hương Việt Nam. Một chút mùi vị “hương cốm” gợi lòng người bao điều. “Cốm làng vòng thơm mát những vòng tay”. Người ta bỗng nhớ những câu văn đầy đặc sắc Hà Nội trong thơ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Vũ Bằng… Người ta nhớ về người mẹ, người bà, người em thảo thơm. Thật bình dị và thân thương! Từ hương cốm, mùa thu năm xưa hiện về:

“Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.”

Hai câu đầu là cảnh, hai câu sau là người. Cảnh và người hợp hảo trong cuộc chia ly năm ấy. Mỗi câu từ chứa một nét chạm khắc thú vị như cái buồn vắng lặng của “những phố dài”, chút “chớm lạnh” cô đơn, đẹp nhưng buồn của cái “xao xác” và chút “hơi may”. Thiên nhiên đẹp nhưng buồn còn lòng người cũng không nguôi cảm giác đơn côi. Người ra đi tựa thế Kinh Kha đầy quyết tâm. Người ở lại chùn chân dưới lá thu bay. Hình ảnh thơ vừa giàu chất cổ điển vừa đầy tinh thần hiện đại.

Cuối cùng, thi sĩ về với mùa thu hiện đại. “Mùa thu nay khác rồi”. Thi sĩ reo vang về thu nay với tâm trạng phơi phới. Từ trong tư thế “đứng vui”, “phấp phới” mà tác giả cảm nhận được thiên nhiên như “thay áo mới”, “Trong biếc”, “nói cười”… Mùa thu ngày nay đầy hứng khởi và niềm vui sống. Từ đó, tâm trạng đơn côi xưa cũ đã thay thế cho tâm trạng hào phóng, tấm lòng rộng mở.

Nó được chứng minh từ những hình ảnh trải rộng về địa lí “trời xanh”, “núi rừng”, “cánh đồng”, “ngả đường”, “dòng sông”… Phụ từ “đây” như khoe như mời mọc tận hưởng. Hẳn thi sĩ đang tự hào về quê hương lắm!

Cùng với việc thể hiện đất nước tươi đẹp trong mùa thu, Nguyễn Đình Thi còn khắc họa hình ảnh đất nước trong chiến tranh. Đó là một đất nước kiên cường và bất khuất:

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!”

Đất nước như có một sức sống bền bỉ. Đất nước anh dũng, kiên cường đã thành truyền thống, điều ấy khẳng định qua cụm từ “chưa bao giờ khuất”. Mặt khác, những từ láy “đêm đêm”, “rì rầm” thể hiện sức sống tiềm ẩn, sự tự cường trong lớp trầm tích ngàn năm. Đất nước đau thương mà quật khởi vô cùng:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Thán từ “ôi” như niềm cảm xúc dâng trào khi nhìn lại đất nước. Đất nước chìm trong đau thương với “chảy máu”, “đâm nát”. Tác giả tố cáo đanh thép tội ác của giặc khi giày xéo quê hương. Thế rồi, đất nước cũng quật khởi vô cùng. Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp đối lập để thể hiện.

Đó là sự đối lập giữa tàn bạo ác liệt của cuộc chiến đấu hiện lên trong “những năm đau thương”, “xiềng xích”, “súng đạn” với sức mạnh quân ta “ngời lên”, “bật lên”, “không khoá được”, “không bắn được”, “đứng lên”… Đó là sự đối lập giữa vất vả lam lũ “Ngày nắng đốt”, “đêm mưa dội” với tương lai ngời sáng “trời đất mới”, “ánh bình minh”… Cuối cùng, cả đất nước đọng lại trong tư thế “rũ bùn đứng dậy”:

“ Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Bốn câu thơ lục ngôn với giọng đanh, chất chứa cảm xúc của thi sĩ. Hình ảnh “người lên như nước vỡ bờ” hay “rũ bùn đứng dậy sáng lòa” thể hiện sức mạnh cộng đồng vừa đau thương vừa anh dũng. Cũng từ cái kết này, người đọc thấy được niềm tin vào chiến thắng và tương lai của đất nước mà Nguyễn Đình Thi luôn hướng tới.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi rất đặc sắc trong cách sáng tạo ngôn từ, diễn đạt liền mạch đầy cảm xúc, giọng thơ phong phú và nhiều hình ảnh thú vị giàu sức gợi. Nguyễn Đình Thi đã mang tới một bài ca về đất nước đậm nét đặc trưng và tinh thần chung của người Việt.TOP 20 mẫu Phân tích Đất nước - Nguyễn Đình Thi (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích Đất nước (Mẫu 4)

Đất nước là một đề tài được nhiều nhà văn, nhà thơ chú ý thể hiện. Tuy nhiên, đây là đề tài thuộc loại hóc búa. Nếu cảm xúc không đủ mạnh, đủ sâu và khả năng khái quát hạn chế, chắc chắn tác phẩm sẽ rơi vào công thức, sơ lược và bị lối đại ngôn chia phôi. Nhưng những cá tính thơ mạnh mẽ bao giờ cũng tìm được một cách thể hiện riêng, làm cho đất nước mỗi lúc lại hiện ra với một vẻ mặt mới lấp lánh, đa dạng và hàm chứa một nội dung cụ thể lịch sử.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ hay. Nó không thiếu tính khái quát nhưng vẫn đầy ắp ấn tượng, cảm giác về những cảm giác, những người cụ thể (đặc biệt là những cảnh, những người trong kháng chiến chống Pháp). Bài thơ vì thế không sa vào tự biện, mặt khác, có được không khí chân thực của đời sống đủ sức đồng hóa những ý thơ sẽ đôi khi được cho vào chỉ để cho “đủ”, cho “toàn diện” và “bề thế”.

Đúng như có người nhận xét, cái từ của bài thơ không được thể hiện thật rõ. Mới đọc qua phần đầu, ta khó hình dung được dòng chảy của cảm xúc hay hình tượng then chốt của bài thơ. Phải chăng việc lắp ghép một đoạn của bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) với một đoạn của bài thơ Đêm mít tinh(1949) rồi kéo dài thêm để tạo ra Đất nước(1955) đã quy định đặc điểm riêng đó của bài thơ?

Trên ý nghĩa khách quan, quá trình hình thành độc đáo của bài thơ phản ánh khá rõ một chặng đường từ nhận diện để đi đến thấu hiểu về đất nước của nhà thi sĩ. Tất cả không diễn ra một sớm một chiều mà đòi hỏi phải có sự trải nghiệm, nghiền ngẫm, đòi hỏi tự nhà thơ phải vượt lên trong cuộc hòa mình vào đời sống chiến đấu của toàn dân tộc. Đối với việc bộc lộ tâm hồn của nhà thơ, cái vẻ lỏng lẻo ở kết cấu bề mặt của bài thơ lại trở nên một sáng tạo lí thú. Vì vậy, trong ý đồ sáng tạo, chưa hẳn nhà thơ đã muốn che dấu hoàn toàn những mối “hàn ghép”.

Phần đầu bài thơ - phần vẫn được đánh giá là hay hơn cả - chứa đựng rất nhiều ấn tượng cụ thể về một mùa thu đất nước. Thoạt tiên, đó là một cảm giác thư thái như muốn nhẹ nhàng bay lên theo hai câu thơ có đến 12/14 âm tiết mang thanh điệu có âm cực cao:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Một sự tương đồng gợi nhớ. Một liên tưởng của nét đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở với hơi may phảng phất và hương cốm dìu dịu tỏa bay. Mùa thu nay cũng như mùa thu xưa, thiên nhiên vẫn đẹp đến nao lòng. Có khác chăng là lòng người và hoàn cảnh xã hội. Nỗi nhớ của tác giả đã thực sự làm một đối chiếu tự nhiên để hình ảnh của ngày qua được dịp trở về vô cùng sống động:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Còn có thể nói gì thêm về câu thơ ấy? Một tiết trời dễ khiến lòng ta xao xuyến. Một chút thoáng heo may se se khơi gợi biết mấy nỗi niềm. Thu tới - không gian chợt yên ắng để tiếng nói của nội tâm cất lời. Các dãy phố như dài thêm và đượm vẻ trầm u đặc biệt, tạo nên một bối cảnh xao xác rất thích hợp cho hình ảnh người ra đi xuất hiện. Người ra đi ở đây là ai, tác giả không nói rõ cụ thể chỉ biết rằng Người ấy rời Hà Nội yêu dấu với rất nhiều quyết tâm, tương tự các tráng sĩ xưa đã lên đường là đi một mạch chẳng ngoảnh đầu trở lại.

Phải chăng đó cũng chính là mẫu người từng được Thâm Tâm nhắc tới "Một giã gia đình một dửng dưng" Và chắc chắn giống nhân vật của Tống biệt hành, người ấy tuy bên ngoài có vẻ lạnh lùng nhưng lòng thì để lại đang trăn trở thao thức với “ thềm nắng lá rơi đầy” ở phía sau lưng. Cả đoạn thơ rất giàu chất điện ảnh, trong đó câu cuối đặc tả cận cảnh để tự cảnh đó kể với người đọc bao điều.

Câu thơ ngắt nhịp 2/2/3 như muốn diễn tả vẻ rơi rơi ngập ngừng của lá vàng khô cùng niềm lưu luyến ủ kín trong lòng kẻ quyết chia tay Hà Nội để lên đường. Bề ngoài, họ không “ bước đi một bước giây giây lại dừng”, nhưng trong thâm tâm, từng chiếc lá rơi đều gieo vào lòng họ một nỗi bâng khuâng dìu dặt. Từ gần đến xa, rồi từ xa lại về gần, những câu thơ tiếp đó khơi thêm cảm xúc về mùa thu, đưa độc giả quay lại thời điểm hiện tại để được thanh thản trong niềm vui giao hòa giữa lòng người và cảnh vật.

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

“Mùa thu nay khác rồi” là sự so sánh bật thành tiếng reo, một tiếng reo ghi nhận sự khác biệt giữa hai thời đại và khẳng định niềm vui mới đang tới. Câu thơ năm chữ xuất hiện đột ngột sau những câu bảy chữ có nội dung mạch lạc và âm điệu thật dứt khoát. Nó chứa đựng cả tình cảm và nhận thức, đồng thời lí giải sâu sắc vị trí đứng và tâm thế lắng nghe của nhà thơ giữa một bối cảnh thiên nhiên vô cùng khoáng đạt: “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”.

Hai chữ “vui nghe” mà càng nhận ra bao cái khác. Cái khác ấy đến từ cách thổi của gió và cách hòa điệu của rừng tre. Nó “phấp phới” như vẫy chào, mời gọi và đầy tin tưởng, không giống như cây “xao xác” chứa niềm khắc khoải mơ hồ xưa kia. Trùm lên cả người, cả rừng tre, cả núi đồi là trời thu mới mẻ tinh khôi đang hay vừa thay áo mới. Giữa những câu sáu chữ, bảy chữ dài ngắn không đều, câu thơ năm chữ “trời thu thay áo mới” rơi xuống thật ngọt ngào, ấm áp, rồi điệu thơ chuyển ngập ngừng và xúc động khôn xiết với câu “Trong biếc nói cười thiết tha”.

Trong câu thơ vừa trích có những chỗ “bất khả giải” gợi nhiều cách hiểu khác nhau. Trong niềm vui dâng đầy, mỗi chữ đều như tỏa chiếu ánh hân hoan và các thanh trắc đều dội vào lòng người một nỗi náo nức đặc biệt.Bè cao của bài thơ bỗng tách ra, vút lên trong vắt, hồn nhiên và hào hứng vô cùng: Trời xanh đây là của chúng ta Núi rừng đây là của chúng ta. Câu thơ cao giọng mà không lên gân.

Hai câu điệp lại mang cùng một ý mang cảm hứng khẳng định mạnh mẽ - khẳng định chủ quyền của chúng ta đối với vùng trời vùng đất ta đang chiêm ngưỡng với tầm ôm chứa rộng rãi:

Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Nhịp điệu liệt kê dồn dập của đoạn thơ tiếp tục nhấn mạnh ý thức sở hữu của cái ta cộng đồng đối với non nước mình, mặt khác, gợi cảm giác cái ta ấy đang làm việc giới thiệu vẻ đẹp của Tổ quốc với cảm xúc tự hào và sung sướng. Nếu hai thanh trắc “ mát - ngát” kết thúc hai câu trên giống như nhấn mạnh khi giới thiệu khiến cho hình ảnh dược khắc đậm trong tâm khảm người đọc, người chứng kiến, thì hai thanh trắc liền nhau (đỏ nặng) ở phần giữa câu tiếp đó lại làm cho âm điệu của đoạn thơ trầm dần xuống để trôi xa mơ màng cùng hai thanh bằng nơi hai chữ phù sa.

Dồn dập reo hát rồi trầm lắng, bâng khuâng, đó là sự chuyển động theo chu kì của điệu thơ, tạo nên sự căng - chùng luân phiên rất đặc biệt và giàu tính nghệ thuật.Ở cuối đoạn thơ này, từ câu thơ ba chữ. cô đọng và trang nghiêm “Nước chúng ta”, độc giả được dẫn dắt vào mạch suy tư về truyền thống anh hùng của đất nước:

Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có thể xem hai câu đầu của đoạn vừa trích là một định nghĩa - cái định nghĩa khá cơ bản thể hiện nhận thức sâu sắc của nhà thơ về đất nước: Việt Nam - Ấy là một mảnh đất bất khuất. Trong bối cảnh của cuộc chiến tranh, đúng là có điều kiện nhìn rõ hơn bao giờ hết phẩm chất ấy của dân tộc mình, đất nước mình. Sau định nghĩa là chứng minh. Nhưng điểm độc đáo là nhà thơ không chứng minh bằng lí lẽ, bằng các sự kiện mà bằng một cảm nhận.

Hai chữ “rì rầm" làm câu thơ trở nên giàu ấn tượng, khiến cho khái niệm “tiếng nói ông cha” vẫn thường quen nói bớt vẻ trừu tượng, mơ hồ để trở nên sống động cụ thể. Quả thật, đây là kiểu chứng minh rất thơ và cũng rất Nguyễn Đình Thi nữa! Trước khi nói với những ai, nó đã chứng minh cho mình hiểu thêm về đất nước. Từ những mối xúc động tuy phong phú nhưng không rõ rệt ban đầu trước một sáng thu Hà Nội đến thứ tình cảm được tổ chức lại và có định hướng như vừa phân tích trên, hẳn đó là cả một chặng đường dài nhận thức.

Khi đã chạm tới cốt lõi của vấn đề, ý thơ ngày càng sáng và mạch thơ ngày càng lộ rõ. Nếu đoạn thơ trước diễn tả sinh động quá trình đi từ cảm giác đến ý niệm thì đoạn thơ sau giống như sự thể nghiệm của nhận thức bằng thực tiễn. Không phải ngẫu nhiên mà từ “Ôi những cánh đồng quê” ... trở đi, cách biểu đạt thơ đã đổi khác, những hình ảnh thực tế giàu biểu trưng và song hành và đôi khi hòa lẫn với những khái quát luận trực tiếp.

Sự phân khổ bốn câu đều đặn một mặt làm các ý thơ hơi tải ra, mặt khác, lại có vẻ cần thiết cho sự dẫn giải, lập luận vốn đòi hỏi sự sáng sủa, lô-gíc. Hay nhất trong phần hai của bài thơ có lẽ là khổ này:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Đây là những câu thơ từng trải, kết quả của một vốn sống phong phú. Nếu chưa từng biết đến những “ đêm dài hành ”, chưa từng chứng kiến những cảnh xóm làng tan hoang vì sự tàn phá của quân thù, chưa từng thấy những gai nhọn tua tủa của dây thép gai cản vương tầm mắt hằn rõ lên hoàng hôn bầm đỏ một màu máu, thì không thể viết được những câu thơ như thế. Những từ “chảy máu”, “đâm nát” đâu chỉ đơn giản là thủ pháp tạo hình, gây ấn tượng của thơ.

Nó trước hết là nỗi quặn lòng, là sự đau đớn vò xé tâm can. Cũng như từ “bồn chồn” rất gợi ở câu sau đó. Nó chính là cuộc đời. Cuộc đời làm cho lòng yêu thương ta thêm lớn, thêm sâu, giúp ta bắt được mạch sống lớn của dân tộc để từ đó mọi buồn vui xúc cảm thực sự mang ý nghĩa đại diện.

Nếu xem bài thơ (trong đặc điểm ghép mối đã nói trên của nó) là một sự phản ánh chân thực quá trình chuyển tiếp phong cách thơ cũng như nhận thức chính trị - xã hội của Nguyễn Đình Thi, thì khổ thơ này giống như cái bản lề giúp ta hiểu thấu các giai đoạn của quá trình. Từ đây, bắt đầu một sự hòa nhập thơ của Nguyễn Đình Thi vào cái phong cách thơ mang ý nghĩa thời đại: cảm xúc cá nhân, riêng tư (hiểu theo nghĩa hẹp).

Bắt đầu mờ dần để tiếng nói công nhân sang sảng cất lời. Thời gian mở ra (từ “sáng chớm lạnh” của kỉ niệm riêng đến những năm đau thương, “ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cả dân tộc), không gian mở ra (từ “thềm nắng lá rơi đầy”) Hà Nội quen thuộc đến quê hương, đất nước, “trời đất mới” không còn của riêng của một con người và lịch sử cũng mang chiều kích mới (từ lịch sử một tâm hồn đầy “nhớ”, đầy “xao xác”, thậm chí cả “phấp phới” đến lịch sử một đất nước vận động từ “đau thương”, “căm hờn” đến “ đứng dậy”, “vỡ bờ”).

Tất cả những sự “mở ra” nói trên đã làm cho các ý thơ mang tính khái quát cao hơn phù hợp với tầm vóc của đề tài và các hình ảnh cũng mang những nét hoành tráng khác trước với những biểu hiện tình cảm vừa trầm tĩnh vừa phấn khích. Lúc này, hình ảnh người ra đi xuất hiện đầu bài thơ đã thu hút vào trong hình tượng lớn: cả dân tộc là một khối thống nhất, “trán đẫm mồ hôi và hi vọng”, rắn rỏi, mạnh mẽ bước tới tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Cái “được” nhất của mảng thơ sau này chính là hơi thơ. Tiếng nói của một cá nhân âm vang tiếng nói của một dân tộc “Đã đứng lên thành những anh hùng”, cho nên, nhiều điều to tát đã nói ra mà không gây cảm xúc khó chịu. Sự nhân danh một cái gì to lớn hơn của nhà thơ được tiếp nhận tự nhiên, bởi sự thật ông đã đồng cảm với mạch sống lớn của dân tộc qua khát vọng chân thành, muốn nắm bắt và thấu hiểu nó.

Khổ cuối cùng của bài thơ là một cái “kết” xứng đáng với bản tráng ca về đất nước:

Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

Sau những khổ thơ bảy chữ mang âm hưởng của một giọng kể trầm vang chứa chất từng trải với cách ngắt nhịp phổ biến 3/4 dễ tạo cảm giác bề thế, là khổ thơ sáu chữ dường như muốn cô đọng lại, nén lại mà vẫn muốn toả ra. Cảm xúc vừa muốn tiết chế vừa muốn buông thả tự nhiên theo những từ có khả năng đập mạnh vào cảm giác, gợi nghĩ đến sự chuyển rung đi lên.

Đoạn thơ không chỉ có sự thuyết phục của ý tứ mà còn có sức thuyết phục của một hình ảnh thực tế được biểu trưng hóa, chưa để mất hết những dấu vết cụ thể cảm tính ("rung trời", “người như nước vỡ bờ”, “rũ bùn”, “đứng dậy”, “sáng lòa” ). Phải nói rằng, thơ Nguyễn Đình Thi thường rất hay trong những trường hợp tương tự, khi những chi tiết đời sống đưa vào qua sự chọn lọc của một hồn thơ vừa mạnh ở cảm giác, vừa mạnh ở khả năng khái quát trí tuệ.

Trong bài thơ này, nét mặt quê hương đã ngời lên với những vẻ đa dạng thông qua sự cảm nhận, khám phá của một tâm hồn thi sĩ rất giàu nội tâm cũng như rất giàu ý thức công dân. Nhưng về cơ bản, sự phát hiện của Nguyễn Đình Thi chủ yếu hướng vào truyền thống anh hùng, bất khuất của đất nước - một phẩm chất càng trải qua gian khó, qua thử thách chiến tranh nó càng rạng ngời tỏa sáng. Đây là một góc nhìn vừa của riêng nhà thơ lại vừa của lịch sử trong một thời kỳ nhất định.

Phân tích Đất nước (Mẫu 5)

Đất nước là đề tài lớn, xuyên suốt trong lịch sử văn học, nhưng ở mỗi thời kì văn học, đề tài này được các nhà thơ khai thác ở những góc độ khác nhau. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp xuất hiện rất nhiễu bài thơ tập trung khắc họa hình ảnh đất nước đau thương nhưng anh hùng quật khởi, nổi bật nhất là Đất nước của Nguyễn Đình Thi. Bài thơ là cả một chặng đường nhận thức về đất nước của tác giả.

Từ ba bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948), Đêm mít linh (1949), và Đất (1965), Nguyễn Đình Thi đã tập hợp lại thành Đất nước. Qua những cảm nhận tinh tế về mùa thu đất nước, qua hình tượng Tổ quốc đau thương mà anh hùng, bài thơ thể hiện sâu sắc ý thức độc lập tự chủ, tình cảm yêu nước, căm thù giặc và niềm tự hào về sức mạnh vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Bài thơ là sự tập hợp, ghép nối từ nhiều bài thơ nhưng không hề mất đi tính thống nhất chỉnh thể, trái lại đã phát triển theo một mạch cảm xúc tinh tế và khá nhất quán về tư tưởng. Bài thơ mở đầu với dòng cảm xúc về mùa thu đất nước, nhưng là trong những thời điểm và không gian khác nhau:

Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương, cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Trong một sáng mùa thu ở chiến khu Việt Bắc, nhà thơ bỗng có cảm giác cái mát mẻ, trong sáng của sớm mùa thu ấy giống như “sáng năm xưa” khi nhà thơ ra đi, hơn nữa trong gió thu nhẹ thổi còn thoảng bay hương cốm mới, gợi nhớ tới một mùi hương rất đặc trưng của Hà Nội vào thu. gần với cuộc sống sinh hoạt của người dân Thủ đô. Nhịp thơ như chậm rãi, nhẹ nhàng, dòng hồi tưởng của nhà thơ trong không khí ấy dào dạt tuôn chảy:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Đó là “những ngày thu đã xa” – những ngày thu trước Cách mạng, nhà thơ phải tạm biệt Thủ đô để lên đường. Cũng là viết về cảnh thu nhưng có bao nhiêu mơ hồ, mặc cảm trong bài thơ thu của Nguyễn Khuyến; bao nhiêu lãng mạn trong thơ Xuân Diệu, bao nhiêu cái ngơ ngác của con nai vàng đạp trên lá khô trong thơ Lưu Trọng Lư.

Trong thơ Nguyễn Đình Thi, cảnh thu Hà Nội chỉ hiện ra trong hồi tưởng nhưng thật đẹp, tuy nhiên vẫn có cái tĩnh lặng và buồn man mác. Đó là cảnh thu đất nước trong những năm đau thương: Sương chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Trong thơ Nguyễn Khuyến, thời tiết thu được nói đến “Ao thu lạnh lẽo nước trong veo” – đó là thời tiết chính thu. Thơ Nguyễn Đình Thi cũng nói về mùa thu nhưng là độ đầu thu.

Hai chữ “chớm lạnh” thật gợi cảm: chút se lạnh trong mùa thu tuy mới đến nhưng không phải là “những hiện tượng da thịt bên ngoài” (chữ dùng của Nguyễn Tuân) mà đã thấm thía tận “trong lòng Hà Nội”. Nghĩa là tất cả không gian, cỏ cây, hoa lá, con người, phố phường đã cảm nhận sâu sắc được cái lạnh của mùa thu. Cái “chớm” ấy không ngọt ngào như cái rét đầu mùa. nhưng không phải là cái mát mẻ trong mùa hè mà đã là sự pha trộn trong cả hai mùa.

Có lẽ chỉ mùa thu, khí thu Hà Nội mới mang lại cho con người cái cảm giác về thời tiết như vậy. Hà Nội vào thu, gió thổi trên những dãy phố dài cổ kính lại rất nhẹ, chưa phải gió “heo may” mà mới chỉ dừng lại ở độ “hơi may”. Nghĩa là cũng mới chỉ ở độ “chớm” mà thôi.

Dường như tất cả mới chỉ đang ở độ bắt đầu, hết sức nhẹ nhàng nhưng đã làm cho người đọc cảm nhận được sự thay đổi, sự mới bắt đầu ở ranh giới ấy. Nhà thơ đã nhận ra, người Hà Nội đã nhận ra được “hơi thở dịu dàng” ấy của mùa thu. Lẽ tất nhiên, con người ra đi trong hoàn cảnh ấy, dù có mục đích gì chăng nữa tuy bê ngoài có tạo ra dáng vẻ mạnh mẽ, kiên quyết, dứt khoát “đầu không ngoảnh lại” nhưng từ trong sâu thẳm tâm hồn vẫn tràn đầy lưu luyến, nhớ thương, vẫn nhận ra rất rõ những gì của Hà Nội ở phía sau: Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy .

Câu thơ có cả chất nhạc, có cả chất họa trong cái rơi đầy của nắng, lá. Phải chăng đó là điều đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội? Màu vàng của nắng quyện vào màu vàng của lá tạo nên một khung cảnh tràn đầy sắc vàng, xua đi cái “chớm lạnh” của “hơi may”. Khung cảnh ấy làm nền cho tâm trạng ấy mới thật hợp. Dường như không gian và thời gian đã có sự biến đổi, cái lắng lại dịu dàng của màu tím Hà Nội rất phù hợp với tiếng lòng thi sĩ, phù hợp với tâm trạng người ra đi.

Từ mùa thu năm xưa, nhà thơ dẫn vào cảm xúc về mùa thu của cách mạng, mùa thu của độc lập dân tộc trong khung cảnh hiện tại của chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha

Nếu như bảy câu thơ đầu viết theo thể thơ thất ngôn, gần như trọn vẹn là một bài thơ thất ngôn bát cú, diễn tả những cảm xúc lắng đọng, trang trọng, phù hợp với cách diễn tả nỗi nhớ thì đoạn thơ tiếp theo lại viết theo thể thơ tự do, thể hiện cái náo nức, niềm vui phơi phới, tràn đầy tiếng nói cười. Câu thơ “Mùa thu nay khác rồi” là câu thơ chuyển đoạn, một sự khẳng định hay một lời reo vui mà sao nghe tha thiết đến thế!

