TOP 3 mẫu Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (2024) SIÊU HAY

Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca lớp 12 gồm bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 941 18/12/2023


Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Đàn ghi ta của Lor- ca

Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (mẫu 1)

Trưởng thành từ những năm tháng chống Mĩ cứu nước, Thanh Thảo là một trong những cây bút có nhiều đóng góp quan trọng và đặc sắc cho thơ ca hiện đại Việt Nam. Ông luôn được coi là một trong số không nhiều cây bút luôn nỗ lực cách tân thơ Việt với nhiều khám phá, thể hiện mới lạ trên phương diện nghệ thuật. Đàn ghi ta của Lor-ca là một trong những sáng tác gây được nhiều ấn tượng trong lòng bạn đọc bồi những sáng tạo nghệ thuật độc đáo.

Nét đặc sắc đầu tiên trong cách viết của Thanh Thảo ở bài thơ này là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa các yếu tố ngôn từ, âm nhạc. Hoạ và nhạc vốn dĩ là những yếu tính của thơ. Thế nên mới nói “thi trung hữu hoạ”, “thi trung hữu nhạc”. Là cây bút ham cách tân, Thanh Thảo “cũng đã tạt sang âm nhạc vay mượn không ít vốn liếng đem về đầu tư cho thơ mình” (Chu Văn Sơn), ở các trường ca Những người đi tới biển, Những nghĩa sĩ cần Giuộc, Bùng nổ của mùa xuân, Đêm trên cát cấu trúc của những bản giao hưởng, xô nát đã được nhà thơ vay mượn và thể hiện khá nhuần nhuyễn. Vởi những bài thơ ngắn như Đàn ghi ta của Lor~ca, Thanh Thảo lại tổ chức văn bản theo thể thức của ' một bài hát. Hình tượng thơ và nét nhạc luôn sóng đôi để bay lên, câ't lên. Và để tiếng nói của thơ mình thêm phong phú, Thanh Thảo còn mò phỏng những âm thanh từa tựa các nốt đàn ghita, mô phỏng cả lối diễn tấ'u vẫn thường đệm cho người hát khi diễn nữa:

“những tiếng đàn bọt nước

Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt

li - la li - la lỉ - la

đi lang thang về miền đơn độc

với vầng trăng chếnh choáng

trên yên ngựa mỏi mòn”

Giai điệu lời thơ nghe như tiếng ghi ta lãng tử, hào hoa. Âm thanh li—la li-la cất . lên gợi tiếng đàn ngân nga, ngân nga không dứt.

Vẻ đẹp của bài thơ không chỉ nằm ở sự kết hợp hài hoà giữa hai yếu tố thơ và nhạc trong cấu tứ mà còn ở những hình ảnh có sức gợi mở đa dạng, phong phú. Đàn ghi ta của Lor-ca là bài thơ nhuốm màu sắc tượng trưng, siêu thực. Thực không dề hiểu trước hàng loạt các hình ảnh như: “tiếng đàn bọt nước”, “vầng trăng chếnh choáng”, “tiếng ghi ta nâu”, “tiếng ghi ta lá xanh”, “tiếng ghi ta tròn bọt hước”, “tiêng ghi ta ròng ròng”, “ giọt nước mắt vầng trăng”... Để “phá khoá” được sự súc tích trong những hình ảnh đó, chúng ta phải luôn ý thức rằng bài thơ là sự tích hợp những cảm xúc, sự thấu hiểu, đồng cảm, kính yêu của Thanh Thảo về cuộc đời người nghệ sĩ nổi tiếng Tây Ban Nha. Những hình ảnh trên còn được đan dệt bằng sự am hiểu thấu đáo lịch sử, truyền thống văn hoá của miền đất đã sinh ra Lor-ca. “Tây Ban Nha áo choàng đỏ gắt” là hình ảnh hàm chứa trong đó một nét sinh hoạt văn hoá (đấu bò tót) xen lẫn với một thời kì lịch sử đen tối của đất nước. Nó gợi nên khung cảnh chính trị, nghệ thuật Tây Ban Nha đương thời một nền chính trị độc tài, một nền nghệ thuật già nua. Lor-ca với tấm “áo choàng đỏ gắt” như một võ sĩ trên chiến trường vớỉ lời tuyên chiến, lời thách đấu mạnh mẽ. Hình ảnh “vầng trăng chếnh choáng - trên yên ngựa mỏi mòn”biểu trưng cho hành trình đơn độc của Lor­ca trên con đường của mình. Một hình ảnh cũng hết sức đặc sắc cùa bài thơ chính là hình ảnh hoa “li-la”. “Li-la” không chỉ gợi tiếng đàn mà nó còn là một loài hoa có màu tím ngát rất được người phương Tây ưa chuộng hoa tử đinh hương. Những tràng hoa như bật tím liên tiếp theo chuỗi âm thanh “li-la li—la” như để viếng hương hồn Lor-ca hay chúng là muôn ngàn đoá hoa của sự sống đang nảy nở từ cái chết đau thương của thi sĩ? Tất cá những hình ảnh đâ'y đã góp phần xây dựng nên bức

Tượng đài về Lor-ca - nhân vật trữ tình của bài thơ.

