TOP 10 mẫu So sánh nhân vật Thị và nhân vật Mị (2024) SIÊU HAY

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn Vợ nhặt và nhân vật Mị trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ lớp 12 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 6895 lượt xem
Tải về


So sánh nhân vật Thị và nhân vật Mị - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Vợ Nhặt

Dàn ý So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”

- Số phận: là những người phụ nữ bất hạnh bị hoàn cảnh khó khăn vùi dập đến nỗi mất đi những nét đẹp của bản thân mình
- Phẩm chất :

+ sức sống tiềm tàng

+biết lao động và chăm chỉ

*Khác

-Ngoại hình :

+Mị: Mị là một cô gái xinh đẹp “Trai làng đứng nhẵn cả chân vách đầu buồng Mị”

+Vợ Tràng xuất hiện với một chân dung thảm thương. Lần đầu tiên Tràng trông thấy, thị mới chỉ gầy yếu xanh xao (ngồi vêu trước cửa kho thóc). Lần hai, anh ta không nhận ra. Vì đói rách mà chỉ hôm, áo quần rách thị tả tơi như tổ đỉa, gày sọp hẳn đi, trên cái mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt

-Số phận :

+Mị: Sinh ra trong một gia đình nghèo: cha mẹ lấy nhau không có tiền cưới, phải vay bạc nhà giàu đến khi mẹ Mị chết mà vẫn không trả được nợ, để rồi người ta bắt Mị về làm dâu gạt nợ.Khi làm dâu nhà thống lí: Mị bị đầy ải về cả thể xác lẫn tinh thần

+Vợ nhặt: số phận những người phụ nữ trong nạn đói 1945: nghèo đói, bị rẻ rúng đến nổi tha hóa về tính cách và phẩm chất.Sự sống bị đe dọa,sắp bị chết đói như những người dân khác.

- phẩm chất :

có Tài thổi sáo “Mị uốn chiếc ……” => người phụ nữ tài hoa

Yêu tự do, trẻ trung yêu đời: Trước khi về làm dâu nhà thống lí, mùa xuân nào Mị cũng đi chơi, Mị cũng đã có người yêu. Mị đã xin cha đừng gả con cho nhà giàu

hiếu thảo: Mị sẵn sằng cuốc nương làm ngô trả nợ cho cha. Khi bị bắt làm dâu nhà thống lí Mị đã định ăn lá ngón tự tự nhưng vì thương cha nên Mị đã không chết.

người vợ đảm đang: thị thức dậy sớm, lo dọn dẹp nhà cửa, quét tước sân vườn sạch sẽ.

Người con dâu tinh tế,ý nhị : không muốn bà cụ Tứ buồn lòng nên ăn cháo cám mà không có chút phàn nàn nào

Người có hiểu biết:thị là người đầu tiên kể cho cả nhà nghe chuyện trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa mà đi phá kho thóc Nhật, chia cho người đói.

Nghệ Thuật khắc họa nhân vật:

- Mị: Khắc họa nv Mị tác giả đã sử dựng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật. Tâm lí nhân vật chủ yếu được thể hiện qua nội tâm. Tô Hoài đã diễn tả được những trạng thái tâm lí rất phức tạp, tinh tế của Mị.

-vợ nhặt:Nhà văn không tập trung miêu tả tâm lý nhân vật để giữ vẻ xa lạ, phù hợp với hoàn cảnh của thị, một người vợ nhặt (khác với nhân vật Tràng được miêu tả tâm lý hết sức tỉ mỉ).Tác giả chú trọng khắc hoạ hành động, cử chỉ, nét mặt của nhân vật để người đọc tự hiểu tâm trạng của người phụ.

*Y1 nghĩa của hình tượng nhân vật

-Mị:nhà văn thể hiện sâu sắc giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tp. Tô Hoài đã thể hiện niềm xót thương đối với những người lao động miền núi; đồng thời ca ngợi những phẩm chất của họ, nhà văn thể hiện niềm tin vào sức sống của người lao động là dù có bị áp bức như thế nào thì họ vẫn có sức sống vươn lên. Tác giả còn lên án bọn chúa đất miền núi độc ác, vô nhân tính,….

-Vợ nhặt: Xây dựng nhân vật vợ Tràng, nhà văn đã gián tiếp tố cáo một xã hội đẫ đẩy con người đến sự rẻ rúng, tha hoá về nhân phẩm chẳng qua vì sự đói khát. Thế nhưng, trong cảnh ngộ của mình bi đát, con người vẫn luôn vươn tới sự sống, hướng tới tương lai và ở một hoàn cảnh nhân đạo hơn, phẩm giá con người đã sống dậy.Từ mảng đời của một xã hội tối tăm, đói khát và cũng từ đó ánh lên tia sáng của chủ nghĩa nhân đạo cao cả.

Đây là phương pháp chung làm văn so sanh 2 nhân vật,bạn có thể dựa vào để làm các đề tương tự khác nhé :)

-Ngoại hình (nếu có): ngoại hình xấu/đẹp -> suy nghĩ của em về ngoại hình của nhân vật.

- Số phận (nếu có): Đối với những tác phẩm trong chương trình lớp 12 thì chủ yếu là nhân vật có số phận bất hạnh. Khi đó thì cần chú ý đến số phận khi còn nhỏ, khi trưởng thành (đời sống vật chất và tinh thần).

- Phẩm chất: các nhân vật đều có phẩm chất. Cần khái quát được phẩm chất của nhân vật trong từng tác phẩm.

Từ đó rút ra điểm giống,điểm khác giữa các nhân vật

Sau đó bạn nên thêm vào phần đánh giá

+ Nghệ thuật khắc họa nhân vật

+ Ý nghĩa của hình tượng nhân vật trong tác phẩm.

Nếu nắm được phương pháp chung bạn sẽ dễ dàng làm tất cả các đề so sánh nhé.

Còn 1 phương pháp nữa là so sánh song song :Điểm giống nhau (đưa ra luận điểm, dẫn chứng); điểm khác nhau (đưa ra luận điểm, dẫn chứng): cách này khá khó nên bạn không nên sử dụng trừ khi bạn có khả năng viết văn tốt

Trước khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, chúng ta cùng tham khảo một số nét tiêu biểu về hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ và Vợ Nhặt cũng như tóm tắt tác giả và hoàn cảnh sáng tác của từng tác phẩm.

Tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài

Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn rất có duyên với quê hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông yêu những điều giản dị mà gần gũi, chính vì thế mà ông đặc biệt say mê với nét đẹp của văn hóa tập quán miền núi và dành tình cảm nồng hậu cho những con người của dân tộc ấy.

Phân tích nhân vật trong tác phẩm của ông nói chung, so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt nói riêng, người đọc cần nắm được thông tin về sự ra đời của tác phẩm cũng như đôi nét về tác giả.

Tô Hoài quan niệm rằng: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Do đó mà những tác phẩm của ông luôn là những chương văn mang đậm tính hiện thực, ông thu hút người đọc bằng chính những gì chân thật nhất mà bản thân mình đã từng trải qua và cảm nhận được.

Sau bao tháng năm với mảnh đất tình Tây Bắc, nhà văn đã kết lại những xúc cảm của mình bằng truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Cảm hứng để nhà văn viết nên tác phẩm này đó chính là khi ông phải chứng kiến hiện thực rằng đồng bào dân tộc miền núi bị thống trị một cách tàn bạo.

Nơi mà cường quyền và thần quyền có khả năng bóc lột sức lao động, cũng như điều khiển quyền sống của con người. Những sự kiện này tác động mạnh mẽ vào tâm hồn nhạy cảm của ông, để từ đó truyện ngắn vợ chồng A Phủ ra đời, xoay quanh nỗi đau số phận của nhân vật Mị.

Bài giảng Ngữ văn 12 Vợ Nhặt

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” (mẫu 1)

Xuyên suốt nền văn học Việt, nét đẹp của người phụ nữ như một nguồn cảm hứng bất tận của thơ ca. Từ cổ chí kim với hình ảnh nàng Kiều tài hoa cùng khát vọng sống mãnh liệt trước số phận bạc mệnh; đến một chị Dậu bị xã hội nửa phong kiến vùi dập đến túng quẫn giữa màn đêm không tìm thấy lối thoát. Số phận bi thảm đầy sự bất công, cay đắng tủi nhục ấy lại chẳng thể vùi lấp đi vẻ đẹp nơi tâm hồn ẩn chứa nơi trái tim họ.

Vợ chồng A Phủ” với nhân vật Mị và “Vợ nhặt” với nhân vật Thị cũng là những người phụ nữ với nét đẹp tâm hồn tài hoa, không đầu hàng trước số phận như vậy. Dù hoàn cảnh bi thương khác nhau nhưng giữa những tầm thường cuộc đời, vẻ đẹp của họ vẫn được Tô Hoài và Kim Lân khắc họa sâu sắc, để lại những rung cảm khó có thể phai mờ trong lòng độc giả.

Khi so sánh nhân vật Mị và Thị, ta nhận ra đây đều là đại diện cho những người phụ nữ ở tầng lớp thấp của xã hội lúc bấy giờ. Tuy “mỗi cây mỗi hoa, mỗi nhà mỗi cảnh” nhưng cuộc đời của họ đều là một tấn bi kịch, thân phận thấp cổ bé họng, số phận “bèo dạt mây trôi”, túng quẫn vẫy vùng trong tuyệt vọng.

Nhân vật Mị - một đóa hoa vùng Tây Bắc hội tụ được những nét đẹp tâm hồn của người miền núi: Đẹp người, đẹp nết, cần cù, hiếu thảo và rất mực tài hoa. Ấy vậy mà đóa hoa tuyệt sắc đó lại phải gánh chịu kiếp sống giam cầm, trở thành một “cô con dâu gạt nợ”. Dưới sự áp bức đầy cường quyền thần quyền cùng hủ tục đè nặng, Mị gần như trở nên tê liệt. Cô trở nên mất sự phản kháng, trở nên con cam phận “mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”.

Cô là một con người bằng xương bằng thịt nhưng lại chẳng thể tự quyết định số phận của mình. Vì cha mà Mị chẳng thể đành lòng mà tự vẫn, vì A Sử mà cô không thể đi chơi trong đêm tình mùa xuân. Danh nghĩa là con dâu cả nhưng thật ra lại là nô lệ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Sự cam chịu đến thống khổ đã biến cô gái Mông sức sống mơn mởn và trở thành một con người lầm lũi, túng quẫn, héo hắt.

Tuổi xuân của Mị đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. “Ở lâu trong cái khổ Mị quen với nó rồi” Cuộc đời Mị vẻn vẹn chỉ còn thu lại bằng chiếc cửa sổ “mờ mờ, trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Một xã hội hiện thân mà kẻ thống trị nắm giữ mọi quyền hành còn những người thấp hơn bị coi như cỏ rác.

Không phải là kiếp sống giam cầm, mất tự do như Mị nhưng Thị trong “Vợ nhặt” lại phải lâm vào hoàn cảnh lay lắt giữa sự sống và cái chết, vật vờ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Vì cái đói cái túng quẫn đeo bám, Thị trở thành một con người không còn gì cả. Không có tên, cũng chẳng có gốc gác, cô “gầy vêu rách như tổ đỉa”, “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” không quá khứ, mất luôn cả lòng tự trọng. “Thị gầy xọp” “khuôn mặt lưỡi cày xám xịt” chỉ nhìn đập vào mắt người đọc “hai con mắt trũng hoáy”. Tất cả các chi tiết đó không khiến chúng ta bàng hoàng và liên tưởng đến một bóng ma vật vờ không có sức sống.

Thị trải qua cuộc sống lê la, nay đây mai đó, chỉ sống qua ngày chứ chẳng còn tha thiết đến ngày mai. Vì vậy, cô nhanh chóng víu lấy nhân vật Tràng mà nào có cần nghĩ suy. Cái đói không chỉ vùi lấp sức sống vẻ ngoài của thị mà còn tàn tạ cả tính cách. Vì đói mà thị trở nên “chao chát”, “chua ngoa, đanh đá”. Thị “cong cớn”, “sưng sỉa” khi nói chuyện.

Cái đói khiến thị quên đi cả lòng tự trọng của một con người. Thấy cái ăn trước mặt, thì chẳng ngần ngại mà “sà xuống cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trò gì”. Thị rơi vào bi kịch theo không người ta về làm vợ chỉ để có cái ăn. Hoàn cảnh xô đẩy đã khiến tất cả bị che lấp, chẳng còn lòng tự trọng và vẻ đẹp nơi tâm hồn nữa. Xã hội khiến một người con gái tàn lụi như một cái xác không hồn.

Cùng cực là thế, đớn đau là thế nhưng ẩn sâu bên trong họ, khát vọng sống vẫn luôn âm ỉ cháy. Dù tưởng chừng đã ở đáy vực của sự tuyệt vọng, nhưng cả Thị và Mị lại luôn khát khao được sống, được tự do là chính mình, sống một cuộc đời đúng nghĩa chứ không phải chỉ là tồn tại. Khát vọng sống được thể hiện qua những cách khác nhau khi ta so sánh nhân vật mị và thị. Ngòi bút hiện thực của Tô Hoài và Kim Lân phác họa sâu sắc nỗi đau cuộc đời họ, nhưng chẳng thể làm mờ đi sức sống mãnh liệt trong họ.

Sức sống tiềm tàng mãnh liệt của Mị như một sợi chỉ đỏ xuyên suốt, âm ỉ cháy suốt mạch chuyện. Tựa như một cây cỏ dại, tuy mỏng manh, yếu ớt nhưng bền bỉ, quật cường. Lần thứ nhất, nó trỗi lên mạnh mẽ lúc Mị mới trở thành con dâu gạt nợ. Tủi cực, buồn bã dồn đọng, Mị định ăn lá ngón tự tử. Nàng ý thức được sự tự do, vận mệnh của bản thân mình đã bị tước đi và trao cho kẻ khác. Tìm đến cái chết lúc đó mặc dù theo nghĩa tiêu cực như là một cách chạy trốn, giải thoát Mị khỏi những ràng buộc và khổ đau. Nhưng đó có lẽ chính là cách phản kháng mạnh mẽ nhất Mị có thể làm được lúc bấy giờ, là sự khẳng định cho khát vọng sống tự do của Mị.