Có thể thấy ở đây thiên nhiên được nhân hóa không chỉ đầy màu sắc, âm thanh mà còn chan chứa tình người. So với mùa thu xưa, cái “khác rồi” rõ nhất ở mùa thu nay là “vui”: niềm vui của hiện thực khách quan đã thành niềm vui của chủ thể trữ tình và khi cất lên thành cảm xúc thơ ca, niềm vui ấy lại lan tỏa vào từng cảnh vật được miêu tả, khắp núi đồi, rừng cây, bầu trời. Tiếng cười “trong biếc” nghe tha thiết được chuyển đổi cảm giác như lan tỏa vào cảnh vật, gieo niềm vui đến muôn nơi.

Rõ ràng cảm xúc về mùa thu đã gắn liền với niềm vui, niềm yêu mến, tự hào làm chủ đất nước. Với con mắt say mê của nhà thơ, đất nước nơi nào cũng tươi đẹp, cũng dài rộng bát ngát, cũng màu mỡ phì nhiêu, cũng tiềm tàng sức sống cho một cuộc đời ấm no hạnh phúc. Chính vì thế, cảm xúc của nhà thơ đi từ trạng thái vui tươi đến sự khẳng định chắc chắn:

Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Điệp khúc "của chúng ta" như ngân vang trong lòng người và giữa đất trời sông núi. Đó không chỉ là ý thức về quyền làm chủ đất nước mà còn là niềm tự hào của những con người Việt Nam qua Cách mạng tháng Tám đã giành lại đất nước bằng mô hôi, xương máu của chính mình. Những câu thơ là sự khẳng định liên tiếp, nhanh, dồn dập của nhà thơ cũng là của con người Việt Nam trước độc lập của đất nước.

Có được mùa thu đẹp như thế hôm nay, được nắm vững chủ quyền độc lập trong tay, người ta không thể không nghĩ tới những cội nguồn sâu xa đã tạo nên sự thay đổi vĩ đại ấy. Đó đâu chỉ là sức mạnh của hiện tại mà còn là sức mạnh của truyền thông bao đời, đó cũng là bản chất của con người Việt Nam – những con người luôn gắn bó, tha thiết với quá khứ, hướng tới tương lai, sống thầm lặng, bình dị nhưng bất khuất và anh hùng:

Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Đó là đất nước của tình yêu, đất nước của nguồn cội “con Rồng cháu Tiên”. Đó là một cách cảm nhận ở Đất nước. Trong bài thơ, Nguyễn Đình Thi định nghĩa đất nước là đất nước của những con người anh hùng, anh hùng ở

mọi thời đại, những khí phách tinh hoa vẫn âm vang trong hồn thiêng sông núi. Dáng điệu của đất nước được khái quát bằng chiều dài của lịch sử tâm hồn, khí phách của nhân dân ta. Nghe tiếng vọng của cha ông cùng hồn thiêng sông núi, trong lòng ta dâng lên một niềm tự hào về chính Tổ quốc mình.

Xuất phát từ tình yêu và niềm tự hào về Tổ quốc, Nguyễn Đình Thi nghĩ về cuộc kháng chiến gian lao mà anh dũng, ở đó cảm hứng chủ đạo là hướng tới sự khẳng định Tổ quốc nhân dân, cuộc cách mạng này được quyết định bằng sức mạnh của nhân dân. Dường như đây là một quy luật tất yếu – giặc đến xâm lược quê hương, đất nước mình, những con người hiền lành hồn hậu trở thành những con người cháy bỏng lòng căm thù:

Từ gốc lúa bờ tre hiền hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn.

Vẫn trong nguồn mạch của lòng căm thù, gây ấn tượng hơn cả là hai câu thơ:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Trong ánh chiều tà, cánh đồng vùng vành đai trắng như nhuốm đỏ màu máu, hàng dây thép gai đồn giặc tua tủa chĩa lên đâm nát bầu trời và bầu trời ấy cũng đỏ rực như đang ứa máu. Đó là hình ảnh có thực mà Nguyễn Đình Thi đã nhận ra trên chặng đường hành quân, nhưng với cách miêu tả rất gợi của nhà thơ kết hợp với từ cảm thán “ôi” đặt ở đầu câu thơ, hình ảnh ấy mang ý nghĩa biểu tượng cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị quân thù chiêm đóng, đồng thời lên án, tố cáo tội ác của quân giặc tàn bạo.

Cánh đồng quê kia chứng kiến bao cảnh đầu rơi máu chảy, là dấu tích của sự tàn ác mà quân giặc gây ra. Chiến tranh đồng nghĩa với sự tàn phá, đau thương, chết chóc. Nhưng vượt lên trên những đau thương ấy, cuộc sống vẫn chảy trôi, những tình cảm của con người vẫn biểu lộ hết mình:

Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Đó là cái rất chung của người lính ra đi chiến đấu. Trong hành trang của họ bao giờ cũng có nỗi nhớ. Bên cạnh những nỗi nhớ người thân, xóm làng còn có nỗi nhớ người yêu. Trong Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng nội về nỗi nhớ ấy, nó xoa dịu đi bao nhiêu nỗi đau vì quê hương bị tàn phá.

Có thể nói, nhà thơ đã kết hợp giữa cái “tôi" và cái "ta” rộng lớn. Nói về cái chung để nói đến cái riêng, cái riêng đó là tình cảm hết sức chân thật, đời thường. Những giây phút “bồn chồn nhớ mắt người yêu” ấy là những khoảnh khắc yên bình, lãng mạn rất quý trên đường hành quân qua mưa bom, lửa đạn. Đó là những giây phút làm ấm lòng người lính xa nhà.

Cùng với sức mạnh của lòng căm thù, những con người bình dị của nước non này đã xung trận với sức mạnh bất khuất từ nghìn xưa của cha ông, sức mạnh của sự gắn bó với những gì thân thuộc trong đời sống hàng ngày, sức mạnh của ước mơ giản dị về cuộc sống quê hương thanh bình – tất cả đã tạo nên điều vĩ đại:

Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

Chính những người anh hùng áo vải ấy, theo cách nói của Nguyễn Đình Thi. đã “gánh trên vai cả cuộc kháng chiến thắng lợi”, cũng chính họ đã tạo nên dáng hình đẹp đẽ, rực rỡ của Tổ quốc trong hào quang của chiến thắng của tương lai:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Bốn câu thơ đã tái hiện được cả quá trình đi lên của dân tộc, trải qua những vất và hi sinh để giành lại độc lập từ tay giặc. Biết được những vất vả gian lao ấy, ta mới thấm thía được giá trị của nền độc lập, của cuộc sống tự do. Bốn câu thơ viết theo thể thất ngôn, làm thành một bài thơ tứ tuyệt mang tính chất sử thi hùng tráng, thể hiện niềm tự hào về lịch sử và con người Việt Nam. Và tất cả sự dồn nén của tình cảm, của cảm xúc, sự dồn nén của lòng căm thù, cuối cùng cũng phát ra thành tiếng nổ lớn:

Súng nổ rung Trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Nhịp thơ ngắn, nhanh như những bước chân đang dồn dập xông lên, thể hiện khí thế, sức mạnh của lòng căm thù cao độ (biểu hiện qua hình ảnh “súng nổ rung trời giận dữ”). Vũ khí nhấn chìm, tiêu diệt hết quân giặc bằng sức mạnh của cả một dân tộc bị áp bức bóc lột, đô hộ trong gần một thế kỉ được biểu hiện bằng hình ảnh so sánh “người lên như nước vỡ bờ” lấy từ thành ngữ “tức nước vỡ bờ”.

Sức vươn dậy thần kì của đất nước và con người Việt Nam từ kiếp sống nô lệ, đầy tăm tối dưới bùn đen đã vượt qua những trận chiến đấu ác liệt đầy máu lửa để đi đến chiến thắng sáng chói, vinh quang như một tượng đài lịch sử đã được nhà thơ khắc họa thật rõ nét.

Có thể nói, từ một chi tiết có thực trong chiến dịch Điện Biên Phủ, nhà thơ đã nâng lên thành tư thế của cả một dân tộc, khái quát đầy đủ khí phách của cả dân tộc. Nhân dân ta đã chiến thắng hoàn toàn thực dân Pháp, đánh đổ ách thống trị hàng trăm năm của chúng. Hòa bình đã lập lại, đất nước ta đã hoàn toàn độc lập, nhân dân ta đã hoàn toàn tự do. Bài thơ kết thúc trong tư thế đi lên của dân tộc, của con người Việt Nam.

Đất nước gây ấn tượng sâu sắc bởi chất chứa tình kết hợp với chất chính luận, bởi hình thức câu thơ linh hoạt, nhịp thơ phóng khoáng, hình ảnh thơ đẹp đẽ, chọn lọc, ngôn ngữ thơ cô đọng mà gợi cảm. Những ấn tượng sâu sắc, rõ nét hơn cả là bài thơ đã tạo dựng thành công một tượng đài hùng vĩ bằng thơ về Đất nước, Tổ quốc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp trường kì gian khổ nhưng anh dũng và tất thắng.TOP 20 mẫu Phân tích Đất nước - Nguyễn Đình Thi (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Phân tích Đất nước (Mẫu 6)

Nhắc tới Nguyễn Đình Thi chúng ta nhớ ngay đến một nghệ sĩ đa tài, có đóng góp lớn cho văn học nghệ thuật nước nhà trên nhiều lĩnh vực. Nhìn lại sự nghiệp sáng tác nghệ thuật của ông có thể khái quát rằng, ngợi ca đất nước đẹp giàu, bất khuất, nhân dân cần cù, anh dũng chính là cảm hứng nồng đậm nhất. Hiện lên từ những trang văn, bài thơ, bài hát của Nguyễn Đình Thi là hình tượng một đất nước từ trong gông xiềng áp bức vùng dậy tự giải phóng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới. Đất nước là một trường hợp tiêu biểu như thế, một trong những đỉnh cao của thơ trữ tình cách mạng Việt Nam.

Đất nước có ý nghĩa khá đặc biệt. Nó là sản phẩm của một quá trình nung nấu, một sáng tác mang tính chất tổng hợp. Hãy để ý đến thời gian tác giả sáng tác bài thơ: 1948 - 1955. Đây là một dấu hiệu lạ chứng tỏ điểm độc đáo của Đất nước và là căn cứ quan trọng để hiểu đúng bài thơ. Thông thường, một bài thơ trữ tình với dung lượng ấy được sáng tác chỉ trong một ngày, một buổi, thậm chí chỉ trong dăm ba tiếng đồng hồ (Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Tây Tiến của Quang Dũng). Vậy tại sao Đất nước được hình thành, được khởi bút từ thời kì đầu dân tộc bước vào cuộc trường chinh chống thực dân Pháp mà đến tận ngày kháng chiến trường kì thắng lợi, hoà bình lập lại mới hoàn thành? Điều đó phản ánh ý đồ của Nguyễn Đình Thi như ông đã có dịp tâm sự. Viết Đất nước, nhà thơ muốn tạo dựng một tượng đài Tổ quốc Việt Nam trong Cách mạng tháng Tám, trong chín năm kháng chiến anh hùng phần nào tương xứng với tầm vóc cao đẹp của đất nước ta trong lịch sử. Với mong muốn này, dễ hiểu vì sao nhà thơ phải đầu tư thời gian, cần tập trung tâm trí và đưa vào đây (tất nhiên có sửa chữa) một số đoạn vốn ở các bài thơ khác. Lẽ thường, khi vượt qua một chặng đường lịch sử, nhìn lại để tổng kết, để tự hào, mới có thể hoàn thiện bức tượng đài. Đất nước trở thành một sáng tác mang tính chất tổng hợp, hài hoà giữa cảm hứng sử thi hùng tráng với rung cảm trữ tình thiết tha khi ca ngợi một đất nước từ trong gông xiềng áp bức, từ trong lam lũ đói nghèo vùng dậy tự giải phóng, anh dũng chiến đấu bảo vệ quyền độc lập tự do thiêng liêng và rực rỡ trong ánh sáng thời đại mới.

Thời gian sáng tác, ý đồ nghệ thuật nêu trên chính là cơ sở để chúng ta phân tích vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong bài thơ này. Đất nước trở thành hình tượng trung tâm trong bài thơ. Nếu cần chọn một từ, chỉ một từ thôi, nói trúng vẻ đẹp cơ bản nhất của hình tượng này, hẳn đó là từ vận động. Một đất nước trường chinh trên dặm dài lịch sử, một đất nước có truyền thống bất khuất, bền bỉ đang ngời lên trong hiện tại đau thương, khói lửa và đang vững bước đi tới tương lai tươi sáng - đó là cảm nhận rõ rệt nhất khi đọc bài thơ này. Cả bài thơ toát lên sự vận động. Từng khổ thơ cũng thể hiện sự vận động trên trục thời gian quá khứ - hiện tại - tương lai. Đây là đất nước có lịch sử dài lâu, đất nước của những người chưa bao giờ khuất:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Đất nước của bao thế hệ chưa bao giờ khuất ấy đang vươn mình lớn dậy trong hiện tại gian khổ, đau thương:

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn.

Chính từ trong hiện tại chiến đấu anh dũng, lao động cần cù ấy gương mặt đất nước ngày một ngời sáng. Dường như càng về cuối bài thơ, cảm hứng tương lai càng nồng đậm:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Trong cuộc trường chinh vạn dặm, đất nước mình ngày càng vững bước tới tương lai, trong "vất vả đau thương" đất nước mình càng "tươi thắm vô ngần" - đó là cảm nhận sâu sắc của Nguyễn Đinh Thi về sức sống bền bỉ, mãnh liệt của dân tộc Việt Nam, con người Việt Nam.

Một đặc điểm nữa là hình tượng đất nước trong bài thơ này mang vẻ đẹp bình dị mà cao cả trong ánh sáng thời đại mới. Hãy chú ý hệ thống hình ảnh về đất nước trong bài thơ. Xây dựng tượng đài phải có chất liệu. Để làm việc đó, có tác giả lấy chất liệu chủ yếu từ lịch sử, có tác giả tìm chất liệu chủ yếu từ văn hoá dân gian... Hình tượng đất nước được Nguyễn Đình Thi xây dựng bằng những vẻ đẹp của thiên nhiên xanh tươi, dạt dào sức sống, bằng những hành động chiến đấu anh dũng, lao động cần cù của nhân dân. Nhà thơ đã ngắm nhìn, cảm nhận đất nước từ chỗ đứng, bằng tấm lòng của "chúng ta" - những con người vừa được cách mạng giải phóng khỏi thân phận nô lệ khổ nhục đang đứng lên làm chủ non sông đất nước mình. Bởi thế, đất nước này rất đỗi bình dị, thân thương mà cao cả, kì vĩ trong ánh sáng thời đại mới. Đất nước, đó là mùa thu hương cốm mới, núi đồi, rừng tre phấp phới. Đất nước, đó là những cánh đồng thơm mát, những ngả đường bát ngát, những dòng sông đỏ nặng phù sa, gốc lúa bờ tre hồn hậu. Đất nước, đó là "Trời đầy chim và đất đầy hoa", "Khói nhà máy cuộn trong sương núi - Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng"... Bình dị, thân thương là thế nhưng đất nước ấy mang tầm vóc mới bởi đang do những con người lão động làm chủ - đất nước của thời đại dân chủ nhân dân:

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng.

Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi gắn liền với niềm tự hào mang tính dân chủ của thời đại mới. "Trời xanh đây là của chúng ta - Núi rừng đây là của chúng ta" - chỉ đến thơ ca sau Cách mạng tháng Tám mới xuất hiện đại từ "chúng ta" với tư thế ấy, tầm vóc ấy.

Có thể tìm thấy nhiều đoạn, nhiều khổ thơ đặc sắc trong Đất nước để chứng minh cho các đặc điểm trên của hình tượng trung tâm trong bài thơ.

Lịch sử dài lâu của đất nước, sức sống bền bỉ của bao thế hệ ông cha được Nguyễn Đình Thi cảm nhận sâu sắc:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Về ngôn từ, hình ảnh, giọng điệu, đoạn thơ này chứng tỏ cảm xúc thiết tha, lắng đọng của Nguyễn Đình Thi. Dù ngắn nhưng đoạn thơ bố cục có tầng lớp theo lối diễn dịch sau khi xướng lên đối tượng để nhìn ngắm, chiêm nghiệm. "Nước chúng ta" là nước như thế nào ? Đây là "Nước những người chưa bao giờ khuất". Điều đó thể hiện ở đâu ? Hai dòng tiếp sau lại là sự diễn giải, chứng minh cụ thể.

Đất nước là bài thơ được viết theo thể tự do, câu dài, câu ngắn xen kẽ. Rõ ràng, "Nước chúng ta" là dòng thơ ngắn nhất trong bài. Nó cất lên lời xưng danh dõng dạc, đàng hoàng. Đã xưng danh thì phải ngắn, phải cất cao đĩnh đạc. Nó toát lên niềm tự hào về đất nước, về quyền làm chủ đất nước ấy.

Nguyễn Đình Thi không phải là người đầu tiên, người duy nhất khẳng định sức sống bền bỉ của truyền thống dân tộc nhưng ông đã có cảm nhận, cách thể hiện của riêng mình. Nhiều người thường nói truyền thống đất nước, sức sống cha ông qua những tấm gương, câu chuyện lịch sử, qua những danh lam thắng cảnh, sự tích núi sông, nghĩa là qua những hình ảnh mang tính thị giác. Ở đây, Nguyễn Đình Thi lại nói qua hình tượng âm thanh. Một âm thanh gần gũi mà thiêng liêng đặc biệt. Cứ đêm đêm vọng lên từ lòng đất tiếng nói của những người chưa bao giờ khuất. Hình bóng và tâm linh của bao thế hệ ông cha vẫn còn thức động giữa hôm nay. Chữ rì rầm gợi lên thứ âm thanh không lớn nhưng không bao giờ dứt. Đã là tiếng trong lòng đất thì phải rì rầm. Hãy chú ý những từ ngữ của đoạn thơ: khuất, rì rầm, ngày xưa, vọng - chúng tạo nên một không khí cổ kính, trầm lắng đặc biệt. "Đêm đêm" là hiện tại, "những buổi ngày xưa" là quá khứ xa xưa. Hai chiều thời gian tưởng chừng rất xa nhau được kéo nhập làm một qua tiếng rì rầm ấy, trong không khí ấy. "Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất" - tại sao viết tiếng đất chứ không phải lòng đất ? Hình như ở đây có hai thứ tiếng. "Rì rầm" là tiếng của con người, của nhân sinh. "Tiếng đất" là tiếng của núi non, của vũ trụ. Tiếng của ông cha, của lịch sử đã hoà trong tiếng của đất đai, của vũ trụ mà vọng mãi muôn đời.

Nhằm ca ngợi tinh thần bất khuất của nhân dân ta, sự vùng dậy quật cường của đất nước, nhằm tố cáo tội ác của kẻ thù, Nguyễn Đình Thi đã dựng tả gương mặt quê hương, đất nước đau thương trong lửa khói chiến tranh. Nhiều người cho rằng khổ thơ dưới đây thuộc loại hay nhất của thơ ca kháng chiến chống thực dân Pháp:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Nhận xét ấy có căn cứ bởi đây là những câu thơ vừa giàu tính tạo hình vừa giàu cảm xúc. Nguyễn Đình Thi từng tâm sự rằng đây là những câu thơ được viết từ kỉ niệm trong cuộc đời kháng chiến, từ những buổi chiều cùng bộ đội hành quân qua các vùng quê hoang vu. Một hoạ sĩ dựa vào hai câu thơ này hoàn toàn có thể vẽ nên một bức tranh có hình khối, đường nét, sắc màu, có không khí và linh hồn. Những cánh đồng quê trống vắng, xác xơ vì bị lũ giặc tàn phá. Bầu trời chiều trên những cánh đồng ấy càng mờ xám, ảm đạm. Nối giữa mặt đất cánh đồng với bầu trời chỉ là những hàng dây thép gai của đồn giặc như tua tủa xỉa cắt. Nhìn về phía tây, ánh hoàng hôn đỏ lựng đang hắt ngược một khoảng lên nền trời. Bức tranh này không có cây cối, cửa nhà mà toát lên vẻ lạnh lẽo, tang thương. Hình ảnh thơ lạnh, vắng mà thấm đẫm cảm xúc thương đau, uất hận. Chính từ màu đỏ của hoàng hôn, từ máu của bao con người đã đổ trên quê hương mà Nguyễn Đình Thi liên tưởng đến cánh đồng đang chảy máu. Cũng bởi lòng xót xa đau đớn mà nhà thơ tưởng như dây thép gai đâm nát cả bầu trời đất nước. Trong các từ chảy máu, đâm nát có cả cõi lòng tan nát của nhà thơ. Thương đau, uất hận không nén nổi khiến lời thơ cất lên thành giọng điệu cảm thán.

Như thế, từ một hình ảnh, một ấn tượng thực, với hai câu thơ này Nguyễn Đình Thi đã vẽ nên một bức tranh mang ý nghĩa biểu tượng sâu sắc cho đất nước đau thương trong chiến tranh, bị kẻ thù giày xéo. "Nói về tội ác kẻ thù có thể có nhiều cách nói khác nhau, tôi không miêu tả cụ thể mà từ chất liệu cụ thể khái quát lên một điều gì sâu xa hơn".

Chính từ trong đau thương chiến đấu, gương mặt đất nước ngày càng ngời sáng. Các động từ ngời lên, bật lên đã diễn tả sự vùng dậy quật cường của dân tộc:

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn.

Càng về cuối bài Đất nước, cảm hứng lạc quan càng nồng đượm. Đứng ở hiện tại chiến thắng vinh quang nhìn lại con đường lịch sử vừa qua của dân tộc, Nguyễn Đình Thi tỉnh táo và tự hào khẳng định:

Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Bởi ý đồ tổng kết lịch sử, hệ thống hình ảnh trong khổ thơ trên kết hợp hài hoà mặt cụ thể, gợi cảm với tính khái quát, biểu tượng (ngày nắng đốt, đêm mưa giội, trán, lòng, trời đất mới, ánh bình minh). Con đường vừa qua của đất nước đâu bằng phẳng thênh thang. Trên con đường ấy, chúng ta vừa trải qua bao khó khăn, thử thách này lại tiếp ngay thử thách khác, mỗi bước đường phải trả giá bằng bao xương máu. Sức mạnh nào đã đưa dân tộc vượt qua con đường gian khổ, vinh quang ấy và bước tiếp tới tương lai tươi sáng ? Đó chính là lí trí tỉnh táo, tư tưởng cách mạng đúng đắn, phương pháp cách mạng khoa học, là tình cảm lạc quan phơi phới. Khi một cá nhân, một cộng đồng kết hợp được hai mặt này thì sẽ mang sức mạnh vô địch. Khổ thơ chứng tỏ sự tổng kết lịch sử sâu sắc của Nguyễn Đình Thi theo cách một nhà thơ trữ tình.

Mọi vẻ đẹp của hình tượng đất nước, những cảm hứng chính của Nguyễn Đình Thi được kết tinh khá trọn vẹn ở khổ cuối bài thơ. Đây là đỉnh điểm của cảm hứng sử thi khi ngợi ca tầm vóc đất nước, khi dựng tả bức tượng đài:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng loà.

Khổ thơ xây dựng hình ảnh theo tầng lớp. Từ hình ảnh những lớp người cụ thể, Nguyễn Đình Thi liên tưởng, khái quát thành hình ảnh đất nước trong thời đại mới, nghĩa là khổ thơ kết hợp hài hoà tính tả thực, gợi cảm với tính biểu tượng. Trong một bài viết kể về việc sáng tác Đất nước, Nguyễn Đình Thi có giải thích rằng khổ thơ kết này được hình thành từ một hình ảnh thực chính mắt nhà thơ được chứng kiến. Đó là từ trong chiến hào đầy bùn đất, các chiến sĩ ta dũng mãnh xông lên tấn công vào đồn giặc Pháp. Quân phục các anh lấm lem nhưng lưỡi lê tuốt trần, bóng người lấp lánh trong lửa đạn. Chính từ đây, nhà thơ xây dựng một cảnh tượng thật giàu chất điện ảnh. Dưới bầu trời ầm vang tiếng súng, dọc ngang chớp đạn, những lớp người ồ ạt xông lên với khí thế không gì ngăn cản nổi. Lớp này ngã, những lớp sau tiến bước, cứ ào ào như sóng cuộn. Sự đè nén, áp bức tàn bạo của kẻ thù khiến lòng hờn căm, giận dữ của dân ta càng nóng bỏng để vùng lên mạnh mẽ. Hình ảnh này gợi ta liên tưởng đến câu tục ngữ “Tức nước vỡ bờ”.

Từ hình ảnh cụ thể trên, Nguyễn Đình Thi đã khái quát, đúc kết nên hình tượng đất nước. Đó là một đất nước từ trong máu lửa đau thương của chiến tranh, từ trong bùn lầy của lam lũ, đói nghèo mà vươn mình đứng dậy. Hình tượng đất nước này khiến ta nhớ lại cái vươn vai kì diệu của chú bé làng Gióng thuở nào. Tầm vóc đất nước vụt trở nên kì vĩ lạ thường. Đúng là trong vất vả đau thương đất nước càng "tươi thắm vô ngần" như Nguyễn Đình Thi từng viết:

Anh yêu em như yêu đất nước

Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần.

Kiểu liên tưởng khái quát này ta sẽ còn bắt gặp khá nhiều trong thơ ca Việt Nam về sau. Chẳng hạn, từ tư thế hi sinh hiên ngang của anh giải phóng quân trên đường băng Tân Sơn Nhất (ở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân 1968) nhà thơ - liệt sĩ Lê Anh Xuân liên tưởng đến "Dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỉ". Từ dáng đứng này, Lê Anh Xuân cảm nhận "Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân" (Dáng đứng Việt Nam). Hay ở Việt Nam, máu và hoa, trong không khí hào hùng của thời đại dân tộc đánh đế quốc Mĩ và chiến thắng, Tố Hữu ca ngợi: "Ôi Việt Nam ! Từ trong biển máu - Người vươn lên, như một thiên thần !".