Hình ảnh và nhạc điệu của bài thơ được nhà thơ hiện đại thể hiện bằng hệ thống ngôn từ mới mẻ, hiện đại. Bài thơ như giai điệu một bản nhạc, có phần nhạc đệm của đàn ghi ta. Chuỗi âm “li-la li-la” luyến láy sau hai câu thơ đầu gợi liên tưởng đến tiếng vang của chùm hợp âm sau tấu khúc mở đầu. Kết thúc bài thơ, Thanh Thảo tiếp tục để chuỗi âm đó cất lên như thể nó là chùm hợp âm vĩ thanh của bản hoà tấu. Nét đặc sắc trong ngôn ngữ thơ còn được biểu hiện ở những từ ngữ miêu tả âm thanh theo lối tượng trưng, liên tục chuyển đổi cảm giác ở đoạn thơ diễn tả nỗi đau thương trước sự thật phũ phàng:

tiếng ghi ta nâu

bầu trời cô gái ấy

tiếng ghi ta lá xanh biết mấy

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Tiếng đàn ghi ta với những biến tấu khác nhau không phải về âm thanh mà về màu sắc, hình dáng đã thể hiện chân thực nỗi lòng Lor-ca lúc ấy: “Tiếng ghi ta nâu” trầm tĩnh nghĩ suy, “tiếng ghi ta xanh” thiết tha hi vọng, “tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan” bàng hoàng, tức tưởi, “tiếng ghi ta ròng ròng máu chảy” đau đớn, nghẹn ngào..

Ngôn ngữ thơ không chỉ giàu nhạc tính, giàu hình ảnh mà còn gắn với cảm xúc, suy tưởng (“áo choàng đỏ gắt”, “áo choàng bê bết đỏ”, “chiếc ghi ta màu bạc”). Cũng có khi hệ thống ngôn ngữ biến hoá với những biện pháp tu từ so sánh (“chàng đi như người mộng du”, “tiếng đàn như cỏ mọc hoang”), nhân hoá (“vầng trăng chếnh choáng”), ngoa dụ (“không ai chôn cất tiếng đàn”) ẩn dụ (“đường chỉ tay đã đứt - dòng sông rộng vô cùng”)...Để cảm nhận cho tường tận vẻ đẹp nghệ thuật của bài thơ, chúng ta không thể bỏ qua những sáng tạo độc đáo, những cách tân mới mẻ như thế trong lối viết của Thanh Thảo.

Bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca được xuát bản năm 1985, thể hiện nỗi đau xót sâu sắc trước cái chết bi thảm của Ph.G.Lor-ca - nhà thơ thiên tài Tây Ban Nha. Sự ngưỡng mộ người nghệ sĩ đại diện cho tinh thần tự do và khát vọng cách tân nghệ thuật .của thế kỉ XX là nguyên nhân cốt lõi làm nên những đặc sắc nghệ thuật của thi phẩm này

Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (mẫu 2)

Thanh Thảo là nhà thơ trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Mỹ, ông có nhiều đóng góp to lớn cho nền văn học Việt Nam hiện đại với một phong cách thơ sáng tạo độc đáo. Nghệ thuật thơ ông là sự hòa quyện giữa chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng và những nét đẹp trong văn học truyền thống tạo nên một phong cách Thanh Thảo rất riêng, nổi bật hẳn trong một loạt các nhà thơ cùng thời. Trong sáng tác của mình ông luôn cố gắng tạo ra những sáng tạo, những khoảng trống, khoảng mờ, cùng nhưng chi tiết có sức ám ảnh lớn để kích thích tư duy và liên tưởng của độc giả. Trong Đàn ghi ta của Lor-ca phong cách thơ của Thanh Thảo đã được thể hiện một cách khá hoàn thiện với nhiều chi tiết nghệ thuật đặc sắc.