Lần thứ hai, nó được thể hiện trong đêm tình mùa xuân. Niềm khao khát hạnh phúc lứa đôi nhen nhóm cháy khi tiếng sáo của trai làng gọi bạn tình mỗi mùa xuân đến. Mị nhớ da diết những ngày tháng tươi đẹp trong quá khứ. Từ tâm trạng, Mị chuyển thành hành động: Mị uống rượu. Mị lấy rượu uống “ừng ực từng bát một”, tưởng như uống những khao khao trong lòng, quên đi những căm hận, buồn khổ.

Tác động cảm xúc và men rượu đã khiên Mị thoát khỏi sự vô cảm bấy lâu. “Phơi phới đến góc nhà lấy ống mỡ, xắn một miếng bỏ thêm vào đĩa đèn cho sáng”, “Thắp sáng niềm tin, giã từ bóng tối” “trong lòng đột nhiên vui sướng! Mị trẻ lắm. Mị muốn đi chơi”. Thậm chí khi A Sử thản nhiên chà đạp ước mơ của Mị, trói nàng vào cột. Trong căn phòng tối như hũ nút, khát khao đó vẫn cháy “như không đang biết mình đang sợ bị trói, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những cuộc chơi”. Nỗi đau thể xác đã chẳng thể nào đè bẹp khát khao ấy.

Tất cả những nhân tố ấy như nhen nhóm từng chút, từng chút một, để rồi khi Mị chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, sức sống ấy đã bùng cháy quyết liệt, mạnh mẽ. Chính niềm đồng cảm giữa những con người cùng túng khổ đã lấn át tất cả, trong phút chốc làm tan biết cả nỗi sợ và cái chết rình rập, Mị cắt dây trói cứu A Phủ. Hành động cởi trói cho A Phủ hay cũng chính là Mị cởi trói cho cuộc đời mình.

Mị đứng trên bờ vực của sự sống và cái chết, giữa lựa chọn nhẫn nhịn và khao khát được sống một cuộc đời đúng nghĩa của một con người. Và niềm khát khao sống đã chiến thắng. Mị đã chọn kết thúc những thống khổ trong lòng, chọn kết thúc quãng đời đày ải, tối tăm trước đây để học cách bắt đầu một cuộc đời mới.

Khi so sánh nhân vật mị và thị, ta thấy rất nhiều điểm tương đồng. Phía sau tình cảnh vất vưởng, nhân vật Thị vẫn âm ỉ khát vọng sống mãnh liệt. Thị sẵn sàng đồng ý theo Tràng làm vợ cũng chỉ là vì để được sống chứ không phải là lẳng lơ. Dù là đánh mất tôn nghiêm, tự trọng, nhưng đó là tất cả nỗ lực khát khao để có được miếng ăn, để được sống. Dẫu có rẻ mạt và tầm thường, chỉ với bốn bát bánh đúc, hai hào dầu, một thúng con là bán rẻ bản thân, nhưng để tồn tại thì còn ý chí nào mạnh mẽ, quật cường hơn thế?

Thị nào có biết Tràng là người như thế nào? Xấu tốt ra sao? Thi đánh đổi cả đời mình vào một canh bạc. Lúc thị về đến nhà Tràng, chứng kiến “ngôi nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”, cô nàng bèn “nén một tiếng thở dài”. Tưởng chừng trong tiếng thở dài chỉ có sự ngao ngán, thất vọng, ấy thế nó còn chứa đựng bao lo lắng cho tương lai ngày mai. Mị trở nên trách nhiệm với mái ấm nhỏ của mình, Mị bắt đầu mơ, bắt đầu tin vào một cái kết lạc quan ở phía trước.

Mà trên đời này có hy vọng nào mà chẳng đi cùng sợ hãi. À thì ra, dẫu Thị có thể hiện bao nhiêu chua chát, đanh đá, nàng vẫn là một người phụ nữ hiền hậu, đảm đang, biết lo toan, chăm chút cho mái ấm của mình. Không chỉ thế, thị còn thể hiện bao nhiêu nét đẹp gia giáo khi gặp bà cụ Tứ. Nàng trở nên e thẹn, dè dặt, chỉ dám “ngồi mớm” vào mép giường, hơn nữa còn rất ý tứ, cung kính trong chào hỏi với mẹ chồng. Đến Tràng cũng bất ngờ và “Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực không còn vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như những lần Tràng gặp ở ngoài tỉnh”. Phải chăng tình thương giữa người với người thật sự có sức mạnh diệu kỳ cảm hóa con người thị?

Trong bữa cơm, dẫu chỉ có “niêu cháo lõng bõng, mỗi người được lưng hai bát đã hết nhẵn”, nhưng Thị lại chẳng hề khó chịu, so đo. Nàng đã mang hơi ấm gia đình đến cho ngôi nhà, sưởi ấm tâm hồn của một Tràng cục mịch, sưởi ấm cả khuôn mặt “bủng beo u ám” của bà cụ Tứ để hôm nay trông bà “rạng rỡ hẳn lên”. Dẫu là những nhân duyên chắp vá và chẳng thể nào hoàn mỹ, nhưng tất cả những nỗ lực để sống, để tồn tại của Thị giúp thay đổi và tiếp thêm lửa cho gia đình nhỏ này.

So sánh nhân vật Mị và Thị, dù hoàn cảnh khác nhau, nỗi bi ai thống khổ khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong trái tim người phụ nữ đều sáng lấp lánh. Một người con gái kiên cường phá bỏ xiềng xích giam hãm mất tự do để sống một cuộc đời mới hay một người vợ vứt đi cái tôi để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Tất cả đều thể hiện nội lực sinh tồn mạnh mẽ không gì dập tắt được. So sánh nhân vật mị và thị ta nhận ra Kim Lân và Tô Hoài đã tài tình khắc họa chân dung người phụ nữ trong xã hội mới với những phẩm chất tốt đẹp. Đó cũng chính là lời kêu gọi của cách mạng, của chủ nghĩa nhân đạo luôn tồn tại và cháy trong tim mỗi người phụ nữ Việt suốt hàng ngàn năm qua.

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” (mẫu 2)

Có thể nói, Tô Hoài là nhà văn rất có duyên với quê hương Tây Bắc và đồng bào các dân tộc nơi đây. Ông yêu những điều giản dị mà gần gũi, chính vì thế mà ông đặc biệt say mê với nét đẹp của văn hóa tập quán miền núi và dành tình cảm nồng hậu cho những con người của dân tộc ấy.

Phân tích nhân vật trong tác phẩm của ông nói chung, so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt nói riêng, người đọc cần nắm được thông tin về sự ra đời của tác phẩm cũng như đôi nét về tác giả.

Tô Hoài quan niệm rằng: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Do đó mà những tác phẩm của ông luôn là những chương văn mang đậm tính hiện thực, ông thu hút người đọc bằng chính những gì chân thật nhất mà bản thân mình đã từng trải qua và cảm nhận được.

Sau bao tháng năm với mảnh đất tình Tây Bắc, nhà văn đã kết lại những xúc cảm của mình bằng truyện ngắn Vợ chồng A Phủ. Cảm hứng để nhà văn viết nên tác phẩm này đó chính là khi ông phải chứng kiến hiện thực rằng đồng bào dân tộc miền núi bị thống trị một cách tàn bạo.

Nơi mà cường quyền và thần quyền có khả năng bóc lột sức lao động, cũng như điều khiển quyền sống của con người. Những sự kiện này tác động mạnh mẽ vào tâm hồn nhạy cảm của ông, để từ đó truyện ngắn vợ chồng A Phủ ra đời, xoay quanh nỗi đau số phận của nhân vật Mị.

Nếu như Tô Hoài đã mang tình thương của mình gửi cả vào núi rừng Tây Bắc thì Kim Lân lại nuôi nấng tình yêu của mình tại vùng quê đồng bằng Bắc bộ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, những trang văn đặc sắc của ông thường nói về các phong tục và đời sống của nông thôn nơi đồng bằng.

Nhà văn hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những con người cùng khổ này nên những tác phẩm của ông bao giờ cũng giàu tính chân thật đến xúc động. Bởi ông không chỉ miêu tả cái cảnh đói cơm rách áo mà còn ca ngợi vẻ đẹp nội tâm của họ.

Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm được nhà văn tái hiện một cách chân thật khi ông chứng kiến nạn đói năm 1945 của nước ta. Những tưởng hiện thực sẽ cướp đi mạng sống của bao nhiêu con người, nhưng bằng ngòi bút nhân đạo của mình, nhà văn đã cứu được mạng sống của họ giữa ranh giới của cái chết.

Không những vậy, Kim Lân còn khám phá nên vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của họ, đặc biệt là của người phụ nữ Việt Nam trong thời thời đại bấy giờ thông qua nhân vật người vợ nhặt.

Từ xưa đến nay, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất hủ của văn chương. Họ không chỉ góp sắc cho đời mà còn làm đẹp cho kho tàng văn học Việt Nam. Vì thế mà nhà thơ Huy Cận đã từng viết:

“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”

Song, người phụ nữ cũng chính là nạn nhân thống khổ nhất của chế độ phong kiến thối nát. Cụ thể qua truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người phụ nữ được miêu tả cùng với sự tột cùng của nỗi khổ. Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, bạn đọc sẽ hiểu hơn về hiện thực xã hội phong kiến trước năm 1945 đã vùi dập kiếp người phụ nữ như thế nào.

Nỗi khổ đói cơm rách áo, nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do của người phụ nữ đã được lột tả một cách chân thật. Họ là những con người dường như bị lấy mất đi giá trị vốn có của bản thân và dần trở nên lầm lũi, cam chịu. Song, ngòi bút nhân đạo của nhà văn đã có dịp khám phá nên vẻ đẹp sâu trong con người họ. Để từ đó, những nạn nhân ấy được sống dậy một cuộc đời mới, được tự do thể hiện vẻ đẹp riêng của mình.

Mị và người vợ nhặt đều đại diện cho những người phụ nữ thấp cổ bé họng trong xã hội xưa. Mỗi người một hoàn cảnh sống, một bị kịch cuộc đời, nhưng ở họ đều ánh lên những phẩm chất tốt đẹp. So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về giá trị của mỗi tác phẩm, đồng thời cũng trân trọng hơn những người phụ nữ xưa.

Qua sự miêu tả của Tô Hoài, nhân vật Mị xuất hiện với tất cả vẻ đẹp của người con gái mới lớn. Mị là cô gái vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, nàng được nhiều chàng trai trong làng đem lòng yêu mến. Những tưởng cuộc sống sẽ êm ả trôi qua, cho đến khi cô gái này trở thành món hàng để gạt nợ cho gia đình. “Con dâu trừ nợ” – danh xưng này từ đó gán nàng vào những nỗi khổ tận cùng khi bước chân vào nhà thống lí Pá Tra gian tham và tàn bạo.

Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, cuộc đời Mị như đang sống giữa địa ngục trần gian. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, người con gái đang ở thì thanh xuân nhất lại phải chịu nỗi bi kịch nặng nề. Vì chữ hiếu, vì thương cha nàng phải hi sinh những ước mơ, hi sinh sự tự do và quyền được hưởng hạnh phúc của mình. Những giọt nước mắt của sự uất ức, sự cam chịu dường như không ngừng đeo bám lấy người con gái này.

“Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết, Mị chết thì bố Mị khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí”. Nỗi đau như đạt đến đỉnh điểm khi giờ đây nàng không có quyền tự kết thúc số phận của mình. Có lẽ sự uất ức đến thời điểm này không còn quan trọng nữa, Mị phải chịu đựng, Mị không có quyền được sống cho mình mà phải tồn tại thay cho số tiền nợ không bao giờ trả hết được kia.

Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh và buông xuôi cuộc đời mình. Nàng nhận thức được rằng chuỗi ngày đọa đày đang diễn ra mà bản thân thì không có quyền kháng cự. Người đọc ắt hẳn sẽ không ai có thể quên được hình ảnh ở đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi”

Với danh nghĩa con dâu lớn nhưng thật chất Mị là nô lễ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Nỗi đau khổ, sự cam chịu đã biến cô gái Mông xinh đẹp trở thành một con người lầm lũi, héo hắt. Tuổi xuân của mị cũng đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. Đến đây, Tô Hoài đã miêu tả thật rõ nét nỗi bất hạnh của người con gái này. Để từ đó, nhà văn đã phần nào phác họa nên nỗi đau số phận của người phụ nữ trong xã hội thối nát bấy giờ.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc phần nào sẽ thấy tội nghiệp thay cho số phận của người phụ nữ trong truyện ngắn Vợ nhặt. Bởi lẽ Mị khổ, nhưng Tô Hoài còn cho Mị một cái tên, một nhan sắc và một cuộc đời xuân xanh vừa nở rộ. Thế nhưng đối với nhân vật của mình, Kim Lân lại không màng đến nàng một cái tên để gọi, cũng không tuổi, không gia đình và không quê hương.

Người phụ nữ này cũng giống như bao kẻ đang đói ngoài kia với ngoại hình chỉ còn “quần áo tả tơi như tổ đỉa, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Chị là hiện thân của hàng triệu con người đói khổ đang ngấp nghé ở bờ vực của cái chết. Nhưng trò đùa của số phận đã một lần nữa cứu sống chị.

Người con gái này nhận lời gả vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc. Mọi sĩ diện giờ đây không còn quan trọng nữa khi cái đói đã hành hạ chị quá lâu. Chị cặm cụi ăn, ăn không kịp thở, ăn mà không nói tiếng nào, chính vì thế mà khiến cho tên kéo xe thuê là Tràng động lòng thương.

Một người đàn ông mới quen đôi lần và bốn bát bánh đúc đã mang lại cho chị một tấm chồng, một gia đình cùng một cuộc sống mới tại làng ngụ cư. Chẳng phải vì yêu thương gì cả mà để được no trước đã “mặc kệ! cứ theo anh ta để được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau”. Bao nhiêu sự danh giá của người phụ nữ đã bị xã hội phong kiến bấy giờ làm cho rẻ rúng, từ đó tạo nên một mối quan hệ gọi là “vợ theo không” như cuộc đời của nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bấy giờ. Dù ở đáy vực của nỗi đau, nhưng sâu bên trong họ là khát khao được sống, sống đúng nghĩa chứ không phải một cuộc đời mang nghĩa tồn tại như hiện thực bấy giờ. Ngòi bút hiện thực của nhà văn chỉ có quyền phác họa nỗi đau cuộc đời họ chứ không thể làm mờ đi sức sống tiềm tàng trong họ.