Khổ thơ của Nguyễn Đình Thi còn hay ở thể sáu chữ, ở nhịp điệu vừa nhịp nhàng vừa ngày một đẩy tới, dâng cao (nhất là ở dòng thứ hai và dòng cuối). Nhịp điệu ấy cũng tương ứng với sự vươn lên mạnh mẽ, với tầm vóc kì vĩ của hình tượng đất nước. Đỉnh điểm của nhịp thơ chính ở chữ "sáng loà" cuối cùng. Từ đây, hiện lên hình tượng đất nước Việt Nam rực rỡ, chói ngời trong ánh hào quang chiến thắng.

Phân tích Đất nước (Mẫu 7)

Xưa nay, nhiều bài thơ hay lại được nhà thơ viết rất nhanh, có vẻ như “xuất thần”. Trái lại, có những bài thơ được nung nấu kỹ lưỡng khi hoàn thành chưa hẳn làm ưng ý tác giả, nhất là về cảm xúc, sự xộc xệch trong kết cấu… Đất nước của Nguyễn Đình Thi có lẽ là trường hợp ngoại lệ. Nó được thai nghén từ những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp (năm 1948, 1949) và hoàn thành khi cuộc kháng chiến ấy đã kết thúc (năm 1955). Dĩ nhiên, đó phải là thành công của nhà thơ có tài. Nhưng điều quan trọng hơn chính là do tác phẩm ấy được tạo dựng nên từ những cảm xúc, suy nghĩ của Nguyễn Đình Thi về một chủ đề lớn: Đất nước!

Khởi đầu bài thơ là những cảm xúc trực tiếp trong một sáng mùa thu, gợi nỗi nhớ về Hà Nội:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Đó cũng là ấn tượng về một mùa thu Hà Nội: không khí mát trong, gió nhẹ thổi và phảng phất mùi hương cốm mới. Câu thơ gợi tả cả không gian, màu sắc và hương vị, “đồng hiện” cả thời gian và quá khứ và hiện tại, trộn lẫn hình ảnh trong thực tại và hình ảnh trong hoài niệm.

Hương cốm mới là nét đặc sắc của mùa thu Hà Nội. Dường như đó là kết tinh của tất cả hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu Hà Nội. Thạch Lam từng viết về cốm, món quà đặc biệt của mùa thu Hà Nội: Phảng phất hương vị ngàn hoa cỏ… là thức dâng của cánh đồng bát ngát xanh, mang trong hương vị tất cả cái mộc mạc, giản dị mà thanh khiết của đồng quê nội cỏ. (Hà Nội băm sáu phố phường).

Sau này, hương cốm cũng đã đi vào nhạc của Trịnh Công Sơn (Nhớ mùa thu Hà Nội) cùng với cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ… làm thành nét thanh tao, gợi nhớ mùa thu Hà thành: Hà Nội mùa thu/ Cây cơm nguội vàng / cây bàng lá đỏ / nằm kề bên nhau/ phố xưa nhà cổ / mái ngói thâm nâu /… Hà Nội mùa thu / mùa thu Hà Nội / mùa hoa sữa về / thơm từng cơn gió / mùa cốm xanh về / thơm bàn tay nhỏ / cốm sữa vỉa hè / thơm bước chân qua…

Nguyễn Đình Thi đã đưa vào thơ những gì đặc trưng nhất của mùa thu Hà Nội. Điều đó chứng tỏ nhà thơ là người gắn bó sâu nặng, thiết tha với Hà Nội thấm thía xao xác khi ở xa trông về. Nguyễn Đình Thi kể, hồi nhỏ đi học trung học, ông thường lên vùng Hồ Tây ngồi ngắm bầu trời và những áng mây bay. Cảm hứng về bầu trời thu, về những làn gió mát, về hương vị cốm xanh và những dòng sông, ruộng đồng ở đoạn sau của nhà thơ “cũng chính là cảm hứng về đất nước”.

Dòng thơ thứ ba: "Tôi nhớ những ngày thu đã xa" là một sự chuyển mạch. Thực ra, ở hai câu thơ đầu đã có hình ảnh mùa thu xưa rồi, nhưng đến đây có lẽ không kiềm được dòng hồi tưởng nên lời thơ như buột phát ra: Tôi còn nhớ những ngày thu đã xa.

Ở đây, còn có một lý do nữa: Trong bài thơ Sáng mát trong như sáng năm xưa, vốn là vị trí của câu thơ có hình ảnh đẹp: "Cỏ mòn thơm mãi dấu chân em". Câu thơ mang dáng dấp suy nghĩ tình cảm và tình cảm của một trí thức Hà Nội. Thời ấy, có thể không hợp với suy nghĩ của nhiều người trong hoàn cảnh kháng chiến nên Nguyễn Đình Thi đã thay đi. Song, dù sao thì sự chuyển mạch ấy cũng hợp lý, kết nối được hình ảnh toàn bài thơ. Bốn câu thơ kế tiếp miêu tả về mùa thu Hà Nội xưa:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu Hà Nội hiện lên trong hoài niệm của nhà thơ thật đẹp và thơ mộng, về thời tiết, thiên nhiên, không gian (chớm lạnh, xao xác hơi may, phố dài). Đặc biệt, sự cảm nhận của tác giả thật tinh tế và tài hoa khiến cho mùa thu Hà Nội bỗng nhiên biểu hiện bằng hình khối, màu sắc, ánh sáng. Đó là thứ hình khối, ánh sáng, màu sắc của tâm trạng nên khiến lòng người càng thêm xao động.

Mùa thu Hà Nội trong hoài niệm của Nguyễn Đình Thi vì thế mang vẻ đẹp của tâm trạng. Cảnh thu thường gợi lên trong lòng người những phảng phất buồn bởi sự thay đổi âm thầm, dịu ngọt, chầm chậm của hương vị, hoa lá, cỏ cây, của đất trời, ánh sáng.

Nhưng điều quan trọng nhất vẫn là do nhà thơ nắm bắt được những phút giây kì diệu ấy của mùa thu. Ở đất nước, Nguyễn Đình Thi không chỉ nắm bắt được thần thái của mùa thu Hà Nội, mà có lẽ mùa thu ấy từ lâu đã là một phần trong tâm hồn nhà thơ. Thơ xưa viết về mùa thu thường gắn với chia li, những cuộc tiễn đưa. Thơ thu của Nguyễn Đình Thi vô tình có hình ảnh ra đi ấy và vì thế khiến cảnh thu càng thêm xao xuyến:

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng là rơi đầy

Đến nay, đã có nhiều ý kiến khác nhau về “người ra đi” trong câu thơ trên. Có người cho đó là người Hà Nội mang tâm trạng, cảnh ngộ rời bỏ thủ đô khi kháng chiến bùng nổ. Lại có ý kiến cho rằng, đó là hình ảnh người lính của Trung đoàn Thủ đô khi rút khỏi Hà Nội… Thực ra, Trung đoàn Thủ đô rời Hà Nội vào mùa xuân sau hai tháng chiến đấu (1947) và cuộc rút lui ấy diễn ra vào ban đêm, dưới gầm cầu Long Biên.

Còn nếu gắn việc người Hà Nội ra đi khi kháng chiến bùng nổ càng không đúng vì toàn quốc kháng chiến diễn ra tháng 12 năm 1946. Căn cứ vào cảm xúc và hình tượng thơ có thể khẳng định việc người ra đi ấy diễn ra trước năm 1945. Người ấy có sự dứt khoát về một lựa chọn (đầu không ngoảnh lại) nhưng trong lòng hẳn nhiều vương vấn, luyến lưu nên âm điệu thơ bâng khuâng và cảnh ra đi tuy đẹp nhưng buồn và lặng lẽ. Hình ảnh ấy gần với người ra đi của Thâm Tâm:

Đưa người, ta chỉ đưa người ấy

Một giã gia đình, một dửng dưng…

- Ly khách! Ly khách! Con đường nhỏ

Chí lớn không về bàn tay không

(Tống biệt hành)

Nguyễn Đình Thi từng thổ lộ: "Người ra đi này cũng không phải tác giả hoặc một người cụ thể – người ra đi ấy có thể là đi làm cách mạng, hoặc vì một lẽ khác, vì một bi kịch chung hoặc riêng… Dù sao đấy cũng là một người bỏ nơi ở, bỏ nơi mình đang quen sống để ra đi, người ấy có nhiều nông nổi, nhiều tâm trạng, cho nên ra đi “đầu không ngoảnh lại”, cảnh đẹp vắng vẻ, quyến luyến lặng lẽ. Người ra đi ấy có một cảnh ngộ nào đấy ta không biết rõ, nhưng đầu anh ta không ngoảnh lại, anh ta thấy cần phải đi, và những cái anh ta bỏ lại sau lưng, hình như không phải của anh ta nữa" (Thư trả lời bạn đọc, ngày 14.12.1983).

Dù gì đi nữa thì khổ thơ trên vẫn là những câu thơ đẹp nhất của bài thơ đất nước. Có những người nói đó là “những câu thơ thật mới mẻ về hình thức, thật mới mẻ về cảm xúc so với thời bấy giờ, và ngay cả bây giờ, nó vẫn nguyên giá trị thơ, như là những giá trị cổ điển vậy” (Tâm Hoàng, Nhân Dân chủ nhật, ngày 11.8.1991).

Từ hoài niệm về mùa thu Hà Nội xưa, tác giả dẫn vào cảm xúc về mùa thu đất nước, trong cảnh hiện tại ở chiến khu Việt Bắc:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Bài thơ có sự chuyển đổi về âm điệu, nhịp điệu: những câu thơ ngắn với những thanh nhịp nhanh, rộn ràng; sự phối hợp âm thanh với vần trắc và thanh trắc (phất phới, áo mới). Cảnh sắc thiên nhiên cũng có sự thay đổi. Vẫn là mùa thu với bầu trời trong xanh, nhưng tươi sáng, nhiều hoạt động linh hoạt, gió thổi, rừng tre phấp phới, trời thu thay áo mới, nói cười thiết tha.

Tất cả sự thay đổi ấy hòa nhập với tâm trạng con người (đứng vui), thể hiện niềm vui hồ hởi, phấn chấn, tin tưởng, một vẻ đẹp khoẻ mạnh và tươi sáng. Sự tinh tế trong cảm nhận của nhà thơ thể hiện ở những nét riêng biệt của mùa thu mới: âm thanh ngân xa, vang vọng, ánh nắng như trong sáng hơn và bầu trời cũng cao rộng hơn. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước, Nguyễn Đình Thi dẫn dắt đến sự bộc bạch tình cảm mến yêu tha thiết và tự hào:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Những từ chỉ định (đây) và điệp ngữ (của chúng ta) vang lên dõng dạc, tự hào về quyền làm chủ của đất nước. Ngay cả sự liệt kê (một cách khái quát, bằng những danh từ và tính từ) tiếp tục bổ sung cho niềm tự hào to lớn ấy. Đặc biệt là hình ảnh bầu trời được Nguyễn Đình Thi hết sức chú ý: "Trời xanh đây là của chúng ta". Hình ảnh ấy vừa chân thực lại vừa có ý nghĩa tượng trưng cho đất nước, cho tự do, cho những gì cao đẹp nhất của con người. Còn nhớ, trước năm 1945, Nguyễn Đình Thi từng viết:

Trời xanh ơi hỡi xanh không nói

Hồn ta muốn hiểu chẳng cùng cho

Khi ấy, “trời xanh” là hình ảnh đẹp, nhưng ngoài tầm với và sự hiểu biết của con người. Trên cái nền không gian rộng mở, được miêu tả từ nhiều mặt, Nguyễn Đình Thi chuyển sang chiều dài thời gian, nói lên đặc điểm, truyền thống và độ sâu lắng của đất nước và con người Việt Nam.

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Thực ra, quá khứ, truyền thống của dân tộc không chỉ có vậy. Nhưng có lẽ, trong hoàn cảnh của cuộc kháng chiến toàn dân lúc bấy giờ, Nguyễn Đình Thi tập trung nói về truyền thống bốn nghìn năm kiên cường chống giặc ngoại xâm. Câu thơ có sự khái quát rất cao, nhưng lại gợi mở về những lớp người, những thế hệ đã anh dũng hy sinh, sẵn sàng hiến dâng cho đất nước. Tất nhiên, cùng với nhiều truyền thống tốt đẹp khác, tinh thần bất khuất của dân tộc hợp thành tiếng nói bền bỉ, liên tục, tiếp sức cho hiện tại:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Tiếng nói ấy trở thành hồn thiêng sông núi, tiếp sức, nhắc nhở người đời sau. Nguyễn Đình Thi là nhà thơ sớm cảm nhận mối quan hệ giữa quá khứ và hiện tại. Sau ông, nhiều nhà thơ còn tiếp tục khai thác những khía cạnh độc đáo khác nhau về mối quan hệ ấy. Từ Huy Cận:

Cha ông yêu mến thời xưa cũ

Trần trụi đau thương bỗng hóa gần

Những bước mất đi trong thớ gỗ

Về đây, tươi vạn dặm đường xuân

(Các vị La Hán chùa Tây Phương)

đến Chế Lan Viên (Người đi tìm hình của nước, Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Lê Anh Xuân, Thu Bồn… rồi Nguyễn Khoa Điềm ở những năm tháng đánh Mỹ:

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng

Em ơi em, đất nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên đất nước muôn đời…

(Mặt đường khát vọng)

Phần hai bài thơ tập trung vào một ý lớn: đất nước từ trong đau thương, căm hờn đứng lên ngời sáng. Mở đầu là một hình ảnh về đất nước trong chiến tranh:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Nhiều người nói, Nguyễn Đình Thi sử dụng thủ pháp ngược sáng (contre soleil) của điện ảnh, trong ánh chiều tà, dây thép gai ở đồn giặc vươn lên tua tủa như đâm vào bầu trời.

Nguyễn Đình Thi có dịp thổ lộ, ngày ấy “trên những chặng đường công tác mỗi buổi chiều khi mặt trời sắp tắt, nhìn về những chân trời xa thấy đồn bốt giặc với những lô cốt, những hàng dây thép gai giăng đầy làm cho chân trời bị xé nát, nham nhở – gây một tức tối căm giận”.

Nên nhớ rằng, đây là một buổi chiều thu, vốn đẹp và nên thơ. Hình ảnh ấy biểu hiện cái nhìn tinh tế và tình cảm chân thật của người viết: chiến tranh tàn phá tất cả, chiến tranh đồng nghĩa với sự hủy hoại, với cái ác. Không ít nhà thơ cùng thời với Nguyễn Đình Thi cũng đã có những cái nhìn tinh tế và đau xót ấy:

Có làng trung đoàn ta đi qua

Máu đông in dấu giày đinh giặc

Nền tro, gạch sém, ngách buồng ai

Chiếc tả đầu giường đang cháy dở

(Quang Dũng - Những làng đi qua,1947)

Bỗng cuối mùa chiêm quân giặc tới

Ngõ chùa cháy đỏ những thân cau

Mới ngỏ lời thôi đành lỗi hẹn

Đâu ngờ từ đó bặt tin nhau

(Vũ Cao - Núi đôi, 1956)

Trên cái nền của hiện thực ấy là tâm trạng của người chiến sĩ:

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Được đặt ở cùng khổ thơ, tạo thành kết cấu: ngoài/trong. Hai câu đầu là ngoại cảnh, hai câu sau là tâm trạng. Giữa dòng thơ còn có sự đối xứng khác: những / bỗngnung nấu/bồn chồn. Cách đối xứng đó làm bật lên phẩm chất ở người chiến sĩ: tình cảm thường xuyên là căm thù giặc, ý chí giải phóng đất nước và tình cảm có vẻ đột xuất là nỗi nhớ thương người yêu dâu. Sự xử lý mang tính lịch sử của thời kỳ ấy: tình cảm chung nổi trội hơn tình cảm riêng, nhưng không vì thế mà không có tình cảm riêng.

Năm khổ thơ tiếp tập trung thể hiện suy ngẫm của tác giả về đất nước từ trong đau thương, căm hờn đã đứng lên chiến đấu bất khuất, sẵn sàng hi sinh như những anh hùng của thời đại mới. Tứ thơ phát triển theo hướng suy tưởng nên hình tượng thiên về khái quát, tượng trưng, với những biểu tượng quen thuộc, bát cơm, nước mắt, xiềng xích, chim, hoa…

Nhiều câu thơ nặng diễn dịch ý, mang tính chính luận. Ý thơ dựa vào các mảng cảm xúc, tâm trạng, mảng nọ đặt cạnh mảng kia để bộc lộ chủ đề, Nguyễn Đình Thi không dùng các câu nối, trái lại là những hình ảnh rời làm thành khối. Chúng liên kết được với nhau là nhờ mạch cảm xúc, suy nghĩ của tác giả. Điều đáng nói ở những khổ thơ cuối của bài Đất nước là những hình ảnh, những ý mới:

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng…

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Về nghệ thuật, đó là cách sử dụng nhiều động từ và trạng từ chỉ các hành động và trạng thái cảm xúc mạnh mẽ, kèm theo là các trạng ngữ và việc mở rộng thành phần vị ngữ của các câu thơ làm cho trọng tâm câu thơ dồn vào phần vị ngữ:

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu…

Đã ngời lên nét mặt quê hương…

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta…

Đứa đè cổ đứa lột da…

Các câu thơ với hình ảnh tương phản (xiềng xích / trời, súng đạn / lòng dân) khi trùng điệp, tiếp nối (khói nhà máy, kèn gọi quân, ngày nắng đốt, đêm mưa dội…) diễn tả những ý tưởng về đất nước được nhà thơ suy ngẫm trong thời gian dài.

Bây giờ, những ý tưởng ấy đã trở nên quen thuộc, gần gũi với mọi người, nhưng ở thời kỳ nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà mới hình thành, nhất là trong cuộc kháng chiến khốc liệt, đó lại là sự trải nghiệm phải trả giá bằng mồ hôi, nước mắt, thậm chí bằng máu xương của hàng vạn, hàng triệu con người.

Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh tượng trưng cho sự đứng dậy hào hùng, chói lọi trong khói lửa chiến đấu, từ đau thương căm hờn của đất nước. Bốn câu thơ thể sáu chữ với cách ngắt nhịp đều đặn, dồn dập tạo âm hưởng dõng dạc, hùng tráng. Hình ảnh này hình thành từ cảnh thực tác giả đã chứng kiến tại chiến trường Điện Biên Phủ năm 1954. Nhà thơ giải thích những câu thơ “đã tiếp nhận được những âm vang mạnh mẽ của chiến trường khi hàng dàn đại bác cùng thi nhau bắn vào đầu giặc…"

Bài thơ đã kết thúc với âm hưởng chiến thắng của chiến trường Điện Biên Phủ. Đất nước là bài thơ thành công hơn cả của Nguyễn Đình Thi khi ông viết về những chủ đề lớn hơn. Đó cũng là bài thơ hay của nền thơ Việt Nam thời kháng chiến chống thực dân Pháp. Tác phẩm kết hợp được nhiều yếu tố: hình ảnh chân thực và chất suy tưởng, khái quát, cảm xúc, suy ngẫm của cá nhân với tình cảm, tư tưởng của cả dân tộc về đất nước. Có lẽ vì thế, trải qua nhiều năm tháng, Đất nước vẫn là tiếng thơ hào sảng trong tâm hồn người Việt Nam.

Phân tích Đất nước (Mẫu 8)

Có lẽ không có một nhà thơ nào trên thế gian này, trở thành một nhà thơ chân chính mà lại không có một vần thơ, một bài thơ viết về đất nước, về quê hương. Bởi vì đất nước là nguồn cảm hứng vô tận đối với thi sĩ muôn đời. Nhưng tình cảm đất nước ở mỗi con người lại hình thành theo một con đường riêng, mang nội dung màu sắc riêng và dựa trên những cảm nhận riêng.

Nguyễn Đình Thi là một nhà thơ viết nhiều về đất nước. Nhưng có lẽ chưa ở đâu, trong thơ và trong văn của ông, cảm hứng về đất nước lại nổi bật, tập trung đặc sắc như ở bài thơ Đất nước.

Bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi được sáng tác từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành, so với Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm, Đất nước của Nguyễn Đình Thi ngắn hơn, thế mà Hoàng cầm sáng tác chỉ trong một đêm, còn Nguyễn Đình Thi đã viết trong bảy tám năm ròng rã. So sánh như vậy để thấy cảm hứng về đất nước của hai nhà thơ ngay ở mặt này đã có cái gì rất khác nhau:

Bên kia sông Đuống là cảm hứng tuôn tràn, Đất nước là tình cảm nung nấu: Những đêm dài hành quân nung nấu. Lần giở lại "tiền sử" của bài thơ và đọc kĩ phần thứ nhất Đất nước, ta càng thấy rõ đó là một tình cảm nung nấu, nung nấu nỗi nhớ, nung nấu niềm vui, niềm tin yêu của người làm chủ.

Là một thanh niên sống và hoạt động ở Hà Nội, Nguyễn Đình Thi viết về đất nước, trước hết là viết về Hà Nội, thủ đô của đất nước, thủ đô của trái tim ông, Hà Nội với hương sắc xao động long lanh trong nắng gió mùa thu.

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Mùa thu nay khác rồi,

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha...

Chẳng phải ngẫu nhiên chút nào khi nói đến đất nước là nói đến Hà Nội và nói đến Hà Nội lại nói đến mùa thu. Đất nước ta tươi đẹp bốn mùa nhưng đẹp nhất là vào mùa thu và có mùa thu ở đâu lại đẹp, lại "mát trong" hơn mùa thu Hà Nội? Nhất là mùa thu nơi đây lại từng điểm một cái mốc vàng son vào lịch sử - "Thủ đô hoa vàng nắng Ba Đình" giữa "Tháng Tám mùa thu xanh thẳm" (Tố Hữu). Cho nên, chẳng phải chờ đến bốn câu tuyệt tác, ngay từ những đòng đầu đã có cái gì xôn xao, xào xạc trong hồn:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Đất nước gắn với nỗi nhớ, nỗi nhớ khởi từ mùa thu, mùa thu "đã xa" được gợi lại từ "mùa thu nay". Rõ ràng là có hai mùa thu như đang soi chiếu vào nhau làm cho mỗi phía đều long lanh lấp lánh hơn lên trong tâm hồn thi sĩ. Cái cảm giác "mát trong" là chung, là muôn thuở đối với mọi mùa thu Việt Nam, mùa thu Hà Nội.

Cái riêng biệt cái "đã xa" đã "khóe rồi" giữa hai mùa thu, còn lại là gì? Trong những ngày thu đã xa Hà Nội "mát trong" vẫn "mát trong" vẫn đẹp và thơ mộng. Nhưng đó là cái đẹp buồn. Phố xá vắng vẻ, xao xác, sân thềm đầy nắng, đầy lá vàng rơi. Gió heo may mang theo khí lạnh đầu mùa thổi dài theo những dãy phố cổ vắng người. Có một cái gì buồn, thật trang trọng trong thời khắc chuyển mùa, thời khắc chia xa.

Mùa thu nay vẫn "mát trong" như "sáng năm xưa" ấy nhưng cũng "đã khác rồi". Khác rồi bởi cái "Người ra đi đầu không ngoảnh lại" của "những ngày thu đã xa", giờ đây đã "đứng giữa núi đồi", đúng từ một tầm cao của chiến khu kháng chiến Việt Bắc để mà "nhớ' mà "nghe". Lòng người đã đổi nên ngọn gió cũng đổi, âm thanh cũng đổi, sắc hương cũng đổi:

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Đó là cơn gió thổi, sắc áo mới, tiếng nói cười giữa một cuộc hồi sinh. Có một thay đổi nhỏ trong cách xưng hô ở trên là "tôi nhớ", "tôi đứng vui nghe". Đến đoạn thơ tiếp theo, đất trời mùa thu lại vang vọng tiếng "nói cười thiết tha" của "chúng ta".

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Nước chúng ta...

Mấy chữ "của chúng ta", "chúng ta" ấy vang lên thật rắn rỏi, kiêu hãnh tin yêu, "chúng ta" tự hào về "nước chúng ta" có chủ quyền, tự hào vì "nước chúng ta" giàu đẹp rộng lớn.

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa...

Tự hào vì truyền thống "không bao giờ khuất" của cha ông mình:

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về

Ở trên, ta nghe một "tiếng nói cười thiết tha" vọng lên đâu đó giữa tầng trời "trong biếc", ơ đây trong những dòng khép lại phần thứ nhất bài thơ, ta lại nghe tiếng nói thiêng vọng lên từ lòng đất thiêng mà nhà thơ gọi là "tiếng đất". Như vậy, cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi trong phần thứ nhất của bài thơ là niềm vui của người làm chủ.

Đó là niềm vui, là nỗi nhớ vừa sâu lắng vừa náo nức trong lòng, một thứ nỗi niềm vọng trong tâm thức thành một thứ tiếng nói riêng, "tiếng thu" riêng, nghe mênh mang sâu thẳm: sâu thẳm giữa bầu trời, sâu thẳm trong lòng đất và sâu thẳm giữa hồn người đi kháng chiến.

Như trên đã nói, Đất nước được Nguyễn Đình Thi sáng tác từ năm 1948 đến 1955 mới hoàn thành. Phần thứ nhất được hoàn thành năm 1948 ("Sáng mát trong như sáng năm xưa"), ("Đêm mít tinh") phần thứ hai, được viết tiếp từ 1949 đến 1955.

Nguyễn Đình Thi hình như chờ cho lịch sử viết xong thiên sử thi của dân tộc mình, rồi mới theo đó mà viết nốt phần thứ hai này. Có lẽ vì vậy mà dù thiên về xây dựng những hình ảnh có tính biểu tượng khái quát, lời thơ vẫn âm vang những tiếng vọng của cuộc sống hào hùng của một đất nước chiến đấu và chiến thắng, ơ đó, có âm vang của phong trào phát động quần chúng trong cải cách ruộng đất:

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Có âm vang nhịp bước vào công - nông - binh "liên minh" kháng chiến:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Nhưng nếu như những biểu tượng khái quát trên đây chỉ được xây dựng bằng cảm quan lịch sử, bằng sự kiện thì Đất nước của Nguyễn Đình Thi đã không làm xôn xao lòng người đến thế. Rất nhiều những biểu tượng đã kết tinh từ những kĩ niệm riêng, từ chính quan sát, trải nghiệm của một nghệ sĩ từng sống lăn lộn trong kháng chiến. Cho nên, Đất nước của Nguyễn Đình Thi có nhiều khổ, nhiều dòng lấp lánh cái chất sống của nhà thơ và của nhân dân.