Đặc sắc nghệ thuật của Đàn ghi ta của Lor-ca trước hết là đến từ những trải nghiệm về một phong cách thơ ca mới với những hình ảnh thơ theo chủ nghĩa tượng trưng, siêu thực, khó hiểu nhưng giàu ý nghĩa. Khởi đầu với hình ảnh "tiếng đàn bọt nước", đó là một hình ảnh so sánh có vẻ lạ, trong văn học cổ điển các văn nhân thi sĩ thường so sánh tiếng đàn với tiếng nước chảy thể hiện sự thanh khiết, tao nhã, thì đến Thanh Thảo ông lại có sự kết hợp Đông-Tây đầy đặc sắc. "Tiếng đàn bọt nước" là một hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng, vừa thể hiện tài năng của Lor-ca, thông qua hình ảnh tiếng đàn xinh đẹp, thánh thót, thế nhưng đó cũng chính là những dự báo đầy đau xót về số phận của người nghệ sĩ tài hoa bạc mệnh. Cuộc đời Lor-ca tựa như pháo hoa chóng tàn, từng rất rực rỡ và xinh đẹp thế nhưng lại nhanh chóng vụt tắt để lại nhiều nuối tiếc, cũng như chính chính tiếng đàn, thanh mảnh, trong suốt nhưng cũng như những bọt nước lăn tròn, sớm vỡ tan. Hình ảnh "chiếc áo choàng đỏ gắt" lại là tượng trưng về dáng vẻ của một người anh hùng dũng cảm, chiến đấu hết mình, đồng thời cũng là biểu tượng cho nền văn hóa của xứ sở Tây Ban Nha xinh đẹp. Như vậy gộp chung lại, thì Lor-ca chiến đấu hăng hái tựa như một nghệ sĩ đấu bò để bảo vệ chính quê hương, đấu tranh giành lấy quyền tự do cho nhân dân, đó là một hình ảnh đẹp và kiêu hùng về người nghệ sĩ trong thơ Thanh Thảo. Tuy mạnh mẽ và kiêu hùng như thế, nhưng cũng có những lúc người nghệ sĩ cảm thấy chán chường mệt mỏi, ánh mắt cũng có những lúc lay động, hình ảnh siêu thực "vầng trăng chếnh choáng" đã xuất sắc lột tả được những cảm giác ấy. "Chếnh choáng" là một từ lạ, gắn với hình ảnh vĩ đại của thiên nhiên là vầng trăng lại càng mơ hồ và khó hiểu hơn, thế nhưng ngẫm kỹ người ta mới chợt hiểu rằng, trong đôi mắt của người anh hùng, trong bước chân rệu rã và mỏi mệt, trong cảm giác cô đơn và chán chường thì dường như mọi thứ đều như bị dịch chuyển, mơ hồ không rõ nét.

Cũng là một hình ảnh mang tính tượng trưng nhưng "áo choàng bê bết đỏ" lại đem đến những cảm giác ám ảnh không thôi, đó là bi kịch của người anh hùng dũng cảm chiến đấu trong cô đơn rồi bị ám hại một cách đau đớn. Đó là cái chết đầy bi thương, máu nhuộm áo choàng, nhuộm cả những khao khát đấu tranh vì nền độc lập, tự do của quê hương. Tương tự hình ảnh tiếng đàn ghi ta với những sắc thái khác nhau "Tiếng ghi ta nâu/ tiếng ghi-ta lá xanh biết mấy/tiếng ghi-ta tròn bọt nước vỡ tan/tiếng ghi-ta ròng ròng máu chảy" cũng đưa độc giả đến những suy tư, những liên tưởng xung quanh cái chết của Lor-ca và cuộc đời tài hoa bạc mệnh của người nghệ sĩ anh hùng thông qua hình tượng tiếng đàn.

Một hình ảnh siêu thực khác, có vai trò quan trọng nhấn mạnh tầm vóc của Lor-ca và cái chết đầy bi thảm của ông ấy là "giọt nước mắt vầng trăng/long lanh trong đáy giếng". Đôi lúc người ta nói thơ Lor-ca quá sáng tạo, quá tượng trưng khiến độc giả khó có thể cảm nhận, tôi nghĩ có lẽ đúng, bởi thơ ông cần một sự xâu chuỗi và am hiểu rộng, như trong hình ảnh trên cũng vậy. Đâu phải ai cũng rõ rằng Lor-ca bị bắn chết và xác ông bị lũ phát xít độc tài vứt vào một cái giếng hoang, một kết cục bi thảm, cô đơn và lạnh lẽo của người anh hùng vĩ đại. Để hình tượng hóa và giảm bớt những đau đớn trước sự hy sinh ấy, Thanh Thảo đã chọn một hình ảnh vô cùng siêu thực "giọt nước mắt vầng trăng", đó là hình ảnh đẹp, tượng trưng cho lòng thương xót to lớn của tác giả, cũng như của toàn nhân loại đối với cái chết của Lor-ca. Một cái chết mà đến thiên nhiên vĩ đại cũng phải xót thương, nhỏ giọt lệ quý giá phủ lên tấm thân người anh hùng, càng để an ủi rằng, Lor-ca không cô đơn, sự hy sinh của ông đã được trời đất chứng giám.

Thêm vào đó đặc sắc nghệ thuật của Đàn ghi ta của Lor-ca còn nằm ở lối thơ tự do, không hè theo một hình thức nào cả, điều đó dễ dàng tạo điều kiện cho tác giả được thể hiện những cảm xúc của mình, lúc ngưỡng mộ, lúc đau đớn xót xa, lúc lại lâm vào khoảng trắng suy tư rộng lớn. Bài thơ còn có kết cấu đứt đoạn, chỗ thì liền mạch như tự sự, chỗ lại ngắt quãng như đang nức nở, khiến độc giả nhiều lần phải không ngừng tư duy về ý thơ và mạch cảm xúc có phần "nhảy cóc" của tác giả. m điệu của bài thơ xen lẫn những tiếng đàn "li-la li-la li-la" mang đến âm hưởng cổ điển, suy tư và có phần lãng mạn, bi thương.