Nhân vật Mị là dù có u uất với cuộc đời như thế nào nhưng đến khi nghe tiếng sáo đêm tình mùa xuân thì nàng trong nàng vẫn có sự rạo rực. Đấy là biểu hiện của sức sống, của tuổi xuân của người phụ nữ dù bị vùi dập trong xã hội bấy giờ. Nhà văn khám phá nên vẻ đẹp ấy từ hiện thực đắng cay thông qua những góc khuất thầm kín nhất của người con gái. Qua đó, Tô Hoài một lần nữa ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, dù hoàn cảnh khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong họ là như nhau. Người vợ nhặt đã vứt đi cái tôi, sự sĩ diện vốn có của người phụ nữ để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nó không chỉ là mong muốn thoát khỏi cái đói mà là những hy vọng lớn lao về một gia đình, nơi chị có thể cùng những con người mới đắp xây nên một cuộc sống mới. Vì những phẩm chất tốt đẹp vốn có như thế mà kết thúc cả hai truyện ngắn, cả Mị và người vợ nhặt đều xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Không chỉ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, không chỉ khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt thì ta mới có thể thấy được nỗi đau cũng như vẻ đẹp của người phụ nữ. Thực tế, cuộc sống hôm nay ngày càng tươi đẹp hơn là nhờ không ít vào sự góp sức của người phụ nữ. Dù ở tầng lớp nào, vai trò nào và hoàn cảnh nào thì người phụ nữ vẫn ngời sáng vẻ đẹp vốn có.

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” (mẫu 3)

Kim Lân và Tô Hoài đều là những cây bút nổi tiếng trong nền văn xuôi hiện đại. Tô Hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm kỷ lục trong nền văn học Việt Nam. Ông viết về nhiều chủ đề, với số lượng tác phẩm phong phú, đa dạng, để lại cho nền văn học Việt Nam những tác phẩm có giá trị lớn. Viết về chủ đề người nông dân tiêu biểu nhất của Tô Hoài phải kể đến tác phẩm Vợ chồng A Phủ, truyện ngắn xoay quanh cuộc đời nhân vật Mị và A Phủ. Riêng về Kim Lân, ông được mệnh danh là một trong số những bút viết về người nông dân Việt Nam sau cách mạng xuất sắc nhất, mà tiêu biểu nhất là hai tác phẩm Làng và Vợ nhặt, trong đó Vợ nhặt là tác phẩm ấn tượng với số phận và vẻ đẹp của người nông dân thông qua một cốt truyện độc đáo và kỳ lạ hơn cả. Tuy đều viết về người nông dân, nhưng hai tác giả có lối viết, cách xây dựng cốt truyện với điểm nhấn khác nhau, mà cốt chung nhất vẫn là vẻ đẹp và số phận của người nông dân với nhiều điểm tương đồng lẫn những nét rất riêng của hai ngòi bút, làm nên cái hay của hai tác phẩm nổi tiếng.

Trước hết nói về số phận của các nhân vật trong hai câu chuyện. Điểm chung nhất là họ đều là những người nông dân cùng khổ. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ hai nhân vật tiêu biểu cho số phận cùng khổ ấy là Mị và A Phủ, hai con người không quyền không thế phải chịu vô số bất công trong cuộc đời, dưới sự chèn ép của chế độ độc tài thần quyền và cường quyền phong kiến tại vùng đất Tây Bắc xa xôi. Mị là cô con dâu gạt nợ của nhà thống lí Pá Tra, cái nợ mà bố Mị nợ từ thuở xưa này đã đổ hết lên đều Mị, Mị thương cha nên chẳng thể làm khác được. Cuộc sống của Mị tại nhà chồng những tưởng sẽ giàu có, sung sướng lắm, nhưng không chao ôi cái kiếp đàn bà làm dâu, lại còn là con dâu gạt nợ thì có khác chi con ở là mấy. Mị làm việc quần quật suốt ngày đêm, suốt năm tháng, Mị làm không hết việc, đôi lúc khổ quá "Mị thổn thức nghĩ mình còn không bằng con trâu con ngựa", "Con ngựa, con trâu làm có lúc, đêm nó con được đứng gãi chân, nhai cỏ". Cuộc đời của Mị bị tước hết tự do, Mị cứ "lùi lũi như con rùa trong xó cửa", với hình ảnh căn phòng tối tựa nhà tù với ô cửa bé bằng bàn tay. Tết đến Mị muốn đi chơi, Mị nhớ về thời còn chưa làm dâu nhà này, nhưng A Sử không cho Mị đi chơi, thậm chí còn trói Mị ở cột nhà rồi bỏ mặc ở đó. Cuộc đời đau khổ đã thôi thúc Mị nhiều lần tìm đến cái chết bằng nắm lá ngón, nhưng rồi Mị cũng không chết được, có lẽ đó là số phận của Mị, sẽ theo Mị cho đến khi Mị chết già.

Còn A Phủ, cũng có cuộc đời bất hạnh chẳng kém gì Mị, sớm mồ côi cha mẹ, rồi bị người ta đem đi đổi thóc, lớn lên lại lưu lạc suốt ở Hồng Ngài để kiếm miếng cơm manh áo, tuy tuổi trẻ, sung sức nhưng A Phủ không thể lấy được vợ, vì quá nghèo. Thế rồi chỉ vì bênh vực lẽ phải, công bằng mà đánh nhau với đám con quan là A Sử để bị bắt vạ, bị đánh dã man. A Phủ không quyền không thế, dĩ nhiên chẳng thể chống lại cái cường quyền khốn kiếp của nhà thống lý Pá Tra, anh buộc phải trở thành kẻ ở, làm lụng quanh năm suốt tháng, không ngơi nghỉ để bù lại số tiền phạt vạ, làm mãi làm mãi nhưng A Phủ vẫn chẳng thể trả hết nợ nần, trong một lần sơ sẩy mà anh đánh mất một con bò, thế rồi bị trói gô cho đến chết ở trước sân nhà A Sử. Cái chế độ tàn ác ấy, chẳng coi mạng sống của những con người là Mị và A Phủ là gì, chẳng hơn cọng cỏ, cọng rơm, thiết nghĩ nếu A Phủ không đánh vỡ đầu A Sử, liệu Mị có được cởi trói không, hay là bị trói đến chết như một người phụ nữ khác trong chính ngôi nhà độc ác này? Tương tự nếu Mị không liều mình cởi trói cho A Phủ thì sẽ như thế nào? Đó là những câu hỏi khiến người ta phải xót xa, phải cảm thán khôn nguôi.

Tác phẩm Vợ nhặt lại khai thác số phận người nông dân ở một hoàn cảnh khác, đó là vào nạn đói khủng khiếp năm 1945, đói kém khiến con người ta khốn khổ, giá trị con người còn chẳng bằng cọng rơm, cọng rác, rẻ mạt vô cùng. Cái đói hành hạ, hoành hành, ngày nào cũng có người chết, chết nhiều đến mức những người còn sống cũng chẳng còn sức mà chôn, xác chất đầy đường, thậm chí đói quá, người ta đã làm một cái việc man rợ là ăn thịt người chết để được sống,... Và trong Vợ nhặt số phận của các nhân vật được khai thác rõ ràng hơn, phản ánh cái nạn đói ghê gớm khiến hơn 2 triệu đồng bào ta phải chết. Trong truyện có cả thảy 3 nhân vật chính, mỗi người đều có một số phận khác nhau, nhân vật Tràng là người xấu xí, nghèo, dân ngụ cư, sống với 1 người mẹ già, làm nghề đẩy xe kiếm sống qua ngày. Thị là người phụ nữ bơ vơ, nạn đói đã cướp đi của thị tất cả tên tuổi, gia đình người thân, vì miếng ăn mà sưng sỉa, cong cớn, rồi cũng vì miếng ăn mà theo không Tràng về làm vợ, được nhặt như cọng rơm cọng rác ở ngoài đường. Còn bà cụ Tứ là người mẹ hết mực thương con, gia cảnh nghèo khó, ấy thế mà con trai lại lấy vợ, bà quẩn quanh trong lo lắng vì con lấy vợ giữa cảnh nghèo đói. Cái đói cái nghèo nó đã hành hạ thể xác, lại còn hành hạ tinh thần con người đến khốn khổ vô cùng.

Tuy số phận của mỗi nhân vật đều có những đớn đau và bất hạnh nhưng sâu thẳm trong tâm hồn của họ vẫn ánh lên những ánh sáng đẹp đẽ. Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ, Tô Hoài tập trung hướng tới miêu tả vẻ đẹp tâm hồn của con người thông qua những khát vọng sống, khát vọng tự do mãnh liệt, bất chấp những khổ đau liên tục vùi dập cuộc đời hai nhân vật chính, cùng với đó là vẻ đẹp chân chính trong tâm hồn với ý thức giác ngộ cách mạng, tự tìm đường cứu thoát bản thân khỏi những khốn khổ, bất hạnh đang bủa vây, tưởng chừng không có lối thoát. Mị vốn là một cô gái xinh đẹp, có tài thổi sáo, được nhiều người con trai theo đuổi và Mị cũng có một tình yêu đẹp, thế nhưng vì món nợ truyền kiếp của cha Mị phải cắn răng về làm dâu cho nhà thống lý Pá Tra, cuộc sống khổ cực khiến Mị nhiều lần muốn chết, nhưng vì lòng hiếu thảo Mị vẫn phải cắn răng chịu đựng, bởi Mị chết rồi ai sẽ trả nợ cho cha.

Những tưởng con người Mị, tâm hồn Mị đã chết hẳn với sự nhẫn nhục, chịu đựng khôn cùng suốt quãng thời gian ở nhà thống lý Pá Tra, thế nhưng không, sâu thẳm trong tâm hồn cô vẫn tiềm tàng một sức sống mạnh mẽ. Mùa xuân đến, Mị muốn uống rượu, "Mị lén lấy hũ rượu, uống ừng ực từng bát", Mị mơ màng nghĩ về những hồi ức tốt đẹp, tiếng sáo gọi bạn tình, hơi men đã đánh thức tâm hồn vốn tưởng đã tê liệt, vẫn lầm lũi, không còn thiết tha tới việc phản kháng nữa. Thì nay một lần nữa ý thức về thân phận về những đớn đau, bất hạnh của cuộc đời, Mị lại muốn chết lần nữa, Mị ứa nước mắt. Nhưng rồi chợt Mị thấy phơi phới trong tâm hồn, Mị vẫn còn trẻ lắm, Mị muốn đi chơi, bao người có chồng rồi vẫn đi chơi tết đấy thôi, Mị vào buồng "Mị quấn lại tóc, Mị với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách". Mị dường như đã sống lại, Mị ý thức được vẻ đẹp của mình, Mị bắt đầu có ý thức phản kháng. A Sử không cho Mị đi chơi, hắn trói gô Mị vào cột, Mị bất động, nhưng dường như sợi dây trói ấy chẳng buộc được tâm hồn Mị, cô vẫn đang phiêu lãng với tiếng sáo, vẫn nghĩ về những cuộc chơi, những đám chơi.

Mị tỉnh lại từ men rượu tiếp tục ý thức được sâu sắc thân phận của mình "Mị thổn thức nghĩ mình không bằng con ngựa". Đặc biệt Mị là một con người giàu tình thương, có lòng trắc ẩn, giọt nước mắt của A Phủ chính là giọt nước tràn ly, giọt nước mắt ấy thôi thúc Mị cứu A Phủ, Mị không thể để một con người vô tội chết trong bàn tay độc ác của những con người mất hết nhân tính ấy. Mị không còn sợ hãi, Mị vùng dậy, Mị phản kháng, Mị cắt dây trói cho A Phủ, rồi bỏ chạy theo anh. Mị muốn được sống, Mị khao khát tự do, Mị không thể để cuộc đời chôn vùi trong cái nơi ma quỷ này được, Mị xứng đáng có một cuộc sống tốt hơn. Mị dũng cảm giải thoát cho A Phủ cũng chính là tự giải thoát cho cuộc đời mình, tinh thần ham sống trong người phụ nữ ấy bùng cháy một cách mãnh liệt, là điều kiện tất yếu hướng Mị giác ngộ và bước vào vòng tay của Cách mạng để giải phóng đất nước, giải phóng nhân dân.

Về nhân vật A Phủ, anh là người có sức mạnh, khỏe khoắn lại chăm chỉ làm lụng, tính tình chất phác thật thà, dám đứng lên chống lại cường quyền, để bảo vệ công bằng lẽ phải. Cũng như Mị, A Phủ có khao khát tự do, khao khát sống mãnh liệt, điều ấy được chứng minh qua chi tiết "A Phủ bỗng khuỵu xuống, không bước nổi. Những trước cái chết có thể đến nơi ngay, A Phủ lại quật sức vùng lên và chạy". A Phủ còn là người có tình nghĩa, có tấm lòng cảm thông, không chạy một mình mà còn mang theo cả Mị, người phụ nữ khốn khổ đã cứu sống mình. Đồng thời ấn tượng vẻ đẹp của nhân vật này còn ở tinh thần giác ngộ cách mạng sâu sắc, hăng hái tham gia chiến đấu trở thành người chiến sĩ cách mạng tài giỏi, cùng với vợ và đồng đội ra sức bảo vệ quê hương, tìm ra ý nghĩa cho cuộc đời, chiến đấu vì đất nước vì nhân dân.

Trong tác phẩm Vợ nhặt, vẻ đẹp của các nhân vật hiện ra từ sự ấm áp của tình cảm gia đình, tình thương yêu đùm bọc lẫn nhau trước hoàn cảnh nghèo đói, khó khăn. Trước sự thay đổi hoàn cảnh, mỗi một nhân vật đều ý thức được vai trò, trách nhiệm của mình để vun đắp cho mái ấm. Tràng vốn là chàng trai có tính tình trẻ con, vô tư, phóng khoáng, việc đại sự trong cuộc đời là lấy vợ cũng chẳng suy nghĩ nhiều, quyết định một cách rất nhanh chóng. Thế nhưng, sâu thẳm trong tâm hồn Tràng là một người có lòng thương cảm sâu sắc, kể từ khi nhận thị làm vợ, Tràng đã thay đổi, biết cách quan tâm người khác. Đãi thị một bữa no nê, lại mua cho thị cái thúng con để thị đỡ mặc cảm về thân phận người vợ theo không, trên đường về Tràng bỗng để tâm đến cảm xúc của thị hơn, điều mà trước đây chẳng có bao giờ.