Khi ông viết:

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Thì ta hiểu đó là nỗi đau chung quyện vào những nỗi đau riêng, và nỗi đau ấy nung nấu thêm vì một nỗi nhớ xao xuyến chay lòng. Trong đó có kỉ niệm về một buổi chiều hành quân ở Bắc Giang: Nhìn lên đồi cao, dây thép gai đồn giặc hằn lên như cào cấu "đâm nát trời chiều".

Ráng chiều đỏ bầm lại, rãnh cày đồng quê như "chảy máu". Những chi tiết rất thực, rất sống sít ấy đã vào thơ và trở thành biểu tượng đau thương của đất nước trong kháng chiến chống Pháp. Đó không còn là hình ảnh của một thời mà là hình ảnh của mọi thời giặc giã, không còn là hình ảnh của một vùng quê Bắc Giang mà hiển thân của mọi vùng quê, mọi đất nước dưới gót giày quân xâm lược.

Những hình ảnh đau thương quặn lòng ấy sẽ còn "nung nấu" những "đêm dài hành quân" nhưng cũng từ miền đau thương sâu thẳm ấy, mọc lên những ngôi sao thương nhớ lấp lánh, thao thức bồn chồn. Đó là ánh mắt "người yêu" là nỗi nhớ bồn chồn và cũng chính là sự thôi thúc, là niềm tin.

Trong thơ Nguyễn Đình Thi, nỗi "nhớ mắt người yêu" như nhớ một ánh sao lấp lánh ấy thường trở đi trở lại nhiều lần (Trong Bài thơ viết cạnh đồn Tây: "Nhớ em đôi mắt hay cười", Trong Em bảo anh: "Tia lửa nơi ta bay lên cao - Trong mắt người yêu thành trời sao", trong Nhớ: "Ngôi sao nhớ ai mà sao lấp lánh - Soi sáng đường chiến sĩ giữa đèo mây"...)

Nhưng đặc biệt ở "Đất nước", "Mắt người yêu" gợi một nỗi nhớ lớn lao sâu thẳm, vượt lên trên cả tình yêu đôi lứa, vượt lên trên nỗi nhớ người yêu. Bởi thứ ánh sáng bất chợt bừng lên trong tâm hồn ấy có cả nỗi đau, nỗi nhớ, có cả buồn vui, cả tin yêu hy vọng, cả riêng và chung. Bài thơ khép lại bằng một cảnh tượng hào hùng, tráng lệ:

Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Cảnh tượng vĩ đại này cũng là một biểu tượng khái quát về sự lớn mạnh quật cường của đất nước từ trong đau thương gian khổ. Nhưng đó là một bức tranh sống động. Cảm hứng hiện thực lấy từ chiến thắng Điện Biên Phủ: Đoàn quân "áo vải", "đứng lên thành những anh hùng" phất cao cờ chiến thắng trên nóc hầm viên tướng bại trận Đờ Caxtơri chiều mùng 7 tháng 5 lịch sử.

Cảnh tượng đó đã được nhiều nhà quay phim, chụp ảnh ghi lại, nhưng hiếm có ở đâu gợi cho ta thật nhiều ấn tượng như ở đây, có cái gì rung chuyển như một cơn trở dạ vĩ đại của trời đất, của lịch sử. Trước mắt ta lồng lộng, chói lòa một "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy..." Đó là cái "rũ bùn đứng dậy" của Phù Đổng Thiên Vương thời đánh Pháp.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi là một bài thơ đặc sắc về đề tài này. Đặc sắc nhất là ở cảm hứng rất riêng về đất nước của ông: Một đất nước gắn liền với mùa thu, gắn liền với niềm vui nỗi nhớ của con người làm chủ, một đất nước thật đẹp ngay trong cảnh gian khổ đau thương. Chính nhà thơ đã từng viết:

Anh yêu em như yêu đất nước

Vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần

(Nhớ)

Có lẽ vì vậy mà giữa bao nhiêu bài thơ hay về đất nước của bao nhiêu nhà thơ, người đọc vẫn không thể quên được những câu thơ tuyệt tác của ông về phố Hà Nội, về "Những cánh đồng quê chảy máu - Dây thép gai đâm nát trời chiều" và về "Nước Việt Nam từ máu lửa - Rũ bùn đứng dậy sáng lòa".

Phân tích Đất nước (Mẫu 9)

Nguyễn Đình Thi - một tâm hồn, một con người đa tài với những tác phẩm, bài viết đủ mọi thể loại. Văn học, soạn nhạc, triết học, lí luận phê bình... mặt nào cũng rất tài hoa. Về thơ ca, ông đã có những đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam với giọng thơ sôi nổi, đằm thắm và sâu lắng nhưng lại tao nhã, giản dị gần gùi với mọi người. Tác phẩm nổi bật trong thời kì này là bài thơ Đất nước. Được sáng tác từ 1948 - 1955, sự kết hợp hai bài thơ Đêm mít tinh Sáng mát trong như sáng năm xưa đã giúp tác giả hình thành thái độ trân trọng, một cái nhìn đầy đủ về hình ảnh đất nước. Đất nước thực sự là cuốn biên niên sử bằng thơ hào hùng, oanh liệt, vinh quang và rực rỡ của dân tộc.

Mở đầu bài thơ, Nguyễn Đình Thi đã lấy hình ảnh mùa thu đã xa, một mùa thu với những kí ức và hình ảnh đã thuộc về quá khứ:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Nguyễn Đình Thi đứng trước mùa thu của hiện tại và hồi tưởng về mùa thu quá khứ. Với hình ảnh thu trong lành, mát trong của sáng sớm, với gió mùa thu mang theo hương cốm, tác giả khiến người đọc cảm nhận một mùa thu quen thuộc, một mùa thu xưa đẹp đẽ. Vẻ đẹp của mùa thu, với tác giả, muôn đời vẫn vậy chẳng đổi thay, nỗi nhớ thương về cùng hoài niệm.

Chỉ với một câu thơ gió thổi mùa thu hương cốm mới đã đánh thức trong lòng người đọc hình ảnh mùa thu Hà Nội với vẻ đẹp truyền thống, tao nhã, bền vững và cổ xưa. Một chút gió heo may, một chút hương cốm thơm nức. Một hình ảnh quen thuộc kéo dài từ năm này qua năm khác không đổi thay.

Câu thơ tôi nhớ những mùa thu đã xa giống như câu thơ bản lề, chuyển hướng, đẩy tâm sự người đọc hướng về hiện tại:

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Khổ thơ sau vẫn là nhịp điệu chậm rãi, tràn đầy nhung nhớ. Nguyễn Đình Thi lại nhắc lại hình ánh sáng. Nhưng ảnh thu Hà Nội của hiện tại đẹp mà buồn, gợi bao sự thương nhớ. Sáng mùa thu chớm lạnh trong lòng Hà Nội, hay đúng hơn là cái chớm lạnh của lòng người trước mỗi đợt, mỗi khoảnh khắc thu về. Cái tinh tế của nhà thơ được thể hiện qua câu chữ trong lòng Hà Nội. Liệu có phải đây thực ra là nỗi nhớ qua những câu thơ đầy khắc khoải và ám ảnh?

Ở đây, còn gợi thêm một hình ảnh nữa về đặc trưng của Hà Nội: những phố dài và thêm một nét tinh tế nữa của nhà thơ, đó là việc sử dụng từ láy xao xác. Tất cả đều gợi ra sự vắng vẻ, hiu quạnh. Sự xao xác của lá thu hay là nỗi tâm sự đong đầy. Hình ảnh gió xao xác kết hợp với hình ảnh con phố dài đã tạo ra sự thu hút, sự sâu thẳm.

Và thật đột ngột, mạch cảm xúc của tác giả thay đổi, với hình ảnh người ra đi. Câu thơ thứ ba như một cái hất đầu ngạo nghễ, một sự quyết tâm đầy kiêu hãnh với chí lớn mang trong người. Nhưng câu thơ cuối lại là một tình cảm sâu lắng, trực tiếp, cảm xúc được dàn trải đều qua trang giấy qua cách ngắt nhịp của tác giả.

Có người nói, hình ảnh của Hà Nội đã thu lại trong câu thơ cuối: thềm nắng lá rơi đầy. Câu thơ đẹp và giàu sắc thái thẩm mĩ. Bức tranh thu Hà Nội thấm đầy nắng, gợi nên sắc thái quyến rũ trong tâm trí người ra đi. Mà có khi làm sao mà đi nổi khi một Hà Nội đẹp thế, quyến rũ như thế cứ níu chân chẳng cho đi, làm sao không khỏi mềm lòng.

Đó là mùa thu của quá khứ, còn mùa thu của bây giờ, của hiện tại rực rỡ hơn, tươi mát hơn. Và tự hào hơn trong lòng tác giả:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Một lời khẳng định đầy kiêu hãnh, gợi mở cho người đọc hướng về hình ảnh mùa thu trong sự đổi mới với mùa thu xưa. Chữ khác dường như không chỉ là sự khác biệt về thời gian, không gian như xưa, nay mà còn là sự khác biệt trong nhận thức và tư tưởng của con người. Vì một lẽ đơn giản là muôn đời thu vẫn thế, vẫn gió heo may cùng hương cốm. Vấn đề là cảm nhận của con người mà thôi. Mùa thu xưa là mùa thu của dân tộc nô lệ. Kiếp người khổ đau, vì vậy mà thu có vẻ ảm đạm và thê lương. Khi đã độc lập, mùa thu như rạng rỡ hơn, chan hoà hơn. Giữa sự thay đổi của đất trời, của cuộc đời mới, mỗi người cùng hoà vào tiếng vui chung. Con người giao hoà với đất trời và vũ trụ. Con người lắng nghe được âm hưởng vui mừng của niềm vui độc lập, đó là niềm hạnh phúc tột độ.

Ở đây, không gian thu được mở rộng khoáng đạt hơn. Với tiếng gió thổi rừng tre phấp phới, vẫn là gió thu, nhưng không phải lặng lẽ, buồn bã, mà là tiếng gió (thổi vào rừng tre) phấp phới như muốn giữ trọn niềm vui của con người vào thiên nhiên, vũ trụ. Hình ảnh rừng tre tượng trưng cho sức mạnh Việt Nam, vẻ đẹp của Việt Nam, niềm vui của thu độc lập. Tất cả như muốn cất lên tiếng reo ca tột độ.

Và trong xúc cảm thăng hoa, Nguyễn Đình Thi có những câu thơ hết mực tài hoa:

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Mùa thu như được nhân hoá và người đọc cảm thấy mùa thu như một thiếu nữ điệu đà, thướt tha đang khoác tấm áo mới rạng rỡ, tươi tắn và dịu dàng. Phải chăng tấm áo ấy là của sự độc lập, tự do của dân tộc?

Mùa thu ở đây vừa có nét tươi trong trẻo của một mùa thu muôn đời, lại vừa có sự phấn khởi, vui mừng. Câu thơ đã gợi ra tất cả xúc cảm, sâu lắng, huyên náo... tạo ra sự giao hoà giữa niềm vui của con người và niềm vui của đất trời trong ngày độc lập.

Và cảm xúc của nhà thơ như trải dài qua khổ thơ:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Các câu thơ như cuốn vào nhau. Với cách ngắt nhịp mạnh mẽ, ngắn đã tạo ra âm hưởng hùng tráng, tràn đầy niềm tự hào. Nguyễn Đình Thi bây giờ như đang là một hướng dẫn viên, giới thiệu và tỏ bày với mọi người về cảnh sắc quê hương. Đây là núi rừng, trời xanh, kia là cánh đồng, ngả đường, xa hơn nữa là dòng sông. Tất cả như đang phơi bày vẻ đẹp, sự mỹ lệ vốn có của bản thân. Hay nói đúng hơn, đây là sự háo hức, tất cả sự hãnh diện, vinh dự với tư cách là người làm chủ. Tác giả nhấn mạnh vào quan hệ từ của như muốn khẳng định sự sở hữu và quyền tự chủ của bản thân.

Ở đây đã có sự thay đổi về cách xưng hô, có sự hoà nhập giữa cái tôi của Nguyễn Đình Thi, của người nghệ sĩ với cái chung của cả dân tộc. Nguyễn Đình Thi không chỉ nói tiếng nói chung của mình mà con nói tiếng nói chung của cả dân tộc, của mọi người bằng hai tiếng chúng ta đầy kiêu hãnh.

Vào thời Pháp thuộc, không hề có chuyên quan niệm chúng ta. Tất cả đều đặt dưới sự kiểm duyệt gắt gao của bọn thực dân. Chỉ có thời đại mới, chỉ có xã hội và cái chung của chúng ta, chỉ có thời đại mới, chúng ta mới có thể hít thở không khí mát lành của thu tự do, chứ không còn bức bối ngột ngạt như trước. Nguyễn Đình Thi như muốn khẳng định tính ưu biệt của xã hội mới.

Cảm xúc dâng trào khi nghĩ về sự tự do, độc lập, niềm vui mừng hân hoan bỗng nhiên trầm lắng trong sự suy tưởng:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Nhịp thơ bỗng thay đổi, mang xúc cảm trầm lắng, ẩn chứa thái độ thành kính thiêng liêng, hướng người đọc trở về quá khứ lịch sử của quê hương. Khi con người ta vui mừng, hân hoan về một chiến thắng thì bao giờ, sau đó cùng sẽ là những giây phút trầm mặc suy nghĩ về cái giá của chiến thắng đó. Tứ thơ của Nguyễn Đình Thi về đất nước tạo nên một chiều sâu khôn cùng. Đất nước ở đây không chỉ được cảm nhận ở hiện tại mà được nhìn nhận trong chiều sâu quá khứ. Quá khứ là bệ phóng, điểm tựa của hiện tại. Theo ông, đất nước ở đây là đất nước của những con người bất tử, chưa bao giờ khuất phục. Chữ rì rầm kết hợp với từ vọng tạo ra sự hô hứng, cộng hưởng kì diệu. Như thể người cảm nhận được cái cao cả, thiêng liêng, sự gần gũi và thân thiết.

Nguyễn Đình Thi như muốn nêu lên bài học lịch sử cha ông, đạo lý của cha ông được ghi tạc lại trong tâm khảm mỗi con người Việt Nam, ngỡ như lời trò chuyện, tâm tình, thú vị của những người xưa. Tạo nên xúc cảm thiêng liêng thành kính nhưng lại thân thiết và gần gũi. Khổ thơ như khúc nhạc trầm trong bản Instrumental (hoà tan) của Đất nước.

Khi suy nghĩ về tự do độc lập, về bài học lịch sử của cha ông, Nguyễn Đình Thi hướng dòng suy nghĩ của mình về quá khứ đấu tranh của dân tộc, với những khốc liệt vốn có của nó:

Ôi nhưng cảnh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Những câu thơ tràn ngập cảm xúc đau thương sâu lắng. Hai câu đầu, có thể coi là hai câu đặc sắc thể hiện tài hoa của nghệ sĩ. Thơ của Nguyễn Đình Thi không chỉ giàu hình ảnh mà đầy ắp tính nhạc và hội hoạ. Các hình ảnh thơ mang giá trị hiện thực cao, sử dụng biện pháp tu từ đặc sắc: cánh đồng quê chảy máu, dây thép gai đâm nát trời... gợi ra một nỗi đau khôn cùng, vẻ đẹp bình yên của làng quê đã bị lãng quên, cái yên ả của không gian không còn. Thay vào đó là hình ảnh dây thép gai với tội ác chồng chất của kẻ thù và cánh đồng máu đầy sự đau thương. Câu thơ diễn tả sự khốc liệt của chiến tranh và tội ác ghê ghớm của quân thù, bộc lộ một nỗi đau lên đến tận cùng. Nỗi đau càng lớn, niềm căm thù càng sâu sắc.

Cái tài của tác giả là tự gửi vào thơ chất điện ảnh và hội hoạ đặc tả. Đọc thơ, người đọc như thấy trước mắt mình là cả hiện thực khốc liệt của những năm tháng khổ đau một cách tường tận và chi tiết. Ngòi bút của Nguyễn Đình Thi như một máy quay phim tài ba và đặc biệt giúp cho người đọc nhận ra một bức tranh ngập đầy máu của chiến tranh. Nỗi đau của con người và màu của ráng chiều đổ xuống gợi nên một màu tang tóc, đau thương. Màu máu đỏ là thay thế hoàn toàn cho sắc xanh của bầu trời, màu vàng óng của cánh đồng lúa. Nhưng ở hai câu sau, mạch cảm xúc có sự chuyển đổi. Tác giả nói tới hình ảnh của người chiến sĩ ra trận từ trong đau thương, đã quyết tâm nung nấu một ý chí mạnh mẽ. Câu thơ giàu chất hiện thực và chất lãng mạn. Vẽ nên hình ảnh sống động của người lính kiên cường bất khuất, lại vừa sâu lắng và lãng mạn của bài thơ.

Và ở khổ thơ tiếp, Nguyễn Đình Thi đã lí giải sâu xa về sức sống, tinh thần ý chí chiến đấu của người dân:

Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Câu thơ ngắt nhịp khoẻ, rắn rỏi, thể hiện sâu sắc niềm tự hào, kiêu hãnh của tác giả về sức sống và vẻ đẹp của cả dân tộc. Từ ngời và bật được dùng rất hay, sự trỗi dậy, hồi sinh kỳ diệu, sự toả sáng, sức sống của dân tộc.

Vẻ đẹp quê hương, sức sống dân tộc được khơi nguồn sâu xa từ năm tháng thương đau. Từ hình ảnh con người bình dị, chân lấm tay bùn đã vươn lên thành anh hùng dũng cảm trong hành động, kiên định trong ý chí. Tứ thơ gợi ra chiều sâu của suy tưởng ở khổ thơ tiếp:

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ, đứa lột da

Khổ thơ này đã khắc hoạ trực tiếp tội ác của kẻ thù với niềm căm thù, nỗi đau tột cùng của nhân dân. Hình ảnh bát cơm chan đầy nước mắt là hình ảnh mang tính biểu tượng. Mồ hôi hoà quyện với nước mắt. Câu thơ gợi ra nỗi đau, sự xót xa của con người trong nô lệ. Cách xưng hô đối lập giữa một bên là chính nghĩa: ta, cùng với một bên là sự phi nghĩa: bọn thằng, đứa., như bao căm thù và uất hận được dồn lại.

Nhưng cho dù chiến tranh có khốc liệt như thế nào, dù quân thù tàn bạo đến đâu, chúng ta vẫn mang trong mình một khí phách anh hùng:

Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước thương nhà

Cấu trúc không, đầy như muốn phủ định lại những gì mà quân đội Pháp đang cố gắng làm ở Vỉệt Nam và khẳng định khí phách ngạo nghễ rất cao của dân tộc. Nhịp thơ mạnh mẽ, đanh thép làm cho câu thơ trở nên giàu sức biểu tượng. Sự đối lập giữa hai hình ảnh thơ xiềng xích và trời đầy chim, đất đầy hoa đã thể hiện tinh thần lạc quan của nhân dân, khí phách anh hùng của dân tộc bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh và quân thù. Thể hiện sự tin tưởng vào chiến thắng sau này. Nguyễn Đình Thi đã chạm đến mạch nguồn sâu xa của truyền thống dân tộc và đã khẳng định rằng: dân tộc Việt Nam không chỉ có khí phách anh hùng mà còn có khát vọng tự do và hoà bình.

Ở hai khổ tiếp theo, Nguyễn Đình Thi đã miêu tả cuộc chiến đấu của nhân dân ta:

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh

Đó là niềm tin và hi vọng chiến thắng mạnh mẽ trong lòng tác giả. Nhịp thơ như giục giã, vẫy gọi mỗi con người trên con đường ra trận, tạo ra âm hưởng hào hùng của những con người anh hùng trong một đất nước anh hùng. Đó còn là sự tự hào của tác giả, những câu thơ đậm chất lãng mạn và sử thi, thể hiện một cảm xúc tươi mới đầy tin tưởng, tràn đầy âm hưởng hào hùng. Hai hình ảnh nắng đốt và mưa dội là quá trình gian khổ thăng trầm của dân tộc. Song từ trong gian khổ, khó khăn ấy, dân tộc vẫn đứng lên. Hai câu thơ kết giàu hình ảnh tráng lệ. Hình ảnh trán cháy rực và bát ngát ánh bình minh gợi lên nét vẽ rạng ngời về những đứa con của Tổ quốc dù có hi sinh, vất vả thì vẫn quyết tâm giành lại độc lập. Hình ảnh rất độc đáo, diễn tả sự thăng hoa của cảm xúc, niềm tin được thắp sáng. Người đọc hình dung được hình ảnh ngọn lửa của thất vọng. Câu thơ cuối tràn đầy kiêu hãnh, niềm vui, khát vọng bùng nổ hi vọng. Sự bát ngát của trời đất là sự bát ngát của niềm tin con người.

Và giờ đây, qua bao nhiêu khó khăn, khốc liệt, bao hi sinh, đất nước ta đã được độc lập:

Súng nổ rung trời giận giữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Hai câu đầu tái hiện sinh động không khí của cuộc chiến, cùng với khí phách anh hùng của con người Việt Nam. Câu thơ thứ nhất ngập tràn tiếng rung, khiến người đọc cảm nhận được sự dữ dội. Động từ "rung" được dùng khá chính xác, không chỉ là sự rung chuyển, khuynh đảo mạnh mẽ mà còn diễn tả niềm căm thù tột cùng đối với quân thù.

Nguyễn Đình Thi đã sử dụng biện pháp nhân hoá và so sánh tài tình, ông khiến cho người đọc, ngay lập tức sau khi đọc song hai câu đầu, cảm nhận được sự khốc liệt và sự mạnh mẽ, khí thế của quân đội ta phải ngập trời đất. Đến tận cuối bài thơ, tác giả mới gọi tên Việt Nam với sự tự do, tự chủ, sự kiêu hãnh. Ông cảm nhận được hình ảnh đất nước trong lòng. Từ máu lửa và bùn đen đã bật dậy và sáng loà, rực rỡ huy hoàng. Câu thơ giàu giá trị biểu tượng và tính khái quát, cộng với tính nghệ thuật rất cao. Nhịp thơ 2/2/2 vận động khoẻ khoắn, sự vươn lên của dân tộc bởi một sức sống kì vĩ và bất tử.

Bài thơ kết thúc bằng ánh sáng, thể hiện niềm tin và khát vọng mạnh mẽ, vinh quang. Đất nước đã ghi lại và vẽ nên một hình ảnh đất nước Việt Nam với bao thăng trầm, khói lửa để đến được ngày độc lập. Đất nước xứng đáng được coi là cuốn biên niên sử nước ta bằng thơ. Đây là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sử thi và sáng tạo nghệ thuật tài năng của Nguyễn Đình Thi.

Phân tích Đất nước (Mẫu 10)

Đất nước – đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi người dân Việt Nam. Đoạn trích "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.

Khi nhắc đến văn chương thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa, Phạm Tiến Duật... họ viết về hào khí của cả một dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó là Nguyễn Khoa Điềm.

Khi nói đến Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị - Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974.

Tác phẩm đã xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra? Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?" Để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.

Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà con người ở 1 vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, từ trái tim của người già sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể”

Nhà thơ ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kì từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, chở che nhau.

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”

Đó là tục nhuộm răng, tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.

Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, trữ tình. Cách cảm nhận, lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ VN truyền thống.

Đất nước trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo - một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

Và chính nhân dân là những người đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của người Việt Nam. Dần dần tác giả nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó...”, ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.

“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, thủy chung.

Như đã nói ở trên, Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất NướcNhững núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái”.

Một lần nữa tác giả như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tuy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng điệp từ “góp”.

Ta có thể chia đoạn thơ dọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, xót thương. Trái lại, nửa sau từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm... Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. Trong nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được một đất nước hữu hình – đất nước của những anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt.

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hi sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.

Nếu như tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là những cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của một trí thức.

Trước hết ta đến với hai câu thơ:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân.

Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập dân tộc. Kết thúc đọan thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” bởi có sự chuyển đổi. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật hàm súc.

Cuộc đời của những con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Nhưng ngược lại, Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:

“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước”
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Nếu như Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Họ truyền cho nhau ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng
Con lớn lên đang viết tiếp thay cha
Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống
Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng
Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

Không một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Hay như triết gia người Đức – Engels đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa, văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, truyện cổ : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại. Câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.

Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” để ta thêm yêu và tự hào vể Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.

Phân tích Đất nước (Mẫu 11)

Nguyễn Đình Thi ra đi, đất nước mất đi một người con ưu tú, làng văn mất đi một cây bút tài hoa. Con người bằng xương bằng thịt đã trở về với đất mẹ nhưng linh hồn dường như còn phảng phất ở trần gian. Linh hồn ấy vẫn đi về trong những sáng tác thơ văn, và mỗi khi nhớ tới người quá cố, lời thơ Đất nước năm nào lại vọng về như an ủi, xẻ chia người đang sống.
Nguyễn Đình Thi đã sông trọn một đời gắn bó thiết tha với đất nước vất vả và đau thương, cũng sống một đời để chứng kiến những đổi thay đẹp đẽ, sáng tươi đáng tự hào của đất nước. Những cảm xúc ấy được thể hiện một cách rõ nét trong Đất Nước. Bài thơ được mở đầu bằng một hình ảnh trong trẻo.
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Cảm hứng về đất nước được cất lên bằng một tâm trạng xao xuyến bâng khuâng, pha chút hứng khởi mà dịu ngọt trước vẻ đẹp của mùa thu. Đứng giữa khung cảnh mùa thu hiện tại, nhà thơ bồi hồi xúc động nhớ tới mùa thu đã xa. Người ta thường nói Hà Nội không có mùa nào đẹp hơn mùa thu, mùa thu chính là màu dễ gợi cảm xúc nhớ thương, hoài niệm. Và những cảm xúc ấy cũng đến với Nguyễn Đình Thi khi ông đứng giữa đất trời tươi đẹp với những nỗi niềm tưởng nhớ khôn nguôi về một mùa thu cũ.

“Sáng mát trong như sáng năm xưa”, nhà thơ thực sự cảm thấy xôn xao, xúc động trước sắc thu của Hà Nội. Đó là một buổi sáng trong xanh có gió mang theo cái lạnh dịu nhẹ tạo nên cảm giác mát mẻ. Thoảng trong gió sớm là mùi hương cốm nồng nàn ấm áp. “Hương cốm mới” là hương vị đặc biệt của mùa thu xứ Bắc. Cái trong trẻo, thanh khiết của khí thu, cái mùi vị của cốm mới là kết tinh hương hoa của đất trời cỏ cây tạo nên một mùa thu mang đầy bản sắc. Cảnh của mùa thu chiến khu đã làm cho tác giả nhớ đến “những ngày thu đã xa” của phố phường Hà Nội.
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Ngày ấy chia tay Hà Nội cũng vào mùa thu, cũng có gió lạnh, nhưng cái lạnh của mùa thu nay gợi lên sự ấm áp của một buổi sáng mát trong tràn lên cảnh vật, còn cái lạnh của mùa thu xưa không chỉ là cái lạnh của đất trời mà còn là của cả lòng người: sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội. Hà Nội vào thu mang theo cả những ngọn gió hanh khô, luồn vào từng ngõ phô' vắng vẻ dài lạnh hun hút gợi nỗi buồn xa vắng.

Cả phố phường dường như lặng im cuối đầu, chỉ nghe tiếng xào xạc của lá rơi, gió thổi. Cái “xao xác” của cảnh vật nhuốm lên lòng người những nỗi niềm khó diễn đạt thành lời. Hà Nội với ba mươi sáu phố phường nhộn nhịp tưng bừng giờ đây trở nên vắng vẻ đên kinh ngạc. Và đấy chính là Hà Nội của những năm tháng chiến tranh. Trên nền cảnh thu Hà Nội ấy, tác giả tái hiện hình ảnh tâm trạng của những người ra đi.
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Câu thơ gợi cho ta nhớ tới hình ảnh “li khách” trong bài thơ Tống Biệt hành.

Li khách li khách con đường nhỏ

Chí nhớn chưa về bàn tay không

Thì không bao giờ nói trở lại

Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Người li khách trong thơ Thâm Tâm ra đi với một quyết tâm cao, dứt khoát đến mức lạnh lùng, tàn nhẫn nên giọng thơ trở nên rắn rỏi, gân guốc. ở đây, người ra đi có một sức chịu đựng ghê gớm, sự bịn rịn, lưu luyến được nén lại, được che giấu. Với Nguyễn Đình Thi, người ra đi cũng rất dứt khoát nhưng không tức tưởi. Dù “đầu không ngoảnh lại”, song đó không phải là thái độ ơ hờ mà thực chất người ra đi đã không giấu nỗi tâm trạng buồn, luyến nhớ.

Tác giả tả người ra đi từ phía sau. Đứng ở vị trí ấy để miêu tả đã gợi lên cho người đọc hình ảnh những đoàn người cứ cuối đầu lầm lũi ra đi trong lặng lẽ, nhưng cái lầm lũi, im lặng ấy lại còn dồn chứa biết bao nỗi niềm tâm trạng. “Đầu không ngoảnh lại”, hay nói đúng hơn là không dám quay đầu lại vì sợ nhìn thây cảnh Hà Nội buồn, vắng vẻ phía sau lưng mà không đi nổi?

Nhưng Hà Nội đã quá quen thuộc nên dù không quay đầu lại để ngắm nhìn phố phường song vẫn cảm nhận được rất đầy đủ hình ảnh cả Hà Nội đang vào thu, cảm nhận được những gì đang diễn ra sau lưng. Người ra đi lòng vẫn xiết bao lưu luyến với phố phường Hà Nội, có như vậy mới cảm nhận được cả Hà Nội buồn vắng phía sau lưng: chỉ có nắng lá rơi, không có một bóng người.

“Đầu không ngoảnh lại” mà vẫn hiểu được, thấy được phía sau bước chân mình có nắng, có lá rơi, tứ thơ tưởng như là mâu thuẫn nhưng lại không mâu thuẫn chút nào, bởi lẽ cảm nhận ấy được xuất phát, được bắt nguồn từ một tình yêu thiết tha đôi với Hà Nội, từ những tấm lòng nặng nghĩa với quê hương.thu xưa đượm một nỗi buồn man mác lan tỏa trong trời đất, mùa thu nay lại chở đầy niềm vui về một tương lai phơi phới.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trông biếc nói cười thiết tha.

Mùa thu năm 1948 tin vui chiến thắng dội về từ mọi miền làm náo nức lòng người. Đoạn thơ bật lên tiếng reo ca hân hoa của con người làm chủ đất nước. “Mùa thu nay khác rồi” câu thơ tạo nên thế đối lập giữa mùa thu nay và mùa thu xưa. Thu xưa buồn vắng vẻ thì thu nay vui, rộn ràng. Thu xưa gắn liền với màu vàng của nắng của lá thì thu nay chỉ toàn một màu xanh: xanh của rừng tre, xanh của đồi núi và bao trùm lên tất cả là cái trong biếc của bầu trời bao la vời vợi. Đây là cách cảm nhận độc đáo về mùa thu của tác giả.

Cách cảm nhận ấy bắt nguồn từ một tâm hồn háo hức, tưng bừng trước những đổi thay của đất nước. Những đổi thay ấy tác động đến lòng người làm cho lòng người cũng nô nức hát ca, trào dâng xúc động. “Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi”, câu thơ xác định chỗ đứng và tâm thế lắng nghe của cái tôi trữ tình. Cái tôi trữ tình đứng giữa lòng cuộc sông để lắng nghe những âm thanh vang vọng của mùa thu, một mùa thu mới, một mùa thu hoàn toàn đổi khác.

Niềm vui giao hòa giữa lòng người và cuộc sống. Nhà thơ đứng giữa cuộc đời, đứng giữa lòng dân tộc để đón nhận niềm vui hòa vào với niềm vui. Và ở đây không chỉ là vui từ bên ngoài mà còn là vui ở trong lòng tác giả vui ra, có như thế thì ông mới viết là “vui” rồi mới đến “nghe”. Không gian mùa thu như đang ngân lên những nốt nhạc, những âm thanh rộn ràng trong trẻo. Sau tâm trạng nô nức của tác giả là hình ảnh rừng tre. Không phải giản đơn mà Nguyễn Đình Thi lại chọn cây tre trong bạt ngàn những loại cây cối khác giữa núi đồi.

Cây tre chính là biểu tượng, là tâm hồn, là sức sống, thế đứng của dân tộc. Cả một rừng tre xôn xao, hiên ngang đứng giữa đất nước hay chính là dáng hình của đất nước đang ngẩng cao đầu để đón lấy ngọn gió lồng lộng từ bốn phương thổi tới? vẫn là hình ảnh của cây tre trong những bản làng quen thuộc nhưng đã không còn có lá vàng rơi buồn bã như những hồn thu trước nữa.

Mùa thu nay không gợi một chút buồn, không có những nỗi niềm trắc ẩn mà chỉ thấy trải dài bằng một niềm vui rộn rã, tươi sáng, đầy niềm tin. Mùa thu nay không chỉ là của cá nhân một người mà là mùa thu của đâ’t nước, của con người, của cuộc sông. Cái tôi riêng tư của nhà thơ đã hòa vào niềm vui của cả dân tộc. Mùa thu mới đã làm cho cảnh vật hoàn toàn khởi sắc “trời thu thay áo mới trong biếc nói cười thiết tha”. Đây đâu chỉ là áo mới của mùa thu cây cỏ, đất trời mà còn là áo mới của cuộc sống.

Kể thừ mùa thu nay cuộc sống của con người sẽ tràn ngập tiếng cười nói, trời thu sẽ xanh biếc một màu. Đoạn thơ với những hình ảnh có sức gợi: phấp phới, áo mới, trong biếc, thiết tha cùng với sự kết hợp, xen kẽ câu thơ ngắn - dài đã diễn tả được niềm hăm hở, rạo rực của một trái tim biết đập những nhịp tin yêu trước sự thay đổi của thiên nhiên, đất nước, sự thay đổi của thời đại.
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa.

Hai câu thơ đầu là một lời khẳng định về ý thức chủ quyền dân tộc, ý thức đó được hứng từ niềm tự hào về quê hương, đất nước. Điệp ngữ “ của chúng ta” vang lên đầy kêu hãnh. Sau cảm xúc ấy hiện lên một đất nước đẹp đẽ, giàu có, đầy tiềm năng qua những sự vật cụ thể. Đất nước không phải là một khái niệm chung chung, trừu tượng mà cụ thể, gần gũi, gắn bó máu thịt với mỗi con người, mỗi ngôi nhà, mỗi bản làng. Đất nước đó là trời xanh, là núi rừng, là cánh đồng, ngả đường, dòng sông...
Với cách sử dụng các định ngữ nghệ thuật: thơm mát, bát ngát, đỏ nặng phù sa, cùng với điệp từ “những”, “những”, “những” đã tạo nên một không gian rộng lớn, bao la, trùng điệp. Đọc những câu thơ này của Nguyễn Đình Thi, người đọc lại nhờ tới ý thơ của Tố Hữu trong “Ta đi tới” cũng với mạch cảm xúc như vậy.
Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi
Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt.
Nắng chói sông Lô hò ô tiếng hát
Chuyến phà rào rạt bến nước bình ca.

Từ cảm xúc hướng vào niềm tự hào của đất nước, tác giả chuyển sang những suy tưởng về mạch sông bền bỉ, vĩnh hằng của Tổ quốc. Giọng thơ đang hào hứng, bất chợt trầm lắng hẳn xuống.
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Những dòng thơ trôi đi không dấu nổi niềm tự hào kiêu hãnh. Ba chữ “Nước chúng ta” đứng riêng thành một câu đàng hoàng đĩnh đạc. Đất nước được cảm nhận bằng chiều sâu của lịch sử, của truyền thống cha anh. Một đất nước mà Chế Lan Viên đã từng viết những câu thơ trào dâng cảm.
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Truyện Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi ra cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằn
g
(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng)
Truyền thông dân tộc được nhà thơ khẳng định như một chân lí. Lời thơ “Nước chúng ta. Nước chúng ta chưa hao giờ khuất” như một định nghĩa chắc nịch. Đất nước ấy đã bao đời rồi vẫn vững chãi, sừng sững, hiên ngang. Một đất nước với bao thế hệ trong tay chỉ có ngọn tầm vông đã đứng lên để bảo vệ, giữ gìn mảnh đất thiêng liêng.

Thế hệ này ngã xuống thì thế hệ khác đứng lên. Đất nước đã thấm máu của bao người anh hùng, họ đã anh dũng hi sinh cho những mùa thu ngàn sau đẹp mãi. Chính vì thế mà hình ảnh của họ vẫn hiện trong mỗi dáng hình đất nước, họ là những người “chưa hao giờ khuất”.
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Tiếng nói từ sâu thẳm trong lòng đất của quá khứ đem đêm vẫn vọng về như nhắc nhở, như nhắn gửi bao điều thiêng liêng. Truyền thông của dân tộc được Nguyễn Đình Thi cảm nhận như một mạch sông ngầm luân chuyển vĩnh hằng, bất diệt trong lòng đất. Tiếng nói ấy sâu lắng trong không gian, thời gian và được gợi lên bằng một âm thanh nhỏ nhẹ, “rì rầm”, liên tục như không bao giờ dứt.
Tiếng nói rì rầm là tiếng nói không ồn ào, nó tựa như một nốt nhạc trầm hùng đem cả quá khứ mấy nghìn năm lịch sử của đất nước trở về với hiện tại, với con người hôm nay. Tiếng nói thấm sâu vào lòng đất, đọng lại ở lòng người. Tiếng nói của “những ngày xưa ấy” đã dệt bằng mồ hôi, nước mắt, xương máu và cả chí khí yêng hùng của tổ tiên. Tiếng nói ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho thế hệ hôm nay, cho đất hôm nay - một đất nước có lịch sử bốn ngàn năm sừng sững, một đất nước gắn liền với biết bao con người giản dị, chân chất,
Có biết bao người con gái con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và đã chết
Giản dị bình tâm Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
(Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm)
Đất nước đã được Nguyễn Đình Thi cảm nhận bằng mùa thu trong quá khứ đượm buồn bởi giây phút chia li, bầng mùa thu trong hiện tại bao la giàu đẹp, bằng truyền thông lịch sử cha ông. Cuối cùng là sự cảm nhận về đất nước đau thương và quật khởi.
Ơi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Thán từ được đặt ở đầu câu thơ mà không phải là một tiếng thở dài tuyệt vọng mà chính là sự xót xa, đau đớn, uất hận trước tội ác tày trời của giặc. Câu thơ được viết bằng những hình ảnh có thực mà ông đã tận mắt chứng kiến trong một lần hành quân qua vùng Bắc Giang, hình ảnh ấy đi vào thơ mang đầy tính biểu tượng.

Cánh đồng quê trong những ngày thành bình luôn tràn trề màu xanh của sự sống thì nay trong ánh chiều tà của chiến tranh bỗng đỏ lên như màu nhuộm đỏ cả trời chiều. Những hàng rào dây thép gai như đang chọc lên cào xé làm rách nát cả bầu trời, khiến cho bầu trời đau đớn, lòng người quặn quại, nhức nhối. Trong đau thương, người lính thường về với những người thân nơi quê nhà, nơi hậu phương để tiếp thêm dũng khí cho bước chân hành quân ra tiền tuyến.
Những đêm dài hành quân núng nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Người lính ra đi mang theo trong mình một lí tưởng cách mạng đẹp đẽ, đánh đuổi kẻ thù, bảo vệ đất nước giàu đẹp, thiêng liêng nhưng cũng không quên ước mơ, nung nấu về một tình yêu, một hạnh phúc lứa đôi. Ra đi là để giữ lấy những mảnh đất thân yêu, giữ lấy giang sơn gấm vóc song cũng chính là để giữ lấy hạnh phúc cho mỗi gia đình, mỗi con người, mỗi lứa đôi, trong ấy có cả hạnh phúc của chính mình.

Hình ảnh “mắt người yêu” gợi nhớ gợi thương bao kỷ niệm êm đềm trong những tháng ngày được sống yên ả giữa lòng quê hương, và giờ đây dường như hình bóng của cả quê hương hiện lên trong đôi mắt ấy. Đôi. mắt chứa chan rực cháy bao hi vọng cho một ngày sum họp, cho một đất nước thống nhất khải hoàn. Trong ước mơ giản dị ấy, cái riêng và cái chung đã được hòa làm một. Những câu thơ tiếp theo là một đúc rút có được từ hiện thực của cuộc chiến đấu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn.

Trải qua bao năm gian khổ, mất mát, hi sinh, gương mặt của quê hương đã ngời lên rạng rỡ. Cái rạng rỡ ấy chính là kết quả của những con người “quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” của lòng yêu nước, của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, của niềm tin son sắt vào một ngày mai chiến thắng. Bọn giặc đã gây nên bao tội ác, những tội ác đó không chỉ làm uất hận lòng người mà còn gây “tiếng căm hờn” đến tận từng gốc lúa, từng bờ tre.

“Gốc lúa bờ tre” là một hình ảnh ẩn dụ, độc đáo. Cuộc kháng chiến đã huy dộng được lực lượng của toàn dân, khơi gợi lòng yêu nước, sự căm thù tới cả những người dân chân lấm tay bùn, những người mà cả cuộc đời chỉ biết “cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó”. Và đó chính là cuộc kháng chiến của nhân dân.


Tội ác của giặc len vào từng hang cùng ngõ hẻm.

Bát cơm chan đầy nước mắt
Bây còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Đứa đè cổ đứa lột da.

Để có được miếng cơm, người dân đã phải đổ bao mồ hôi nước mắt. Họ đã nhọc nhằn bỏ công sức tạo ra thành quả lao động duy trì sự sống nhưng bỗng dưng bị cướp trắng tay. Họ không thể không đứng lên để giành lại sự sống. Sự dã man của chúng được thể hiện qua một loạt hình ảnh có sức gợi lớn: “giằng khỏi miệng ta, đè cổ, lột da”. Chúng là một lũ chó săn mồi khát máu chỉ đáng được gọi bằng “đứa”, bàng “thằng”. Nghệ thuật đối lập được sử dụng triệt để trong những câu thơ tiếp theo.
Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà.

Đoạn thơ nhắc tới câu nói của nhà văn nổi tiếng Markximgorky “Không thể lấy máu dìm chân lí”. Sự hung bạo, tàn ác của kẻ thù không thể giết chết lòng yêu nước ngày đêm đang cuồn cuộn chảy trong mỗi trái tim của người dân đất nước Việt. Xiềng xích, súng đạn tượng trưng cho thế lực bạo tàn, cho đau thương, chết chóc. Chim, hoa, lòng yêu nước là biểu tượng của sự sống, cho hòa bình.

Dân tộc ta đã lấy hòa bình để áp đảo chiến tranh, lấy tình yêu sự sống để phá bỏ xiềng xích và đáy chính là hình ảnh của một đất nước" “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”. Đất nước sáng ngời những giá trị nhân văn lấp lánh.
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng.

Dù trong đau thương, khói lửa vẫn vương mình để giành lại sự sông, các nhà máy vẫn không ngừng hoạt động, từng lớp quân vẫn ào ạt đi ra chiến trường. “Đất nước đứng lèn” bằng bàn tay của những người anh hùng “áo vải”, chân đất, giản dị nhưng lại mang một sức mạnh phi thường. Những con người mà trong cuộc sông ngày thường lại quá đỗi hiền lành, chất phác song khi vào trận đánh họ lại hùng dũng vô cùng. Những con người ấy được Nguyễn Đình Thi phát hiện ra từ những mãnh đất nghèo.
Đất nghèo nuôi những anh hùng
Chìm trong máu lửa lại vùng đứng lên
Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa.

(Việt Nam đất nước ta ơi)
Đất nước ở đây được bảo vệ, giữ gìn, nâng niu tựa như hình ảnh người mẹ nâng niu, đùm bọc đứa con yêu dấu của mình. Từ “ôm” gợi tình yêu nồng nàn, thắm thiết, gắn bó máu thịt với đất nước. Đất nước vất vả đau thương mà cũng tràn đầy hi vọng.
Ngày nắng đốt đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.

Tác giả nghĩ đến những đau thương, gian khổ, hi sinh nhưng không hề bi lụy, bởi ông hiểu những mất mát ấy sẽ được đền bù trong một tương lai đất nước không xa. “Trán cháy rực” là một hình ảnh thậm xưng có ý nghĩa biểu tượng: nghĩ về trời đất mới cháy rực những niềm tin, những ước mơ nên tác giả cảm thấy lòng mình tràn ngập như bao cảm xúc vui sướng, cảm thấy lòng mình bát ngát như ánh bình minh.
Từ cảm hứng lạc quan, từ lòng tin vững vàng vào tương lai của đất nước, tác giả đã khái quát lên sức quật cường của cả dân tộc.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Đoạn thơ mang âm hưởng sử thi, vừa hào hùng dữ dội, vừa ào ạt thăng hoa. Từ trong những chiến trận ác liệt, những con người áo vải vẫn bất chấp bao dữ dội của đạn bom ào lên như một dòng thác vỡ bờ cuồn cuộn. Từ trong khói lửa, từ kiếp sông tối tăm nô lệ, đọa đày, nước Việt Nam đã vụt đứng lên chói ngời, kiêu hãnh. Cái kiêu hãnh rạng ngời vẻ đẹp của những con người anh hùng trong thời đại mới. Bốn câu thơ vẽ nên một bức tranh đẹp đẽ về tinh thần, sức sông quật khởi của một dân tộc gan góc, anh hùng - dân tộc Việt nam.
Nguyễn Đình Thi đã kết thúc bài thơ bằng những hình ảnh “sáng lòa” chan chứa niềm tin yêu vào một đất nước ngày mai tươi đẹp. Đất nước ấy sẽ tồn tại vĩnh hằng, bât diệt trong không gian và thời gian.

Phân tích Đất nước (Mẫu 12)

Đất nước là một đề tài lớn thường gợi lên những cảm hứng mãnh liệt đối với thi nhân, nhất là vào thời điểm nền độc lập dân tộc đứng trước những thử thách lớn lao. Đoạn trích Đất Nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm cũng ra đời trong một hoàn cảnh tương tự như vậy. Đó là những năm tháng kháng chiến chống Mĩ cứu nước sôi sục, cuộc sống của mỗi cá nhân luôn luôn gắn liền với vận mệnh của đất nước. Viết trường ca Mặt đường khát vọng, Nguyễn Khoa Điềm muốn góp một tiếng nói nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở vùng tạm chiếm miền Nam. Đoạn trích Đất Nước thuộc chương V của trường ca, đây cũng là phần hay nhất của bản trường ca này, có thể hiện sự nhận thức sâu sắc của một thế hệ thanh niên Việt Nam về đất nước. Chính nhận thức ấy đã trở thành một điểm tựa để mỗi người tự suy nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước.

Giáo sư Trần Đình Sử cho rằng: Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bài thơ chính luận thể hiện cảm nhận “Đất Nước của Nhân dân”. Sở dĩ gọi là chính luận bởi trong bài thơ này nhà thơ muốn bàn luận về đất nước, về nhân dân. Đó là những khái niệm về đất nước vừa quen thuộc vừa mới mẻ nhưng tác giả không dừng lại ở chỗ lí giải đất nước là gì, nhân dân là gì mà ông còn muốn bày tỏ những tình cảm sâu nặng của mình đối với đất nước, đối với nhân dân. Sự kết hợp giữa hai phương diện này một cách nhất quán đã làm cho bài thơ vừa mang chất chữ tình, vừa mang chất chính luận. Toàn bộ đoạn trích được chia thành những khổ và những đoạn nhỏ để trả lời cho mỗi câu hỏi và giữa các câu hỏi ấy được liên kết với nhau khá chặt chẽ. Khởi đầu là những câu hỏi về thời gian, tác giả muốn đưa bạn đọc trở về quá khứ để tìm trong lịch sử cái thời điểm mà đất nước ra đời:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa, ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên…

Trong một đoạn thơ ngắn mà xuất hiện một loạt các trạng từ chỉ thời gian: “ngày xửa, ngày xưa”, “bây giờ”, “từ ngày đó”. Gắn liền với những trạng từ đó là những miếng trầu bà vẫn thường ăn hàng ngày, nghĩa là đất nước có từ rất lâu đời, từ thuở xa xưa trong văn hóa dân gian, trong phong tục tập quán, trong tình yêu của mỗi gia đình, trong từng hạt gạo. Sau mỗi câu hỏi xác định tình yêu và đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã tìm câu trả lời cho một câu hỏi quen thuộc hơn. Đất là gì? Đây không phải là câu hỏi mới mẻ và Nguyễn Khoa Điềm không phải là người đầu tiên đặt câu hỏi này. Người ta đã từng có những định nghĩa trong lịch sử, trong địa lí, trong dân tộc học. Trong văn học, từ lâu lắm rồi, người ra cũng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Cái mới của Nguyễn Khoa Điềm chính là đi tìm một câu trả lời của riêng mình, của thế hệ mình. Ở đoạn thơ tiếp theo, nhà thơ liên tiếp đưa ra những nhận định của mình:

Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Đất nước thật giản dị và cũng thật độc đáo, thật trữ tình và có sức hấp dẫn, lôi cuốn bạn đọc một cách mạnh mẽ. Nhưng có lẽ bài thơ không chỉ viết cho tuổi trẻ, không chỉ cho những người yêu nhau mà viết cho tất cả mọi người. Định nghĩa Đất Nước được kéo dài nhưng lại kiến giải rất đơn giản, rất có lí và đầy thuyết phục. Đó là những kiến giải trên hai trục không gian và thời gian, “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, giữa cái thời gian và không gian ấy hiện ra một đất nước với dáng vẻ hùng vĩ với hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc – con cá như ông móng nước biển khơi”.

Đó là một không gian trữ tình hùng vĩ của đất nước. Ở đây tác giả trở về với truyền thuyết và dùng truyền thuyết để cắt nghĩa đất nước là gì.

Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở.

Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra đồng bào t trong bọc trăm trứng, đất nước tạo ra mọi người, tất cả mọi thế hệ, những người đang sống, những người đã khuất. Nhưng ở nơi nào thì mọi người dân ở đất nước này cũng cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ. Đất nước vừa linh thiêng rộng lớn nhưng cũng vừa gần gũi thân thuộc. Đất nước có trong anh, trong em và trong tất cả mọi người, trong thế hệ đã khuất, trong thế hệ hôm nay và trong thế hệ mai sau. Bao giờ cũng có một đất nước vẹn tròn tình nghĩa. Vẫn là giọng chính luận khúc chiết mà lời thơ đằm thắm chứa chan bao tìm cảm:

Em ơi đất nước là máu xương của mình
….
Làm nên đất nước muôn đời…

Đọc những câu thơ này của Nguyễn Khoa Điềm, ta chợt nhớ đến một câu thơ của Chế Lan Viên, một người cũng rất hay đưa những khái quát trong thơ khi nghĩ về đất nước. Chế Lan Viên và Nguyễn Khoa Điềm thuộc hai thế hệ khác nhau nhưng dường như có một sự gặp gỡ nào đó khi nói về tình yêu lớn lao của mỗi người về đất nước. Nguyễn Khoa Điềm viết “Đất Nước là máu xương của mình”, vì thế mà phải “biết hóa thân cho dáng hình xứ sở” thì Chế Lan Viên viết:

Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịt

Chính luận cần sự minh xác bởi những lí lẽ thuyết phục sẽ làm người ta tin, chất chữ tình để làm con người ra xúc động yêu thương. Sức hấp dẫn của thơ Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là sự kết hợp hài hòa giữa chất chính luận và chất chữ tình từ những hình ảnh chi tiết cụ thể mà nâng dần lên tầm khái quát.

Ở phần thứ hai của bài thơ xuất hiện một loạt những hình ảnh, những chi tiết cụ thể khi nói về đất nước, một phát hiện độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm khi nhà thơ chỉ ra những yếu tố để góp thành đất nước. Ở đây có một loạt tên hùng vĩ, một đất nước bao la, một đất nước với truyền thống ngàn năm trong lịch sử không phải là một cái gì đó lớn lao, to tát mà là những thứ gần gũi, quen thuộc đối với mọi người. Công lao để góp nên đất nước không thuộc về riêng ai, không chỉ có anh hùng vĩ nhân mới có công làm nên đất nước mà cả những người con bình thường, những con người vô danh sống âm thầm lặng lẽ nhưng chính họ đã góp cho đất nước cuộc sống của mình. Đó là những người yêu nhau góp cho đất nước “núi Bút, non Nghiên” và cả những con vật bình thường như con gà, con cóc nhưng lại có đủ sức để góp cho đất nước một Hạ Long đẹp huyền thoại. Những cái tên gọi bình thường của những người dân Việt Nam như “ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm” làm nên những địa danh nổi tiếng của đất nước.

Từ những phát hiện rất mới mẻ và độc đáo này, tác giả đã đi đến một khái quát sâu sắc và xúc động:

Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.

Tác giả không dừng lại ở đây coi như một sự kết thúc cho những cảm nhận và suy ngẫm về đất nước, cảm xúc và những suy ngẫm trải dài bởi dường như động tới bất kì cái gì cũng là nói về đất nước, từ những người con trai ra trận, con gái ở nhà nuôi cái cùng con. Trong số họ đã có những người trở thành anh hùng. Tuy nhiên, đất nước không chỉ được làm nên bởi bốn nghìn lớp người ‘họ đã sống và chết – giản dị và bình tâm – không ai nhớ mặt đặt tên nhưng họ đã làm nên Đất Nước”. Tác giả muốn bày tỏ niềm biết ơn sâu sắc đối với những con người vô danh, với những việc làm thầm lặng, giản dị và quen thuộc nhưng lại có ý nghĩa vô cùng lớn lao. Chính họ đã truyền lại cho ta hạt lúa ta trồng, đã cho ta ngọn lửa, cho con ta tiếng nói… Sau những suy ngẫm, nhà thơ đi đến kết luận: Đất nước này là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại, đất nước của tất cả mọi người, trong đó có cả những anh hùng và cả những người vô danh. Họ không để lại một dòng tên trong lịch sử, không một tượng đài, một tấm bia lưu danh nhưng lại cho đất nước một cuộc đời bình dị và chính những sự bình dị ấy đã làm nên một đất nước lớn lao mạnh mẽ, làm nên một đất nước trường tồn với thời gian và hùng vĩ trong một không gian bao la, rộng lớn.

Đóng góp của Nguyễn Khoa Điềm khi nói về đất nước chính là ở chỗ nhà thơ đã huy động toàn bộ vốn hiểu biết phong phú của mình trong những năm còn ngồi trên ghế nhà trường ở miền Bắc xã hội chủ nghĩa và những trải nghiệm của chính nhà thơ trong những ngày tham gia phong trào học sinh sinh viên chống Mĩ ngụy ở thành phố Huế và cả những năm tháng bị tù đày trong nhà tù của Mĩ ngụy. Bằng cảm xúc chân thành và suy nghĩ sâu sắc, nhà thơ muốn gửi tới bạn đọc những cảm nghĩ rất riêng của mình về đất nước, góp phần làm phong phú thêm hình tượng đất nước trong văn học nói chung và trong thơ ca nói riêng. Đất không phải là tiếng nói của riêng nhà thơ mà là cảm nhận của một thế hệ thanh niên trong thời kì chống Mĩ về đất nước. Đây cũng là một sự thể hiện, một nét độc đáo trong giọng điệu của Nguyễn Khoa Điềm, đó là sự kết hợp hài hòa và nhuần nhuyễn giữa chất trữ tình và chất chính luận.

Phân tích Đất nước (Mẫu 13)

Nguyễn Đình Thi sáng tác bài thơ Đất nước bắt đầu từ năm 1948 và hoàn thành vào năm 1955, sau chiến thắng Điện Biên Phủ. Bài thơ gồm hai phần. Phần đầu được hình thành trên cơ sở những đoạn trích từ hai bài Sáng mát trong như sáng năm xưa (1948) và Đêm mít tinh (1949). Phần sau được viết năm 1955.

Đất nước được nhìn qua một không gian – thời gian độc đáo: mùa thu với mốc son lịch sử là sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ngày 2 tháng 9 năm 1945. Tuy được viết trong những thời gian khác nhau nhưng cảm hứng thơ vẫn liền mạch và bài thơ là một tác phẩm nghệ thuật hoàn chỉnh.

Nguyễn Đình Thi đã đúc kết những cảm xúc và suy ngẫm của mình về đất nước trong suốt chín năm kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng thơ của tác giả kéo dài theo suốt hành trình kháng chiến, được nối kết với lịch sử oai hùng bốn ngàn năm dựng nước, giữ nước và liên tưởng mở rộng tới tương tai tươi sáng của cách mạng. Đó chính là cảm hứng về một đất nước vất vả đau thương, tươi thắm vô ngần được triển khai theo hướng từ cụ thể đến khái quát.

Trong bài thơ này, Nguyễn Đình Thi đã thể hiện cảm xúc và suy nghĩ của mình về đất nước bằng hình ảnh mùa thu xưa, mùa thu nay và hình ảnh đất nước đau thương, bất khuất, anh hùng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Thông qua đó, nhà thơ bày tỏ tình yêu đất nước, lòng căm thù giặc, niềm tự hào, niềm tin son sắt vào tương lai tươi sáng của dân tộc và đất nước.

Bài thơ chia làm hai đoạn: đoạn thứ nhất từ đầu đến …vọng nói về, đoạn thứ hai là phần còn lại. Mạch cảm xúc và suy tưởng cũng là kết cấu cơ bản của bài thơ. Khởi đầu là cảm xúc về một sớm mùa thu ở chiến khu Việt Bắc gợi nhớ về mùa thu đã xa của Hà Nội. Nỗi nhớ về mùa thu xưa dẫn dắt cảm xúc về mùa thu nay, mùa thu cách mạng với niềm tự hào của người công dân được làm chủ đất nước.

Cảm xúc nâng cao, mở rộng về đất nước trong đau thương, căm hờn đã vùng lên chiến đấu bất khuất và chiến thắng vẻ vang : Rũ bùn đứng dậy sáng lòa. Mở đầu bài thơ là cảm giác lâng lâng của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên, đất trời mùa thu Việt Bắc, gợi nhớ về những ngày thu đã xa của Hà Nội mến yêu:

Sáng mát trong như sáng năm xưa,

Gió thổi mùa thu hương cốm mới.

Chỉ bằng vài nét gợi tả mà tác giả đã thể hiện được không gian, thời gian, màu sắc, hương vị của mùa thu : không khí mát trong, gió thổi phảng phất mùi hương cốm mới, kết tinh của hương vị đất trời, cây cỏ mùa thu. Hình ảnh mùa thu trong quá khứ và thực tại đan xen trong tâm tưởng của nhà thơ.Mùa thu Hà Nội với những nét đặc trưng của khung cảnh thiên nhiên và con người hiện ra thật cụ thể, sinh động:

Tôi nhớ những ngày thu đã xa

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Làn gió heo may se lạnh thổi dọc lòng những con phố nhỏ, làm xao xác hàng cây, với những thềm nắng lá rơi đầy. Ẩn sau những câu thơ tả cảnh là Hà Nội thanh lịch có bề dày bốn nghìn năm lịch sử với Hồ Tây, Hồ Gươm, đền vua Lê, Tháp Bút, đền Ngọc Sơn, cầu Thê Húc…

Những di tích, danh lam thắng cảnh ấy là niềm tự hào to lớn của bao thế hệ người Hà Nội. Mùa thu Hà Nội giống như một bức tranh với đường nét mềm mại, màu sắc và ánh sáng hòa hợp gây ấn tượng sâu đậm, chất chứa tâm trạng.

Trên cái nền phong cảnh ấy nổi bật lên hình ảnh những chiến sĩ hào hoa, dũng cảm, tạm xa Thủ đô thân yêu để lên đường kháng chiến. Người ra đi đầu không ngoảnh lại đầy ý chí và quyết tâm nhưng lòng thì vẫn vấn vương, vẫn cảm nhận được bằng cả tâm hồn cái sắc vàng xao xuyến : Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Câu thơ vừa thực vừa ảo. Tình thơ vương bao nhiêu lưu luyến bên trong. Nhịp thơ ngập ngừng, bâng khuâng như lòng người bâng khuâng, quyến luyến. Thấp thoáng đâu đó trong câu thơ là bóng dáng khách chinh phu dứt áo ra đi vì nghĩa lớn :

Tráng sĩ nhất khứ bất phục phản (Tráng sĩ một đi không trở lại). Cái không khí chớm lạnh, cái sắc nắng thu vàng một màu li biệt càng làm tăng thêm phong vị cổ điển của câu thơ, cảnh thu Hà Nội đẹp nhưng buồn vắng đến nao lòng.

Có thể nói bốn câu thơ miêu tả mùa thu Hà Nội là những câu thơ gây ấn tượng nhất trong bài. Nó phản ánh tâm hồn tinh tế và ngòi bút tài hoa của Nguyễn Đình Thi. Dường như nỗi buồn, sự lưu luyến, xao xuyến, nhớ nhung của nhà thơ, vương vấn trong cái chớm lạnh của buổi đầu thu, trong xao xác hơi may, trong khung cảnh thềm nắng lá rơi đầy.

Đặt tính từ xao xác trước hơi may là tác giả có ý nhấn mạnh đến nét đáng yêu, đáng nhớ nhất của gió thu và âm thanh tiêu biểu nhất của mùa thu. Nhịp điệu, âm hưởng thơ mang nỗi buồn man mác, hợp với khung cảnh huyền ảo của mùa thu Hà Nội.

Nhà thơ đã phác họa nên bức tranh mùa thu Hà Nội với những đường nét mềm mại, màu sắc trong sáng làm xúc động lòng người, để lại ấn tượng khó phai. Đây cũng chính là biểu hiện của tình yêu Hà Nội thiết tha, say đắm và tình yêu ấy khiến cho cảm hứng của thi sĩ thăng hoa.

Đang hồi tưởng về một mùa thu đã xa của Hà Nội, cảm xúc của tác giả bỗng chuyển hướng sang mùa thu hiện tại bằng một câu thơ ngắn, âm điệu dứt khoát như một lời khẳng định: Mùa thu nay khác rồi.

Mùa thu nay là mùa thu thứ hai ở chiến khu Việt Bắc (1948) tràn đầy khí thế sau chiến thắng Thu Đông 1947.

Ở đoạn thơ đầu, tiết tấu chậm, âm hưởng trầm lắng hợp với dòng hoài niệm, hợp với cảnh thu buồn và tâm trạng bâng khuâng, da diết. Đến đoạn này, những câu thơ được viết theo thể tự do, nhịp điệu sôi nổi, phóng khoáng; cảm xúc rạo rực, phấn khích, rộn rã, tươi vui:

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Bức tranh mùa thu nay hiện ra với những chi tiết, hình ảnh bình dị, dân dã, khỏe khoắn và tươi sáng. Giữa khung cảnh thiên nhiên hùng vĩ, bao la của núi rừng Việt Bắc, hòa lòng mình vào cuộc kháng chiến thần thánh của toàn dân tộc, tâm trạng của chủ thể trữ tình có sự biến đổi rất rõ.

Từ tâm trạng phảng phất buồn khi hoài niệm về mùa thu Hà Nội năm xưa đã chuyển sang tâm trạng hào hứng, sối nổi, tràn ngập niềm vui trước khung cảnh mùa thu ở chiến khu Việt Bắc. “Cái tôi trữ tình” cũng chuyển thành “cái ta”.

Nhàthơ không chỉ nhân danh cá nhân mà còn nhân danh cộng đồng để nói lên niềm tự hào chính đáng và ý thức làm chủ non sống, đất nước, cảm hứng về mùa thu của Nguyễn Đình Thi gắn liền với cảm hứng về đất nước trong từng thời kì lịch sử, mùa thu đất trời gắn liền với mùa thu cách mạng.

Đất nước được nhìn ngắm, suy ngẫm từ một sự kiện lịch sử đáng nhớ: mùa thu 1945 cùng với sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Niềm vui mới to lớn tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời chiến khu Việt Bắc. Hình ảnh trong đoạn thơ này tươi mát, sống động. Từ ngữ được sử dụng rất chọn lọc nhằm nhấn mạnh cái khác của thu nay.

Mùa thu với ngọn gió phóng khoáng thổi ào ào làm cả rừng tre phấp phới như bay như mua trên cái nền trong biếc của trời thu thay áo mới, trong biếc ở con mắt nhìn cảnh vật, giữa tiếng nói cười thiết tha rộn ràng của con người.

Đây là nét nghệ thuật độc đáo mà Nguyễn Đình Thi đã đem đến cho những bài thơ viết về mùa thu, thực sự thổi một luồng gió mới vào đề tài mùa thu trong thơ ca Việt Nam. Cái buồn, cái lạnh của thu xưa dường như đã lùi xa. Mùa thu nay đẹp đẽ, trong sáng bởi tâm hồn, đôi mắt của thi nhân đầy phấn chấn và tin tưởng.

Sự tinh tế trong cảm xúc của tác giả thể hiện ở sự cảm nhận được nét riêng của không gian mùa thu: tiết trời êm ả, ánh nắng vàng dịu, bầu trời dường như xanh cao hơn, không khí như nhẹ hơn và mọi âm thanh cũng trở nên ngân xa, vang vọng. Từ cảm xúc về mùa thu đất nước dẫn đến tình cảm mến yêu tha thiết và lòng tự hào về đất nước, nhà thơ ngắm nhìn cảnh vật với tâm hồn phơi phới lạc quan, yêu đời. Niềm vui tràn ngập lòng người, tràn ngập đất trời.

Cội nguồn của niềm vui ấy thật to lớn, sâu xa. Đó là do đất nước sau Cách mạng tháng Tám đã về tay nhân dân. Đó là hạnh phúc lớn lao của dân tộc, của đất nước đã dành được chủ quyền thiêng liêng độc lập, tự do. Đoạn thơ với nhịp điệu rộn ràng, hào hứng và những hình ảnh đẹp đẽ, tươi mát đã thể hiện vẻ đẹp muôn màu muôn vẻ của đất nước thân yêu. Nhà thơ như reo như hát lên niềm hạnh phúc bất tận ấy:
Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa.
Với nhạc điệu rộn ràng, náo nức, hình ảnh nối tiếp hình ảnh, quấn quýt hòa quyện vào nhau, đoạn thơ tạo nên vẻ đẹp của đất nước Việt Nam sau ngày độc lập. Âm hưởng đoạn thơ mênh mang bởi những âm tiết ngân vang: ta, thơm mát, bát ngát, phù sa… Các dòng thơ liên kết chặt chẽ, bổ sung cho nhau để làm nổi bật ý thơ.
Điệp khúc là của chúng ta cứ ngân nga, vang vọng giữa đất trời, sông núi. Tất cả những gì thân yêu, quen thuộc trên đất nước này đều là của chúng ta. Còn gì sung sướng hơn, tự hào hơn bốn tiếng ấy sau hàng trăm năm nô lệ, dân tộc ta phải đổ bao xương máu mới giành được quyền làm chủ. Cũng nguồn cảm hứng say sưa, dạt dào như thế, nhà thơ Tố Hữu đã thốt lên: của ta, trời đất, đêm ngày ; Núi kia, đồi nọ, sống này của ta ! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên).
Cái thế đứng của nhân vật trữ tình trong đoạn thơ là thế đứng của con người tự do kiêu hãnh ngẩng cao đầu, cảm hứng mở ra, vẽ ra những hình ảnh thân thương của đất nước với chiều rộng, chiều dài và sắc màu của bầu trời, núi rừng, cánh đồng, ngả đường, dòng sông… Trời thu thay áo mới, Những cánh đồng thơm mát, Những ngả đường bát ngát, Những dòng sông đỏ nặng phù sa… càng trở nên bội phần đẹp đẽ vì đã về tay chúng ta.
Sắc đỏ của phù sa gợi liên tưởng tới những chiến sĩ đã hi sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ non sông. Chữ nặng không chỉ diễn tả lượng phù sa trong nước của dòng sông mà còn đặc tả bề dày của dòng chảy bốn nghìn năm lịch sử. Nước không chỉ đỏ nặng phù sa màu mỡ mà còn cuồn cuộn dòng máu quật cường.

Những liên tưởng sâu xa ấy khiến cho cảm xúc thơ trở nên trầm lắng, thiết tha. Ý thơ đi từ những hình ảnh cụ thể, hữu hình, đến sự cảm nhận cái vô hình là truyền thống, là hồn thiêng đất nước. Nhà thơ suy ngẫm về chiều sâu, về bề dày của lịch sử để từ đó đúc kết thành chân lí:
Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.
Không chỉ những sự vật hữu hình như bầu trời, cánh đồng, núi rừng, dòng sông… mà còn cả những yếu tố vô hình làm nên đất nước. Nước chúng ta – giản đơn ba chữ mà chất chứa tình cảm thiêng liêng pha lẫn tự hào. Câu thơ nước những người chưa bao giờ khuất là lời khẳng định như chân lí bất di bất dịch về một thực tế hiển nhiên. Suốt chiều dài lịch sử bốn ngàn năm, trải qua bao phen chống ngoại xâm, có thắng có bại nhưng đất nước này, dân tộc này chưa bao giờ khuất phục trước bạo lực của quân thù.

Truyền thống bất khuất ấy truyền từ đời này sang đời khác. Nhà thơ lắng nghe tiếng nói quật cường vọng lên từ lòng đất. Đất, qua tâm hồn nhà thơ và tâm hồn chúng ta, không chỉ xanh tốt những vạt rừng, thơm mát những cánh đồng, bát ngát những ngả đường, đỏ nặng phù sa của những dòng sông mà còn rì rầm tiếng nói đấu tranh bao đời không bao giờ tắt. Câu thơ trở nên trang trọng, trầm lắng khi nói đến tiếng vọng thiêng liêng của ngàn xưa rì rầm trong tiếng đất.
Tiêng đất là tiếng của lịch sử, là tiếng của hồn thiêng sông núi tự ngày xưa đang vọng nói về hiện tại. Mồ hôi, xương máu của tổ tiên, ông cha thấm vào lòng đất đã bao đời, thành tiếng đất luôn nhắc nhở các thế hệ con cháu hãy giữ lấy giang sơn gấm vóc của tổ tiên. Từ đó, nhà thơ suy nghĩ về đất nước trong chiến tranh giải phóng, trong đau thương căm hờn đứng lên chiến đấu bất khuất anh hùng.
Có thể nói ít có hình ảnh nào thể hiện nỗi đau thương tang tóc của dân tộc và đất nước trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp lại cô đọng, hàm súc và gây ám ảnh sâu sắc như những hình ảnh trong hai câu thơ:
Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều.
Dấu ấn khốc liệt của chiến tranh bao phủ khắp nơi. Đạn bom quân thù cày nát mặt đất, triệt hạ sự sống. Ánh hoàng hôn đỏ hắt xuống khiến những cánh đồng quê như chảy máu. Hàng rào dây thép gai quanh đồn bốt giặc tua tủa chĩa lên như muốn đâm nát trời chiều vốn tĩnh lặng, bình yên. Cả hai chiều không gian đều in đậm bóng dáng sự tàn phá, chết chóc của chiến tranh. Từng chữ, từng câu thơ oằn nặng bởi cảm xúc đau thương, căm giận.

Các hình ảnh trong đoạn thơ này hoàn toàn tương phản với hình ảnh trong đoạn thơ trên. Những cánh đồng quê chảy máu thay cho những cánh đồng thơm mát. Trời chiều bị dây thép gai đâm nát thay thế cho sắc trời thu trong biếc thanh bình. Cuộc sống êm ả xưa kia giờ không còn nữa. Đâu đâu cũng là cảnh tang tóc, đau thương. Bao nhiêu máu xương đã đổ xuống mảnh đất này. Trên cái nền là đất nước đau thương ấy, nhà thơ khắc họa nổi bật hình ảnh và tâm trạng người chiến sĩ:
Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Nhà thơ cảm nhận sâu sắc những rung động tinh tế trong tâm hồn mỗi người lính ra trận. Đó là tâm trạng cháy bỏng yêu thương nhân dân và nung nấu hờn căm quân cướp nước. Mối căm thù sôi sục trong tim, thôi thúc những đêm dài hành quân không nghỉ. Mối căm thù dồn lên mũi lê, đầu súng nhằm thẳng quân thù. Nhưng chính lúc ấy cũng thấp thoáng hiện lên trong nỗi nhớ đôi mắt của người yêu chờ đợi khiến tâm hồn chiến sĩ ta bồn chồn, xao xuyến.
Hay nhất trong phần sau của bài thơ có lẽ là khổ thơ này. Phải là người từng trải, có vốn sống phong phú và trái tim dạt dào tình cảm nhân ái thì tác giả mới có cách diễn đạt tự nhiên về sự hài hòa giữa tình cảm riêng chung, giữa tình yêu đôi lứa và tình yêu đất nước của người chiến sĩ.
Ở đoạn thơ cuối, tác giả dồn hết tâm huyết để tô đậm hình ảnh đất nước từ trong đau thương đã anh dũng đứng lên chiến đấu. Đó là hình tượng cao đẹp về đất nước muôn đời, về sự vươn mình vĩ đại của đất nước và con người Việt Nam trong thời đại mới:
Từ những năm đau thương chiến đấu

Đã ngời lên nét mặt quê hương

Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu

Đã bật lên những tiếng căm hờn

Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta

Thằng giặc Tây thằng chúa đất

Đứa đè cổ đứa lột da.
Nỗi đau xót như thấm sâu vào từng câu, từng chữ, từng hình ảnh tiêu biểu tạo nên ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc. Đặc biệt hình ảnh Bát cơm chan đầy nước mắt, Bay còn giằng khỏi miệng ta nói lên tột cùng tội ác của quân thù và tột cùng sự tủi cực của nhân dân ta trong vòng nô lệ. Nhưng bạo lực của kẻ thù đã không thể bắt chúng ta phải khuất phục:
Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước, thương nhà

Khói nhà máy cuộn trong sương núi

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người ảo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng
Từ thực tế kháng chiến gian nan và hào hùng, Nguyễn Đình Thi đã viết nên những câu thơ khái quát về sự mất mát, hi sinh của đất nước cùng quyết tâm giành lại chủ quyền độc lập tự do của dân tộc ta. cả dân tộc đoàn kết thành một khối thống nhất, trán đẫm mồ hôi và mắt ngời hi vọng, rắn rỏi mạnh mẽ bước tới tương lai:
Ngày nắng đốt theo đêm mưa giội

Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh

Trán cháy rực nghĩ trời đất mới

Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Cái hay của đoạn thơ này chính là âm điệu thơ hào hùng, sảng khoái. Tiếng nói trữ tình của nhà thơ mang âm vang tiếng nói của cả dân tộc đang hướng tới tương lai. Nhân dân ta đứng dậy giữ nước không chỉ bằng sức mạnh tình cảm mà còn bằng sức mạnh lí trí, có ánh sáng cách mạng soi dường và niềm tin vào tương lai tươi sáng.
Kết thúc bài thơ là hình ảnh đất nước từ trong đau thương, căm hận và máu lửa chiến tranh đã hiên ngang đứng dậy, tự khẳng định mình trước lịch sử và nhân loại:
Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa.
Âm hưởng hào hùng, sảng khoái của đoạn thơ được tạo nên từ thể thơ sáu chữ với tiết tấu nhanh, mạnh, dồn dập cùng với hàng loạt hình ảnh đậm chất anh hùng ca lấy từ thực tế của chiến trường Điện Biên Phủ ác liệt mà nhà thơ đã trực tiếp tham gia và được tận mắt chứng kiến: “Tổ trông thấy các anh – Nguyễn Đình Thi kể – mình mẩy đầy bùn, nhưng khi nhảy lên trên mặt đất, các anh hiện lên chói lòa trong ánh nắng”.

Tác giả đã tạo nên hình tượng thơ đẹp đẽ, hào hùng từ hình ảnh rất chân thực: trong máu lửa, bùn lầy, giữa tiếng đại bác rền vang rung trời chuyển đất, chiến sĩ ta từ các chiến hào ào ạt xông lên như nước vỡ bờ. Hình ảnh của họ nổi lên trên nền trời như một tượng đài kì vĩ của chủ nghĩa yêu nước và anh hùng cách mạng.
Sau: Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt, Máu trộn bùn non, Gan không núng, chí không mòn! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên – Tố Hữu), quân dân ta đã chiến thắng, kết thúc vẻ vang cuộc kháng chiến chín năm trường kì gian khổ chống thực dân Pháp, mở ra một trang sử mới, khẳng định vị trí và tên tuổi của đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam trên trường quốc tế.

Đất nước là một bài thơ góp phần làm nên tên tuổi Nguyễn Đình Thi trong thơ ca Việt Nam hiện đại. Bài thơ này tiêu biểu cho suy ngẫm sâu sắc của tác giả về đất nước. Với cảm hứng thơ lúc trầm lắng lúc sôi trào, cùng với nhịp thơ biến đổi vô cùng linh hoạt, hình ảnh đất nước cứ ngời lên trong khổ đau, gian nan, vất vả.

Nguyễn Đình Thi là nhà thơ của đất nước trong đau thương. Ý tưởng về một đất nước đau thương mà hào hùng, bất khuất không phải chỉ Nguyễn Đình Thi mới có, nhưng do hình tượng trong thơ ông thấm đẫm cảm xúc bỉ tráng, gắn với những ấn tượng sâu sắc nên Đất nước là một tác phẩm xuất sắc, đủ sức vượt qua mọi thử thách của thời gian để sống mãi trong lòng người đọc.

Phân tích Đất nước (Mẫu 14)

Đất nước – hai tiếng thiêng liêng ấy vang lên tự sâu thẳm tâm hồn ta; vừa cao cả, trang trọng; vừa xiết bao gần gũi. Hình tượng Đất Nước đã khơi nguồn cho bao hồn thơ cất cánh.

“Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm cũng nằm trong dòng chảy dào dạt ấy và có phần đầy đủ hơn cả khi thống nhất được cội nguồn đất nước và tư tưởng đất nước của nhân dân.

Giản dị như một lẽ tự nhiên, bài thơ mở đầu với khát khao tìm hiểu đất nước có tự bao giờ:

“Khi ta lớn lên Đất Nước có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”

Khi xưa, đất nước gắn với những huyền thoại, truyền thuyết, với những vương triều hùng mạnh. Ngày nay, Nguyễn Khoa Điềm về lại hành trình trong sự quen thuộc, gần gũi. Có cái xa xăm của lịch sử nhưng gần gũi với kí ức ấu thơ. Đó là cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ kể con nghe; cái ấm áp của những hình ảnh dưới mái nhà Việt, với “miếng trầu” thắm đỏ bà ăn, cây tre ngàn đời đánh giặc và nghĩa tình mẹ cha đằm thắm. “Cội nguồn” không gì khác là gia đình thân thuộc, ấm cúng.

Những câu thơ nhẹ nhàng, ấm áp, bay bổng trong đời và hòa trộn trong ca dao, cổ tích để làm nên điệu hồn êm ái. Đó là sự tích trầu cau “Miếng trầu nên dâu nhà người”, là sự tích cậu bé làng Gióng lên ba tuổi nhổ tre mà phá giặc, là lời ca dao “Muối gừng” ân nghĩa thủy chung. Đất nước hiện lên nên thơ, bay bổng và mĩ lệ dưới con mắt tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm.

Đất Nước còn là chiều rộng không gian địa lí – cách nhìn có lẽ không phải là mới mẻ.

Ngày xưa, Nguyễn Đình Thi viết:

“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn.”

Đó là không gia rất dài, rất rộng, rất cao mang tầm vóc sử thi tráng lệ.

Với Nguyễn Khoa Điềm:

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm mát
Đất Nước là nơi ta hẹn hò
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở”

Đất nước là “nơi anh đến trường” – cuộc sống học tập, “nơi em tắm mát” – cuộc sống sinh hoạt và góc đời thiếu nữ, là “nơi ta hẹn hò” – thắp lửa tình yêu, “nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” – ghi dấu kỉ niệm con người. Đó cũng là một không gian giàu có, trù phú, bao la, đẹp và rộng: “Con chim phượng hoàng bay ngang hòn núi bạc – Con cá ngư ông móng nước ngoài khơi”. Nó gần với con người lắm, chiếc khăn ấy là lời hát tha thiết trong đêm tương tư “Khăn thương nhớ ai – Khăn rơi xuống đất”, gắn với lời hát điệu hò của câu huê tình xứ Bình Trị Thiên tự buổi nào.

Đất nước đồng thời là chiều dài thời gian lịch sử:

“Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hằng năm ăn đâu làm đâu
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ.”

4000 năm lịch sử đã trở thành thiêng liêng với những trang sử chói lọi của cha ông:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.”

(Bình Ngô đại cáo-Nguyễn Trãi)

Đến:

“Đất nước bốn nghìn năm
Vất vả và gian lao
Đất nước như vì sao
Cứ đi lên phía trước.”

(Mùa xuân nho nhỏ-Thanh Hải)

Sau này Chế lan Viên viết:

“Hỡi sông Hồng tiếng hát bốn nghìn năm!
Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?
– Chưa đâu! Cả trong những ngày đẹp nhất
Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc,
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc.
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng…”

Đến Nguyễn Khoa Điềm, đó là thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông. Đó là truyền thuyết về bọc trăm trứng, với nơi chim về, rồng ở, và ngày giỗ Tổ thiêng liêng. Đó là kết quả trước tưởng tượng bay bổng của tâm hồn đầy khát vọng, đẹp một cách gần gũi và mơ mộng, bay bổng và mĩ lệ,…mà dường như trước và sau Nguyễn Khoa Điềm chưa ai nói được như thế.

Đất nước cũng đi vào chiều sâu trong sự riêng tư đời người:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm lên Đất Nước muôn đời…”

Khi hai đứa “cầm tay” thì đất nước “hài hòa nồng thắm”, ta “cầm tay mọi người” thì “vẹn tròn, to lớn”. Đất nước mang tình yêu lứa đôi, tình đồng đội quê hương và còn là “cốt nhục tình thâm”, Đất Nước là “máu xương” của ta. Đất nước được nhìn từ cái chung đến cái riêng, cá nhân đến cộng đồng, từ xa đến gần, từ bề rộng về bề sâu, từ cái hữu hình đến cái vô hình. Một cách sắp xếp tự nhiên, chặt chẽ và đượm lí, đượm tình.

Tiếp sau đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Một loạt những câu thơ tự do với biên giới thơ mở rộng. Nhịp thơ chậm lại, mang không khí tâm tình trò chuyện. Nghệ thuật liệt kê và cách điệp lại cấu trúc nhấn mạnh ý thơ và liền mạch.

Lời thơ, giọng thơ sôi nổi, thiết tha và tràn đầy nhiệt huyết, khẳng định những đóng góp của nhân dân trong việc làm ra đất nước. Đó là núi Vọng Phu – những năm tháng chờ đợi chung thủy sừng sững giữa trời. Đó là núi bút non nghiêng xây đắp bởi lòng hiếu học của những tháng năm miệt mài đèn sách và hàng loạt các địa danh “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”, với niềm tự hào vời vợi trong lời ca ngợi non sông gấm vóc, “non kỳ thủy tú”. Con người cùng bảo vật vô tri khác đã “hóa thân cho dáng hình xứ sở” và với tác giả đó là niềm yêu kính trước công lao to lớn của nhân dân, xây đắp “hình sông thế núi”.

Khẳng định đất nước là của nhân dân đồng thời là lời yêu cầu tình yêu đất nước, thức tỉnh lòng tự hào và tinh thần dân tộc trong mỗi người. “Em ơi em” là lời gọi ngọt ngào, tha thiết, trìu mến, đầy thủ thỉ tâm tình. Vậy là nói về những điều lớn lao mà không hề sáo rỗng. Nhân dân là ai? Là những người “con gái, con trai” bằng tuổi chúng ta, và người ra trận, kẻ ở lại, có những anh hùng “cả anh và em đều nhớ” nhưng cũng có những anh hùng vô danh “Không ai nhớ mặt đặt tên – Nhưng họ đã làm ra đất nước”. “Họ đã sống và chết – Giản dị và bình tâm”, lời thơ giống như một nén hương tận tâm còn vương khói thắp lên cho nhân dân, dân tộc.

Trong suốt bốn nghìn năm đất nước, nhân dân ta truyền giữ hạt lúa, truyền từng ngọn lửa, truyền giọng nói, với những tên xã, tên làng, đắp đập be bờ chống giặc ngoại xâm. Các giá trị vật chất luôn đi kèm văn hóa tinh thần, cả kiến quốc và vệ quốc. Những câu thơ gợi nhắc tới: tiểu đội xe không kính, những cô gái mở đường, anh giải phóng quân:

“Em là cô gái hay nàng tiên?
Em có tuổi hay không có tuổi?”

Hoặc:

“Hoan hô anh giải phóng quân
Kính chào Anh, con người đẹp nhất!”

Tác giả đã chọn tư liệu văn hóa dân tộc trong ca dao, thể hiện cảm xúc, ý nghĩ. Hiện lên rõ mồn một là chân dung tinh thần của nhân dân. Tâm hồn dân tộc gửi vào trong dân gian gian nay trở thành chiều sâu văn hóa. Nhìn ở cả chiều dài, chiều rộng và chiều sâu đều thấy được vai trò của nhân dân vừa làm ra vừa bảo vệ. Cho nên “Đất Nước này là đất nước của nhân dân”.

“Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm là bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và mai sau.

Phân tích Đất nước (Mẫu 15)

“… Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn
Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

“Mặt đường khát vọng” là trường ca độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm, ra đời trong chiến tranh ác liệt thời chống Mỹ, tại chiến trường Trị - Thiên - một điểm nóng - trên chiến trường miền Nam vào năm 1971. Bài thơ đã truyền đến người đọc bao xúc động, tự hào về đất nước và nhân dân.

Trong bài “Có một thời đại mới trong thi ca”, Trần Mạnh Hảo viết: “Vào đêm giao thừa Tết âm lịch 1973 - 1974, dưới rừng Phước Long, chúng tôi xúc động nghe trích đoạn “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm phát trên Đài phát thanh. Những suy nghĩ về đất nước, về dân tộc đã được nhà thơ hiện đại hoá bằng chất suy tư lắng đọng và cảm xúc mãnh liệt”.

“Đất Nước” - là chương V trong trường ca “Mặt đường khát vọng” dài 110 câu thơ (trong “Văn 12” chỉ trích 89 câu). Phần đầu (42 câu) là cảm nhận của nhà thơ trẻ về Đất Nước trong cội nguồn sâu xa văn hóa - lịch sử, và trong sự gắn bó thân thiết với đời sống hằng ngày của mỗi con người Việt Nam. Phần thứ hai, cảm hứng chủ đạo về Đất Nước là sự ngợi ca, khẳng định tư tưởng Đất Nước của Nhân Dân.

Từ đó, nhà thơ nhận diện phát hiện Đất Nước trên bình diện về địa lý, lịch sử, văn hoá, ngôn ngữ, truyền thống tinh thần dân tộc - nền văn hiến Việt Nam. Vẻ đẹp độc đáo của chương V “Đất Nước” là tác giả vận dụng sáng tạo nhiều yếu tố văn hoá dân gian, tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục…, cùng với cách diễn đạt bình dị, hiện đại gây ấn tượng vừa gần gũi vừa mới mẻ cho người đọc.

Mười ba câu thơ dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất nước” thể hiện cảm nhận: Đất Nước gắn bó thân thiết với mỗi con người Việt Nam:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Trong chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, hai từ Đất Nước và Nhân Dân đều được viết hoa, trở thành “mỹ tự” gợi lên không khí cao cả, thiêng liêng và biểu lộ cao độ cảm xúc yêu mến, tự hào về Đất Nước và Nhân Dân. Chủ thể trữ tình là “anh và em”, giọng điệu tâm tình thổ lộ, sâu lắng, thiết tha, ngọt ngào. Cấu trúc đoạn thơ 13 câu thơ là cấu trúc tổng - phân - hợp mà ta cảm nhận được tính chất chính luận của ngòi bút thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Hai câu thơ mở đoạn là sự thức nhận chân lý về cội nguồn, về truyền thống, về lịch sử,… Đất Nước gần gũi và gắn bó thân thiết với “anh và em”, với mọi người:

“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước”.

Chỉ “một phần” nhỏ bé thôi, nhưng xiết bao gần gũi, gắn bó, yêu thương và tự hào. Từ khái niệm, ý niệm “mỗi công dân là một phần tử của cộng đồng, của Đất Nước” được diễn đạt một cách “mềm hóa” qua tiếng nói tâm tình của lứa đôi, của “anh và em”.

Bảy câu thơ tiếp theo mở rộng ý thơ trên từ “hai đứa” đến “mọi người”, từ “hôm nay” đến “ngày mai” và muôn đời mai sau.

“Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”.

Ở phần trước, nhà thơ cảm nhận: “Đất Nước là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm - Đất Nước là nơi ta hò hẹn – Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”. Và “khi hai đứa cầm tay” thì một mái ấm, tổ ấm gia đình đã được xây dựng. Gia đình là “một phần” của Đất Nước.

Chỉ có tình yêu và hạnh phúc gia đình mới tạo nên sự “hài hòa, nồng thắm” với tình yêu quê hương Đất Nước. Đó là bản chất thống nhất trong tình cảm của thời đại mới. Ý tưởng ấy đã được Nguyễn Đình Thi thể hiện trong một tứ thơ sâu và đằm về nỗi “nhớ”:

“Anh yêu em như anh yêu đất nước
Vất vả đau thương tươi thắm vô ngần…”.

Từ tình yêu và hạnh phúc lứa đôi mà biết yêu gia đình, yêu quê hương, yêu đất nước, mới có thể có tình nghĩa sâu nặng “Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm”, mới tìm thấy đất nước quê hương cả trong niềm vui và nỗi đau của anh, của em, của bao lứa đôi khác:

“Xưa yêu quê hương vì có chim có bướm
Có những lần trốn học bị đòn roi.
Nay yêu quê hương vì trong từng nắm đất
Có một phần xương thịt của em tôi”.

(Giang Nam)

Nói về cội nguồn của giòng giống, của dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm nhắc lại sự tích “Trăm trứng”: “Đất là nơi Chim về - Nước là nơi Rồng ở - Lạc Long Quân và Âu Cơ - Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng - Những ai đã khuất - Những ai bây giờ…”. Từ huyền thoại thiêng liêng ấy mới có ý thơ này:

“Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất Nước vẹn tròn, to lớn”

Hai chữ “cầm tay” trong câu thơ “Khi hai đứa cầm tay” có nghĩa là giao duyên, là yêu thương. “Khi hai chúng ta cầm tay mọi người” là đoàn kết, là yêu thương đồng bào,… Mọi người có cầm tay nhau, yêu thương giúp đỡ lẫn nhau mới có hình ảnh “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”, mới có đại đoàn kết dân tộc và sức mạnh Việt Nam. Từ “hài hòa, nồng thắm” đến “vẹn tròn, to lớn” là cả một bước phát triển và đi lên của lịch sử dân tộc và đất nước.

Đất Nước được cảm nhận là sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc. Chỉ khi nào “ba cây chụm lại nên hòn núi cao”, và chỉ khi nào “lá lành đùm lá rách”, “Người trong một nước phải thương nhau cùng” thì mới có hình ảnh đẹp đẽ, thiêng liêng “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”.

Bốn câu thơ trên đây cấu tạo theo phép đối xứng về ngôn từ: “Khi hai đứa cầm tay”… “Khi chúng ta cầm tay mọi người”, “Đất Nước hài hòa nồng thắm…”. “Đất Nước vẹn tròn, to lớn”. Cách diễn đạt uyển chuyển, sinh động ấy có ý nghĩa thẩm mỹ sâu sắc: hình thức này thể hiện nội dung ấy, nội dung ấy được diễn đạt bằng hình thức này.

Phép đối xứng làm cho thơ liền mạch, hài hòa, gắn bó, thể hiện rõ ý thơ: tình yêu lứa đôi, tổ ấm hạnh phúc, gia đình, tình yêu quê hương đất nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc là những tình cảm đẹp, làm nền truyền thống “yêu nước, yêu nhà, yêu người” và đó là sức mạnh Việt Nam. Đất nước “Nguồn thiêng ông cha”, đất nước “Trong anh và em hôm nay”, đất nước trong mai sau. Như một nhắn nhủ, như một kỳ vọng sáng ngời niềm tin:

“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang Đất Nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Nguyễn Thi, Anh Đức, Lê Anh Xuân, Sơn Nam… đã tạo nên giọng điệu Nam Bộ hấp dẫn trong thơ ca và truyện của mình. Tố Hữu, Nguyễn Khoa Điềm, Thanh Hải,… cũng có một giọng điệu riêng “rất Huế”, dễ thương dịu ngọt. Hai tiếng “mai này” là cách nói của bà con xứ Huế.

Thế hệ con cháu mai sau sẽ tiếp bước cha ông “Gánh vác phần người đi trước để lại” xây dựng đất nước ta “Vạn cổ thử giang sơn” (Trần Quang Khải), “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn” (Hồ Chí Minh). Hai chữ “lớn lên” biểu lộ một niềm tin về trí tuệ và bản lĩnh nhân dân trên hành trình lịch sử đi tới ngày mai tươi sáng. “Mơ mộng” nghĩa là rất đẹp, ngoài trí tưởng tượng về một Việt Nam cường thịnh, một cường quốc văn minh.

Điều mà “anh và em”, mỗi người chúng ta mơ mộng hôm nay, sẽ biến thành hiện thực “mai này” gần. Bốn câu thơ cuối đoạn cảm xúc dâng lên thành cao trào. Giọng thơ trở nên ngọt ngào, say đắm khi nhà thơ nói lên những suy nghĩ sâu sắc, đẹp đẽ của mình:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”

“Em ơi em” - một tiếng gọi yêu thương, giãi bày và san sẻ bao niềm vui sướng đang dâng lên trong lòng khi nhà thơ cảm nhận và định nghĩa về Đất Nước: “Đất Nước là máu xương của mình”. Đất nước là huyết hệ, là thân thể ruột thịt thân yêu của mình, và mồ hôi xương máu của tổ tiên, ông cha của dân tộc ngàn đời. Vì “Đất Nước là máu xương của mình” nên Trần Vàng Sao đã viết:

“Nuôi lớn người từ ngày mở đất,
Bốn ngàn năm nằm gai nếm mật
Một tấc lòng cũng đẫy hồn Thánh Gióng”.

(“Bài thơ của một người yêu nước mình” 19/12/1967)

Với Nguyễn Khoa Điềm thì “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là những biểu hiện của tình yêu nước, là ý thức, là nghĩa vụ cao cả và thiêng liêng. “Phải biết gắn bó và san sẻ… phải biết hóa thân…” thì mới có thể “Làm nên Đất Nước muôn đời”. Điệp ngữ “phải biết” như một mệnh lệnh phát ra từ con tim, làm cho giọng thơ mạnh mẽ, chấn động.

Có biết trường ca “Mặt đường khát vọng” ra đời tại một nơi nóng bỏng, ác liệt nhất của thời chiến tranh chống Mỹ thì mới cảm nhận được các từ ngữ: “gắn bó”, “san sẻ”, “hóa thân” là tiếng nói tâm huyết “mang sức mạnh ý chí và khát vọng vượt ra ngoài giới hạn thông tin của ngôn từ” như một nhà ngôn ngữ học lừng danh đã nói.

Trong thơ ca Việt Nam thời kháng chiến, đề tài quê hương đất nước được tô đậm bằng nhiều bài thơ kiệt tác, những đoạn thơ hay, những câu thơ tuyệt cú. Cảm hứng về đất nước được diễn tả bằng nhiều tứ thơ độc đáo, mang phong cách sáng tạo riêng của mỗi nhà thơ. Chất trữ tình thấm đẫm dư ba. Đất nước trong máu lửa mới mang cảm xúc sâu nặng thế. Đây là tiếng nói ở hai đầu đất nước:

“Tôi yêu đất nước này chân thật
Như yêu căn nhà nhỏ có mẹ của tôi
Như yêu em nụ hôn ngọt trên môi
Và yêu tôi đã biết làm người
Cứ trông đất nước mình thống nhất”

(Trần Vàng Sao)

“Ôi! Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt
Như mẹ cha ta như vợ như chồng
Ôi Tổ quốc, nếu cần ta chết
Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông”.

(Chế Lan Viên)

Trở lại đoạn thơ trên đây của Nguyễn Khoa Điềm. Tứ thơ rất đẹp. Đất nước thân thương gắn bó với mọi người. Phải biết hiến dâng cho “Đất nước muôn đời”. Đoạn thơ đẹp còn vì sáng ngời niềm tin về tương lai Đất nước và tiền đồ tươi sáng của dân tộc. Đoạn thơ mang tính chính luận, chất trữ tình hàm ẩn tính công dân của thời đại mới. Giọng thơ tâm tình, dịu ngọt, tứ thơ dạt dào cảm xúc, sáng tạo về ngôn từ, hình ảnh, thể hiện một hồn thơ giàu chất suy tư, khẳng định một thi pháp độc đáo, có nhiều mới mẻ tìm tòi.

“Em ơi em, Đất Nước là máu xương của mình…” – một tứ thơ rất đẹp! Một tứ thơ lung linh mang vẻ đẹp trí tuệ! Lúc hòa bình phải biết đem “trí lực” để xây dựng Đất Nước, “làm nên Đất Nước muôn đời”, Đất nước “to đẹp hơn đàng hoàng hơn”. Lúc có chiến tranh phải đem xương máu để bảo toàn Sông núi. “Gắn bó, san sẻ, hóa thân” cho Đất Nước, ấy là nghĩa vụ cao cả thiêng liêng, ấy là tình yêu Đất Nước của “anh và em” hôm nay, của thế hệ Việt Nam “Mai này con ta lớn lên”…

Phân tích Đất nước (Mẫu 16)

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những gương mặt tiêu biểu thuộc thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mỹ cứu nước. Thơ ông thường có sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng, giữa chất trữ tình và chất chính luận. Đoạn trích "Đất nước" đã cho người đọc thấy rõ được những đặc điểm của thơ ông. Đặc biệt đoạn thơ đầu của bài thơ nhà thơ đã giải thích Đất nước bằng những hình ảnh giản dị hằng ngày:

"Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi
....
Đất nước có từ ngày đó".

Câu thơ đầu cất lên đầy giản dị và mộc mạc: "Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi". Câu thơ ngỡ như một câu nói bình thường, đưa người đọc trở về những hình ảnh thuở xưa của đất nước. Tổ quốc này đã phôi thai và hình thành suốt chiều dài lịch sử, khi con người xuất hiện, lớn lên thì đất nước đã có rồi.

"Đất nước có trong...mẹ thường hay kể."

Hình ảnh đất nước hiện lên qua những lời kể của mẹ. Cụm từ "ngày xửa ngày xưa" gợi trong chúng ta những nỗi niềm cổ tích xa xăm nhưng thật diệu kì. Nơi ấy có cô tấm, chàng Thạch Sanh, một thế giới lung linh huyền ảo ấy ta đã có dịp lạc vào từ thuở ấu thơ.

"Đất nước bắt đầu...bà ăn"

Đất nước vốn lao lao nhưng bây giờ cũng ẩn mình vào trong miếng trầu bà ăn. Và chính miếng trầu ấy lại chứa đựng cả một nền văn hóa của người Việt Nam ta. Người xưa có câu "miếng trầu là đầu câu chuyện" nó thể hiện sự giao tiếp, là tín hiệu của hạnh phúc nhân duyên. Miếng trầu đã đi sâu và nếp cảm, nếp nghĩ của người dân Việt từ bao đời nay. Qua hình ảnh này chúng ta cũng thấy được chiều dài của lịch sử, của đất nước, cội nguồn nơi chúng ta sinh sống.

"Đất nước lớn lên...đánh giặc"

Tổ quốc vững mạnh và trưởng thành theo từng năm tháng, phải trải qua những năm tháng đấu tranh dựng nước và giữ nước. Câu thơ trên mang hơi thở của Thánh Gióng là người đã sử dụng tre làng để đánh giặc. Và bất cứ một người Việt Nam nào không thể không biết đến truyền thuyết Thánh Gióng ấy. Và với lời thơ bình dị của Nguyễn Khoa Điềm, đất nước còn hiện lên qua những phong tục cổ truyền của người Việt Nam:

"Tóc mẹ thì bới sau đầu"

Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xuất hiện với mái tóc búi sau trở thành nét đẹp, nét truyền thống của phụ nữ Việt. Tập tục này không chỉ tôn lên vẻ đẹp đoan trang của người phụ nữ mà còn thể hiện nét đẹp đặc trưng trong bản sắc văn hóa của người Việt.

Trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước cũng gắn liền với những đạo lý son sắc thủy chung mà tính nghĩa : "Cha mẹ...gừng cay muối mặn". Người Việt Nam ta vốn coi trọng nghĩa tình, sống có trước có sau, đặc biệt là sự thủy chung trong tình yêu và tình nghĩa vợ chồng. Đặc biệt, sự vận dụng câu ca dao"gừng cay muối mặn" là sự có chủ ý của nhà thơ.

Tác giả tiếp tục phát hiện hình ảnh đất nước có mặt trong những sự vật rất đỗi bình thường "cái kèo, cái cột thành tên". Thì ra đất nước to lớn, vĩ đại như vậy chẳng ở đâu xa, nó gắn liền với những công việc lao động thường ngày nhất với con người.

"Hạt gạo...sàng"

Tác giả sử dụng thành ngữ "một nắng hai sương" kết hợp với phép liệt kê đã khắc sâu sự vất vả của người nông dân để làm ra hạt thóc, hạt gạo. Đồng thời , câu thơ cũng cho thấy những vẻ đẹp phẩm chất của người lao động Việt nam. Đó là sự chịu thương, chịu khó, sự cần cù của người dân trên dải đất hình chữ S này.

Đất Nước đã được nhà thơ lí giải cắt nghĩa theo cảm nhận của riêng mình. Đoạn thơ thể hiện niềm tự hào, trân trọng sâu sắc của tác giả dành cho Tổ quốc mình. Đoạn thơ rất thành công với thể thơ tự do mỗi câu như một cảm xúc trào dâng từ đáy lòng thi sĩ. Nhà thơ đã vận dụng thành cồn những chất liệu văn hóa văn học dân gian. Và khi kết thúc những câu thơ ấy, trong lòng người đọc cũng xuất hiện hình ảnh đất nước vừa quen thuộc, vừa mới lạ, vừa thiêng liêng, vừa gần gũi và biết bao mến thương.

Phân tích Đất nước (Mẫu 17)

Chương Đất Nước trích trong trường ca Mặt đường khát vọng là sự cảm của Nguyễn Khoa Điềm về vai trò và những hi sinh to lớn của nhân dân trong công cuộc dựng nước và giữ nước lâu dài của dân tộc. Cũng như những nhà thơ trẻ tiêu biểu của thời kỳ chống Mĩ, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy ngẫm của mình về nhân dân thông qua những trải nghiệm của chính bản thân mình. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại” là tư tưởng chủ đạo, chi phối cả nội dung và hình thức chương V của bản trường ca này.

Tư tưởng chủ đạo nói trên được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện bằng một hình thức thơ trữ tình - chính luận. Cái lý lẽ mà tác giả đưa ra nhằm thuyết phục người đọc thật giản dị: Không phải ai khác mà chính nhân dân - những người vô danh - đã kiến tạo và bảo vệ, giữ gìn đất nước, đã xây dựng nên những truyền thống vãn hoá, lịch sử hàng ngàn đời của dân tộc. Lý lẽ ấy nhà thơ không phát biểu một cách khô khan, trừu tượng mà bằng hình ảnh gợi bằng giọng thơ sôi nổi tha thiết của mình. Thông qua những vần thơ kết giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, Nguyễn Khoa Điềm muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm gắn bó với nhân dân, đất nước thế hệ trẻ trong những năm chống Mĩ.

Mượn hình thức trò chuyện tâm tình với một người con gái yêu thương, kết cấu chương V của bản trường ca có vẻ phóng túng, tự do, nhưng từ trong chiều sâu của cảm hứng của mỗi phần vẫn bám rất chắc vào tư tưởng cốt lõi: Đất nước nhân dân. Tư tưởng đó được nhà thơ thể hiện cụ thể, sinh động và được triển trên các bình diện: trong chiều dài của thời gian (thời gian đằng đẵng) và bề dày của truyền thống văn hoá, phong tục, tâm hồn và tính cách dân tộc. Ba phương diện ấy gắn bó, hoà quyện, thống nhất chặt chẽ với nhau trong một “hệ quy chiếu”. Đất nước của nhân dân vốn là linh hồn của cả bài thơ.

Cả chương V của bản trường ca Mặt đường khát vọng như được bao bọc bởi không khí của văn hoá dân gian. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rộng rãi và linh hoạt các chất liệu của văn hoá dân gian, từ ca dao, tục ngữ đến truyền thuyết, cổ tích, từ phong tục tập quán đến thói quen sinh hoạt trong đời sống hằng ngày của nhân dân. Những chất liệu ấy đã tạo nên một thế giới nghệ thuật vừa gần gũi, quen thuộc, vừa sâu xa, kì diệu, đủ gợi lên được cái hồn thiêng của non sông, đất nước. Điều đó không đơn thuần chỉ là thủ pháp nghệ thuật, cũng không phải chỉ là một tiếp thu có sáng tạo vãn học dân gian. Có thể nói, tư tưởng Đất nước của Nhân dân là tư tưởng chủ đạo của bài thơ - đã thấm nhuần từ quan niệm đến cảm xúc, từ hình tượng đến chi tiết nghệ thuật của bài thơ.

Phần đầu của bài thơ này, có thể xem là một định nghĩa về đất nước. Cố nhiên là định nghĩa theo cách riêng của thơ, được phát biểu thông qua những hình tượng cụ thể, sinh động, đầy gợi cảm.

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết, ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người: Đất nước hiện hình lên qua những lời kể chuyện của mẹ, qua “miếng trầu bây giờ bà ăn”, qua cái kèo, cái cột, qua hạt gạo miếng cơm ta ăn hàng ngày.

Đất nước không phải là cái gì xa lạ mà ở ngay trong máu thịt của anh và em:

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa số phận cá nhân với vận mệnh chung của cộng đồng, của đất nước. Đó là tư tưởng chung của thời đại khi mà vấn đề dân tộc nói lên như một vân đề khác. Trách nhiệm, bổn phận đối với đất nước không phải là cái gì khác mà cũng chính là trách nhiệm đối với chính bản thân mình:

Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san xẻ,
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở,
Làm nên Đất Nước muôn đời.

Đất nước còn được hình thành từ những truyền thống lịch sử, văn hoá, phong tục hàng ngàn đời của dân tộc. Nhà thơ đã khai thác ý nghĩa các thành tố Đất Nước trong mối quan hệ với không gian và thời gian, với lịch sử và hiện ta. Chiều sâu của lịch sử, truyền thống, phong tục và văn hoá của đất nước được gợi lên từ huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, từ truyền thuyết Hùng Vương với ngày giỗ tổ, từ những câu ca dao quen thuộc, ở đây, đất nước được cảm nhận như là sự thống nhất của các phương diện truyền thống, vãn hoá, phong tục rất thiêng liêng song cũng rất gần gũi với cuộc sống của mỗi con người. Những giá trị tinh thần bền vững ấy của đất nước đã gắn liền với quá khứ, hiện tại với tương lai, được nuôi dưỡng qua các thế hệ:

Những ai đã khuất,
Những ai bây giờ,
Yêu nhau và sinh con đẻ cái,
Gánh vác phần người đi trước để lại.
Dặn dò con cháu chuyện mai sau,
Hằng năm ăn đâu nằm đâu,
Cũng biết cúi đầu nhớ - ngày giỗ Tổ.

Từ những quan niệm về đất nước như vậy, đến phần sau của bài thơ, tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng. Đất Nước của nhân dân, chính nhân dân là người sáng tạo ra Đất Nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước. Những núi Vọng Phu những hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên không còn là những cảnh thú thiên nhiên thuần tuý nữa, mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, hoá thân của những con người không tên, không tuổi: “Những người vợ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu, Cặp vợ chồng yêu nhau nên hòn Trống Mái”. “Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình Bút non Nghiên”. Cả đến “Con cóc, con gà quê hương cũng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh”, ở đây, cảnh vật của thiên nhiên đất nước qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này, từ những hình ảnh, những cảnh vật, hình tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha,
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Tư tưởng Đất nước của Nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ngợi ca các triều đại, cũng không nói tới những anh hùng đã được ghi lại trong sử sách mà chỉ tập trung nói tới những con người vô đanh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người bình dị, vô danh đó:

Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ giữ gìn và truyền lại cho các thế mai sau những giá trị văn hoá, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước lại lúa, ngọn lửa, tiếng nói, lên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, những câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc, suy nghĩ của bài thơ cứ dồn tụ dần để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm bật lên tư tưởng cốt lõi của bài thơ vừa bất ngờ vừa giản dị và độc đáo:

Đất Nước này là Đất nước Nhân dân Đất Nước của Nhân dân,
Đất Nước của ca dao, thần thoại.

Đọc chương Đất Nước, có thể thấy rõ dấu ấn của vốn tri thức văn hoá nhà trường và sách vở, sự ảnh hưởng phong cách của một nhà thơ nào đó. Tuy nhiên, đó vẫn là chương tiêu biểu và tinh tuý nhất của trường ca Mặt đường khát vọng. Bài thơ vẫn tạo nên được những rung động âm vang trong lòng người đọc là nhờ tác giả từ những cảm xúc chân thành, từ sự trải nghiệm của bản mà nói lên những suy nghĩ chung của cả thế hệ mình về đất nước.

Phân tích Đất nước (Mẫu 18)

Trong số các nhà thơ thế hệ chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm là người rất thành công với giọng thơ trữ tình chính luận thể hiện rõ những tâm tư của thế hệ trẻ đô thị miền Nam.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc…”

Giọng thơ thủ thỉ đã chuyển tải suy ngẫm của nhà thơ về Nhân Dân – Đất Nước, tiếp nối mạch suy tưởng của thi ca giai đoạn trước. Đất Nước là một chủ đề xuyên suốt bao trùm lên các tác phẩm trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Các nhà thơ nhà văn bằng tình cảm công dân đã có nhiều phát hiện mới mẻ độc đáo về Tổ quốc, nhân dân. Tổ quốc thường được soi chiếu từ bình diện lịch sử chống ngoại xâm, được khái quát bằng những hình tượng kỳ vĩ, khai thác triệt để chất sử thi hoành tráng. Trong dòng chủ lưu ấy, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lựa cách thể hiện riêng của mình, bằng trải nghiệm tuổi trẻ, bằng nhiệt tình cách mạng và cả bằng vốn tri thức được đào tạo bài bản từ mái trường xã hội chủ nghĩa, tạo nên chiều sâu của hình tượng Đất Nước, hoà mạch thơ chính luận – trữ tình.

Trả lời cho câu hỏi: “Đất Nước là gì? Đất Nước từ đâu ra?”, nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của Đất Nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca, huyền tích sử thi của dân tộc. Cái hay của phần mở đầu chương Đất Nước chính là sự xuất hiện của hàng loạt những hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng nhưng rất gần gũi:

Tóc mẹ thì búi sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Sức gợi từ những hình ảnh đã dựng lên cả một không gian văn hoá truyền thống, mang theo hơi thở tâm tình của ca dao “gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” thấm thía tình nghĩa thủy chung. Mạch nguồn ấy tiếp tục với quá trình trưởng thành của từng cá nhân, từ thuở cắp sách đến trường đến khoảnh khắc rung động đầu đời. Tất cả đều xuất phát một cách rất tự nhiên, nôn nao ngọt ngào kỷ niệm:

Đất là nơi anh đến trường Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…

Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hoà những vẻ đẹp trong đời sống tinh thần, tâm linh của người Việt. Vẻ đẹp quê hương đất nước được tái hiện trong những lời ca dao toát lên lòng tự hào về non sông gấm vóc, về Cha Rồng Mẹ Tiên, gắn với lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức từng người Việt :

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc” Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng…

Quá khứ, hiện tại, tương lai đã gắn kết trong một ý thức cộng đồng bền chặt, là nguồn sức mạnh và cũng là phẩm chất tâm hồn dân tộc đã được nhà thơ lý giải qua những hình tượng thơ giàu tính thẩm mỹ và hàm chứa mối quan hệ Đất Nước – con người Nhân Dân không thể tách rời. Thời gian lịch sử, không gian văn hoá hoà quyện trong mạch thơ đầy ân tình đã phác hoạ rõ nét dần tượng đài Đất Nước. Không chỉ tiếp cận hình tượng trong huyền sử, trong hiện thực đời sống, trong mối quan hệ cá nhân – cộng đồng, Nguyễn Khoa Điềm còn dẫn dắt độc giả trở về với hiện thực trực tiếp của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nói lên tiếng nói đầy trách nhiệm của cả một thế hệ chống Mỹ thật sự trưởng thành trong nhận thức và tình cảm :

Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước

Ý thơ thật giản dị, không hề gượng ép tình cảm, khi từ mối quan hệ riêng tư để hướng về với quan hệ cộng đồng, dân tộc. Tứ thơ độc đáo chính là từ sự mở rộng từ thế giới của “anh và em hôm nay” đến với “mọi người”. Vẻ đẹp Đất Nước được phát hiện thêm với những vẻ đẹp “hài hòa nồng thắm” và “vẹn tròn to lớn”. Đó cũng là sự kết hợp hài hoà của lý trí và tình cảm con người thời đại chống Mỹ. Hơn thế nữa, những câu thơ này còn cắt nghĩa cho vẻ đẹp tình yêu của thế hệ trẻ chống Mỹ không hề mất đi vẻ lãng mạn, khi khoảnh khắc cầm tay hiện tại đã nghĩ về thế hệ tương lai, về một ngày thanh bình và sự phát triển của Đất Nước với “tháng ngày mơ mộng”. Không dừng lại ở đó, nhà thơ tiếp tục đi sâu vào mối quan hệ Đất Nước với tâm hồn của từng con người, giọng thơ tâm tình thấm thía:

Em ơi em
Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời.

Nguyễn Khoa Điềm viết nên những câu thơ này bằng tất cả sự trải nghiệm của một người lăn lộn trong phong trào tranh đấu của thanh niên đô thị miền Nam. Nhà thơ đã thay mặt thế hệ mình để phát biểu tâm tư với tinh thần công dân, với nhiệt tình tuổi trẻ. Đó cũng là lời đáp cho câu hỏi mang tính chính luận về sự trường tồn của Đất Nước. Đất Nước bất tử chính nhờ ở tinh thần của những con người sẵn sàng dâng bầu máu của tuổi thanh xuân, biết sống có trách nhiệm với thời đại và đầy khát vọng về tương lai trường tồn của Đất Nước.

Phần mở đầu của chương Đất Nước được cấu tứ trên cơ sở gắn bó giữa các vẻ đẹp riêng biệt, độc đáo và giàu sức biểu cảm để làm nên vẻ đẹp chung tổng hoà thành hình tượng Đất Nước kỳ vĩ và giàu sức thuyết phục với bạn đọc. Nhà thơ đã trữ tình hoá vấn đề mang tính chính luận, nhằm trả lời những câu hỏi lớn mà dân tộc đang phải tìm lời đáp trong cuộc chiến đấu vì lý tưởng độc lập tự do, cuộc chiến đấu của lương tri chống lại thế lực bạo tàn.

Những vần thơ rất đẹp trong Đất Nước đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục toả sáng, giúp thế hệ học sinh hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, những giá trị của ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào và ý thức trách nhiệm, tình cảm cho mỗi con người trong khát vọng đưa Đất Nước đi xa đến những tháng ngày mơ mộng.

Phân tích Đất nước (Mẫu 19)

Đất Nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca và nghệ thuật. Mỗi nhà thơ đều có những cảm nhận rất riêng về Đất Nước, bởi thế Đất Nước, Tổ quốc hiện lên muôn màu muôn vẻ. Nếu như các nhà thơ cùng thời thường chọn điểm nhìn về Đất Nước bằng những hình ảnh kỳ vĩ, mỹ lệ hay cảm hứng về lịch sử qua các triều đại thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn điểm nhìn gần gũi, quen thuộc bình dị để miêu tả về Đất Nước. Đến với bài thơ Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm ta như đứng trước muôn màu văn hóa, truyền thống, phong tục tươi đẹp vô ngần. Vẻ đẹp ấy được hiện lên sâu sắc nhất qua chín câu thơ đầu.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…

Đất nước là nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Ở bài thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng, tươi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ đầu hiện lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những nét đẹp về phong tục, tập quán, văn hóa, truyền thống mang đậm dấu ấn con người Việt.

Câu thơ mở đầu được viết theo thể câu khẳng định “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Với cách vào đầu rất tự nhiên ấy, nhà thơ khẳng định: Đất Nước đã có từ rất lâu, có trước khi ta sinh ra vì thế khi ta lớn lên thì ta đã thấy Đất Nước. Bốn chữ cuối của câu thơ vang lên đầy tự hào “Đất Nước đã có rồi”. Đó là lời khẳng định chắc nịch về sự trường tồn của đất nước qua mấy ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước.Hai câu thơ tiếp theo nhà thơ diễn tả cụ thể về sự ra đời của đất nước.

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Câu thơ thứ nhất, tác giả cho rằng Đất Nước có trong cái “ngày xửa ngày xưa”. Nghĩa là Đất Nước có từ rất lâu đời, có tự ngày xưa. Đất Nước có từ trước khi những câu truyện cổ ra đời rồi khi những câu truyện cổ có mặt trong đời sống tinh thần của ta, ta lại thấy Đất Nước hiện diện trong truyện cổ.

Đó là Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện cổ tích, thần thoại, truyền thuyết. Chính những câu chuyện cổ và những bài hát ru thuở ta còn nằm nôi là nguồn sữa ngọt lành chăm bẵm cho ta cái chân thiện mĩ và lớn lên ta biết yêu đất nước con người. Về ý nghĩa của truyện cổ với đời sống tinh thần con người, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã xúc động mà viết nên:

Tôi yêu truyện cổ nước tôi
Vừa nhân hậu lại tuyệt vời sâu xa
Thương người rồi mới thương ta
Yêu nhau dù mấy cách xa cũng gần

(Truyện cổ nước mình)

Câu thơ thứ hai, nhà thơ diễn tả Đất Nước có trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Gợi nhắc phong tục ăn trầu của người Việt. Câu thơ gợi nhớ về câu truyện cổ tích “Sự tích trầu cau” được xem là xưa nhất trong những câu truyện cổ. Tục ăn trầu cũng từ câu chuyện này mà nên.

Như vậy là thẩm thấu vào trong miếng trầu dung dị ấy là 4000 năm phong tục, 4000 năm dân ta gìn giữ phong tục ăn trầu. Miếng trầu là biểu tượng của tình yêu, vật chứng cho lứa đôi cũng là biểu tượng tâm linh của người Việt. Từ phong tục ăn trầu, tục nhuộm răng đen cũng ra đời:

Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

(Hoàng Cầm)

Câu thơ thứ tư, nhà thơ diễn tả sự trưởng thành của Đất Nước. Đó là sự trưởng thành từ truyền thống đánh giặc giữ nước qua hình tượng Thánh Gióng và cây tre: “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Câu thơ gợi nhắc cho ta nhớ đến truyền thuyết Thánh Gióng, chàng trai Phù Đổng Thiên Vương nhổ tre làng Ngà đánh giặc, gợi lên vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ Việt Nam kiên cường, bất khuất:

Ta như thuở xưa thần Phù Đổng
Vụt lớn lên đánh đuổi giặc n
Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt
Chí căm thù ta rèn thép thành roi
Lửa chiến đấu ta phun vào mặt
Lũ sát nhân cướp nước hại nòi

(Tố Hữu)

Truyền thống vẻ vang ấy đã theo suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc mãi đến hôm nay trong thời đại chống Mỹ bao tấm gương tuổi trẻ đã anh dũng chiến đấu bảo vệ giống nòi. Phải chăng, đó chính là vẻ đẹp của các chị, các anh đã tạc vào lịch sử Việt Nam dáng đứng kiêu hùng bất khuất: Võ Thị Sáu, Trần Văn Ơn, Nguyễn Văn Trỗi… Vẻ đẹp ấy song hành với hình ảnh cây tre Việt Nam. Cây tre hiền hậu trên mỗi làng quê.

Nó như là sự đồng hiện những phẩm chất trong cốt cách con người Việt Nam: thật thà chất phác, đôn hậu thuỷ chung, yêu chuộng hoà bình nhưng cũng kiên cường bất khuất trong tranh đấu. Tre đứng thẳng hiên ngang bất khuất cùng chia lửa với dân tộc "Một cây chông cũng tiến công giặc Mỹ ", bởi:

"Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường".

Bốn câu thơ tiếp theo nhà thơ mang đến cho người đọc vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đó là vẻ đẹp giản dị của người phụ nữ Việt Nam. Không ai khác là những người mẹ với phong tục “búi tóc sau đầu” (tóc cuộn thành búi sau gáy tạo cho người phụ nữ một vẻ đẹp nữ tính, thuần hậu rất riêng). Nét đẹp ấy gợi nhớ ca dao:

Tóc ngang lưng vừa chừng em bới
Để chi dài cho rối lòng anh

Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục gắn dòng suy tưởng đến con người ngàn đời cư trú, lao động, chiến đấu trên mảnh đất Việt để giữ gìn tôn tạo mảnh đất thân yêu. Ở đó đạo lí ân nghĩa thủy chung đã trở thành truyền thống ngàn đời của dân tộc: "Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn". Ý thơ được toát lên từ những câu ca dao đẹp:

“Tay bưng đĩa muối chén gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng một cách đặc sắc trong câu thơ nhẹ nhàng mà thấm đượm biết bao ân tình. Nó gợi lên được ân nghĩa thủy chung ở đời: gừng càng già càng cay, muối càng lâu năm càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa càng đong đầy. Có lẽ chính vì vậy mà Đất Nước còn ghi dấu ấn của cha của mẹ bằng Hòn trống mái, núi Vọng Phu, Hòn Trống Mái… đi vào năm tháng.

Câu thơ "Cái kèo cái cột thành tên", gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt. Đó là tục làm nhà sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau làm cho nhà vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ màu dồn thành sự sống. Từ đó, tục đặt tên con “cái Kèo, cái Cột” cũng ra đời.

Đâu chỉ có những vẻ đẹp trên, dân tộc ta còn có truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong, lận đận trong đời sống nông nghiệp lạc hậu. Đó là truyền thống lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Các động từ “Xay - giã - dần - sàng” là quy trình sản xuất ra hạt gạo.

Để làm ra hạt gạo ta ăn hằng ngày, người nông dân phải trải qua bao nắng sương vất vả gieo cấy, xay giã, giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn của giai cấp nông dân. Bởi vậy, ăn hạt gạo dẻo thơm ta phải nhớ công ơn người đã làm ra nó:

Ai ơi bưng bát cơm đầy
Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.

Câu thơ cuối cùng khép lại một câu khẳng định với niềm tự hào: “Đất Nước có từ ngày đó”.“Ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn “ngày đó” là ngày ta có truyền thống, có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa “Rằng muốn yêu tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca”.

Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ trên là nhờ vào việc vận dụng khéo léo chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi tóc, truyền thống đánh giặc, truyền thống nông nghiệp. Nhà thơ sáng tạo thành ngữ dân gian, ca dao tục ngữ, thành ngữ…Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại nhiều lần.

Nhà thơ luôn viết hoa hai từ Đất Nước tạo nên sự thành kính, thiêng liêng… Tất cả làm nên một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí. Đoạn thơ ta vừa phân tích ở trên là đoạn thơ hay nhất trong bài thơ Đất Nước.

Qua đoạn thơ, nhà thơ đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của nhân dân.

Phân tích Đất nước (Mẫu 20)

Đất nước là hình tượng trữ tình lớn, là cảm xúc nghệ thuật của nhiều thế hệ nhà thơ Việt Nam. Có một thực tế: mỗi lần đất nước đặt trước những thử thách thì hình tượng đất nước lại ngời sáng trong văn học với những phát hiện mới mẻ độc đáo. Trường ca Mặt đường khát vọng với trích đoạn Đất Nước là một minh chứng đẹp đẽ cho quy luật này. Trong trích đoạn nói trên, những cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đạt tới một tầm vóc triết học sâu sắc.

Trước tiên, đất nước hiện lên trong chiều dài của thời gian. Thời gian trong trích đoạn Đất Nước đầy ắp những hình tượng huyền thoại lấy từ trong truyền thuyết, phong tục dân gian. Nhờ sự xuất hiện của hình tượng thời gian này đất nước hiện lên trong chiều sâu thẳm của thời gian nguồn cội, đầy thiêng liêng thành kính.

Bên cạnh “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông”. Có không gian gắn với sự sinh tồn của cả cộng đồng: “Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ”. Có không gian gắn bó với cuộc đời riêng tư của mỗi cá nhân; “Đất là nơi anh đến trường - Nước là nơi em tắm”... Sự song hành của các không gian như thế gợi lên hình tượng đất nước như là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, cộng đồng và cá nhân. Đất Nước thiêng liêng mà cũng thật gần gũi gắn bó.

Đất nước còn hiện lên trong bề sâu văn hóa - phong tục, lối sống, mang đậm bản sắc Việt Nam. Chiều sâu văn hóa luôn ẩn hiện trong toàn bộ trích đoạn. Từ một nét phong tục: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” cho đến nghi thức thiêng liêng của ngày giỗ Tổ. Tuy nhiên, chiều sâu văn hóa hiện lên thấm thía và đẹp đẽ nhất với những phát hiện và ngợi ca về vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam: yêu đắm say mà chung thủy; trọng nghĩa tình nhưng vì thế mà quyết liệt, không khoan nhượng trước kẻ thù.

Tư duy triết học hướng tới khám phá, nhận thức cái thống nhất. Tầm vóc triết học trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là ở chỗ: từ ba bình diện không gian - thời gian - văn hóa, nhà thơ đã tìm ra hạt nhân gắn kết làm nên tính chính thể của hình tượng đất nước. Cái hạt nhân gắn kết này, không gì khác, đó chính là quan niệm: đất nước của nhân dân.

Tư tưởng đất nước của nhân dân là cơ sở đem lại những khám phá mới mẻ, độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm về hình tượng đất nước. Từ quan niệm đất nước của nhân dân. Lịch sử của đất nước không còn là lịch sử của các triều đại, các anh hùng mà là lịch sử của hàng nghìn lớp người “không ai nhớ mặt đặt tên - Nhưng họ đã làm ra đất nước”. Không gian đất nước cũng được tạo hình từ những “ao ước”, “lối sống" của ông cha từ bao đời nay. Cũng chính nhân dân là người đã sáng lập, giữ gìn dòng chảy văn hóa của đất nước: “Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng - Họ truyền lửa.. - Họ truyền giọng điệu... - Họ gánh theo tên xã, tên làng...”. Một mật độ lớn các động từ được xếp cạnh nhau làm nổi lên hình tượng thật tầm vóc và kì vĩ của nhân dân - những người “làm ra Đất Nước”.

Tư tưởng đất nước của nhân dân đã có một quá trình phát triển lâu dài trong lịch sử văn học dân tộc (Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu...). Trong văn học cách mạng, tư tưởng đất nước của nhân dân cũng đã được nhiều nhà thơ đề cập đến (Bài thơ Hác Hải, Đất nước của Nguyễn Đình Thi, Tre Việt Nam của Nguyễn Duy). Tuy nhiên, để tư tưởng này trở thành cảm hứng chủ đạo, xuyên thấm vào mọi biểu hiện nhỏ bé tinh tế nhất của hình tượng đất nước thì đó là một đóng góp đặc sắc của Nguyễn Khoa Điềm. Nó cho thấy sự kế thừa và kết tinh ở một trình độ mới của tư tưởng đất nước của nhân dân trong văn học.

Đoạn thơ mở đầu trích đoạn là một minh chứng sống động cho những đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

Hiện lên qua đoạn thơ là hình tượng đất nước mênh mang trong thời gian. Nét đặc sắc là ở chỗ chiều sâu thời gian ấy được gợi lên trước tiên từ những “ngày xửa ngày xưa” trong lời kể của mẹ. Đây không phải là thời gian lịch sử chính xác với những niên đại cụ thể. Nó là thứ thời gian mơ hồ, ảo diệu trong trí tưởng tượng của trẻ thơ. Nó không định vị chính xác nhưng giúp ta cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về sự trường tồn của đất nước.

Gương mặt của đất nước được hình dung từ những gì gần gũi bình dị trong cuộc sống thường ngày. Có cái gì thật chia ly, tường tận trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm. Từ một cách búi tóc, một câu ca dao đến những sự vật bình dị: cái kèo, cái cột. Ngay cả đối với những vật tưởng rất mực bé nhỏ như “hạt gạo” thì tác giả vẫn có sự cảm nhận thật sâu sắc từ những thời điểm cụ thể: “một nắng hai sương” - “xay” - “giã” - “giần” - “sàng”. Với cách cảm nhận này, đất nước trở thành bầu khí quyển bao bọc lấy cuộc sống của mỗi con người. Ở đâu, trong bất kì biểu hiện nhỏ bé nào cũng mang hình đất nước. Đất nước được kéo gần lại thân quen, gắn bó máu thịt với con người.

Góp phần quan trọng tạo nên vẻ đẹp của hình tượng đất nước trong đoạn thơ là một ngôn ngữ thấm đẫm chất liệu và hương sắc của văn hóa dân gian. Ngôn ngữ không bao giờ chỉ là ngôn ngữ. Đằng sau ngôn ngữ là một quan niệm. Ngôn ngữ mang đậm màu sắc văn hóa dân gian, ở đây là sự thấm nhuần quan niệm đất nước của nhân dân. Nói cách khác, quan điểm đất nước của nhân dân không chỉ là suy tưởng bên trong mà còn được hiện thực hóa bằng chính hình thức và ngôn ngữ thơ.

Giọng điệu thơ trầm lắng, chất chứa suy tư. Vừa như bộc bạch giải bày vừa như tự nói với chính mình. Một giọng điệu như thế khiến hình tượng đất nước hiện lên vừa trang nghiêm thành kính, vừa gần gũi thân thiết.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

"Đất Nước" qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Trong đoạn trích "Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm đã dùng một "đất nước của ca dao thần thoại" để thể hiện tư tưởng "Đất Nước của nhân dân". Hãy chứng minh và phân tích

Phân tích đoạn đầu trong ""Đất Nước"" của Nguyễn Khoa Điềm: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.......Làm nên đất nước muôn đời"

Tư tưởng "Đất Nước của Nhân dân" đã được thể hiện như thế nào trong chương "Đất Nước" (trích trường ca "Mặt đường khát vọng") của Nguyễn Khoa Điềm?

Anh/chị hãy trình bày những cảm nhận về đất nước của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm trong chương "Đất Nước"

1 4,165 18/12/2023
Tải về