Đàn ghi ta của Lor-ca là một sáng tạo độc đáo, là đại diện xuất sắc nhất cho phong cách thơ sáng tạo mang đậm màu sắc chủ nghĩa siêu thực, tượng trưng của Thanh Thảo. Đặc sắc nghệ thuật của tác phẩm nằm ở những hình ảnh đầy sáng tạo, đôi phần khó hiểu vì vượt ra khỏi những quy chuẩn thông thường, mạch cảm xúc tác giả trong thơ là sự ngắt quãng, xen nhiều khoảng không gian trống, chứa đựng nhiều suy tư, kích thích sự tư duy và liên tưởng của của độc giả.

Những đặc sắc nghệ thuật của bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca (mẫu 3)

Theo lí thuyết văn học liên văn bản, bất cứ văn bản nào cũng là một liên văn bản, không phụ thuộc vào việc tác giả của văn bản có ý thức được điều đó hay không. Đọc Đàn ghi ta của Lor-ca, có thể thấy, mỗi từ, mỗi chi tiết, hình ảnh và cả hình tượng trung tâm trong đó đều là đầu mối của một quan hệ giao tiếp nghệ thuật rộng lớn, mà nếu thiếu tri thức về các văn bản (hiểu theo nghĩa rộng) có trước đó thì độc giả không thể cảm nhận được, hiểu được ý nghĩa của chúng. Lor-ca là nhà thơ như thế nào? Đàn ghi ta của ông có cái gì đặc biệt? Vầng trăng, yên ngựa, bước chân lang thang, tiếng hát nghêu ngao, bãi bắn, tấm áo choàng bê bết đỏ, giọt nước mắt vầng trăng trong đáy giếng, lá bùa cô gái Di-gan,... là những cái gì đây? Đó có thể là những câu hỏi thầm vang lên trong tâm trí độc giả bình thường khi tiếp nhận bài thơ. Nếu không chịu bỏ cuộc trên hành trình giải mã văn bản này và quyết tìm tới những văn bản khác đã làm nền cho nó (theo sự chỉ dẫn của các câu thơ trong bài), độc giả sẽ thực sự được đền bù. Trước mắt chúng ta lúc đó sẽ là một thế giới thi ca chói loà của thiên tài Lor-ca, là bức tranh bi tráng về thân phận người nghệ sĩ trong một thời đại biến động như bão táp, là vẻ đẹp lung linh của nghệ thuật vượt lên trên mọi sự đe doạ của các thế lực bạo tàn, hung hiếm. Từ những điều vừa thấy, nhìn ngược lại văn bản thơ đã tạo cơ hội mở rộng chân trời hiểu biết cho mình - bài Đàn ghì ta của Lor-ca của Thanh Thảo - ta sẽ nhận ra từ đây một sự cộng hưởng của những khát vọng sáng tạo, một khả năng nhập cảm sâu sắc vào thế giói nghệ thuật thơ Lor-ca, một suy nghiệm thâm trầm về nỗi đau và niềm hạnh phúc của những cuộc đời đã dâng hiến trọn vẹn cho cái đẹp.

Trong nửa đầu bài thơ, một không gian Tây Ban Nha đặc thù, nhất là không gian miền quê An-đa-lu-xi-a yêu dấu của Lor-ca đã được gợi lên. Giữa không gian đó, nổi bật hình tượng người nghệ sĩ lãng du có tâm hồn phóng khoáng, tha thiết yêu người, yêu đời, nhưng nghịch lí thay, lại không ngừng đi theo một tiếng gọi huyền bí nào đó hướng về miền đơn độc:

những tiếng đàn bọt nước

[...]

tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan

Tại sao tác giả lại có thể gợi lên được những điều ấy? - Trước hết là nhờ "đàn ghi ta của Lor-ca". Tất nhiên, ở đây ta không nói tới một cây đàn cụ thể, dù vẫn biết Lor-ca là nghệ sĩ trình tâu rất xuất sắc ghi ta và dương cầm. Đàn ghi ta ở đây chính là thơ Lor-ca, là bản mệnh của Lor-ca. Đọc thơ Lor-ca, ta thường bắt gặp hình tượng một chàng kị sĩ đi mải miết, vô định dưới vầng trăng khi đỏ, khi đen, khi rạng ngời, khi tôi, khi nồng nàn, khi buốt lạnh,... Ta cũng thường được ngập mình trong phong vị, hương sắc riêng không thể nào quên được của miền quê Gra-na-đa thuộc xứ An-đa-lu-xi-a, nơi ngày xưa từng được xem là "một trong những vương quốc đẹp nhất của châu Phi" do người Ả Rập dựng nên. Ở đó có những chàng hiệp sĩ đấu bò tót khoác trên mình tấm áo choàng đỏ, có những cô gái Di-gan nước da nâu gợi tình tràn trề sức sống, có những vườn cam, những rặng ô-liu xanh một màu xanh huyền hoặc. Đặc biệt, ở đó luôn vang vọng tiếng đàn ghi ta âm thanh nức nở, thở than làm vỡ toang cốc rượu bình minh, tựa tiếng hát của một con tim bị tử thương bởi năm đầu kiếm sắc không gì có thể bắt nó im tiếng (ý thơ trong bài),... Thanh Thảo quả đã nhập thần vào thế giới thơ Lor-ca để lấy ra và đưa vào bài thơ của mình những biểu tượng ám ảnh bồn chồn vôn của chính thi hào Tây Ban Nha. Nhưng vấn đề không đơn giản chỉ là sự "trích dẫn". Tất cả những biểu tượng kia đã được tổ chức lại xung quanh biểu tượng trung tâm là cây đàn, mà xét theo "nguồn gốc", vốn cũng là một biểu tượng đặc biệt trong thơ Lor-ca - người mê dân ca, "chàng hát rong thời trung cổ", "con sơn ca xứ An-đa-lu-xi-a". Cây đàn từ chỗ mang hàm nghĩa nói về một định hướng sáng tạo gắn thơ với dòng nhạc dân gian, rộng ra, nói về một tình yêu vô bờ và khắc khoải đôì với quê hương, đến Thanh Thảo, nó đã nhập một với hình tượng Lor-ca, hay nói cách khác, nó đã trở thành hình tượng "song trùng" với hình tượng Lor-ca. Cây đàn cất lên tiếng lòng của Lor-ca trước cuộc sông, trước thời đại. Nó là tinh thần thơ Lor-ca, là linh hồn, và cao hơn cả là sô' phận của nhà thơ vĩ đại này. Bởi thế, trên những văn bản thơ trước đây của Lor-ca là một văn bản mới của nhà thơ Việt Nam muôn làm sông dậy hình tượng người con của một đất nước, một dân tộc yêu nghệ thuật, ưa chuộng cuộc sông tự do, phóng khoáng. Hơn thế nữa, tác giả muôn hợp nhất vào đây một "văn bản" khác của đời sống chính trị Tây Ban Nha mùa thu năm 1936 - cái "văn bản" đã kể với chúng ta về sự bạo ngược của bọn phát xít khi chúng bắt đầu ra tay tàn phá nền văn minh nhân loại và nhẫn tâm cắt đứt cuộc đời đang ở độ thanh xuân của nhà thơ được cả châu âu yêu quý:

Tây Ban Nha

[...]