Sau đêm tân hôn, Tràng thấy nhà cửa thay đổi, thấy thị trở nên dịu dàng, Tràng thấy cảm động, có điều gì đó thôi thúc anh phải sống có trách nhiệm với gia đình hơn, lại nghĩ đến tương lai cùng vợ sinh con đẻ cái, có một gia đình hạnh phúc điền viên. Đặc biệt là ý thức giác ngộ cách mạng đã nhen nhóm trong tâm hồn người trai xóm ngụ cư. Với nhân vật thị, sau khi theo về làm vợ Tràng, thị đã bỏ đi cái vẻ ngoài cong cớn sưng sỉa, hết lòng muốn làm một người vợ hiền thảo, muốn vun đắp một gia đình hạnh phúc, thứ mà trước đây thị đã đánh mất. Còn với bà cụ Tứ, vốn ban đầu còn có nhiều ái ngại về cô con dâu mà con mình dẫn về, nhưng sau đó bà nhanh chóng nhận ra tình hình, bằng tấm lòng thương của một người phụ nữ trải đời bà đã chấp nhận, yêu thương và thông cảm cho thị. Bởi trên tất cả bà là một người mẹ rất mực thương con, tất cả những nỗi lo của bà đều xuất phát từ lẽ ấy. Ngoài ra vẻ đẹp của người lao động trong tác phẩm còn thể hiện niềm tin về một tương lai tươi sáng trong cảnh khốn cùng của nạn đói năm 1945, tựa như một mầm cây non giữa mảnh đất khô cằn lạnh lẽo. Biểu hiện ở niềm vui của người dân xóm ngụ khi thấy Tràng dẫn thị về, là hình ảnh là cờ đỏ của Việt Minh, báo trước một tương lai Cách mạng về, đất nước được giải phóng, nhân dân được tự do.

Điểm chung của hai tác phẩm là đều lấy bối cảnh những năm 1945-1954, khi cuộc kháng chiến chống Pháp lần thứ hai của nhân dân dân diễn ra quyết liệt. Phản ánh số phận bi thảm, bất hạnh đồng thời làm nổi bật vẻ đẹp tiềm ẩn trong tâm hồn của con người lao động trong nghịch cảnh. Lên án chế độ phong kiến, sự xâm lược tàn ác của thực dân Pháp đã đẩy nhân dân ta vào hoàn cảnh đau thương, bị chèn ép, bị đối xử bất công. Qua đó cũng nổi bật lên giá trị nhân đạo xuyên suốt tác phẩm đó là sự trân trọng những vẻ đẹp trong tâm hồn của con người, niềm tin vào một tương lai tươi sáng, niềm tin vào cách mạng, đề cao những khát vọng chính đáng về hạnh phúc, về tự do, về công bằng của người dân lao động. Điểm sáng về nghệ thuật của cả hai tác phẩm đó là khả năng miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật một cách xuất sắc, tinh tế và hấp dẫn độc giả, khiến người đọc thấu hiểu kỹ càng số phận và vẻ đẹp của từng nhân vật. Tuy có nhiều điểm chung, nhưng mỗi tác phẩm cũng có những nét riêng độc đáo, làm nên vẻ đẹp khác biệt trong mỗi tác phẩm. Nếu như Vợ chồng A Phủ tập trung vào khát vọng được sống, khát vọng tự do, sức sống mãnh liệt của con người, thì Vợ nhặt lại tập trung vào phản ánh khát vọng hạnh phúc, ước mơ về cuộc sống gia đình hạnh phúc, niềm hy vọng vào cuộc sống no đủ.

Cả Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt đều là những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với những giá trị nhân đạo, nhân văn sâu sắc, phản ánh số phận và vẻ đẹp của con người Việt Nam đặc biệt là tầng lớp nhân dân lao động trong những năm tháng cũ. Đồng thời cũng thể hiện được tài năng và phong cách văn học của hai cây bút tài năng trong nền văn học hiện đại Việt Nam là Tô Hoài và Kim Lân.

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” (mẫu 4)

Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt". Tác phẩm đã thể hiện thành công số phận và vẻ đẹp của người lao động.

Nhân vật trung tâm trong tác phẩm là Mị, cô gái trẻ trung, xinh đẹp nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh. Vẻ đẹp của Mị được minh chứng qua việc “trai đến đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị” Mị mang nhan sắc rực rỡ của người con gái tuổi mới lớn, độ tuổi đẹp đẽ, căng tràn sức sống nhất. Không chỉ xinh đẹp, mà Mị còn rất tài năng, tài thổi sáo của Mị nức tiếng gần xa, biết bao người mê đắm, ngày đêm thổi sáo đi theo Mị. Dù gia cảnh nghèo nàn, vẫn luôn nợ tiền nhà thống lí Pá Tra, nhưng khi biết nhà thống lí muốn bắt mình về làm con dâu để gạt nợ, cô đã lập tức cầu xin cha cho mình được đi làm để trả nợ dần: “Con sẽ làm nương ngô giả nợ thay cho bố”, vì cô tự tin vào khả năng, sức khỏe của mình: “Con nay đã biết cuốc nương làm ngô” và hơn hết cô gái trẻ ấy con mang trong mình cái khát vọng được sống cuộc đời tự do: “Bố đừng bán con cho nhà giàu”. Dù Mị hội tụ đầy đủ những phẩm chất để được hưởng một cuộc sống tự do, hạnh phúc nhưng số phận lại vô cùng bất hạnh, bị các thế lực, thần quyền và cường quyền chà đạp, áp bức.

Vì món nợ truyền kiếp, cuối cùng Mị bị A Sử con trai thống lí Pá Tra bắt về làm con dâu gạt nợ. Cũng chính từ giờ phút đó cuộc sống bi kịch đổ ập xuống đời cô. Ban đầu khi mới về nhà thống lí, trong Mị vẫn mong manh xuất hiện ý thức phản kháng: đêm nào cô cũng khóc, và đến cuối cùng cô đã đi đến quyết định ăn lá ngón tự tử. Người ta chỉ muốn chết khi ý thức được nỗi khổ của mình, khi sự chịu đựng đã đạt đến giới hạn. Nhưng tình yêu thương gia đình đã khiến Mị từ bỏ ý định đó, vì nếu cô chết đi, món nợ vẫn còn, cha cô lại phải gánh chịu. Mị chấp nhận quay trở lại với cuộc sống lầm lũi, bất hạnh.

Khi người ta sống trong đau đớn và khổ cực trong một thời gian quá dài, tự nhiên sẽ mất đi cảm giác về cái khổ, cái bất công. Khi Mị làm dâu đã quen, cô quên đi nỗi đau khổ về thể xác. Thời gian của Mị không tính bằng thời gian đơn thuần mà bằng lượng công việc cô làm, việc này nối tiếp việc kia, dường như không có lúc nào người con gái ấy được nghỉ ngơi. Từ một người con gái trẻ trung, đầy sức sống, Mị biến thành công cụ lao động, mất đi ý niềm về thời gian, về tuổi trẻ. Không chỉ vậy Mị còn phải gánh chịu nỗi đau khổ về tinh thần: “Ai có việc ở xa về, có việc vào nhà thống Lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa”, “lúc nào cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Và chính Mị cũng tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa trong nhà này. Bằng biện pháp so sánh, đã cho thấy nỗi khổ bị đẩy lên đến tận cùng của Mị. Đặc biệt là hình ảnh ẩn dụ về căn buồng mà Mị ở : “kín mít, chỉ có một cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, lúc nào nhìn ra cũng chỉ thấy mờ mờ trăng trắng không biết là sương hay là nắng”. Đây thực chất không phải là nơi để con người sinh sống mà nó như một địa ngục trần gian, dùng để giam hãm cuộc đời Mị. Và nó cũng chẳng khác gì một nấm mồ chôn vùi thanh xuân, tuổi trẻ và hạnh phúc của một người con gái lương thiện, giàu sức sống. Đoạn văn cho thấy hiện thực xã hội thối nát đương thời, đã chà đạp lên quyền sống và hạnh phúc của con người. Đồng thời cũng là lời nói cảm thương cho những số phận bất hạnh dưới ách thống trị của bọn phong kiến miền núi.

Nhưng ẩn sâu trong tâm hồn tưởng chừng như đã héo úa, không còn niềm tin ấy nữa lại là sức sống tiềm tàng vô cùng mãnh liệt. Sức sống ấy được thể hiện rõ nhất trong đêm tình mùa xuân. Không phải ngẫu nhiên mà sức sống đó được khơi nguồn, trước hết do Mị nhận sự tác động từ không khí mùa xuân ấm áp, đầy tình tứ, những đồi cỏ gianh vàng ửng, những chiếc váy phơi trên mỏm đá xòe rộng ra như những cánh bướm sặc sỡ. Cùng với đó là âm thanh náo nhiệt, rộn rã của đám trẻ con và đặc biệt là sự xuất hiện của tiếng sáo. Tiếng sáo xuất hiện từ xa đến gần, ban đầu là ở bên ngoài, sau đó gần như hòa làm một trong Mị: “Rập rờn trong đầu Mị”. Trong hồn Mị sống lại những khát khao được yêu đương, khát vọng được sống hạnh phúc của ngày xưa, từ cõi vô cảm, quên lãng, Mị trở về cõi nhớ. Đồng thời cũng không thể thiếu đi chất xúc tác của hơi men, Mị uống cả hũ rượu, uống ừng ực từng bát, Mị say rồi ngồi lịm đi, mơ màng nhớ về quá khứ tự do.

Những chất xúc tác đó đã tạo nên hành trình vượt thoát, để Mị tìm lại chính bản thân mình. Trong lòng Mị thấy phơi phới trở lại, cái cảm giác mà tưởng rằng bấy lâu nay đã mất. Mị ý thức được rằng: “Mị trẻ lắm. Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi”. Nhưng sự thật phũ phàng, Mị muốn đi chơi nhưng lại không được đi, nên Mị quay về buồng. Trong hơi men của rượu lại một lần nữa sức sống trỗi dậy. Mị lấy ống mỡ, sắn một miếng thắp lên cho sáng, đây không chỉ là hành động thắp sáng vật lí đơn thuần mà nó còn biểu tượng cho khát vọng, niềm tin được giải thoát, thắp sáng chính cuộc đời Mị. Cô quấn lại tóc, lấy cái váy chuẩn bị đi chơi thì bị A Sử chặn đứng lại bằng hành động vô cùng thô bạo. Mị bị trói đứng ở cột, nhưng A Sử chỉ trói được thân xác Mị, chứ không thể trói được khát vọng, sức sống trong Mị. Trong tâm tưởng cô vẫn thả hồn theo tiếng sáo và những cuộc chơi. Sáng hôm sau Mị tỉnh lại và tiếp diễn chuỗi ngày sống mòn, sống mỏi.

Và để cho cuộc vượt thoát của Mị được thành công, Tô Hoài đã tạo ra tình huống gặp gỡ bất ngờ giữa Mị và A Phủ. A Phủ là người ở của thống lí, do làm mất bò nên bị trói đứng. Sau đêm tình mùa xuân Mị rơi vào trạng thái tê liệt, nhưng gặp A Phủ đã thức dậy trong cô khát vọng sống. Giọt nước mắt “mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” đã có tác động mạnh mẽ đế Mị, khiến Mị ý thức được nỗi đau khổ của mình, tự thương thân và thương người. Điều đó đã dẫn đến hành động cởi dây trói và bỏ đi theo A Phủ, hướng đến cuộc đời tự do, hạnh phúc phía trước.

Xây dựng nhân vật Mị, Tô Hoài đã phơi bày một cách chân thực số phận cực khổ của người dân lao động Tây Bắc dưới ách áp bức của giai cấp thống trị miền núi. Đồng thời thể hiện niềm cảm thương với số phận khổ đau của nhân vật Mị. Và phát hiện, trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp của tâm hồn của Mị với sức sống tiềm tang, mãnh liệt.

Ngoài nhân vật Mị, ta cũng không thể không nhắc đến nhân vật A Phủ. A Phủ là người có số phận bất hạnh, cha mẹ mất, cậu trở thành món hàng trao đổi, mất tự do ngay từ khi còn bé. Khi lớn lên do không có nhà cửa, tiền bạc, ruộng nên không thể lập gia đình. Nhưng dù vậy A Phủ lại mang trong mình những phẩm chất hết sức đẹp đẽ, A Phủ mang trong lối sống phóng khoáng, mạnh mẽ, tự lực kiếm sống, vươn lên hoàn cảnh khắc nghiệt để sống là một con người dũng cảm, tự tin, yêu đời. Nhưng số phận bất hạnh, A Phủ bị biến thành người ở gạt nợ một cách hết sức phi lí. Cậu bị đày đọa về thể xác, bị lợi dụng sức khỏe triệt để, sức khỏe bị rẻ rúng khôn cùng. Nhưng trong con người ấy vẫn luôn tồn tại khao khát tự do, hạnh phúc mãnh liệt. Ngay khi được Mị giải cứu, A Phủ và Mị đã cùng nhau bỏ trốn nơi địa ngục đó để tìm đến một cuộc sống đẹp đẽ, tự do hơn.

Nét nghệ thuật đắc sắc nhất trong tác phẩm là nghệ thuật xây dựng nhân vật. Mị được xây dựng theo kiểu nhân vật tâm trạng, còn A Phủ là kiểu nhân vật hành động. Nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, cũng như phong tục tập quán tài tình. Ngôn từ giản dị, linh hoạt, giàu cảm xúc, mang đâm chất dân tộc. Các yếu tố nghệ thuật đó đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.

Tác phẩm "Vợ nhặtt" có một nhan đề thật lạ nhưng cũng hết sức hấp dẫn, gây sự chú ý cho bạn đọc. Theo Kim Lân, “nhặt” có nghĩa là nhặt nhạnh, lựa chọn một cách ngẫu nhiên. Vợ nhặt là vợ theo không, không cưới xin, lễ nghi đàng hoàng, tử tế. Thông thường, người ta chỉ nhặt cọng rơm, cọng rác chứ không ai nhặt được vợ. Trong hoàn cảnh này, thân phận con người rẻ rúng hơn bao giờ hết. Kim Lân đã xây dựng một tình huống truyện bất ngờ nhưng cũng đầy nghịch cảnh, bi hài. Giữa nạn đói, giữa lúc thân mình còn chưa biết có lo nổi hay không thì anh cu Tràng lại nhặt được vợ. Chỉ bằng vài câu nói đùa, bốn bát bánh đúc mà một anh chàng xấu trai, nghèo khổ lấy được vợ. Và cũng có thể do hoàn cảnh đói khát đến cùng quẫn mà thị chịu theo không Tràng. Đây quả là một sự éo le khi đèo bòng thêm một người giữa nạn đói. Cô dâu đã xuất hiện cùng Tràng vào buổi chiều “xác xơ”, “heo hút” trước ánh mắt ngạc nhiên của biết bao nhiêu người dân xóm ngụ cư. Thậm chí có người còn lo lắng thay cho anh: “Giời đất này còn rước cái của nợ đời về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được cái thì này không”?