tiếng ghi ta ròng ròng

máu chảy

Ở trên, bài thơ của Thanh Thảo đã được (hay bị) trích theo lôi cắt tỉa, phục vụ cho việc làm tường minh các ý thơ có trong đó. Trên thực tế, Đàn ghi ta của Lor-ca có một câu trúc đầy ngẫu hứng, với sự xô nhau, đan cài nhau, tương tác với nhau của các văn bản (đã nói). Chính nhờ vậy, tiếng hát yêu đời của Lor-ca được Thanh Thảo gợi lại, càng trở nên tha thiết hơn giữa tan nát dập vùi và những ám ảnh tưởng phi lí luôn dày vò nhà thơ Tây Ban Nha bỗng trở thành sự tiên tri sáng suốt. Sáng tạo nghệ thuật của Thanh Thảo được bộc lộ rõ trên các giao điểm này. Những hình ảnh, biểu tượng vốn có trong thơ Lor-ca được làm mới để chuyên chở những cảm nhận về chính thơ Lor-ca và về thân phận các nhà thơ trong thời hoành hành của bạo lực. Câu thơ "những tiếng đàn bọt nước" ở đầu bài nếu được nốì kết với các câu thơ khác là "tiếng ghi ta tròn bọt nước vỡ tan" và "tiếng ghi ta ròng ròng - máu chảy", sẽ bộc lộ một tiềm năng ý nghĩa lớn hơn nhiều so với ý nghĩa dễ nhận thấy gắn liền với việc diễn tả âm thanh tuôn trào, sôi động của tiếng đàn. Tiếng đàn giống như tiếng kêu cứu của con người, của cái đẹp trong thời khắc bị đẩy tới chỗ tuyệt diệt. Không có gì khó hiểu khi dưới ngòi bút Thanh Thảo, tiếng đàn cũng có màu (nâu, xanh), có hình thù (tròn), có sinh mệnh (ròng ròng máu chảy), bởi tiếng đàn ở đây chính là sự cảm nhận của nhà thơ nay về tiếng đàn xưa. Theo đó tiếng đàn không còn là tiếng đàn cụ thể nữa, nó là sự sông muôn màu hiện hình trong thơ Lor-ca và là sinh quyển văn hoá, sinh quyển chính trị - xã hội bao quanh cuộc đời, sự nghiệp Lor-ca. Rồi màu đỏ gắt của tấm áo choàng, không nghi ngờ gì, là sáng tạo của Thanh Thảo. Nó không đơn thuần là màu của một trang phục. Nó có khả năng ám gợi một điều kinh rợn sẽ được nói rõ ra trong khổ thơ sau: "áo choàng bê bết đỏ" - tức là tấm áo choàng đẫm máu của Lor-ca, của bao con người vốn chỉ biết "hát nghêu ngao" niềm yêu cuộc đời với trái tim hồn nhiên, ngây thơ, trong trắng, khi "bị điệu về bãi bắn" một cách tàn nhẫn, phũ phàng, phi lí (câu thơ "chàng đi như người mộng du" có phần thể hiện sự phi lí không thể nào nhận thức nổi này). Cùng một cách nhìn như thế, độc giả sẽ thấy những thi liệu của thơ Lor-ca (mà truy nguyên, một phần không nhỏ vón là thi liệu của những bài dân ca An-đa-lu-xi-a) như những hình ảnh: người kị sĩ đi lang thang, yên ngựa, vầng trăng đã thực sự được tái sinh lần nữa trong một hình hài mới và gây được những ấn tượng mới. Các từ ngữ: miền đơn độc, chếnh choáng, mỏi mòn gắn với chúng đã tạo ra một trường nghĩa chỉ sự mệt mỏi, bất lực, bồn chồn, thắc thỏm không yên của con người khi đối diện thực sự với cái bản chất phong phú vô tận của cuộc sông. Với kiểu tạo điểm nhấn ngôn từ của Thanh Thảo, ta hiểu rằng cảm giác đó không chỉ có ở Lor-ca. Nó là một hiện tượng có tính phổ quát, không của riêng ai, không của riêng thời nào, tất nhiên, chỉ được biểu hiện đậm nét và thực sự trở thành "vấn đề" trong thơ của những nhà thơ luôn thắc mắc về ý nghĩa của tồn tại. Gồm một chuỗi âm thanh mơ hồ khó giải thích, dòng thơ li-la li-la li-la xuất hiện hai lần trong thi phẩm một mặt có tác dụng làm nhoè đường viền ý nghĩa của từng hình ảnh, biểu tượng đã được ném ra chừng như lộn xộn, mặt khác, đảm nhiệm một phần chức năng liên kết chúng lại thành một chỉnh thể, nhằm biểu hiện tốt nhất cái nhìn nghệ thuật của tác giả và giải phóng bài thơ khỏi sự trói buộc của việc thuật, kể những chuyện đã xảy ra trong thực tế. Quả vậy, dù không có sự kiện nào của cuộc đời Lor-ca được kể lại một cách rành mạch, chi tiết, nhưng độc giả hiểu thơ không vì thế mà cho rằng thiếu. Cái người ta thấy đáng quan tâm lúc này nằm ở chỗ khác. Đó là sự tự bộc lộ của chủ thể sáng tạo khi ráo riết suy nghĩ về số' phận đầy bất trấc của nghệ thuật và khả năng làm tan hoà những suy nghĩ ấy trong một thứ nhạc thơ tác động vào người tiếp nhận bằng hình thức ám gợi tượng trưng hơn là hình thức giãi bày, kể lể kiểu lãng mạn. Tất nhiên, chúng ta có quyền cắt nghĩa tại sao lại li-la chứ không phải là cái gì khác. Hoa li-la (tử đinh hương) với màu tím mê hoặc, nao lòng, từng là đối tượng thể hiện quen thuộc của nhiều thi phẩm và hoạ phẩm kiệt xuất trong vãn học, nghệ thuật phương Tây chăng? Hay đó là âm thanh lời đệm (phần nhiều mang tính sáng tạo đột xuất) của phần diễn tấu một ca khúc, hoặc nữa là âm thanh mô phỏng tiếng ngân mê đắm của các nốt đàn ghi ta dưới tay người nghệ sĩ?... Tất cả những liên hệ ấy đều có cái lí của chúng!