Nổi bật giữa ranh giới của sự sống và cái chết là hình ảnh anh cu Tràng, bà cụ Tứ và người vợ theo không Tràng. Họ đã cưu mang, đùm bọc nhau cùng vượt qua sự khắc nghiệt của hoàn cảnh. Nhân vật anh cu Tràng xuất hiện giữa một không gian u ám, đầy tử khí vì “người chết như ngả rạ”, “không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người”. Anh được miêu tả là một người ngộc nghệch nên thường bị đám trẻ con xóm ngụ cư trêu ghẹo. Gia cảnh của Tràng có nhiều sự bất hạnh bởi anh là dân xóm ngụ cư, sống cùng với người mẹ già. Vì cái nghèo đeo đuổi nên dù đã nhiều tuổi nhưng anh chưa lấy được vợ. Oái oăm thay, anh cu Tràng lại có vợ ngay trong nạn đói. Đây là một niềm vui lớn đối với anh khiến mặt anh “có một vẻ gì phớn phở khác thường” và “tủm tỉm cười nụ một mình”, “hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Lấy vợ là việc hệ trọng của đời người, cần có sự chuẩn bị từ trước và hai người đến với nhau bằng tình yêu của hai trái tim đồng điệu. Nhưng anh cu Tràng và người vợ nhặt không có cưới xin đường hoàng, lễ nghi tử tế. Họ gặp nhau rất tình cờ và đến với nhau cũng không phải vì tình yêu đôi lứa. Họ gặp nhau và gắn bó với nhau bởi phận nghèo.

Sự xuất hiện của người vợ nhặt trong cuộc đời anh cu Tràng đã khiến tính nết của anh thay đổi. Từ một con người ngộc nghệch, anh trở thành một người có trách nhiệm, biết chăm lo cho gia đình. Tràng rất ga lăng trong việc sửa soạn cho người vợ nhặt trước khi đưa nàng về làm dâu. Anh đưa thị vào chợ tỉnh rồi “bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò về”. Không những thế, anh còn mua hai hào dầu thắp. Tràng đã chuẩn bị cả về vật chất và tinh thần cho cuộc sống mới khá đầy đủ. Khi những ánh mắt của người dân xóm ngụ cư đổ dồn về phía anh và người vợ nhặt thì anh “lấy vậy làm thích ý lắm”. Anh đã không kìm nén được niềm hạnh phúc khi có vợ nên đã bộc lộ nó qua “cái mặt cứ vênh lên tự đắc”.

Mấy ai có đủ dũng cảm để đón nhận hạnh phúc của mình ngay giữa nạn đói giống anh cu Tràng? Anh đã giới thiệu với bà cụ Tứ một cách đầy đủ về cái duyên, cái số của mình với người vợ nhặt: “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải kiếp với nhau…Chẳng qua nó cũng là cái số cả”. Sự kiện thị theo không Tràng về khiến anh “ngỡ ngàng như không phải”. Nhưng chính sự kiện hệ trọng ấy lại khiến lòng anh tràn ngập một nguồn vui sướng, phấn chấn. Anh cu Tràng thấy mình “nên người” và “có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”. Hạnh phúc đến với anh hết sức éo le, bất ngờ nhưng cũng vô cùng thiêng liêng. Tràng đã vượt lên trên hiện thực đói khát để đón lấy thứ hạnh phúc bình dị, trần thế. Anh đã trở nên chín chắn, trưởng thành hơn từ trong suy nghĩ đến hành động để có thể chăm sóc tốt cho gia đình của mình.

Việc Tràng có vợ không chỉ gây bất ngờ cho những người dân xóm ngụ cư mà còn gây bất ngờ cho cả bà cụ Tứ - mẹ của anh. Bà rất ngạc nhiên khi có người đàn bà “đứng ngay đầu giường thằng con mình” và “chào mình bằng u”. Đó cũng là tâm lí chung của các bà mẹ khi rơi vào hoàn cảnh như vậy. Sau khi nghe Tràng giới thiệu người vợ nhặt thì “lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán xót thương cho số kiếp đứa con mình” rồi “trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Bà lo lắng không biết “chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không”. Bà hiểu và thương cảm cho thân phận của nàng dâu mới, cũng nhờ vậy mà con bà mới có được vợ. Chỉ cần hai vợ chồng hòa thuận, bảo ban nhau làm ăn bà cũng mừng lòng. Bà xót thương cho tình cảnh của người vợ nhặt. Đó là lòng cưu mang, là sự đùm bọc lẫn nhau của những người cùng cảnh ngộ. Bà cụ Tứ thực sự là một người mẹ có tấm lòng bao dung và vị tha cao cả.

Bà có niềm tin vào tương lai và có nghị lực sống mãnh liệt. Điều ấy được thể hiện trong những suy nghĩ, lời nói, hành động của bà. Bà đã an ủi các con rằng: “Rồi ra may mà ông giời cho khá”, “ai giàu ba họ, ai khó ba đời” để động viên các con cố gắng làm ăn, lo cho tương lai. Sáng hôm sau, bà cảm thấy “nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường, cái mặt bủng beo ú ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Trong bữa cơm sáng, bà nói toàn chuyện vui, chuyện sung sướng sau này. Bà nói với anh cu Tràng khi nào có tiền thì mua lấy đôi gà và khen món chè khoán ngon. Thực chất đây là món cháo cám đắng chát, bà khen ngon như để an ủi chính bản thân mình cũng như để an ủi các con và giấu đi

Tô Hoài và Kim Lân đều là những nhà văn nổi tiếng, tài giỏi của nền văn học hiện đại Việt Nam.Các ông đã để lại cho người đọc và nền văn học nước nhà một kho tàng đồ sộ các tác phẩm quý giá. Trong đó nổi bật nhất vẫn là "Vợ chồng A Phủ" và "Vợ nhặt". Tác phẩm đã thể hiện thành công số phận và vẻ đẹp của người lao động.

So sánh giữa nhân vật Thị trong truyện ngắn “ Vợ nhặt” và nhân vật Mị trong truyện ngắn “ Vợ chồng A Phủ” (mẫu 5)

Nếu như Tô Hoài đã mang tình thương của mình gửi cả vào núi rừng Tây Bắc thì Kim Lân lại nuôi nấng tình yêu của mình tại vùng quê đồng bằng Bắc bộ. Kim Lân là nhà văn chuyên viết truyện ngắn, những trang văn đặc sắc của ông thường nói về các phong tục và đời sống của nông thôn nơi đồng bằng.

Nhà văn hiểu sâu sắc cảnh ngộ và tâm lí của những con người cùng khổ này nên những tác phẩm của ông bao giờ cũng giàu tính chân thật đến xúc động. Bởi ông không chỉ miêu tả cái cảnh đói cơm rách áo mà còn ca ngợi vẻ đẹp nội tâm của họ.

Truyện ngắn Vợ nhặt là truyện ngắn xuất sắc của Kim Lân. Tác phẩm được nhà văn tái hiện một cách chân thật khi ông chứng kiến nạn đói năm 1945 của nước ta. Những tưởng hiện thực sẽ cướp đi mạng sống của bao nhiêu con người, nhưng bằng ngòi bút nhân đạo của mình, nhà văn đã cứu được mạng sống của họ giữa ranh giới của cái chết.

Không những vậy, Kim Lân còn khám phá nên vẻ đẹp tâm hồn và sức sống tiềm tàng của họ, đặc biệt là của người phụ nữ Việt Nam trong thời thời đại bấy giờ thông qua nhân vật người vợ nhặt.

Từ xưa đến nay, hình tượng người phụ nữ luôn là nguồn cảm hứng bất hủ của văn chương. Họ không chỉ góp sắc cho đời mà còn làm đẹp cho kho tàng văn học Việt Nam. Vì thế mà nhà thơ Huy Cận đã từng viết:

“Chị em tôi tỏa nắng vàng lịch sử

Nắng cho đời nên cũng nắng cho thơ”

Song, người phụ nữ cũng chính là nạn nhân thống khổ nhất của chế độ phong kiến thối nát. Cụ thể qua truyện ngắn Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân và truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài, người phụ nữ được miêu tả cùng với sự tột cùng của nỗi khổ. Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, bạn đọc sẽ hiểu hơn về hiện thực xã hội phong kiến trước năm 1945 đã vùi dập kiếp người phụ nữ như thế nào.

Nỗi khổ đói cơm rách áo, nỗi đau bị tước đoạt quyền tự do của người phụ nữ đã được lột tả một cách chân thật. Họ là những con người dường như bị lấy mất đi giá trị vốn có của bản thân và dần trở nên lầm lũi, cam chịu. Song, ngòi bút nhân đạo của nhà văn đã có dịp khám phá nên vẻ đẹp sâu trong con người họ. Để từ đó, những nạn nhân ấy được sống dậy một cuộc đời mới, được tự do thể hiện vẻ đẹp riêng của mình.

Mị và người vợ nhặt đều đại diện cho những người phụ nữ thấp cổ bé họng trong xã hội xưa. Mỗi người một hoàn cảnh sống, một bị kịch cuộc đời, nhưng ở họ đều ánh lên những phẩm chất tốt đẹp. So sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt sẽ giúp chúng ta hiểu hơn về giá trị của mỗi tác phẩm, đồng thời cũng trân trọng hơn những người phụ nữ xưa.

Qua sự miêu tả của Tô Hoài, nhân vật Mị xuất hiện với tất cả vẻ đẹp của người con gái mới lớn. Mị là cô gái vừa đẹp người lại vừa đẹp nết, nàng được nhiều chàng trai trong làng đem lòng yêu mến. Những tưởng cuộc sống sẽ êm ả trôi qua, cho đến khi cô gái này trở thành món hàng để gạt nợ cho gia đình. “Con dâu trừ nợ” – danh xưng này từ đó gán nàng vào những nỗi khổ tận cùng khi bước chân vào nhà thống lí Pá Tra gian tham và tàn bạo.

Từ ngày bị bắt về làm vợ A Sử, cuộc đời Mị như đang sống giữa địa ngục trần gian. “Có đến mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, người con gái đang ở thì thanh xuân nhất lại phải chịu nỗi bi kịch nặng nề. Vì chữ hiếu, vì thương cha nàng phải hi sinh những ước mơ, hi sinh sự tự do và quyền được hưởng hạnh phúc của mình. Những giọt nước mắt của sự uất ức, sự cam chịu dường như không ngừng đeo bám lấy người con gái này.

“Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném nắm lá ngón xuống đất, nắm lá ngón Mị đã tìm hái trong rừng, Mị vẫn giấu trong áo. Thế là Mị không đành lòng chết, Mị chết thì bố Mị khổ hơn bao nhiêu lần bây giờ nữa. Mị đành trở lại nhà thống lí”. Nỗi đau như đạt đến đỉnh điểm khi giờ đây nàng không có quyền tự kết thúc số phận của mình. Có lẽ sự uất ức đến thời điểm này không còn quan trọng nữa, Mị phải chịu đựng, Mị không có quyền được sống cho mình mà phải tồn tại thay cho số tiền nợ không bao giờ trả hết được kia.

Mị buồn tủi, thờ ơ với cuộc sống xung quanh và buông xuôi cuộc đời mình. Nàng nhận thức được rằng chuỗi ngày đọa đày đang diễn ra mà bản thân thì không có quyền kháng cự. Người đọc ắt hẳn sẽ không ai có thể quên được hình ảnh ở đầu tác phẩm: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên cô ấy cũng cuối mặt, mặt buồn rười rượi”

Với danh nghĩa con dâu lớn nhưng thật chất Mị là nô lễ mãn đời cho ngôi nhà ấy. Nỗi đau khổ, sự cam chịu đã biến cô gái Mông xinh đẹp trở thành một con người lầm lũi, héo hắt. Tuổi xuân của mị cũng đã bị giam cầm như chính thân xác của Mị. Đến đây, Tô Hoài đã miêu tả thật rõ nét nỗi bất hạnh của người con gái này. Để từ đó, nhà văn đã phần nào phác họa nên nỗi đau số phận của người phụ nữ trong xã hội thối nát bấy giờ.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc phần nào sẽ thấy tội nghiệp thay cho số phận của người phụ nữ trong truyện ngắn Vợ nhặt. Bởi lẽ Mị khổ, nhưng Tô Hoài còn cho Mị một cái tên, một nhan sắc và một cuộc đời xuân xanh vừa nở rộ. Thế nhưng đối với nhân vật của mình, Kim Lân lại không màng đến nàng một cái tên để gọi, cũng không tuổi, không gia đình và không quê hương.

Người phụ nữ này cũng giống như bao kẻ đang đói ngoài kia với ngoại hình chỉ còn “quần áo tả tơi như tổ đỉa, trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt.” Chị là hiện thân của hàng triệu con người đói khổ đang ngấp nghé ở bờ vực của cái chết. Nhưng trò đùa của số phận đã một lần nữa cứu sống chị.

Người con gái này nhận lời gả vợ chỉ bằng bốn bát bánh đúc. Mọi sĩ diện giờ đây không còn quan trọng nữa khi cái đói đã hành hạ chị quá lâu. Chị cặm cụi ăn, ăn không kịp thở, ăn mà không nói tiếng nào, chính vì thế mà khiến cho tên kéo xe thuê là Tràng động lòng thương.

Một người đàn ông mới quen đôi lần và bốn bát bánh đúc đã mang lại cho chị một tấm chồng, một gia đình cùng một cuộc sống mới tại làng ngụ cư. Chẳng phải vì yêu thương gì cả mà để được no trước đã “mặc kệ! cứ theo anh ta để được ăn cái đã, mọi chuyện tính sau”. Bao nhiêu sự danh giá của người phụ nữ đã bị xã hội phong kiến bấy giờ làm cho rẻ rúng, từ đó tạo nên một mối quan hệ gọi là “vợ theo không” như cuộc đời của nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bấy giờ. Dù ở đáy vực của nỗi đau, nhưng sâu bên trong họ là khát khao được sống, sống đúng nghĩa chứ không phải một cuộc đời mang nghĩa tồn tại như hiện thực bấy giờ. Ngòi bút hiện thực của nhà văn chỉ có quyền phác họa nỗi đau cuộc đời họ chứ không thể làm mờ đi sức sống tiềm tàng trong họ.

Nhân vật Mị là dù có u uất với cuộc đời như thế nào nhưng đến khi nghe tiếng sáo đêm tình mùa xuân thì nàng trong nàng vẫn có sự rạo rực. Đấy là biểu hiện của sức sống, của tuổi xuân của người phụ nữ dù bị vùi dập trong xã hội bấy giờ. Nhà văn khám phá nên vẻ đẹp ấy từ hiện thực đắng cay thông qua những góc khuất thầm kín nhất của người con gái. Qua đó, Tô Hoài một lần nữa ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn của họ.

Khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt, dù hoàn cảnh khác nhau nhưng vẻ đẹp ẩn chứa bên trong họ là như nhau. Người vợ nhặt đã vứt đi cái tôi, sự sĩ diện vốn có của người phụ nữ để mưu cầu một cuộc sống tốt đẹp hơn. Nó không chỉ là mong muốn thoát khỏi cái đói mà là những hy vọng lớn lao về một gia đình, nơi chị có thể cùng những con người mới đắp xây nên một cuộc sống mới. Vì những phẩm chất tốt đẹp vốn có như thế mà kết thúc cả hai truyện ngắn, cả Mị và người vợ nhặt đều xứng đáng có một cuộc sống tốt đẹp hơn.

Không chỉ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt, không chỉ khi so sánh nhân vật Mị và người vợ nhặt thì ta mới có thể thấy được nỗi đau cũng như vẻ đẹp của người phụ nữ. Thực tế, cuộc sống hôm nay ngày càng tươi đẹp hơn là nhờ không ít vào sự góp sức của người phụ nữ. Dù ở tầng lớp nào, vai trò nào và hoàn cảnh nào thì người phụ nữ vẫn ngời sáng vẻ đẹp vốn có.

So sánh giữa nhân vật Tràng và nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (mẫu 6)

Hình tượng người lao động từ lâu đã trở thành một đề tài lớn của văn học nghệ thuật thu hút biết bao ngòi bút văn chương. Không ít tác giả đã thành công về đề tài này trong đó có Kim Lân và Tô Hoài. Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã dựng nên được hình tượng con người lao động với bao phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành nhân hậu trong “Vợ nhặt” và A Phủ chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”.

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”.

Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính vùng đất và con người nơi đây đã thổi hồn vào trang viết của ông để lại bao hình ảnh đẹp. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Tô Hoài viết về con người và thiên nhiên nơi đây.

Cả hai thiên tài truyện ngắn Kim Lân và Tô Hoài đều là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. A Phủ và Tràng đều là những con người lao động lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình. Ở họ còn ngời sáng bởi phẩm chất lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Họ khao khát mái ấm gia đình, khao khát tình yêu, khao khát tự do trong một thế kỷ bạo tàn. Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, bị bóc lột, bị đẩy đến con đường cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn khao khát được sống, được vươn lên. Tràng bị nạn đói dồn đẩy đến vực thẳm của cái chết nhưng vẫn khát vọng mái ấm, anh đã xây hạnh phúc trên nền thảm đạm của chết chóc mà vẫn hi vọng được đổi đời. A Phủ bị lăng nhục, bị chà đạp nhưng vẫn khao khát tự do. Anh đã vượt ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Ở họ tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc tốt đẹp dù trước đó là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối. Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này có nhiều điểm riêng biệt mang đến những vẻ đẹp khác nhau.

Trước hết ta hãy đến với nhân vật Tràng. Tìm hiểu vào truyện ta thấy, Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp.

Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già. Gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là “nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã vậy, Tràng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay cả đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật dùng trong nghề mộc (Cái Tràng, cái Đục). Với vài nét bút phác họa giản đơn, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý. Quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích với thằng đần thằng ngốc mà ông đang kể lại một sự thật, sự thật đắng lòng về cái đói và tình người năm đói. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.

Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Thị gầy hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều “bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.

Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ!” Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình:

Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…”. Tràng còn hào phóng “ mua hai hào dầu để thắp sáng”.

Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi). Hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng”. Thế là rõ rồi: Hạnh phúc đang làm anh thay đổi.

Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “ đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như thế. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù sao Tràng vẫn còn có mẹ – đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện. Cho thấy, anh Tràng không còn là người vô tư nông cạn nữa. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là việc hệ trọng cả một đời. Nên với hắn, đây là giây phút thiêng liêng và trọng đại. Khi được đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.

Tràng có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đấy chính là hạnh phúc đang thức tỉnh anh. Cuộc sống đang vẫy gọi anh.

Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại “ vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…Chi tiết này thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là chỉ có đi theo cách mạng mới có thể giải phóng được số phận của mình. Nhà văn dự báo, rồi đây Tràng sẽ có mặt trong đoàn người đói ấy, Tràng sẽ đi phá kho thóc Nhật. Và cuộc sống sẽ lại mở ra trang đời mới.

Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Đây là loại nhân vật tiêu biểu cho phát ngôn của nhà văn trong tác phẩm.

Nếu như nhân vật Tràng của Kim Lân với những vẻ đẹp tâm hồn sáng ngời nhân cách, phẩm giá thì A Phủ của Tô Hoài cũng mang đến cho người đọc nhiều vẻ đẹp lấp lánh của tâm hồn.

A Phủ là một chàng trai có số phận éo le, là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu: A Phủ người Háng B la. Cha mẹ, anh chị em của A Phủ mất trong một trận dịch đậu mùa. Năm ấy A Phủ mười tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng A Phủ đã mang trong mình một cá tính mạnh mẽ. Khi có người làng đói bắt A Phủ bán cho người Thái dưới cánh đồng thấp. A Phủ ngang bướng không cam chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.

Tết đến xuân về, mọi người đều có quần áo mới còn A Phủ thì chỉ độc một cái vòng vía trên cổ. A Phủ chẳng lấy nổi vợ vì hủ tục của làng bản. Vì A Phủ “ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”.

Dù cuộc đời chịu nhiều bất hạnh nhưng A Phủ là một con người có phẩm chất tốt đẹp.

A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, anh yêu lao động, giỏi giang: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo…”. A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong làng “ Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”.

A Phủ là nạn nhân của cường quyền và nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi.

Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. Thấy thái độ hống hách của A Sử , A Phủ đã “ném con quay bằng gỗ lăng vào mặt A Sử” rồi “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp, anh rất ghét thói cường quyền bạo ngược của bọn người giàu có.

Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện. Tại nhà thống lý, A Phủ bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, tàn bạo. A Phủ đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ bị đám trai làng xộc đến đánh “môi và mắt dập chảy máu… hai đầu gối sưng lên như mặt hổ phù”. A phủ không hề khóc lóc van xin, trái lại “ A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.

Cuối cùng trong cảnh xử kiện A Phủ đã bị Pá Tra buộc nộp vạ một trăm bạc trắng. Vì không có tiền để nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ một trăm bạc trắng. Chính sách cho vay nặng lãi ấy đã biến chàng trai trẻ yêu tự do thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của Thống lý Pá Tra.

A Phủ yêu tự do có lòng ham sống và khát vọng tự do:

Chỉ vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” . Rồi A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “ đứng chết ở đấy”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không cam chịu hết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “ Đêm đến, A phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ A Phủ một cái dây thòng lọng.

Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. A Phủ đã khóc “ một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Nhưng dòng nước mắt ấy đã làm động lòng người thiếu phụ. Mị đã từ vô cảm đã đồng cảm với nỗi đau của A Phủ để rồi sau cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, Mị đã cắt đứt dây trói cứu sống A Phủ. Và với sự trợ giúp của Mị, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật A Phủ chủ yếu được khắc họa qua hành động, tính cách. Trần thuật hấp dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị đậm tố chất núi rừng Tây Bắc. Dựng cảnh tài tình… Đó là những thành công của Tô Hoài trong cách xây dựng nhân vật A Phủ.

Có thể nói qua hai nhân vật Tràng và A Phủ, cả hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người lao động. Đồng thời qua số phận nhân vật, hai nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông chân thành, sâu sắc và mở lối đi cho nhân vật. Với những giá trị ấy, nửa thế kỷ trôi qua, tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” và “ Vợ nhặt” vẫn là tác phẩm có sức sống và có giá trị lâu bền nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của hai tác phẩm. Vì những lẽ trên, Kim Lân và Tô Hoài rất xứng danh với nhà văn của những con người lao động chân chính.

So sánh giữa nhân vật Tràng và nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (mẫu 7)

Trong mỗi một tác phẩm văn học thường đều có những nhân vật văn học điển hình. Thông qua cách xây dựng, miêu tả nhân vật ấy mà tư tưởng chủ đề, nội dung của tác phẩm được thể hiện một cách rõ nét nhất. Trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, nhân vật Tràng đã gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc, cũng là một điểm nhấn trong câu chuyện. Còn đối với tác phẩm Vợ chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài thì nhân vật A Phủ lại chính là nhân vật như vậy. Mỗi người lại có những đặc điểm tính cách riêng nhưng đều góp phần khiến cho tác phẩm thêm ấn tượng, đặc sắc.

Nhà văn Kim Lân dường như không ưu ái cho anh cu Tràng lắm bởi ngay từ khi xuất hiện anh đã được miêu tả không mấy dễ nhìn: cái bộ mặt có thể coi là xấu xí, lại thêm tính cách có phần dở dở ương ương, rất hay ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch, đã vậy anh Tràng lại còn là người dân xóm ngụ cư. Người đàn ông này nếu ở thời bình hay lúc no ấm thì có lẽ sẽ không có ai thèm lấy và anh sẽ ế vợ. Anh là người đàn ông xấu xí, gia cảnh lại nghèo nàn, hai mẹ con anh ở trong một căn nhà nhỏ xập xệ, đơn sơ. Về kinh tế, mẹ con anh ăn bữa nay lo bữa mai. Đến bữa ăn có lùm rau chuối và bát cháo cám cũng đã là sang mồm thì phải biết rằng họ cũng đang cận kề với cái chết vì đói. Giống như cuộc sống của bao người dân chốn này, mẹ con anh Tràng nghèo túng lắm, ấy thế nhưng anh lại được cái chăm làm, rất chăm chỉ làm lụng lại thật thà chất phác. Hơn nữa, người đọc vẫn ấn tượng nhất ở anh là bởi vẻ đẹp trong tâm hồn và nhân cách. Anh là một con người thiện lương, biết yêu thương đồng loại, có cái nhìn tích cực về cuộc sống. Anh sẵn sàng mời người lạ ăn tới bốn bát bánh đúc, anh chỉ đùa vu vơ mà có vợ, có thể từ chối không đèo bòng người ta mà anh vẫn chấp nhận đèo bòng, khi về nhà anh còn sảng khoái, thoáng tay mà tiêu hết chai dầu để đốt đèn mừng tân hôn. Dù thực tại thế nào thì ở người đàn ông này người ta vẫn thấy một sức sống tươi mới, một khát vọng vươn lên, luôn nhìn về tương lai hạnh phúc, ấm no.

Khác với Tràng, hoàn cảnh của A Phủ lại bi lụy theo một phương diện khác. Mồ côi cả cha lẫn mẹ, nhưng A Phủ lớn lên trở thành một chàng trai gan góc, lì lợm, vô cùng khỏe mạnh, là niềm mơ ước của biết bao cô gái. Đã vậy A Phủ lại còn là người bộc trực, khái tính, dám đứng ra trừng trị con quan. Khi bị quan bắt vạ phải đi ở trừ nợ, anh cũng làm việc hết mình, quần quật như một côn trâu con ngựa. Không may một lần hổ ăn thịt mất bò, A Phủ phải chịu tội, phải quỳ chịu phạt và bị đánh, bị trói tới gần chết. Nếu không có Mỵ động lòng giải thoát cho anh đêm đông ấy thì chỉ ngày nay ngày mai là anh sẽ chết. Thế nhưng A Phủ cũng là người có khát vọng sống mãnh liệt, anh có lòng yêu đời, yêu cuộc sống. Anh hiểu và thương cho hoàn cảnh, số phận của mình nên anh mới khóc. Khi anh được cứu, mặc dù đau đớn gục xuống nhưng sức sống mạnh mẽ kiên cường lại giúp anh đứng lên và vùng chạy thoát khỏi nhà thống lí Pá Tra, khỏi Hồng Ngài để đến một vùng đất mới. Từ đây anh xây dựng một cuộc sống mới, giác ngộ cách mạng và hết mình vì lí tưởng đó.

A Phủ và Tràng đều là những thanh niên có khát vọng sống mãnh liệt. Họ nghĩ về tương lai nhiều hơn là quá khứ, là thực tại, họ biết nắm lấy những cơ hội được sống, được hạnh phúc và thực tế là họ luôn kiếm tìm hạnh phúc trong cuộc sống của mình. Điểm khác nhau của họ ở đây đó là Tràng thì bị sự bóc lột của chế độ phát xít và thực dân khiến cho cả xã hội rơi vào tình trạng đói khát trong đó có anh. Tràng là nạn nhân của cái đói, của cuộc sống tăm tối trên đất nước ta trước cách mạng. Còn A Phủ, A Phủ là nạn nhân của chế độ phong kiến cùng những hủ tục mê tín dị đoan, những lề thói tập quán lạc hậu của một bộ phận dân tộc thiểu số. Anh bị bọn cường hào chúa đất đè ép và bóc lột, mất đi hạnh phúc của bản thân.

Thế nhưng dù trong hoàn cảnh nào thì cả Tràng và A Phủ đều khiến người đọc phải ấn tượng vì những đức tính cao đẹp của mình. Chính niềm tin, lòng lạc quan vào cuộc sống ấy đã đưa các anh đến với những hạnh phúc sau này.

So sánh giữa nhân vật Tràng và nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (mẫu 8)

Hình tượng người nông dân lận đận với nhiều bất hạnh từ xưa đã đi vào những câu ca dao, những áng văn cổ:

“Nước non lận đận một mình
Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”.

Nhưng có lẽ số phận bất hạnh và những phẩm chất cao đẹp của họ phài đến những trang viết của các nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng 8-1945 mới được khai thác một cách sâu sắc, cụ thể.

Hai tác phẩm Vợ Nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) được xem là chiếc bản lề khép mở hai thế giới, nó khép lại những hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán một thời để mở ra một hướng đi mới, một chân trời mới cho nhân vật. Đó là đến với ánh sáng Cách Mạng.

Thông qua so sánh nhân vật Tràng và A Phủ ta sẽ hiểu một cách cụ thể và rõ ràng hơn những bất công họ phải chịu đựng từ xã hội lúc bấy giờ để thấy được những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và cũng từ đó thấy được giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm thông qua nhân vật của mình.