ở nửa sau của bài thơ, tác giả suy tưởng về sức sông kì diệu của thơ Lor-ca nói riêng và về sự trường tồn của nghệ thuật chân chính nói chung, vòn được sáng tạo bằng chính trái tim nặng trĩu tình yêu cuộc sông của các nghệ sĩ:

không ai chôn cất tiếng đàn

[...]

li-la li-la li-la

Câu thơ "không ai chôn cất tiếng đàn" có lẽ đã được bật ra trong tâm thức sáng tạo của Thanh Thảo khi ông nghĩ tới lời thỉnh cầu của Lor-ca trong bài Ghi nhớ - lời thỉnh cầu đã được dùng làm đề từ cho bài thơ Đàn ghi ta của Lor-ca. Không, ở đây không có thao tác đôi lập sắc lẻm của lí trí mà nhiều thi sĩ ưa dùng trong các bài thơ "chân dung" hay "ai điệu", nhằm làm nổi bật những tứ thơ "mới" mang tính chất "ăn theo". Chỉ có sự đau đớn trước cái chết thảm khóc của một thi tài mãnh liệt, mà xác bị quăng xuống một giếng sâu (hay vực?) gần Gra-nađa. Dĩ nhiên, ý nguyện của Lor-ca - một ý nguyện thể hiện chất nghệ sĩ bẩm sinh hoàn hảo của nhà thơ, nói lên sự gắn bó vó cùng sâu nặng của ông đối với nguồn mạch dân ca xứ sở - đã không được thực hiện. Nhưng nghĩ về điều đó, những liên tưởng đơn tới và ta bỗng vỡ ra một chân lí: "không ai chôn cất tiếng đàn" và dù muôn chôn cũng không được! Đây là tiếng đàn, một giá trị tinh thần, chứ không phải là một cây đàn vật thể. Tiếng đàn ấy trường cửu cùng tự nhiên và hơn thế, bản thân nó chính là tự nhiên. Nó vẫn không ngừng vươn lên, lan toả, ngay khi người nghệ sĩ sáng tạo ra nó đã chết. Dù thật sự thấm thìa chân lí nói trên, tác giả vẫn không ngăn nổi lòng mình khi viết ra những câu thơ đau xót hết mực, thấm đượm một cảm giác xa vắng, bơ vơ, côi cút, như cảm giác của ta khi thấy "cỏ mọc hoang" đang ngao hát bài ca vắng người giữa mang mang thiên địa. Không phải ngẫu nhiên mà trong ít nhất hai phương án ngôn từ có thể dùng, Thanh Thảo đã lựa chọn cách diễn đạt "không ai chôn cất" chứ không phải là "không ai chôn được". Đến lượt độc giả. "giọt nước mắt vầng trăng" cứ mãi làm ta thao thức, dù nó long lanh trong im lặng, và hình như càng im lặng trong thăm thẳm đáy giếng, nó lại càng long lanh hơn bao giờ hết.

Từ câu "đường chỉ tay đã đứt" đến cuối bài, nhịp điệu, tiết tấu của thi phẩm không còn gấp gáp và dồn bức nữa. Nó chậm rãi và lắng sâu. Điều này tuân theo đúng logic tái hiện và suy ngẫm (tạm quy về phạm trù "nội dung") mà tác giả chọn lựa. Nhưng quan trọng hơn, nó tuân theo logic tồn tại của chính cuộc đời: tiếp liền cái chết là sự sinh thành, sau bột phát, sôi trào là tĩnh lặng, trầm tư, nối theo sự mù loà, khủng hoảng (của xã hội loài người) là sự khôn ngoan, chín chắn,... Trong muôn nghìn điều mà con người phải nghĩ lại khi đã "khôn dần lên", sự hiện diện của nghệ thuật trong đời sống là một trong những điều khiến ta trăn trở nhiều nhất. Việc quy tội, kết tội cho một đôi tượng cụ thể nào đó đã đối xử thô bạo với nghệ thuật không còn là chuyện thiết yếu nữa. Hãy lắng lòng để chiêm ngưỡng một sự siêu thoát, một sự hoá thân. Trên dòng sông của cuộc đời, của thời gian vĩnh cửu mà trong khoảnh khắc bừng tỉnh thoát khỏi mê lầm, ta tưởng thấy nó hiện hình cụ thể và giăng chiếu ngang trời, có bóng chàng nghệ sĩ Lor-ca đang bơi sang ngang trên chiếc ghi ta màu bạc. Chàng đang vẫy chào nhân loại để đi vào cõi bất tử. Chiếc ghi ta, cũng là con thuyền thơ chở chàng, có ánh bạc biêng biếc, hư ảo một màu huyền thoại...

Trên thực tế, cái chết của Lor-ca là cái chết tức tưởi do bọn phát xít Phrăng- cô gây nên. Nhưng nhìn suốt chiều dài lịch sử, ta thấy Lor-ca không phải là trường hợp nghệ sĩ đầu tiên hay cuối cùng chịu kết cục bi thương bởi các thế lực thù địch với cái đẹp. Vậy phải chăng, có thể xem những khổ nạn liên tục là một phần tất yếu trong định mệnh của họ? Hẳn Thanh Thảo đã nghĩ vậy khi viết tiếp những câu thơ thật gọn ghẽ, "nhẹ nhõm" và "mênh mang" (ta hãy chú ý tới điểm rơi cuối dòng thơ của các từ, cụm từ như: dã đứt, vô cùng, sang ngang). Dù ai tiếc thương mặc lòng, đốì với người nghệ sĩ như Lor-ca, khi "đường chỉ tay đã đứt" (đường chỉ tay như dấu ấn của số' mệnh đóng lên cơ thể con người), chàng đã dứt khoát được giải thoát. Còn nuôi làm chi lá bùa hộ mệnh được xem là vật tàng trữ những sức mạnh thần diệu mà cô gái Di-gan trao cho. Chàng, dứt khoát và mạnh mẽ, ném nó "chìm lỉm" (chữ của Hàn Mặc Tử) vào "xoáy nước" hư vô, như ném trái tim mình vào lặng yên bất chợt - cái lặng yên của sự "đốn ngộ", cái lặng yên sâu thẳm, anh minh, mà ở đó, lời nói đã tan đi trong chính nó. Chàng đã đoạt lây thế chủ động trước cái chết của mình. Chàng đã thắng không chỉ lũ ác nhân mà còn thắng cả chính định mệnh và hư vô nữa. Từ điểm này nhìn lại, ta bỗng thấy câu thơ "chàng đi như người mộng du" ở phần trên có thêm tầng nghĩa mới. Bị lôi đến chỗ hành hình, Lor-ca vẫn sông như người trong cõi khác. Chàng đang bận tâm đuổi theo những ý nghĩ xa vời. Chàng đâu thèm chú ý tới máu lửa quanh mình lúc đó. Chàng đã không chấp nhận sự tồn tại của bạo lực. Chàng chêt, nhưng kẻ bất lực lại chính là lũ giết người! ở đây, có một cái gì gợi ta nhớ tới sự tuẫn nạn của Chúa Giê-su trên núi Sọ. Lại thêm một "văn bản" nữa ẩn hiện tỏ mờ dưới văn bản thơ của Thanh Thảo!* ...

Trong đoạn thơ cuối bài vừa phân tích, người đọc càng nhìn thấy rõ hơn sự vững vàng của tác giả trong việc phối trí các hình ảnh, biểu tượng lấy từ nhiều "văn bản" khác nhau vào một tổng thể hài hoà. Tưởng không có gì chung giữa đường chỉ tay, lá bùa, xoáy nước và cả lặng yên nữa. Vậy mà, nhờ được "tắm" trong một "dung môi" cảm xúc có cường độ mạnh cùng sự suy tư có chiều sâu triết học, tất cả chúng trở nên ăn ý với nhau lạ lùng để cùng cất tiếng khẳng định ý nghĩa của những cuộc đời dâng hiến hoàn toàn cho nghệ thuật, cũng là cho một nhu cầu tinh thần vĩnh cửu của loài người. Là sản phẩm tinh tuý của những cuộc đời như thế, thơ ca làm sao có thể chết? Nó tồn tại như là hơi thở xao xuyến của đất trời. Nó gieo niềm tín và hi vọng. Nó khơi dậy khát khao hướng về cái đẹp. Nó thanh lọc tâm hồn để ta có được tâm thế sống an nhiên giữa cuộc đời không thôi xáo động, vĩnh viễn xáo động. Muốn mô tả nó ư? Chỉ có thể, như Thanh Thảo, sau một thoáng mặc tưởng, bật thốt lên: li-la li-la li-la...

Để lòng mình ngân theo chuỗi âm thanh ấy, ta hiểu rằng trong cuộc tương tranh không ngừng và hết sức thú vị giữa những cách diễn tả đặc hữu của văn học và cách diễn tả mang tính chất ám gợi huyền hồ của âm nhạc, cuối cùng, ở bài thơ của Thanh Thảo, cách diễn tả của âm nhạc đã chiếm ưu thế. Điều này hiển nhiên là một sự lựa chọn có ý thức. Để nói về nỗi cô đơn, cái chết, sự lặng yên, "lời" vẫn thường gây vướng víu, gây nhiễu. Chỉ có nhạc với khả năng thoát khỏi dấu ấn vật chất của sự vật khi phản ánh nó, trong trường hợp này, là phương tiện thích hợp. Tất nhiên, Thanh Thảo không phải đang làm nhạc mà là làm thơ. Nói nhạc ở đây không có gì khác là nói tới cách thơ vận dụng phương thức của nhạc - cái phương thức ám thị, khước từ mô tả trực quan - để thấu nhập bề sâu, "bề xa" của sự vật. Từ lâu, các nhà thơ tượng trưng chủ nghĩa đã hướng tới điều này. Dù không nhất thiết phải quy Đàn ghi ta của Lor-ca vào loại hình thơ nào, ta vẫn thấy nó đậm nét tượng trưng. Chẳng có gì lạ khi với bài thơ này, Thanh Thảo muôn thể hiện môi đồng cảm sâu sắc đối với Lor-ca - cây đàn thơ lạ lùng trong nền thi ca nhân loại ở nửa đầu của thế kỉ XX đầy bi kịch.

1 941 18/12/2023