Tràng và A Phủ là hai tuyến nhân vật chính trong hai tác phẩm của Tô Hoài và Kim Lân. Hai nhân vật ấy đại diện cho tầng lớp người lao động trong xã hội cũ, mặc dù có những phẩm chất tốt đẹp, song họ đều bị xã hội vùi dập, cuộc đời chịu nhiều bất công, ngang trái. Và chỉ khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta mới khai thác được hết những thông điệp mà tác giả gửi gắm qua hai nhân vật.

Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động mà tiêu biểu là Tràng và A Phủ hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. Cả hai nhân vật đều là những người nông dân nghèo nhưng lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình.

Đó là những người cùng cảnh ngộ. Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, họ bị bóc lột, bị đẩy đến con đường cùng. A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn. Còn Tràng- một chàng trai lao động hiền lành lại bị dồn đuổi bởi cái đói, phải dựng một ngôi nhà tạm bợ ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông sống cùng với người mẹ già. Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ.

Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta còn thấy họ là những người giàu ước mơ và khát vọng. Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh, tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả và hắn thấy hắn nên người hơn khi Thị bước vào cuộc đời của hắn. Hắn xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.

Còn đối với A Phủ, dù mồ côi cả cha lẫn mẹ, dù chỉ là một con người lao động làm thuê cuốc mướn, dù nghèo đói nhưng A Phủ vẫn không ngừng khao khát hạnh phúc. Anh đã vượt ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Tràng và A Phủ tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc tốt đẹp dù trước đó cuộc đời họ là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối.

Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này còn có nhiều điểm riêng biệt tạo nên những vẻ đẹp khác nhau mà chỉ khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ ta mới nhìn thấy được. Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ. Nhân vật Tràng của Kim Lân được tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động. Thông qua đó, tính cách và những phẩm chất nhân vật cũng được bộc lộ rõ ràng, cụ thể.

Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi. Anh phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo như A Phủ thành nô lệ không công cho chúng.

Một sự khác biệt của hai nhân vật này đó là nhận thức. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong đầu Tràng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được.

Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta thấy rằng hai nhân vật đều có những điểm giống và khác nhau. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự khác nhau đó? Đầu tiên phải kể đến đó là do hoàn cảnh lịch sử ra đời của hai tác phẩm. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Lý do thứ hai dẫn đến sự khác nhau đó là do phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính sự gắn bó và vốn kiến thức sâu rộng của mình, mỗi nhà văn lại chọn những hướng đi khác nhau cho tác phẩm của mình, khai thác những vấn đề khác nhau để làm nổi bật lên hình tượng người nông dân giai đoạn này.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật lao động như Tràng và A Phủ, nhà văn đã gửi gắm rất nhiều thông điệp nhân văn ý nghĩa và giá trị nhân đạo của mình thông qua nhân vật ấy. So sánh nhân vật Tràng và A Phủ để thấy rằng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn đều giống nhau…

Đó chính là sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh, tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người, phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.

Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt, phù hợp với thời đại và diễn biến tâm lý nhân vật. Song đều thể hiện được cái tài và tầm vóc tư tưởng của người nghệ sĩ. Bởi vì “ Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki) cũng như tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”.

So sánh giữa nhân vật Tràng và nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (mẫu 9)

Hình tượng người nông dân lận đận với nhiều bất hạnh từ xưa đã đi vào những câu ca dao, những áng văn cổ:

“Nước non lận đận một mình

Thân cò lên thác xuống ghềnh bấy nay”.

Nhưng có lẽ số phận bất hạnh và những phẩm chất cao đẹp của họ phài đến những trang viết của các nhà văn hiện thực trước Cách mạng tháng 8-1945 mới được khai thác một cách sâu sắc, cụ thể.

Hai tác phẩm Vợ Nhặt (Kim Lân) và Vợ chồng A Phủ (Tô Hoài) được xem là chiếc bản lề khép mở hai thế giới, nó khép lại những hạn chế của dòng văn học hiện thực phê phán một thời để mở ra một hướng đi mới, một chân trời mới cho nhân vật. Đó là đến với ánh sáng Cách Mạng.

Thông qua so sánh nhân vật Tràng và A Phủ ta sẽ hiểu một cách cụ thể và rõ ràng hơn những bất công họ phải chịu đựng từ xã hội lúc bấy giờ để thấy được những phẩm chất tốt đẹp của họ. Và cũng từ đó thấy được giá trị nhân đạo của hai nhà văn gửi gắm thông qua nhân vật của mình.

Tràng và A Phủ là hai tuyến nhân vật chính trong hai tác phẩm của Tô Hoài và Kim Lân. Hai nhân vật ấy đại diện cho tầng lớp người lao động trong xã hội cũ, mặc dù có những phẩm chất tốt đẹp, song họ đều bị xã hội vùi dập, cuộc đời chịu nhiều bất công, ngang trái. Và chỉ khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta mới khai thác được hết những thông điệp mà tác giả gửi gắm qua hai nhân vật.

Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động mà tiêu biểu là Tràng và A Phủ hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. Cả hai nhân vật đều là những người nông dân nghèo nhưng lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình, thật thà, chất phác, giản dị, nuôi sống bản thân và gia đình bằng bàn tay lao động của mình.

Đó là những người cùng cảnh ngộ. Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, họ bị bóc lột, bị đẩy đến con đường cùng. A Phủ từ nơi khác lưu lạc đến Hồng Ngài, làm thuê, làm mướn. Còn Tràng- một chàng trai lao động hiền lành lại bị dồn đuổi bởi cái đói, phải dựng một ngôi nhà tạm bợ ở cuối xóm ngụ cư, bên mé bờ sông sống cùng với người mẹ già. Cuộc sống của họ bấp bênh; do hoàn cảnh, do nghèo khó nên họ khó có thể lấy được vợ.

Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta còn thấy họ là những người giàu ước mơ và khát vọng. Tràng vượt lên mọi hoàn cảnh, tăm tối của cuộc sống để đến với hạnh phúc, đến với mái ấm gia đình, với thiên chức làm người cao cả và hắn thấy hắn nên người hơn khi Thị bước vào cuộc đời của hắn. Hắn xôn xao, phấn khởi, sung sướng với hạnh phúc của đời mình. Khi cái đói đeo bám, cái chết đe doạ, Tràng vẫn không thôi nâng đỡ, tôn vinh những giá trị cao cả của cuộc sống.

Còn đối với A Phủ, dù mồ côi cả cha lẫn mẹ, dù chỉ là một con người lao động làm thuê cuốc mướn, dù nghèo đói nhưng A Phủ vẫn không ngừng khao khát hạnh phúc. Anh đã vượt ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Tràng và A Phủ tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc tốt đẹp dù trước đó cuộc đời họ là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối.

Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này còn có nhiều điểm riêng biệt tạo nên những vẻ đẹp khác nhau mà chỉ khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ ta mới nhìn thấy được. Trong Vợ nhặt Tràng là nhân vật chính còn trong đoạn trích Vợ chồng A Phủ, A Phủ là nhân vật phụ. Nhân vật Tràng của Kim Lân được tập trung khắc hoạ bởi những diễn biến tâm lí phức tạp còn A Phủ lại được nhà văn Tô Hoài miêu tả bằng những hành động cụ thể, sinh động. Thông qua đó, tính cách và những phẩm chất nhân vật cũng được bộc lộ rõ ràng, cụ thể.

Tràng là anh nông dân nghèo trong nạn đói 1945 ở miền xuôi. Anh phải chịu nhiều thiệt thòi, bất công dưới sự cai trị trực tiếp của bọn thực dân, phát xít. A Phủ là người dân lao động miền núi, sống dưới sự cai trị của bọn chúa đất phong kiến, chúng lợi dụng cường quyền và thần quyền để biến những người dân nghèo như A Phủ thành nô lệ không công cho chúng.

Một sự khác biệt của hai nhân vật này đó là nhận thức. Hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng xuất hiện trong đầu Tràng là tín hiệu thật mới mẻ về một sự đổi thay xã hội rất lớn lao, có ý nghĩa quyết định với sự đổi thay của mỗi số phận con người. Đây là điều mà các tác phẩm văn học hiện thực giai đoạn 1930 – 1945 không nhìn thấy được.

Khi so sánh nhân vật Tràng và A Phủ, ta thấy rằng hai nhân vật đều có những điểm giống và khác nhau. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến sự khác nhau đó? Đầu tiên phải kể đến đó là do hoàn cảnh lịch sử ra đời của hai tác phẩm. Nền văn học mới sau Cách mạng tháng tám đã đặt vấn đề và giải quyết vấn đề số phận con người theo một cách khác, lạc quan hơn, nhiều hi vọng hơn.

Lý do thứ hai dẫn đến sự khác nhau đó là do phong cách sáng tác của mỗi nhà văn. Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính sự gắn bó và vốn kiến thức sâu rộng của mình, mỗi nhà văn lại chọn những hướng đi khác nhau cho tác phẩm của mình, khai thác những vấn đề khác nhau để làm nổi bật lên hình tượng người nông dân giai đoạn này.

Khi xây dựng hình tượng nhân vật lao động như Tràng và A Phủ, nhà văn đã gửi gắm rất nhiều thông điệp nhân văn ý nghĩa và giá trị nhân đạo của mình thông qua nhân vật ấy. So sánh nhân vật Tràng và A Phủ để thấy rằng tư tưởng nhân đạo của mỗi nhà văn đều giống nhau…

Đó chính là sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé, bất hạnh, Ttố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người, phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con người bất hạnh đồng thời đấu tranh cho khát vọng chân chính, tốt đẹp của con người.

Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi phong phú, linh hoạt, phù hợp với thời đại và diễn biến tâm lý nhân vật. Song đều thể hiện được cái tài và tầm vóc tư tưởng của người nghệ sĩ. Bởi vì “Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki) cũng như tư tưởng “nghệ thuật vị nhân sinh”

So sánh giữa nhân vật Tràng và nhân vật A Phủ trong tác phẩm "Vợ nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (mẫu 10)

Hình tượng người lao động từ lâu đã trở thành một đề tài lớn của văn học nghệ thuật thu hút biết bao ngòi bút văn chương. Không ít tác giả đã thành công về đề tài này trong đó có Kim Lân và Tô Hoài. Với hai tác phẩm “Vợ nhặt” và “Vợ chồng A Phủ”, cả hai nhà văn đã dựng nên được hình tượng con người lao động với bao phẩm chất đáng quý. Đó là anh Tràng hiền lành nhân hậu trong “Vợ nhặt” và A Phủ chàng trai của tự do trong “Vợ chồng A Phủ”.

Kim Lân là một cây bút chuyên viết truyện ngắn, thế giới nghệ thuật của ông tập trung ở khung cảnh nông thôn và người nông dân. Tác phẩm “Vợ nhặt” trích trong tập truyện “Con chó xấu xí”. Truyện được viết ngay sau Cách mạng với tên gọi “Xóm ngụ cư”. Nhưng do thất lạc bản thảo nên sau khi hòa bình lập lại, tác giả đã viết lại thành “Vợ nhặt”.

Nếu Kim Lân thiên về đề tài nông thôn thì Tô Hoài lại rất am hiểu văn hóa nhiều vùng miền khác nhau trên đất nước ta. Trong đó đặc biệt là văn hóa Tây Bắc. Chính vùng đất và con người nơi đây đã thổi hồn vào trang viết của ông để lại bao hình ảnh đẹp. “Vợ chồng A Phủ” là một trong những tác phẩm xuất sắc của Tô Hoài viết về con người và thiên nhiên nơi đây.

Cả hai thiên tài truyện ngắn Kim Lân và Tô Hoài đều là đại biểu ưu tú của dòng văn học hiện thực phê phán. Dưới ngòi bút của các nhà văn hiện thực, con người lao động hiện lên với những phẩm chất chung đáng quý. A Phủ và Tràng đều là những con người lao động lương thiện, nhân hậu, sống nghĩa tình. Ở họ còn ngời sáng bởi phẩm chất lao động cần cù, chịu thương chịu khó. Họ khao khát mái ấm gia đình, khao khát tình yêu, khao khát tự do trong một thế kỷ bạo tàn. Họ đều là nạn nhân đáng thương của chế độ xã hội cũ, bị bóc lột, bị đẩy đến con đường cùng. Nhưng ở họ vẫn luôn khao khát được sống, được vươn lên. Tràng bị nạn đói dồn đẩy đến vực thẳm của cái chết nhưng vẫn khát vọng mái ấm, anh đã xây hạnh phúc trên nền thảm đạm của chết chóc mà vẫn hi vọng được đổi đời. A Phủ bị lăng nhục, bị chà đạp nhưng vẫn khao khát tự do. Anh đã vượt ngục để đến miền đất hứa Phiềng Sa cùng Mị xây đắp hạnh phúc của mình. Ở họ tuy điều kiện hoàn cảnh sống và lịch sử khác nhau nhưng đều có những kết thúc tốt đẹp dù trước đó là một chuỗi bi kịch cuộc đời tăm tối. Bên cạnh những điểm giống nhau đó, ở hai nhân vật này có nhiều điểm riêng biệt mang đến những vẻ đẹp khác nhau.

Trước hết ta hãy đến với nhân vật Tràng. Tìm hiểu vào truyện ta thấy, Tràng là người dân ngụ cư nghèo khổ, có phẩm chất hiền lành, tốt bụng; sẵn lòng cưu mang người đồng cảnh ngộ trong nạn đói khủng khiếp.

Tràng là dân ngụ cư nghèo khổ, làm nghề đẩy xe bò thuê. Anh sống với mẹ già. Gia cảnh nghèo túng. Cái được gọi là “nhà” thì luôn “vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại”. Đã vậy, Tràng lại có ngoại hình xấu xí, thô kệch. Ngay cả đến tên gọi cũng là tên gọi của một loại đồ vật dùng trong nghề mộc (Cái Tràng, cái Đục). Với vài nét bút phác họa giản đơn, Tràng hiện lên có phần giống với những thằng đần, thằng ngốc trong truyện cổ tích. Cái lưng thì được nhà văn tạo thành “lưng gấu”, cái mặt thì ấn tượng bởi “hai con mắt nhỏ tý. Quai hàm bạnh”. Tính cách thì phần trẻ con nhiều hơn. Vì thế chẳng mấy ai thèm nói chuyện, trừ lũ trẻ hay chọc ghẹo khi anh ta đi làm về.

Nhưng Kim Lân không có ý định viết truyện cổ tích với thằng đần thằng ngốc mà ông đang kể lại một sự thật, sự thật đắng lòng về cái đói và tình người năm đói. Thật ra, ban đầu Tràng không chủ tâm tìm vợ. Tràng cũng thừa biết, người như hắn thì không thể có vợ. Khi đẩy xe bò mệt mỏi anh chỉ hò một câu cho vui “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Tràng chỉ muốn hò để xua đi mỏi mệt trong người. Anh cũng chẳng có ý chòng ghẹo ai cả. Ai ngờ có người đàn bà đói xông xáo đến đẩy xe thật. Nhưng vì đùa vui nên Tràng đã không giữ đúng thỏa thuận của câu hò. Nhưng Tràng cảm thấy hạnh phúc biết bao khi gặp được cái “cười tít mắt của thị” bởi “từ xưa đến giờ có ai cười với hắn một cách tình tứ như vậy đâu”.

Hôm sau gặp lại: Khi Tràng đang ngồi nghỉ trước cổng chợ tỉnh thì bất ngờ có người đàn bà sầm sập chạy đến, cong cớn, sưng sỉa với hắn “Điêu, người thế mà điêu”. Tràng không nhận ra người đàn bà ngày trước đẩy xe cho mình. Trước mặt hắn là một người đàn bà thảm hại đã bị cái đói tàn hại cả nhan sắc lẫn nhân cách: “Thị gầy hẳn đi, ngực gầy lép, khuôn mặt lưỡi cày hốc hác, quần áo rách như tổ đỉa”. Thấy người đàn bà đói, rách rưới thảm hại. Tràng động lòng thương. Có ai ngờ được rằng trong con người thô kệch ấy lại có một tấm lòng thương người cao cả. Thế rồi Tràng cho người đàn bà kia ăn, không chỉ ăn mà còn cho ăn rất nhiều “bốn bát bánh đúc”. Đó chính là lòng thương một con người đói khát hơn mình chứ Tràng không hề có ý định lợi dụng hoặc chòng ghẹo.

Vốn tính hay đùa, Tràng lại tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân đồ lên xe rồi về”. Nói đùa thế thôi, ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết“mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng”. Đó là nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi “Chậc kệ!” Chỉ một từ “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả nỗi sợ hãi, mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.

Trong hoàn cảnh khốn cùng, Tràng vẫn khát khao hạnh phúc, có ý thức tạo dựng mái ấm gia đình:

Khi người phụ nữ chấp nhận làm vợ, Tràng đã có ý thức chăm sóc: “hắn đưa thị vào chợ tỉnh bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa no nê…”. Tràng còn hào phóng “ mua hai hào dầu để thắp sáng”.

Trên đường về: (khác với anh Tràng hôm qua buồn bã, cúi mặt lo âu nghĩ ngợi). Hôm nay Tràng có niềm vui lạ, một niềm hạnh phúc tràn ngập khiến mặt Tràng cứ “phớn phở khác thường”. Thỉnh thoảng lại còn cười nụ một mình. Lúc thì hắn đi sát người đàn bà, lúc lại lùi ra sau một tí, hai tay cứ xoa vào vai nọ vai kia, lại muốn nói đùa một câu, lại cứ thấy ngường ngượng. Kim Lân đã làm người đọc thấy được sự thay đổi về tâm lí của Tràng. Tràng thật sự đã khác với Tràng hôm qua. Trong lòng Tràng tràn ngập niềm vui sướng miên man khiến “Trong một lúc Tràng hình như quên hết những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa, quên cả những tháng ngày trước mặt. Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên. Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy, nó ôm ấp, mơn man khắp da thịt Tràng, tựa hồ như có bàn tay vuốt nhẹ dọc sống lưng”. Thế là rõ rồi: Hạnh phúc đang làm anh thay đổi.

Khi về đến nhà, lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “ đứng tây ngây ra giữa nhà, chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng. Lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt, không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sung sướng.

Lúc chờ đợi Mẹ về: Tràng nóng ruột, đi đi lại lại. Chưa bao giờ người ta thấy hắn nôn nóng như thế. Khi mẹ về, hắn mừng rỡ, rối rít như trẻ con vì dù sao Tràng vẫn còn có mẹ – đó là đấng tối cao của Tràng vì chỉ có mẹ mới quyết định được hạnh phúc của hắn. Tràng nóng lòng thưa chuyện với mẹ. Bắt mẹ ngồi lên giường để thưa chuyện. Cho thấy, anh Tràng không còn là người vô tư nông cạn nữa. Tràng đã ý thức được việc lấy vợ là việc hệ trọng cả một đời. Nên với hắn, đây là giây phút thiêng liêng và trọng đại. Khi được đồng ý, Tràng thở đánh phào một cái nhẹ cả người. Thế là Tràng đã có gia đình, có vợ, không tốn tiền cưới hỏi, Tràng lấy được vợ thật hiển hách.

Tràng có khát vọng sống mãnh liệt, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Từ một anh phu xe cục mịch, sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, Tràng đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự đổi đời.

Sau khi lấy vợ, Tràng trở thành một người sống có trách nhiệm, biết suy nghĩ chín chắn. Nhà văn đã mang đến cho người đọc hơi thở mới của Tràng vào sau cái đêm tân hôn. Tràng thức dậy, đầu tiên đó là một cảm giác dễ chịu “Trong người êm ái lửng lơ như người vừa ở trong giấc mơ đi ra”. Đó là tâm trạng hạnh phúc. Tràng cảm động khi thấy mẹ và vợ dọn dẹp lại nhà cửa nhất là khi nghe tiếng chổi tre quét từng nhát sàn sạt trên sân. Một nỗi lòng yêu thương, một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng “ Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn đã có một gia đình. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm che mưa che nắng”. Đấy chính là hạnh phúc đang thức tỉnh anh. Cuộc sống đang vẫy gọi anh.

Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã, dồn dập, Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi, đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh lại “ vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp” để cướp kho thóc của Nhật và “đằng trước là lá cờ đỏ”. Tràng nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận, tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…Chi tiết này thể hiện giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. Tác giả mở ra con đường sống cho những con người đang đứng bên bờ vực của cái chết đó là chỉ có đi theo cách mạng mới có thể giải phóng được số phận của mình. Nhà văn dự báo, rồi đây Tràng sẽ có mặt trong đoàn người đói ấy, Tràng sẽ đi phá kho thóc Nhật. Và cuộc sống sẽ lại mở ra trang đời mới.

Xây dựng nhân vật Tràng, nhà văn đã đặt nhân vật trong tình huống truyện độc đáo; diễn biến tâm lí được miêu tả chân thực, tinh tế; ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, phù hợp với tính cách nhân vật. Đây là loại nhân vật tiêu biểu cho phát ngôn của nhà văn trong tác phẩm.

Nếu như nhân vật Tràng của Kim Lân với những vẻ đẹp tâm hồn sáng ngời nhân cách, phẩm giá thì A Phủ của Tô Hoài cũng mang đến cho người đọc nhiều vẻ đẹp lấp lánh của tâm hồn.

A Phủ là một chàng trai có số phận éo le, là nạn nhân của những hủ tục lạc hậu: A Phủ người Háng B la. Cha mẹ, anh chị em của A Phủ mất trong một trận dịch đậu mùa. Năm ấy A Phủ mười tuổi. Tuy còn nhỏ nhưng A Phủ đã mang trong mình một cá tính mạnh mẽ. Khi có người làng đói bắt A Phủ bán cho người Thái dưới cánh đồng thấp. A Phủ ngang bướng không cam chịu ở dưới cánh đồng thấp, A Phủ trốn lên núi cao rồi lưu lạc đến Hồng Ngài.

Tết đến xuân về, mọi người đều có quần áo mới còn A Phủ thì chỉ độc một cái vòng vía trên cổ. A Phủ chẳng lấy nổi vợ vì hủ tục của làng bản. Vì A Phủ “ không có bố mẹ, không có ruộng, không có bạc”.

Dù cuộc đời chịu nhiều bất hạnh nhưng A Phủ là một con người có phẩm chất tốt đẹp.

A Phủ là chàng trai tự do của núi rừng, anh yêu lao động, giỏi giang: “biết đúc lưỡi cày, biết đục cuốc, lại cày giỏi và săn bò tót rất bạo…”. A Phủ rất khỏe, chạy nhanh như ngựa. A Phủ đã trở thành niềm khát khao của bao cô gái trong làng “ Lấy được A Phủ là bằng được con trâu tốt trong nhà”. Nhưng A Phủ nghèo nên không lấy được vợ. Tuy vậy, vượt lên trên hoàn cảnh khó khăn, A Phủ vẫn sống một đời sống tâm hồn phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời, yêu chính nghĩa, tự tin của tuổi trẻ. “Đang tuổi chơi, trong ngày Tết đến, dù chẳng có quần áo mới như nhiều trai làng khác, A phủ chỉ có độc một chiếc vòng trên cổ. A Phủ cũng cứ cùng trai làng đem sáo, khèn con quay và quả pao đi tìm người yêu ở các làng trong rừng”.

A Phủ là nạn nhân của cường quyền và nạn nhân của chính sách cho vay nặng lãi của bọn chủ nô phong kiến miền núi.

Đau khổ hơn, A Phủ là đứa con của núi rừng tự do mà vẫn không thoát khỏi kiếp sống nô lệ. Sự việc xảy ra vào đêm hội mùa xuân. Thấy thái độ hống hách của A Sử , A Phủ đã “ném con quay bằng gỗ lăng vào mặt A Sử” rồi “xộc tới, nắm cái vòng cổ, kéo dập đầu xuống, xé vai áo, đánh tới tấp”. Hành động dữ dội đó của A Phủ có nguyên cớ sâu xa từ mối hận thù giai cấp, anh rất ghét thói cường quyền bạo ngược của bọn người giàu có.

Vì tội đánh con quan, A Phủ bị nhà thống lý bắt về xử kiện. Tại nhà thống lý, A Phủ bị tay chân nhà Pá Tra đánh đập rất dã man, tàn bạo. A Phủ đã chứng tỏ mình là con người bất khuất, cứng rắn gan dạ. A Phủ bị đám trai làng xộc đến đánh “môi và mắt dập chảy máu… hai đầu gối sưng lên như mặt hổ phù”. A phủ không hề khóc lóc van xin, trái lại “ A Phủ quỳ, chịu đòn, chỉ im như tượng đá”.

Cuối cùng trong cảnh xử kiện A Phủ đã bị Pá Tra buộc nộp vạ một trăm bạc trắng. Vì không có tiền để nộp vạ nên A Phủ phải vay nợ một trăm bạc trắng. Chính sách cho vay nặng lãi ấy đã biến chàng trai trẻ yêu tự do thành nô lệ với bản án chung thân suốt đời đúng như lời tên Pá Tra đã nói “đời mày, đời con mày, đời cháu máy tao cũng bắt thế, bao giờ trả hết nợ mới thôi”. Đó là kiếp sống bị khinh rẻ, bị ngược đãi và phải gánh vác những công việc nặng nhọc, nguy hiểm nhất như “săn bò tót, bẫy hổ, chăn ngựa quanh năm một thân một mình rong ruổi ngoài gò bãi, nương rừng”. Tính mạng của A Phủ sống hay chết cũng được quyết định bởi bàn tay tàn bạo của Thống lý Pá Tra.

A Phủ yêu tự do có lòng ham sống và khát vọng tự do:

Chỉ vì để hổ bắt mất một con bò, A Phủ đã rơi vào thảm họa mới. Thống lí quát thẳng vào mặt A Phủ “Quân ăn cướp làm mất bò tao…” . Rồi A Phủ bị trói đứng vào cột bằng dây mây cuốn từ chân lên vai. Nếu không bắt được hổ đem về thì cho A Phủ “ đứng chết ở đấy”. Tuy vậy, với khát vọng sống mãnh liệt, bản chất gan góc, bất khuất sẵn có, A Phủ không cam chịu hết mà tìm mọi cách tự giải thoát: “ Đêm đến, A phủ cúi xuống, nhay đứt hai vòng dây, nhích dần dây trói một bên tay”. Nhưng cha con thống lý lại về và tròng thêm vào cổ A Phủ một cái dây thòng lọng.

Sau bao ngày bị A Phủ “trói đứng ở trong góc nhà”, “chỉ đứng nhắm mắt” và thần chết đã in dấu trên hai hõm má xám lại vì tuyệt vọng và khổ đau của A Phủ. A Phủ đã nằm bên bờ vực của cái chết “Cơ chừng chỉ đêm mai là người kia chết đau, chết đói, chết rét, phải chết”. Còn nỗi đau nào lớn hơn khi con người ta ý thức được rằng mình sẽ chết, sắp chết, chứng kiến cái chết đang lan khắp cơ thể mà đành bất lực tuyệt vọng. A Phủ đã khóc “ một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại”. Nhưng dòng nước mắt ấy đã làm động lòng người thiếu phụ. Mị đã từ vô cảm đã đồng cảm với nỗi đau của A Phủ để rồi sau cuộc đấu tranh nội tâm dữ dội, Mị đã cắt đứt dây trói cứu sống A Phủ. Và với sự trợ giúp của Mị, A Phủ đã được tự do. Hai người trốn khỏi Hồng Ngài, tới khu du kích ở Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu. A Phủ và Mị lần lượt trở thành chiến sĩ du kích cùng bộ đội giải phóng quê hương.

Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật A Phủ chủ yếu được khắc họa qua hành động, tính cách. Trần thuật hấp dẫn. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị đậm tố chất núi rừng Tây Bắc. Dựng cảnh tài tình… Đó là những thành công của Tô Hoài trong cách xây dựng nhân vật A Phủ.

Có thể nói qua hai nhân vật Tràng và A Phủ, cả hai nhà văn Kim Lân và Tô Hoài đã phát hiện và trân trọng những vẻ đẹp và phẩm chất cao quý của người lao động. Đồng thời qua số phận nhân vật, hai nhà văn đã bộc lộ niềm cảm thông chân thành, sâu sắc và mở lối đi cho nhân vật. Với những giá trị ấy, nửa thế kỷ trôi qua, tác phẩm “ Vợ chồng A Phủ” và “ Vợ nhặt” vẫn là tác phẩm có sức sống và có giá trị lâu bền nhất. Đó cũng chính là giá trị nhân đạo sâu sắc của hai tác phẩm. Vì những lẽ trên, Kim Lân và Tô Hoài rất xứng danh với nhà văn của những con người lao động chân chính.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân

So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt"

Phân tích nhân vật Tràng sáng hôm sau

Phân tích giá trị hiện thực và nhân đạo trong Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

1 6895 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: