TOP 10 mẫu Phân tích Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường (2024) SIÊU HAY

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" lớp 12 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 7,467 18/12/2023
Tải về


Phân tích Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Ai đã đặt tên cho dòng Sông

Dàn ý Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

1. Mở bài

- Giới thiệu về Hoàng Phủ Ngọc Tường và "Ai đã đặt tên cho dòng sông", giới thiệu cái tôi trữ tình của tác giả trong tác phẩm


2. Thân bài

a. Giải thích cái tôi trữ tình và khái quát cái tôi trữ tình của nhà văn
- Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm...của tác giả trước cuộc đời.
- Cái tôi trữ tình của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông" là cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và Hương giang.

b. Cái tôi mê đắm và tài hoa

- Miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý
+ Cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái, miêu tả dòng chảy của Hương giang từ thượng nguồn đến khi về đồng bằng
+ Dẫn chứng: "bản trường ca của rừng già", "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại", là "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở", "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức", "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế"...
=> Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng.

- Góc nhìn lịch sử về dòng sông.
+ Trong cái nhìn của nhà văn, sông Hương là "dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc".
+ Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.
- Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc.

- Tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật.
+ Đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng".
+ Lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú.
+ Đặc biệt, sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc "rầm rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và "say đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên".
=> Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.

c. Cái tôi uyên bác và giàu vốn hiểu biết
- Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả...
- Ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ đến: sông Hương giống như "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở".

- Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương.
+ Vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn... Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ.
+ Giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi".
=> Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

d. Cái tôi yêu tha thiết quê hương, xứ sở, Huế và sông Hương
- Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế.
- Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt
- Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác.
- Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.

3. Kết bài

- Đánh giá lại cái tôi trữ tình và phong cách tác giả, giá trị tác phẩm.

Bài giảng Ngữ văn 12 Ai đã đặt tên cho dòng Sông

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 1)

Văn chương là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim qua ngòi bút của người sáng tác. Khi những trang văn khép lại, cái còn đọng lại trong lòng người đọc chính là cái tôi trữ tình của tác giả. Nhắc đến cái tôi trữ tình trong văn học Việt Nam không thể không nhắc Hoàng Phủ Ngọc Tường với bút ký "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Cái tôi trữ tình của ông trong bài ký là cái tôi mê đắm lãng mạn, tài hoa, uyên bác và yêu say đắm quê hương, xứ Huế, ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc.

Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả. Hay thực chất là thế giới nội tâm, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm...của tác giả trước cuộc đời. Cái tôi trữ tình từ đó chính là yếu tố quan trọng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chung, cho cái tôi trữ tình của ông nói riêng. Qua bài ký, tác giả khéo léo thể hiện cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và dòng Hương giang.

Đến với "Ai đã đặt tên cho dòng sông", trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả là cái tôi Hoàng Phủ tài hoa và mê đắm, tinh tế và vô cùng lãng mạn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức, tình cảm và nhiệt huyết văn chương để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý. Ngay từ những câu văn đầu miêu tả thủy trình của dòng sông, nhà văn đã cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái. Ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên là "bản trường ca của rừng già", là "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại", là "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Khi rời núi rừng để về với đồng bằng, nó lại hiện lên giống như "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức". Lúc chảy giữa lòng thành phố thân thương, sông Hương lại là "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế", là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya", để rồi trước khi chia tay "người tình mà nó mong đợi" ở "thị trấn Bao Vinh xưa cổ" sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng. Nó không chỉ miêu tả được vẻ đẹp độc đáo của dòng sông mà còn thể hiện được lối tư duy sắc bén được nuôi dưỡng trong dòng cảm xúc đam mê và cảm hứng nghệ thuật.

Cái tôi mê đắm tài hoa của tác giả còn được thể hiện rõ nét qua góc nhìn lịch sử về dòng sông. Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là "dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Những năm tháng chiến tranh ác liệt, nó "biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công". Khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm "người con gái dịu dàng của đất nước". Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp vô cùng độc đáo của dòng sông Hương. Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc. Chỉ riêng việc miêu tả sông Hương đẹp như vẻ đẹp người con gái, tác giả đã sử dụng nhiều cách diễn đạt khác biệt. Khi thì là "cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại" khi là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya"; ở khúc khác lại "giống như nàng Kiều trong đêm tình tự"; "người con gái dịu dàng của đất nước"...

Tài hoa tinh tế trong cách cảm nhận vẻ đẹp sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn vô cùng tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Trong bài ký, có bao nhiêu góc nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được sử dụng. Tiêu biểu như đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Hay "qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế...".

Chúng ta có thể thấy được lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú. Từng từ từng chữ đều mang đậm hơi thở tài hoa của người nghệ sĩ. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc "rầm rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và "say đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên". Hình ảnh so sánh "đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu" hay "chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non" vô cùng ấn tượng và gợi cảm. Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.

Bên cạnh cái tôi mê đắm tài hoa, người đọc còn cảm nhận được cái tôi uyên bác và giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả... Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tường tận cả lịch sử của dòng sông. Ngoài tri thức địa lý, lịch sử đã ghi lại, ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ đến. Đó là vai trò quan trọng của Hương giang - "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Người ta có lẽ chỉ nhìn sông Hương qua vẻ bên ngoài của nó mà không biết được nó là khởi nguồn của cả một không gian địa lý và văn hóa Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hiểu rõ.

Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Đặc biệt là giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Nếu không có Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhiều người chắc chắn sẽ không bao giờ biết đến giai thoại này. Vì vậy, nó trở thành thông tin vô cùng hấp dẫn trong tác phẩm, nhấn mạnh cái tôi uyên bác của nhà văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ngoài ra còn thể hiện cái tôi trữ tình của nhà văn với tình yêu say đắm và sự gắn bó sâu sắc với quê hương, xứ sở, với Huế và Hương giang. Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt, sông Hương không đơn thuần là cảnh đẹp mà còn chiếm trọn tâm hồn ông. Chính con sông đã khiến trái tim ông chảy xuôi vô vàn cung bậc cảm xúc. Khi thì băn khoăn, trăn trở, khi lại nhớ đến nao lòng...

Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bởi vì yêu nên say sưa trong vẻ đẹp của dòng sông, cố gắng tìm hiểu và tinh thông tri thức, dành hết tài hoa để miêu tả thành hình trọn vẹn vẻ đẹp của nó. Hương giang là một phần của Huế, cũng là một dòng chảy trong rất nhiều dòng chảy của non sông. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.

Xuyên suốt bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn dắt người đọc theo dòng cảm chảy ấn tượng. Cái tôi mê đắm, tài hoa, cái tôi uyên bác, tinh tế cùng cái tôi yêu sâu sắc quê hương xứ sở hòa quyện vào nhau kết hợp cùng nghệ thuật ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ đó không chỉ vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp về dòng sông Hương cùng xứ Huế mộng mơ mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn cùng "Ai đã đặt tên cho dòng sông" bởi vậy đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc. Để rồi thời gian trôi đi, tác giả và tác phẩm vẫn lặng lẽ chảy mãi trong tâm hồn độc giả, giống như dòng chảy Hương giang không bao giờ ngừng lại.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 2)

Nhắc tới Hoàng Phủ Ngọc Tường là ta nhắc tới một người con xứ Huế với giọng văn hướng nội, uyên bác, tài hoa. “Ai đã đặt tên cho dòng sông” có thể coi là tác phẩm tiêu biểu nhất của nhà văn. Đọc bài kí, ta ấn tượng với cái tôi trữ tình đặc sắc của Hoàng Phủ Ngọc Tường.

Cái tôi trữ tình có thể được hiểu nôm na là thế giới nội tâm, là tâm hồn của riêng góp phần quan trọng hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.. Qua cái tôi trữ tình, người đọc cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng tác giả trước cuộc đời. Ở tùy bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông”, ta thấy được một Hoàng Phủ Ngọc Tường với cái tôi dạt dào cảm xúc và cẩn trọng trong tìm kiếm và khám phá.

Vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh, Hoàng Phủ Ngọc Tường - người trí thức yêu nước đã dành những lời văn hay nhất để ngợi ca dòng sông Hương xứ Huế, ngợi ca chủ nghĩa anh hùng, một tư thế tự do, tự tin và đầy tự hào. Có thể nói, nhà văn đã dành hết tâm huyết và tình cảm của cả một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Kể về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, nhà văn đã say sưa và khéo léo “đúc câu luyện chữ”: ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Với biện pháp sử dụng nhân hóa, nhà văn đã thổi hồn vào con sống khiến nó như một con người thật sự, biết uốn éo mình, bung xõa theo từng địa hình. Trở về với đồng bằng, dòng sông như "người gái đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại" được người tình mong đợi đến đánh thức. Rồi, "từ ngã ba tuần sông Hương theo hướng Nam Bắc qua điện Hòn Chén; vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang Tây Bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ, xuôi dần về Huế. Chảy qua núi rừng, Sông Hương đã chuyển dòng một cách liên tục, vòng giữa khúc quanh, khéo léo “uốn mình theo những đường cong thật mềm”. Về đến Huế, nó rũ bỏ hình ảnh hoang dại của mình trở thành dòng sông êm đềm, du dương, dịu dàng. Sông Hương khi chảy trong Huế, như đã tìm thấy chính mình khi gặp thành phố thân yêu, sông Hương “vui tươi hẳn lên giữa những bến bãi xanh biếc của vùng ngoại ô Kim Long”, dòng sông “kéo một nét thẳng thực yên tâm theo hướng tây nam – đông bắc”, rồi “uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến” khiến dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói là của tình yêu”. Nhà văn đã thật tâm huyết khi cảm nhận sông Hương ở nhiều góc độ: nhìn bằng con mắt của hội hoạ, sông Hương và những chi lưu của nó tạo những đường nét thật tinh tế làm nên vẻ đẹp cổ kính của cố đô; qua cách cảm nhận âm nhạc, sông Hương “đẹp như điệu Slow” chậm rãi, sâu lắng, trữ tình và với cái nhìn đắm say của một trái tim đa tình, sông Hương là người tình dịu dàng và chung thuỷ. Điều này được diễn tả trong một phát hiện thú vị của tác giả: “Rời khỏi kinh thành, sông Hương chếch về hướng chính bắc, ôm lấy đảo Cồn Hến quanh năm mơ màng trong sương khói, đang xa dần thành phố để lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vườn cau vùng ngoại ô Vĩ Dạ. Và rồi, như sực nhớ lại một điều gì chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông tây để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bảo Vinh xưa cổ”. Cũng theo tác giả khúc quanh thật bất ngờ đó, tựa như một “nỗi vương vấn”, và dường như còn có cả “một chút lẳng lơ kín đáo” của tình yêu… Tác giả đã rất tài tình khi so sánh nhịp chảy bất ngờ này với một chút “lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những lời hay ý đẹp trong tác phẩm hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông.

Từ góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của cái “tôi” trữ tình. Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Dòng sông không chỉ là một cô gái dịu dàng trong câu chuyện tình yêu, mà còn là một dòng sông chiến sĩ đã bảo vệ đất nước trong mấy nghìn năm lịch sử. Hương giang mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt :

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa

(Huy Cận)

Bằng ngòi bút dạt dào cảm xúc và cái tôi trữ tình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đã vẽ nên một sông Hương trữ tình, đầy chất thơ. Nhà văn đã nhiều lần ví sông Hương với người thiếu nữ quyến rũ, gợi cảm : “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu dàng của đất nước”. Ví sông Hương như những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ của con sông cố đô, liên tưởng sông Hương với những trang Kiều của Nguyễn Du, ông mang lại những ấn tượng về dòng sông thơ mộng, thấy “sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều khiến dòng sông nên thơ, nên họa.

Cả bài tuỳ bút giống như một cuộc hành trình thú vị tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông?". Phải chăng đây là câu hỏi bâng quơ của một người nghệ sĩ khi đến với Huế? Hay nó là một câu hỏi chất chứa đầy ngụ ý của tác giả nhằm xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. Có thể thấy, khi tìm hiểu về sông, nhà văn đã rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Từ đó, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần... Cái tôi uyên bác đã giúp nhà văn khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương. Đó là có lúc, dòng sông mang vẻ trầm mặc, cổ thi khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; cũng có lúc, nó lại là dòng sông thi ca, nguồn cảm hứng bất tận của nghệ thuật. Đặc biệt là giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Nếu không có Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhiều người chắc chắn sẽ không bao giờ biết đến giai thoại này. Chính giai thoại ấy đã góp phần quan trọng tạo nên sự hấp dẫn cho bài kí, nhấn mạnh cái tôi uyên bác của nhà văn. Chỉ bằng một bài tùy bút vài trang giấy, Hoàng Phủ Ngọc Tường mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

Sẽ thật là thiếu sót nếu ta không đề cập tới vẻ đẹp của ngôn từ trong tác phẩm. Sự tài hoa của cái tôi tác giả thể hiện rõ trên từng câu chữ. Người ta thường nói "Thi trung hữu hoạ" hay "Thi trung hữu nhạc". Nhưng ở đây, ta lại thấy một sự hòa quyện hoàn hảo giữa chất nhạc, chất họa và chất thơ trong chữ nghĩa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Điển hình khi đoạn nhà văn miêu tả con sông Hương ở thượng lưu : “rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Hay như đoạn nhà văn miêu tả sông Hương rời khỏi vùng núi xuôi về đồng bằng chuẩn bị vào lòng thành phố Huế : “qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế. Từ Tuần về đây, sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn, vượt qua một lòng vực sâu dưới chân núi Ngọc Trản để sắc nước trở nên xanh thẳm, và từ đó nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như thành quách”. Qua hai đoạn văn, ta thấy một lối hành văn uyển chuyển, ngôn từ đa dạng và giàu hình ảnh. Có thể nói, từng đường đi nước bước của con sông đều được cái kho ngôn ngữ giàu có và tài hoa ấy làm cho thỏa mãn. Mỗi nét bút lại khiến ta liên tưởng tới một nét vẽ tài hoa của người họa sĩ, một động tác chạm khắc tinh xảo của nhà điêu khắc mà qua đó, vẻ đẹp của sông Hương lại hiện ra thật đặc sắc, thật chân thực. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nâng niu từng con chữ, sắp xếp chúng theo một lối riêng nhằm tạo ra những ý văn hay, những câu văn đẹp. Dường như mỗi góc nhìn, về con sông lại có kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, độc đáo.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương đâu chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết về dòng sông mà còn bằng cảm nhận và hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy một cách sâu sắc và thấm thía rằng, không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình lịch sử cùng với diện mạo văn hoá do con người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một diện mạo, dáng vẻ và cả một tâm hồn.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 3)

“Nghệ thuật bao giờ cũng là tiếng nói của tình cảm con người, là sự tự giãi bày và gửi gắm tâm tư”, đọc kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” ta bắt gặp Hoàng Phủ Ngọc Tường với một cái tôi tài hoa uyên bác luôn tha thiết với sông Hương xứ Huế. Cái tôi đặc sắc không trộn lẫn ấy đã đóng một dấu triện riêng vào dòng chảy văn học và tâm hồn người đọc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường được biết đến với vai trò vừa là nhà văn vừa là nhà thơ gắn bó sâu nặng với Huế. Những trang văn của ông đặc biệt là Ai đã đặt tên cho dòng song? Đã khơi dậy tâm hồn Huế và dẫn dắt người đọc vào những vùng trầm tích của văn hóa kinh xưa. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” được lấy từ tập kí cùng tên, nhan đề tác phẩm khơi gợi cho người đọc thấy cả tác phẩm kí không chỉ là những ghi chép, quan sát thông thường mà là sự kiếm tìm khám phá vẻ đẹp của sông Hương xứ Huế.

Nguyễn Trọng Tạo đã từng khẳng định Hoàng Phủ Ngọc Tường là “một cuốn từ điển sống về Huế” và trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? Cái “tôi” uyên bác trí tuệ dược thể hiện trọn vẹn trong những trải nghiệm sâu sắc và hiểu biết sâu rộng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng những tri thức văn hóa để lí giải điệu trôi lặng tờ của sông Hương trong lòng thành phố Huế: tác giả vận dụng kiến thức địa lí “Những chi lưu ấy, cùng với hai hòn đảo nhỏ trên sông đã làm giảm hẳn lưu tốc…”giúp người đọc hiểu rõ lưu tốc dòng sông trôi đi thực chậm như một mặt hồ yên tĩnh là do sự hiện diện của hai hòn đảo nhỏ và những chi lưu mang nước sông Hương đi khắp phố phường. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn vận dụng những tri thức văn hóa phong phú khi so sánh sự tương đồng và tương phản của sông Hương với những dòng sông nổi tiếng trên thế giới. Hương Giang cũng như sông Xen của Paris, sông Đa-nuýp của Bu-đa-pét đều gắn liền và biểu tượng cho thành phố thân thương của nó. Tuy nhiên nếu sông Xen và Đa-nuýp phản chiếu cái hoa lệ của đô thi hiện đại thì sông Hương lại lưu giữ trong lòng mình những nét cổ điển trầm mặc của những đền đài lăng tẩm của những cây đa, cầy cừa tỏa bóng u sầm. Tác giả còn so sánh cái điệu chảy lặng tờ của sông Hương với dòng chảy nhanh của dòng sông Nê-va qua cung điện Pê-téc-bua đổ ra Ban-tích mang theo những tảng bang trôi nhanh như tàu tốc hành để thêm yêu cái điệu chảy lập lờ nửa như muốn đi nửa như muốn ở của con sông quê hương. Cái “tôi” uyên bác còn được thể hiện khi tác giả nhìn con sông dưới góc nhìn lịch sử từ dòng sông biên thùy xa xôi thời vua Hùng đến dòng Linh Giang bảo vệ biên giới tổ quốc phiá Nam Đại Việt,qua những năm tháng dưới thời vua Quang Trung rồi đến thời kỳ máu lửa của chiến tranh sông Hương đã sống hết mình với lịch sử, nó đx chịu nhiều mất mát đau thương, góp mình dựng xây Huế và đất nước. Từng tri thức lịch sử được cái “tôi” am tường lịch lãm của Hoàng Phủ sắp xếp khai thác đã biến sông Hương thành con sông sử thi con sông của lịch sử.

Bên cạnh đó cái “tôi” uyên bác còn được thẻ hiện ở những trải nghiệm sâu sắc với những suy tư đa chiều, bằng sự tinh tế trong những trải nghiệm âm nhạc, Hoàng Phủ Ngọc tường đã phát hiện sự gắn kết giữa sông Hương với âm nhạc Huế. Tác giả như cảm nhận được toàn bộ phần hồn của sông Hương đã thăng hoa, quyền hòa trong âm nhạc cung đình khi khẳng định rằng:”toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này, trong một khoang thuyền nào đó, giữa tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo khuya.” Sông Hương không chỉ sinh thành và nuôi dưỡng văn hóa cố đô mà điệu chảy của sông Hương chính là điệu chảy của tâm hồn Huế, nhịp trôi của dòng sông chình là nhịp sống của miền đât kinh xưa. Bằng sự lịch lãm của những trải nghiệm văn chương,văn hóa,… Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra mối liên hệ điệu cháy sông Hương với những trang Kiều, người nghẹ nhân già đọc Kiều mà thấy âm vang của nhã nhạc cung đình Huế thứ ấm nhạc cố đô sinh thành từ người mẹ phù sa sông Hương. Và phải chăng những trang Kiều mang âm vang của mặt nước sông Hương mà tạo nên những bản đàn đi suốt cuộc đời Kiều? Với những trải nghiệm sâu sắc Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương ở chiều sâu, khơi gợi bóc tách trước ắt người đọc những lớp trầm tích văn hóa ẩn chìm trong lòng sông Hương.

Đi liền với sự uyên bác thì trong cái “tôi” Hoàng Phủ đó là sự tài hoa không trộn lẫn: tác giả nhìn con sông Hương không chỉ đơn giản là một con sông thuộc về một thành phố mà trong mắt ông Hương Giang là một người con gái đẹp với những vẻ đẹp độc đáo và Hoàng Phủ Ngọc Tường lại chính là chàng trai đang trên hành trình khám phá vẻ đẹp của người con gái. Khi thì sông Hương là cô gái Di-gan phóng khoáng man dại, lúc lại là người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở, ông còn ví sông Hương như “ngườ gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng châu hóa đầy hoa dại” với những nét mềm mại dịu dàng tròng lòng thành phố Huế. Không chỉ thế cuộc gặp gỡ giữa sông Hương và xứ Huế được nhìn qua lăng kính tình yêu đầy lãng mạn của tác giả, ông ví cuộc gặp gỡ này như cuộc gặp gỡ Kim-Kiều-một thiên diễm tình khơi gợi nên những cảm xúc tình tế say mê. Và trên hành trình hướng về thành phố thân yêu của nó, sông Hương đã tự thay đổi mình để hòa vào cái hồn chung của xứ Huế đặc biệt hình ảnh cây cầu Tràng Tiền biểu thượng của Huế như vần trăng non in trên nền trời giống như tín hiệu của tình yêu, biểu tượng của tình yêu giúp con sông biết nơi mà nó muốn tới.

Cái “tôi’ tài hoa còn ghi dấu vào những trang kí những ấn tượng về những liên tưởng phong khoáng lãng mạn đậm chất “tài tử tài tình” của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Những liên tưởng như ‘tiếng vâng không nói ra của tình yêu”, “điệu slow tình cảm” hay “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya” . Sự ngọt ngào , gợi cảm của ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường đã biến sông Hương trở thành một cô gái Huế dịu dàng e ấp trong chất thơ huyền hoặc quyến rũ làm say đắm lòng người, mặt khác nhà văn cũng phả hồn mình vào dòng nước trong cái mê đắm cua một tình yêu sâu nặng với sông Hương xứ Huế. Ngôn ngữ tinh tế và cách hành văn hướng nội, tài hoa của tác giả đã khăc họa sông Hương hiện lên mang vẻ đẹp của trầm tích văn hóa qua cái nhìn hướng vào bên trong khám phá tâm hồn sông nước của Hongaf Phủ Ngọc Tường. Cả tác phẩm kí đều sóng sánh chất thơ quyến rũ với giọng điệu, lời văn giàu hình ảnh, nhạc điệu làm nên những trang viết “tài hoa, tài tử, tài tình”

‘Hoàng Phủ Ngọc Tường đã trầm hồn mình với đất trời sông nước xứ Huế” mà sáng tác nên những trang kí khắc họa trọn vẹn vẻ đẹp sông Hương vừa đa sắc biến ảo lại thẳm sâu hấp dẫn. Phải chăng sông Hương đã trao cả nhan sắc và tâm hồn mình cho Hoàng Phủ Ngọc Tường hay chính ngòi bút Hoàng Phủ đã làm nổi bật cả nhan sắc và linh hồn của con sông xứ Huế? Không chỉ vậy qua những dòng kí được tác giả dụng công sáng tác ta thấy được một cái “tôi’ tài hoa uyên bác và luôn đắm say trước vẻ đẹp của sông Hương, xứ Huế được “xây bằng khói và sương”.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 4)

Một chiều thu xưa cũ, tôi ngồi nghe lại khúc “Diễm xưa” của Trịnh Công Sơn: “Xin hãy cho mưa qua miền đất rộng / Ngày sau sỏi đá cũng cần có nhau”. Đã mấy thập kỉ trôi qua, mà nhạc Trịnh vẫn khiến người ta si mê nhiều đến thế. Vậy điều gì đã thực sự làm nên giá trị của một tác phẩm nghệ thuật? Tôi thiết nghĩ đó là trái tim, là tài năng và là cái “tôi” của một người nghệ sĩ. Không có Trịnh, sẽ chẳng có một “Diễm xưa”, sẽ chẳng có những lời ca gieo vào lòng người biết bao nhiêu là thổn thức. Trịnh, hay chính tài năng của Trịnh, cái “tôi” của Trịnh đã tạo nên thứ nghệ thuật thoát li ra khỏi mọi định luật băng hoại của thời gian ấy. Chẳng riêng gì âm nhạc, câu chuyện sáng tạo nghệ thuật là câu chuyện của muôn đời, muôn thời, muôn người nghệ sĩ. Phải lăn lộn với nghề nhiều năm, phải thực sự gắn bó với kiếp sống của đời nghệ sĩ “uống mặn nồng nhưng chỉ thấy chua cay”, phải đau đớn thay cho những thân kiếp sống trên đời, phải thương yêu vạn vật tất thảy, phải xót xa cho những gì đã mất, và hoài tiếc cho những thời đã qua, người nghệ sĩ mới có đủ trải nghiệm, đủ dạn dĩ để chắp nên những áng văn chương bất hủ. Đi nhiều, nghĩ nhiều, ngẫm nhiều, sống nhiều, người nghệ sĩ mới có thể phát kiến ra và đưa vào trong những trang sách cái “tôi” của riêng mình. Và Hoàng Phủ Ngọc Tường với tuyệt bút “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã tỏ rõ cho hậu thế hôm nay và mai sau cái “tôi” của một đời văn nhân trào dâng nới đầu ngọn bút.

Sáng tạo nghệ thuật là biểu hiện rực rỡ của các phạm trù: cái chủ quan, cái cá biệt, cái đặc thù, cái không lặp lại trong tài năng của nghệ sĩ. Cá tính sáng tạo biểu hiện ở cái nhìn nghệ thuật độc đáo, ở cách cảm nghĩ của nhà văn có khả năng đề xuất những nguyên tắc, biện pháp nghệ thuật mới mẻ, tạo thành một ngôn ngữ nghệ thuật mới trong việc biểu hiện những nội dung mới của đời sống và tư tưởng. Nếu cá tính sáng tạo của nhà văn mờ nhạt, không tạo ra được một tiếng nói riêng, một giọng điệu riêng thì đó chính là sự tự sát trong văn học. Bởi lẽ “tự tử đói với người nghệ sĩ không phải phát súng hay dây thừng mà là khi ngồi vào bàn viết anh ta không viết được điều gì mới mẻ”. Vậy nên các nhà văn, nhà thơ đều ý thức được việc “làm người thì không nên có cái tôi nhưng làm thơ thì không thể không có cái tôi”. Cái “tôi” được hiểu là nét riêng, điểm khác biệt của mỗi cá nhân. Trong lĩnh vực nghệ thuật, cái “tôi” không chỉ thể hiện con người mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của tác giả. Chính nhờ cái tôi đó mà người nghệ sĩ kia mới có thể tạo ra cho mình một dấu triện riêng trên bến văn đàn, để mỗi tác phẩm nghệ thuật của mình mang hình hài một chiếc lá, thả mình vào dòng chảy niên viễn của thời gian.

“Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là một trong những thiên tùy bút của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà Tô Hoài nhận xét: “Hoàng Phủ Ngọc Tường trầm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời, sông nước của Huế”. Ông đã lắng nghe rất kĩ, ghi tạc rất sâu những khoảnh khắc tưởng đâu chừng đã quá đỗi dung dị , quá đỗi đời thường của dòng Hương giang ấy, để khi những dệt rung cảm tế vi, mến thương ấy ngập tràn trong đôi mắt; tâm thức ông, ngòi bút ông sẽ viết, thật đẹp và thật hay. Tài liệu của trang thayhieu.net. Ông viết về sông Hương như viết đôi ba dòng thư tình dành tặng người con gái mình yêu, ban sơ và bình dị. Và chắc cũng vì cái lẽ đó mà thứ còn lại sau một lời “phu chữ” của ông chính là những áng văn chương về sông Hương được chắp nên từ cái “tôi” tài hoa, uyên bác và nặng lòng với quê hương xứ sở.

Tuy nói “Ai đã đặt tên cho dong sông?” có phần nhiều nghiêng về tùy bút, tức là thiên về chất trữ tình và sự phóng khoáng nhưng cái hồn cốt của nó không vì thế mà mất đi. Bản chất của kí là ghi chép và người viết chính là “thư kí trung thành của thời đại”. Hoàng Phủ Ngọc Tường là một người thư kí như thế và thậm chí là một “thư kí” xuất sắc của dòng Hương giang. Ông am tường về sông Hương trên mọi bình diện lịch sử, văn hóa, địa lí. Ở góc độ địa lí, Hoàng Phủ Ngọc Tường tìm hiểu sông Hương trực tiếp ở thượng nguồn để phát hiện nhiều vẻ đẹp khác nhau của dòng sông. Đây là dòng sông có mối quan hệ mật thiết với dãy Trường Sơn. Có lẽ vì thế mà nó mang trong mình dáng dấp của một bản trường ca rừng già với tiết tấu hùng tráng, dữ dội. Với dòng Hương giang, ông không chỉ thân thuộc từng cái “chuyển dòng”, từng khúc “uốn mình” “vòng giữa”, từng đường cong, từng ngã rẽ; không chỉ nắm bắt từng chỗ cuộn xoáy, từng chỗ yên ả, phẳng lặng… của con sông trong từng không gian địa lí mà còn là cả một chiều dài “bốn nghìn năm đất nước”, từ thuở “nó còn là một dòng biên thùy xa xôi của đất nước các vua Hùng”. Trong cái nhìn về địa ví và lịch sử, ông không chỉ am tường về những kiến thức đã có trong các tư liệu mà còn là cả những kiến thức không mấy người biết đến và nghĩ đến, ông cũng đều thấu tỏ tận tường. Ấy là vai trò của dòng sông – “người mẹ phù sa của vùng văn hóa xứ sở”. Bấy lâu nay khi viết về sông Hương, bất kì người nghệ sĩ nào cũng đắm chìm trong vẻ đẹp “phóng khoáng và man dại” của “cô gái Di-gan” sắc nước nghiêng thành. Hoàng Phủ Ngọc Tường, con người dành trọn một hành trình sống của mình để yêu và thương sông Hương, đã thoát ra khỏi kiểu đồng phục tư tưởng để chạm khắc nên dòng sông trên con đường độc đạo của riêng mình. Dưới ngòi bút của ông, Hương giang mang trong mình vẻ đẹp dịu dàng, toàn bích và đầy trí tuệ, nuôi dưỡng những đứa con xứ Huế, bồi đắp nên nền văn hóa hai bên bờ sông cho cố đô bằng dòng phù sa ngọt ngào, ấm nóng. Đã mấy mươi thế kỉ trôi qua, trải qua bao bể dâu của cuộc đời, bao hưng phế của thời đại, sông Hương vẫn thế, vẫn lặng lẽ, vẫn âm thầm cống hiến, bồi đắp phù sa để hình thành nên nền văn hóa rực rỡ, giống như một người mẹ hiền lúc nào cũng thầm lặng hi sinh, chịu đựng, tất cả vì những đứa con thương yêu, chẳng mưu cầu đáp trả, chỉ mong sao “mai này con ta lớn lên/ con sẽ mang đất nước đi xa/ đến những tháng ngày mơ mộng”.

Nhưng thú vị nhất vẫn là những khám phá, phát hiện và miêu tả của nhà văn về sông Hương dưới góc độ văn hóa. Dấu tích văn hóa ở cả trên và hai bên bờ sông. Đó là “vẻ đẹp trầm mặc như triết lí, như cổ thi” của “người con gái dịu dàng của đất nước” khi chảy qua lăng tẩm của những vua chúa triều Nguyễn; là cái nôi của nền âm nhạc cố đô. Đó còn là dòng sông thi ca – nơi đã khơi nguồn cảm hứng cho biết bao thế hệ văn nghệ sĩ nói chung và các nhà thơ nói riêng. Như Cao Bá Quát đã từng nhìn sông Hương mà thốt lên rằng: “Trường Giang như kiếm lập thanh thiên”. Như Hàn Mặc Tử đứng trước dòng sông mà trắc ẩn, bồi hồi: “Thuyền ai đậu bến sông trăng đó / Có chở trăng về kịp tối nay”. Tài liệu của trang thayhieu.net. Như Thu Bồn đã từng nhìn điệu chảy lững lờ của Hương giang mà băn khoăn “Con sông dùng dằng, con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”. Hay như một con sông Hương cứ mãi quan hoài trong nỗi sầu vạn cổ của Bà Huyện Thanh Quan, có sức mạnh phục sinh tâm hồn trong thơ của Tố Hữu. Quả không ngoa khi nói sông Hương là mảnh đất hiện thực màu mỡ, luôn nghiêng mình hiến dâng thứ mực trân quý nhất, để mỗi nhà văn khi đến nơi đây đều có thể chấm bút vào nghiên mà chưng cất nên “những trang sách suốt đời đi vẫn nhớ/ như đám mây ngũ sắc ngủ trên đầu”.

Có thể nói bằng những hiểu biết phong phú, nhà văn đã cung cấp cho người đọc một lượng thông tin lớn về địa lí, lịch sử, văn hóa Huế nói chung và sông Hương nói riêng. Vốn kiến thức sâu rộng đó hẳn phải là kết quả của nhiều chuyến du lãm và du khảo trên dặm dài mảnh đất cố đô. Nhưng cái chính vẫn là những trang văn về Hương giang đã đuộc tưới tắm trong vô vàn những cung bậc cảm xúc của tác giả, đã thăng hoa trong cảm giác mê đắm của một đời văn nhân.

Cái “tôi” của tác giả còn là một cái “tôi nặng lòng với quê hương, xứ sở. Chắc rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường phải yêu, phải thương cái mảnh đất này lắm mới có thể lột tả dòng sông quê hương một cách xuất sắc đến vậy. Ông đã dành toàn bộ tâm huyết của mình để theo dõi toàn bộ thủy trình với vốn hiểu biết sâu rộng về các kiến thức liên quan. Chính vì thế, những áng văn của ông luôn là những gì trong veo, ban sơ nhất của dòng sông Hương tự buổi hồng hoang. Và vì thứ tình cảm nồng đượm đối với những điều dung dị, đời thường nhất của dòng sông Hương như thế nên con chữ ông chính là thứ còn lại của một thời đại, một đời văn nhân yêu mến những điều nhỏ bé, những vẻ đẹp mong manh cơ hồ tựa mảnh trời xanh như muốn vỡ ra dưới hiên nhà một chiều nắng nhạt. Chính con sông đã khiến trái tim ấy, tâm hồn ấy, con người ấy phải ngân rung lên những nhịp yêu thương với nhiều cung bậc khác nhau: khi thì băn khoăn, trăn trở, e ngại con người; khi lại khắc khoải đến nao lòng một nét sông Hương với điệu chảy lững lờ mà ông gọi là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế; có khi “thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày” bởi “toàn bộ nền âm nhạc cổ điển Huế đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này”… Những cảm xúc ấy chỉ là một trong số rất nhiều những biểu hiện của tình cảm gắn bó yêu thương đối với sông Hương mà nhà văn đã trực tiếp nói ra và kín đáo thể hiện. Tình cảm đối với sông Hương của Hoàng Phủ Ngọc Tường, xét cho đến cùng, là tình cảm đối với đất nước, là tấm lòng yêu mến quê hương xứ sở đến độ nồng cháy của nhà văn. Tài liệu của trang thayhieu.net. Tôi tự hỏi nếu không phải xuất phát từ cái tình chân thành, nồng cháy đó thì làm sao ông có thể viết, làm sao con chữ của ông có thể chạm được đến những khoái cảm thẩm mĩ của biết bao thế hệ? Con chữ dưới ngòi bút ông được ướp đắp trong men say của cái tình thuần khiết ấy, của cái tình chân thành và dung dị nhất, dễ gây thương nhớ nhất. Và vì thế, văn của con người ấy bao giờ cũng ẩn mình dưới lớp ngôn từ dịu nhẹ, một vùng ánh sáng lấp lánh mà chỉ ai trân quý cái đẹp, trân quý dòng Hương giang và trân quý quê hương, xứ sở mới có thể tỏ tường.

Và cái “tôi” tinh tế, lãng mạn với trí tưởng tượng phong phú, bay bổng chính là điều cuối cùng giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường đặt dấu triện của mình vào văn đàn Việt Nam hiện đại. Nghệ thuật chính là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Hiện thực cuộc sống chính là kho đề tài vô tận để người nghệ sĩ khám phá, phát hiện. Nhưng đối với mỗi cây bút, nó lại được chiếu rọi dưới một thứ ánh sáng riêng. Nghệ sĩ chân chính là người biết khai thác những ấn tượng riêng, chủ quan của mình và biết làm cho ấn tượng ấy có hình thức riêng biệt, độc đáo. Ý thức được sự lặp lại tẻ nhạt chính là cái chết của nghệ thuật, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm cho mình “một giọng nói riêng không thể tìm thấy ở bất kì cuống họng nào khác”. Ông viết về sông Hương như viết về một người tình với mối lương duyên tự ngàn xưa. Sông Hương dưới ngòi bút của ông hiện lên với những nét tính cách độc đáo và vẻ đẹp phong phú. Khi sống giữa lòng Trường Sơn, sông Hương mang trong mình dòng máu của một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Nhưng khi vừa đặt chân ra khỏi cánh rừng đại ngàn, nó chuyển mình, mang nét đẹp dịu dàng, đắm say để bắt đầu một cuộc tìm kiếm có ý thức, tìm kiếm người tình trong mộng. Tài liệu của trang thayhieu.net. Thế nên đoạn chảy này được tác giả so sánh như một cuộc tìm kiếm và đuổi bắt, đầy hào hoa và đam mê. Nét dịu dàng, đắm say ấy thoáng chốc tan biến để nhường chỗ cho cái vẻ “trầm mặc”, “cổ thi” khi “người con gái ấy” uốn mình qua những lăng tẩm, tạo cảm giác như dòng sông Hương đang chiêm nghiệm, đang thành kính nghĩ suy về một thời quá khứ vàng son dựng nước và giữ nước. Nhưng cũng rất nhanh thôi, sông Hương lại tìm về với cái sức sống vốn có của nó, bừng sáng và trẻ trung khi nghe thấy âm thanh của thành phố; e ấp và thẹn thùng khi nằm trong vòng tay của kinh thành Huế như người con gái cuộn mình trong cái ôm của tình nhân. Rồi khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lại tìm về với vẻ đẹp mơ màng, hư ảo khi đi qua những nương dâu, lũy trúc và những hàng cau thôn Vĩ Dạ. Và khi nó “đột ngột chuyển dòng như sực nhớ ra một điều gì chưa kịp nói”, tác giả lại gọi đấy là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo trong tình yêu. Đặc biệt hơn cả, trong suốt hải trình của mình, sông Hương luôn được hình dung như một “người gái đẹp” với nhiều dáng vẻ, nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau. Sáng tạo nghệ thuật chính xác là một hình thức “tự rủ mình vào cửa khó” nhưng nhà văn của chúng ta đã không ngần ngại mà “vật lộn với con chữ của đời” để viết nên những áng văn chương “không trộn lẫn”. Thử hỏi có được mấy ai dám cầm bút mà đặt vào so sánh giữa cái cụ thể là dòng sông Hương và cái trừu tượng là vẻ đẹp “như triết lí, như cổ thi”? Thử hỏi có được mấy ai nghĩ đến dòng sông Hương như một “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”? Thử hỏi có được mấy ai dám đặt dòng sông xứ sở mình lên bàn cân so sánh với con sông Nê-va trứ danh thế giới? Không, không ai làm được điều đó, ngoại trừ ông, Hoàng Phủ Ngọc Tường cùng cái “tôi” tinh tế và lãng mạn mới đủ dạn dĩ mà chắp bút viết nên một thiên tùy bút lặng đọng trong lòng người đọc bao thế hệ.

Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương dương như đã hóa thành máu thịt ông, tâm hồn ông, thể xác ông. Bởi thế dù trong những trang văn, dấu chân lữ hành của ông đã lang thang qua sông Seine của Pháp hay dòng Volga nước Nga; đi suốt những dòng sông Việt từ sông Hồng, sông Đuống, sông Lô đến dòng Hiền Lương, Thạch Hãn quê nhà hay yêu đến tận tụy dòng Thu Bồn xứ Quảng, sông Cồn đất võ, những dòng sông phương Nam đỏ nặng phù sa… thì cuối cùng, còn lại với Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn là những nhịp yêu thương dành dụm, góp nhặt dành cho sông Hương trào dâng qua đầu ngọn bút. Và vì thứ văn chương của ông bước ra từ chính những tình cảm ấp iu, nồng đượm đó nên cái “tôi” của ông trên từng con chữ không hề khiên cưỡng mà lạ thay lại rất tự nhiên, ban sơ đến nghẹn ngào. Cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường là sự hội tụ cái tài, cái tâm của một đời cầm bút. Đó là cái “tôi” nặng lòng với sông Hương, với xứ Huế, với quê hương đất nước mình. Đó cung là cái “tôi” uyên bác, tài hoa trong nghệ thuật thể hiện của thể bút kí.

Bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” đã làm rõ cái “tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường và như một lời khẳng định tên ông trên bến văn đàn. Bởi lẽ làm một nhà văn không phải chuyện dễ dàng vì ở họ không chỉ hội tụ về nhân cách bản chất thẩm mĩ cuộc sống, của con người mà họ còn phải nắm bắt được trọn vẹn những phong phú, đa dạng và chuyển biến trong từng khoảnh khắc. Và vì thế cho nên họ luôn phải sống sâu để cảm nhận được hết những “phong phú và đa dạng ấy”. Bên cạnh đó, họ còn phải là một “con người lớn” và rành rọt mọi chuyện “bếp núc” của văn chương: Đó chính là cái “tôi” lớn của một đời lăn lộn với chữ nghĩa – bởi vì nó cũng chính là một trong những nhân tố quyết định cho “hơi thở”, cho sức sống của một tác phẩm vĩ đại, một nhà văn vĩ đại!

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 5)

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một trong những thiên tùy bút xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả của nó từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Tác phẩm lần đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở trường THPT và đã nhận được sự hưởng ứng, thích thú của nhiều giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, một tác phẩm hay đôi khi lại không dễ dạy, không dễ học. Vì thế, bên cạnh những thích thú, yêu mến nhất định, nhiều thầy, cô giáo và học sinh còn gặp khó khăn trong cách cảm nhận về cái hay, cái đẹp của bài kí. Trong một bài viết đã đăng tải trên tạp chí Dạy và học ngày nay số Xuân Giáp Dần năm 2010, chúng tôi đã nêu ra một cách tiếp cận hình tượng sông Hương, nay tiếp tục cung cấp thêm một hướng khai thác hình tượng tác giả trong bài kí. Bởi như chúng ta đã biết, ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới mẻ mà còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ bộc lộ mình như một người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế. Đọc bài kí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tinh huyết của một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông Hương là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Dường như nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là góc nhìn địa lý. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn đơn thuần là một dòng chảy địa lý mà nó giống như sinh thể có tâm trạng, nó là một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc. Cũng như những dòng sông khác trên đất nước Việt Nam, như con người Việt Nam, nó mang trong mình vẻ đẹp truyền thống đã làm thành bản sắc văn hóa Việt :

Đạp quân thù xuống đất đen
Súng gươm vứt bỏ lại hiền như xưa

(Nguyễn Đình Thi)

Sống vững trãi bốn nghìn năm sừng sững
Lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hòa

(Huy Cận)

Có thể nói, bằng tình yêu và tài năng của mình, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm kiếm, phát hiện và khẳng định những vẻ đẹp khác nhau của sông Hương. Hành trình chữ nghĩa ấy về con sông xứ Huế không chỉ nói lên tình cảm yêu mến, sự say mê đến độ đắm đuối của nhà văn trước những vẻ đẹp độc đáo, đa dạng của Hương giang mà còn cho thấy sự tài hoa, chất lãng mạn bay bổng của tác giả.

Nói đến sự tài hoa của Hoàng Phủ Ngọc Tường, thiết nghĩ trước hết phải nói đến cách nhìn nhận và phát hiện của nhà văn về vẻ đẹp của dòng sông. Ở đây, sông Hương không hiện lên với một vẻ đẹp thuần nhất mà hiện ra trong những vẻ đẹp khác nhau và hết sức phong phú. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng thú vị cho độc giả. Chỉ riêng việc hình dung vẻ đẹp của sông Hương như vẻ đẹp của người thiếu nữ, ta đã thấy ít nhất năm lần trong đoạn trích này sông Hương mang những nét quyến rũ riêng : “cô gái Di – gan phóng khoáng và man dại”; “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại”; “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”; “giống như nàng Kiều trong đêm tình tự”; “người con gái dịu dàng của đất nước”. Ngoài những “mệnh đề” đã được khái quát như thể chỉ dành riêng cho sông Hương, các đoạn miêu tả dòng chảy uốn lượn của con sông đều đem đến cảm nhận về vẻ đẹp gợi cám, đáng yêu của người thiếu nữ. Khi thì giống như những đường cong trên thân thể người con gái : “sông Hương đã chuyển dòng liên tục, vòng giữa những khúc quanh đột ngột, uốn mình theo những đường cong thật mềm”; khi thì như tấm lụa mềm mại “dòng sông mềm như tấm lụa”; có lúc lại giống cái dáng vẻ yêu kiều và tiếng nói dễ thương của người gái đẹp : “sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang đến Cồn Hến, đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu”…

Có thể thấy, trí tưởng tượng phong phú và những liên tưởng mạnh mẽ đã cung cấp cho tác giả những cách nhìn khác nhau về sông Hương. Không những thế, nó còn cung cấp nguyên liệu cho những suy cảm của cái tôi trữ tình về con sông yêu dấu. Trong những suy cảm ấy, không ít suy cảm sao mà đẹp, mà đầy chất thơ và độc đáo, cuốn hút đến lạ thường. Chẳng hạn như khi cái tôi tác giả hình dung sông Hương ở thượng nguồn như “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”. Ai cũng biết những cô gái Di-gan hay Bô-hê-miêng là những người thích sống lang thang, tự do và yêu ca hát. Họ mang trong mình vẻ đẹp nguyên sơ, bản năng, tự nhiên đầy quyến rũ. Ví sông Hương như những cô gái Di-gan, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã khắc vào tâm trí người đọc một ấn tượng mạnh về vẻ đẹp hoang dã nhưng cũng rất tình tứ của con sông xứ Huế. Đặc biệt, trong cách nhìn và cách nghĩ về Hương giang, nhà văn rất hay liên tưởng sông Hương với những trang Kiều của Nguyễn Du. Chẳng hạn, ông đã nhìn thấy sự tương đồng giữa những bức tranh phong cảnh trong truyện Kiều với khung cảnh thiên nhiên hữu tình của Huế, của dòng sông Hương thơ mộng : “dòng sông đáy nước tin trời và nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết”. Ông đã thấy “sông Hương và thành phố của nó” như hình ảnh “của cặp tình nhân lý tưởng của truyện Kiều”, như đôi tài tử giai nhân Thúy Kiều – Kim Trọng “tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc”. Điều này, thậm chí, còn được lặp lại một lần nữa khi nhà văn tưởng tượng chỗ rẽ của dòng sông để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh xưa cổ với “nỗi vương vấn” của nàng Kiều “chí tình” trở lại tìm Kim Trọng “để nói một lời thề trước khi về biển cả”. Vậy đó, địa thế của con sông, khúc đổi chiều của dòng nước đã được nhà văn hình dung như nỗi niềm, tâm sự của con người, của Thúy Kiều trong trang sách của Nguyễn Du…

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 6)

Văn chương là hành trình đi từ trái tim đến những trái tim qua ngòi bút của người sáng tác. Khi những trang văn khép lại, cái còn đọng lại trong lòng người đọc chính là cái tôi trữ tình của tác giả. Nhắc đến cái tôi trữ tình trong văn học Việt Nam không thể không nhắc Hoàng Phủ Ngọc Tường với bút ký "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Cái tôi trữ tình của ông trong bài ký là cái tôi mê đắm lãng mạn, tài hoa, uyên bác và yêu say đắm quê hương, xứ Huế, ghi lại nhiều ấn tượng sâu sắc.

Cái tôi trữ tình là một thuật ngữ thuộc lĩnh vực Lý luận Văn học, chỉ tâm trạng, cảm xúc, cảm nhận của tác giả. Hay thực chất là thế giới nội tâm, là tâm hồn của riêng tác giả trước hiện thực khách quan. Qua cái tôi trữ tình, người đọc có thể cảm nhận được những suy nghĩ, tư tưởng và quan niệm...của tác giả trước cuộc đời. Cái tôi trữ tình từ đó chính là yếu tố quan trọng góp phần hình thành phong cách nghệ thuật của riêng tác giả.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam hiện đại, đặc biệt ở thể kí. Ai đã đặt tên cho dòng sông là tác phẩm tiêu biểu nhất cho phong cách nghệ thuật của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói chung, cho cái tôi trữ tình của ông nói riêng. Qua bài ký, tác giả khéo léo thể hiện cái tôi mê đắm, tài hoa, uyên bác và có tình yêu say đắm quê hương, xứ sở, đặc biệt với Huế và dòng Hương giang.

Đến với "Ai đã đặt tên cho dòng sông", trước tiên gây ấn tượng mạnh mẽ với độc giả là cái tôi Hoàng Phủ tài hoa và mê đắm, tinh tế và vô cùng lãng mạn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức, tình cảm và nhiệt huyết văn chương để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của dòng sông Hương từ góc nhìn địa lý. Ngay từ những câu văn đầu miêu tả thủy trình của dòng sông, nhà văn đã cẩn trọng và kì công đúc kết từng câu từng chữ tinh tế và ngập tràn ưu ái. Ở thượng nguồn, sông Hương hiện lên là "bản trường ca của rừng già", là "cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại", là "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Khi rời núi rừng để về với đồng bằng, nó lại hiện lên giống như "người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức". Lúc chảy giữa lòng thành phố thân thương, sông Hương lại là "điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế", là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya", để rồi trước khi chia tay "người tình mà nó mong đợi" ở "thị trấn Bao Vinh xưa cổ" sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Tất cả những câu văn miêu tả sông Hương đều đẹp đến lạ lùng. Nó không chỉ miêu tả được vẻ đẹp độc đáo của dòng sông mà còn thể hiện được lối tư duy sắc bén được nuôi dưỡng trong dòng cảm xúc đam mê và cảm hứng nghệ thuật.

Cái tôi mê đắm tài hoa của tác giả còn được thể hiện rõ nét qua góc nhìn lịch sử về dòng sông. Trong cái nhìn của Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương là "dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc". Những năm tháng chiến tranh ác liệt, nó "biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công". Khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm "người con gái dịu dàng của đất nước". Với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sông Hương không chỉ là một dòng chảy địa lý của thiên nhiên, nó từ lâu đã trở thành một sinh thể có tâm trạng, biết yêu nước trong những tháng ngày gian khổ hào hùng của dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tinh tế phát hiện ra những vẻ đẹp vô cùng độc đáo của dòng sông Hương. Cái tôi tài hoa, mê đắm của ông cảm nhận được không chỉ một vẻ thuần nhất của dòng sông mà còn rất nhiều vẻ đẹp phong phú khác. Mỗi vẻ đẹp lại đem đến một cảm nhận riêng cho người đọc. Chỉ riêng việc miêu tả sông Hương đẹp như vẻ đẹp người con gái, tác giả đã sử dụng nhiều cách diễn đạt khác biệt. Khi thì là "cô gái Di - gan phóng khoáng và man dại" khi là "người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya"; ở khúc khác lại "giống như nàng Kiều trong đêm tình tự"; "người con gái dịu dàng của đất nước"...

Tài hoa tinh tế trong cách cảm nhận vẻ đẹp sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường còn vô cùng tài hoa trong việc sử dụng ngôn ngữ và các biện pháp nghệ thuật. Trong bài ký, có bao nhiêu góc nhìn về sông Hương thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được sử dụng. Tiêu biểu như đoạn văn miêu tả sông Hương ở thượng lưu : "rầm rộ giữa những bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn, và cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng". Hay "qua điện Hòn Chén, vấp Ngọc Trản, nó chuyển hướng sang tây bắc, vòng qua thềm đất bãi Nguyệt Biều, Lương Quán rồi đột ngột vẽ một hình cung thật tròn về phía đông bắc, ôm lấy chân đồi Thiên Mụ xuôi dần về Huế...".

Chúng ta có thể thấy được lối hành văn uyển chuyển với ngôn từ đa dạng và hình ảnh phong phú. Từng từ từng chữ đều mang đậm hơi thở tài hoa của người nghệ sĩ. Đặc biệt, tác giả còn sử dụng thành công nghệ thuật nhân hóa, so sánh, gợi hình ảnh dòng sông sinh động như con người, lúc "rầm rộ" và "mãnh liệt", lúc "dịu dàng" và "say đắm"; khi lại "vui tươi hẳn lên". Hình ảnh so sánh "đường cong ấy làm cho dòng sông mềm hẳn đi, như một tiếng "vâng" không nói ra của tình yêu" hay "chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời, nhỏ nhắn như những vành trăng non" vô cùng ấn tượng và gợi cảm. Trí tưởng tượng phong phú cùng những liên tưởng táo bạo đã giúp tác giả nêu bật những cảm nhận đa dạng về sông Hương. Cuộc hành trình tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông" trở nên đầy say mê và hào hứng.

Bên cạnh cái tôi mê đắm tài hoa, người đọc còn cảm nhận được cái tôi uyên bác và giàu tri thức về lịch sử, địa lý, văn hóa Huế. Miêu tả sông Hương, nhà văn dường như thông thuộc từng bước đi, ngã rẽ, dòng chảy. Không chỉ biết chỗ nào cuộn xoáy, chỗ nào yên ả... Hoàng Phủ Ngọc Tường còn tường tận cả lịch sử của dòng sông. Ngoài tri thức địa lý, lịch sử đã ghi lại, ông thậm chí phát hiện được những điều mà ngay cả người Huế cũng không nghĩ đến. Đó là vai trò quan trọng của Hương giang - "người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở". Người ta có lẽ chỉ nhìn sông Hương qua vẻ bên ngoài của nó mà không biết được nó là khởi nguồn của cả một không gian địa lý và văn hóa Huế. Nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường lại hiểu rõ.

Cái tôi uyên bác của nhà văn đã khám phá và phát hiện những đặc điểm văn hóa thú vị của sông Hương. Đó là cái vẻ trầm mặc như triết lí, như cổ thi của con sông khi chảy bên những lăng tẩm đền đài của các đời vua chúa triều Nguyễn; là nền âm nhạc cổ điển đã được sinh thành trên mặt nước của dòng sông này. Hay còn là dòng sông thi ca, cội nguồn cảm hứng cho biết bao nghệ sĩ. Đặc biệt là giai thoại tuyệt đẹp về nguồn gốc tên gọi của sông Hương: "Tôi thích nhất một huyền thoại kể rằng vì yêu quý con sông xinh đẹp của quê hương, con người ở hai bờ đã nấu nước của trăm loại hoa đổ xuống dòng sông để làn nước thơm tho mãi mãi". Nếu không có Hoàng Phủ Ngọc Tường, nhiều người chắc chắn sẽ không bao giờ biết đến giai thoại này. Vì vậy, nó trở thành thông tin vô cùng hấp dẫn trong tác phẩm, nhấn mạnh cái tôi uyên bác của nhà văn. Hoàng Phủ Ngọc Tường nhờ đó đã mang đến cho người đọc nhiều tri thức về sông Hương nói riêng và Huế nói chung.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ngoài ra còn thể hiện cái tôi trữ tình của nhà văn với tình yêu say đắm và sự gắn bó sâu sắc với quê hương, xứ sở, với Huế và Hương giang. Nếu chỉ là cảm xúc rung động nhất thời trước vẻ đẹp của con sông, của xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường sẽ không thể viết lên được những trang văn mê đắm và rất đỗi tài hoa như thế. Yêu Huế, yêu Hương giang, nhà văn mới có được những rung cảm mãnh liệt, sông Hương không đơn thuần là cảnh đẹp mà còn chiếm trọn tâm hồn ông. Chính con sông đã khiến trái tim ông chảy xuôi vô vàn cung bậc cảm xúc. Khi thì băn khoăn, trăn trở, khi lại nhớ đến nao lòng...

Tình cảm đặc biệt ấy hóa thành những dòng chảy trong tâm hồn nhà văn để rồi tạo nên cả cái tôi mê đắm, tài hoa và uyên bác. Bởi vì yêu nên say sưa trong vẻ đẹp của dòng sông, cố gắng tìm hiểu và tinh thông tri thức, dành hết tài hoa để miêu tả thành hình trọn vẹn vẻ đẹp của nó. Hương giang là một phần của Huế, cũng là một dòng chảy trong rất nhiều dòng chảy của non sông. Tình yêu Hoàng Phủ Ngọc Tường dành cho Hương giang thực ra chính là tình yêu tha thiết, mãnh liệt dành cho đất nước.

Xuyên suốt bài kí "Ai đã đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn dắt người đọc theo dòng cảm chảy ấn tượng. Cái tôi mê đắm, tài hoa, cái tôi uyên bác, tinh tế cùng cái tôi yêu sâu sắc quê hương xứ sở hòa quyện vào nhau kết hợp cùng nghệ thuật ngôn từ và các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc. Từ đó không chỉ vẽ lên bức tranh tuyệt đẹp về dòng sông Hương cùng xứ Huế mộng mơ mà còn thể hiện phong cách nghệ thuật của riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường. Nhà văn cùng "Ai đã đặt tên cho dòng sông" bởi vậy đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lịch sử văn học dân tộc. Để rồi thời gian trôi đi, tác giả và tác phẩm vẫn lặng lẽ chảy mãi trong tâm hồn độc giả, giống như dòng chảy Hương giang không bao giờ ngừng lại.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 7)

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là một trong những thiên tùy bút xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả của nó từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Tác phẩm lần đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở trường THPT và đã nhận được sự hưởng ứng, thích thú của nhiều giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, một tác phẩm hay đôi khi lại không dễ dạy, không dễ học. Vì thế, bên cạnh những thích thú, yêu mến nhất định, nhiều thầy, cô giáo và học sinh còn gặp khó khăn trong cách cảm nhận về cái hay, cái đẹp của bài kí. Trong một bài viết đã đăng tải trên tạp chí Dạy và học ngày nay số Xuân Giáp Dần năm 2010, chúng tôi đã nêu ra một cách tiếp cận hình tượng sông Hương, nay tiếp tục cung cấp thêm một hướng khai thác hình tượng tác giả trong bài kí. Bởi như chúng ta đã biết, ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới mẻ mà còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ bộc lộ mình như một người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm.

Một cái tôi dạt dào cảm xúc: với tư thế một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.

Bên cạnh tư thế là tâm thế một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái chín mà vẫn thể hiện một "thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội tâm"- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: "dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết..." và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều "tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc". Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động của tình yêu - một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ Huế.

Với một cái tôi dạt dào cảm xúc thì thường găn liền với cảm hứng và cảm xúc phong phú:

Cảm hứng niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải "Ai đã đặt tên cho dòng sông" Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều" vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

Cảm xúc vô cùng phong phú. Có khi nó đựơc bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại đượcbộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái "tôi" tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời", khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở "nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu"; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để "thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại"; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa "màu áo lục điều với loại vải...ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện" để từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới "màu của sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông".

Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.

Không chỉ là một cái tôi dạt dào cảm xúc mà còn là một cái tôi nghiêm túc cẩn trọng trong tìm kiếm và phát hiện kiến thức và ý thức.

Kiến thức luôn phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa...Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.

Ý thức cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai dó đặt tên cho dũng sụng". Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần...Và trong quá trình tìm hiểu "Ai dó đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế.

Con đường và đích đến của nhân vật “tôi” với bao trải ngiệm và bao xúc cảm:

Con đường đọc bài tuỳ bút dễ thấy Hoàng Phủ Ngọc Tường rất tinh tế khi lắng nghe và chiêm nghiệm những cảm xúc, cảm giác phong phú và những ý nghĩ sâu xa. Vì thế cái dễ nhận thấy từ những trang văn là chất trữ tình đậm đà đằm thắm. Song nếu chỉ đào sâu vào những cảm xúc, cảm giác của mình hoặc lục tìm trong sách vở thì thế giới của một cái tôi dẫu phong phú rộng mở đến mâý cũng chỉ là giới hạn. Thành công của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong tuỳ bút này không chỉ do nhà văn biết lắng nghe và xúc động, biết nghiên cứu, tìm hiểu và suy ngẫm mà còn bởi người nghệ sỹ ấy có thực tế từ những chuyến đi. Đọc bài tuỳ bút cũng rất dễ để thấy rằng Hoàng Phủ Ngọc Tường rất hay đi: "Xuân hạ thu đông tôi vẫn thường lên thăm vườn An Hiên của bà Tùng ở Kim Long" để từ đó "từ mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay ra mặt sông" mà cảm nhận cái âm hưởng sâu thẳm của Huế trêm mỗi trang Kiều. Song nhà văn lại cũng ý thức sâu sắc rằng "Nếu chỉ mải mê ngắm nhìn khuôn mặt kinh thành của nó, người ta sẽ không hiểu một cách đầy đủ bản chất của sông Hương với cuộc hành trình gian truân mà nó đã vượt qua, không hiểu thấu phần tâm hồn sâu thẳm của nó". Vì thế nhà văn đã thực hiện một cuộc hành trình theo suốt chiều dài của con sông từ nơi khởi nguồn giữa lòng Trường Sơn với rừng già, ghềnh thác, vực xoáy để rồi chuyển dòng liên tục mà hoà mình với cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại và bắt đầu hành trình tìm kiếm thành phố tương lai của nó. Và bởi cũng đã từng biết đến sông Xen của Pari, sông Đanuyp của Buđapet, sông Nêva của Nga mà Hoàng Phủ Ngọc Tường có thể nhận ra nét riêng của Sông Hương trong nhịp điệu, trong sắc thái văn hoá và trong quan hệ của nó với thành phố của mình. Trong những chuyến đi dọc sông Hương, chuyến đi về làng Thành Trung có một vai trò quan trọng đặc biệt bởi nó cho nhà văn không chỉ những thông tin, dấu vết về một khu thành cổ, một vùng đất chiến lược thuở xa xưa mà còn là một cơ hội để nhận rõ bản lĩnh Việt sâu sắc, một sức sống Việt thật mãnh liệt, một tâm hồn Việt thật giàu có phong phú, một khí đất thật hùng hậu và hương đất thật nồng nàn...

Đích đến đi suốt dọc sông Hương để trải nghiệm bao nhiêu cảm xúc, cảm giác để hiểu thấu bao nhiêu giá trị, nhận ra bao nhiêu vẻ đẹp của địa lí và văn hoá, đời sống và lịch sử, cuối cùng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã tìm được câu trả lời cho câu hỏi đầy khắc khoải vẫn luôn vang vọng trong suốt bài tuỳ bút: "Con người đã đặt tên cho dòng sông như nhà thơ chọn bút hiệu cho mình, gửi gắm vào đấy tất cả ước vọng muốn đem cái Đẹp và tiếng Thơm để xây đắp văn hoá và lịch sử".

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết về sông Hương không chỉ bằng cảm nhận và hiểu biết về dòng sông mà còn bằng cảm nhận và hiểu biết về con người Huế để từ đó mà thấy một cách sâu sắc và thấm thía rằng, không chỉ đặc điểm địa lý mà quá trình lịch sử cùng với diện mạo văn hoá do con người tạo nên đã hình thành cho sông Hương một diện mạo, dáng vẻ và cả một tâm hồn.

Một Cái “Tôi” Tài Hoa Và Vô Cùng Lãng Mạn: Giàu tưởng tượng (quá trình tâm lý xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở kinh nghiệm của cá nhân và thực tiễn của đời sống): Sở dĩ bài bút ký này của Hoàng Phủ Ngọc Tường được cho là có nhiều chất tuỳ bút có lẽ một phần vì nhà văn không thuần tuý chỉ ghi chép một cách chính xác khách quan mà còn biết tạo cho mình rất nhiều cơ hội để tưởng tượng: Viết về con sông song lại không bắt đầu từ việc quan sát thực tế, từ việc đi thực địa mà lại bắt đầu từ việc đọc Kiều để cảm nhận văn chương hoà quyện với cảm nhận về con sông xứ Huế. Và phút nhận ra cuộc gặp gỡ giữa âm hưởng sâu thẳm của Huế với cảnh sắc thiên nhiên qua ngòi bút miêu tả của Nguyễn Du trên mỗi trang Kiều cũng chính là lúc nhà văn tưởng tượng về mối quan hệ giữa sông Hương và thành phố của nó là mối quan hệ của một cặp tình nhân lý tưởng với tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc. Cũng trong trí tưởng tượng bay bổng của nhà văn, sông Hương khi là một dòng nhạc đa âm sắc (bản trường ca rầm rộ của rừng già, điệu slow của tình cảm, bản đàn lúc đêm khuya với tiếng nước rơi bán âm của những mái chèo), khi là một con người giàu nữ tính và có đủ sức mạnh để trưởng thành dần trong cuộc hành trình (cô gái Digan phóng khoáng và man dại giữa rừng Trường Sơn, người con gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá đầy hoa dại, người mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở với sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ giữa chốn kinh thành). Song có một điều quan trọng là, trong cuộc hành trình dù không ít những gian truân và cũng không hề ngắn ngủi ấy phẩm chất nữ tính của sông Hương khiến nó luôn tự bộ lộ mình là một người con gái rất mực đa tình: dù với tâm hồn tự do và trong sáng hay sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ thì hành trình của sông cũng là hành trình tìm kiếm người tình mong đợi để khi gặp được rồi, sông Hương trở nên mềm hẳn đi "như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu", rồi cũng như Kiều khi gặp chàng Kim, sông Hương gặp Huế đã trở thành người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya để rồi khi phải lưu luyến ra đi, sông Hương như chưa nỡ rời xa thành phố mà cố ý đổi dòng, rẽ ngoặt sang hướng đông - tây để gặp lại thành phố lần cuối trong "nỗi vương vấn" "chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu" như nàng Kiều trong đêm tình tự đã chí tình trở lại cùng Kim Trọng để nói một lời thề mà sự vang vọng của lời thề ấy, trong tưởng tượng và sự hình dung của nhà văn chính là giọng hò dân gian "Còn non- còn nước- còn dài -còn về- còn nhớ..."

Trí tưởng tượng mạnh mẽ và phong phú khi kết hợp với cái kho vốn cảm xúc, cảm giác rất dồi dào mà cũng vô cùng tinh tế sâu sắc đã tạo nên một chất thơ chan chứa trên mỗi trang văn và một sức lôi cuốn khó cưỡng lại đối với người thưởng thức. Vốn chữ nghĩa và sức sáng tạo: Thông thường người ta chỉ nói "Thi trung hữu hoạ" "Thi trung hữu nhạc". ở đây ta có thể hoàn toàn tự tin mà nói về chất nhạc, chất hoạ, thậm chí là sự hoà quyện lý tưởng giữa chất nhạc, chất hoạ và chất thơ trong chữ nghĩa của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hãy nghe nhà văn diễn tả cảm giác của mình "Mùa thu tôi ngồi đọc Kiều dưới mái rêu phong của chiếc cổng vòm quay mái ra sông ăn trái hồng ngọt và thanh đến độ tưởng như mỗi miếng vừa ngậm vào nửa chừng đã tan ra thành dư vang của một tiếng chim". Chỉ có ăn một trái hồng thôi mà thấy đủ cả hương vị, thanh sắc của đất trời, huống hồ là khi đối diện với với một con sông của một miền đất mà mình yêu mến, tự hào và gắn bó. Dường như có bao nhiêu góc nhìn, điểm nhìn về con sông thì có bấy nhiêu kiểu chữ nghĩa được huy động để diễn tả cho thật riêng, thật sắc, thật tinh góc nhìn, điểm nhìn ấy: Cần đặt con sông trong không gian địa lí thì nó là "một bản trường ca của rừng già rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào dưới đáy vực bí ẩn, dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài chói lọi màu đỏ của hoa đổ quyên rừng, dịu dàng và trí tuệ khi trở thành bà mẹ phù sa của một vùng văn hoá xứ sở, mơ màng giữa cánh đồng Châu Hoá, trầm mặc như triết lí, như cổ thi gữa đám quần sơn lô xô, đền đài lăng tẩm và rừng thông u tịch , vô tư giữa những biền bãi xanh biếc, yên tâm kéo một nét thẳng khi nhìn thấy chiếc cầu của thành phố in ngầm trên nền trời..." Cần đặt con sông trong tổng thể những sắc màu văn hoá thì nó trở thành một "vang bóng trong thời gian hình tượng của cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều", lập loè trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ", điệu chảy lặng lờ như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế có thể cảm nhận được bằng thị giác qua trăm nghìn ánh hoa đăng bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy. Cần đặt sông Hương trong dòng chảy lịch sử thì sông Hương lại là "dòng sông của thời gian ngân vang, của sử viết giữa màu cỏ lá xanh biếc", khi "tự biến đời mình thành một chiến công", khi lại trở về "làm một người con gái dịu dàng của đất nước".Đây không phải thứ chữ nghĩa mà ta quen gặp trong văn xuôi thông thường.Lối chữ nghĩa giàu hình ảnh và thấm đượm cảm xúc đó là kiểu chữ nghĩa thường chỉ thấy nhiều trong thi ca, nó khiến người đọc không chỉ tiếp nhận được những thông tin cần thiết mà còn có thêm hứng thú và nguồn mĩ cảm dồi dào.

Với kho vốn cảm xúc, kiến thức, tưởng tượng và trải nghiệm thực tế lại cộng thêm vốn chữ nghĩa dồi dào mà rất đẹp, rất thơ, rất công phu, trau chuốt thậm chí đôi khi còn hơi làm dáng điệu đà, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thực sự mê hoặc được người đọc để hoàn toàn chủ động trong việc dẫn dắt người đọc đi theo nhà văn để hào hứng thưởng thức vẻ đẹp của một dòng sông không phải như con sông địa li vô tri mà như một con người-một người con gái có nhan sắc, có tâm hồn, có sức sống và cũng đầy sức mạnh để đi hết cuộc hành trình, sống trọn vẹn đời sống và khẳng định mạnh mẽ bản lĩnh và lý tưởng của nó.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 8)

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là một trong những thiên tùy bút xuất sắc nhất của Hoàng Phủ Ngọc Tường nói riêng và của thể loại bút kí, tùy bút trong nền văn học nước ta nói chung. Chẳng phải ngẫu nhiên mà tác giả của nó từng được nhà văn Nguyên Ngọc đánh giá là “một trong mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay”. Tác phẩm lần đầu tiên được đưa vào giảng dạy ở trường THPT và đã nhận được sự hưởng ứng, thích thú của nhiều giáo viên và học sinh. Tuy nhiên, một tác phẩm hay đôi khi lại không dễ dạy, không dễ học. Vì thế, bên cạnh những thích thú, yêu mến nhất định, nhiều thầy, cô giáo và học sinh còn gặp khó khăn trong cách cảm nhận về cái hay, cái đẹp của bài kí. Trong một bài viết đã đăng tải trên tạp chí Dạy và học ngày nay số Xuân Giáp Dần năm 2010, chúng tôi đã nêu ra một cách tiếp cận hình tượng sông Hương, nay tiếp tục cung cấp thêm một hướng khai thác hình tượng tác giả trong bài kí. Bởi như chúng ta đã biết, ở thể loại bút kí, sức hấp dẫn của tác phẩm không chỉ phụ thuộc vào những ghi chép của tác giả với lượng tri thức phong phú, thông tin mới mẻ mà còn tùy thuộc vào “duyên ngầm” của cái “tôi” nhà văn. Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ bộc lộ mình như một người nghệ sĩ có năng lực khảo cứu của nhà khoa học, là một nhà khoa học mang trong mình cốt cách của người nghệ sĩ tài hoa mà còn thể hiện mình như một nhà thơ viết văn xuôi, một nhà văn có tâm hồn thi sĩ. Chính sự đan cài, “hai trong một” của các yếu tố ấy đã làm nên một hình tượng cái “tôi” đầy hấp dẫn, có sức mời gọi bạn đọc, góp phần quan trọng vào thành công của tác phẩm.

Ai đã đặt tên cho dòng sông ? là bài kí đặc sắc về con sông Hương của xứ Huế. Đọc bài kí, ai cũng dễ dàng nhận thấy : tác giả của nó – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dành hết tâm sức và tình cảm của mình, thậm chí cả tinh hoa và tinh huyết của một đời văn để say sưa khám phá và miêu tả vẻ đẹp của Hương giang. Chỉ nói riêng về thủy trình của dòng sông từ thượng nguồn đổ về xuôi rồi đi ra biển, ta có thể thấy nhà văn đã say sưa và kì công “đúc câu luyện chữ” để dành tặng cho dòng sông mà mình yêu dấu như thế nào : ở thượng nguồn, sông Hương là “bản trường ca của rừng già”, là “cô gái Di-gan phóng khoáng và man dại”, là “người mẹ phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”. Khi rời vùng núi để về đồng bằng, con sông hiện lên giống như “người gái đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại được người tình mong đợi đến đánh thức”. Chảy giữa lòng thành phố yêu thương sông Hương là “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế”, là “người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya”, để rồi trước khi chia tay “người tình mà nó mong đợi” ở “thị trấn Bao Vinh xưa cổ” sông Hương giống như nàng Kiều trở về tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi đi xa... Dường như nhà văn đã dành những câu chữ đẹp nhất trong vốn liếng ngôn ngữ của mình để gọi tên sông Hương, để định danh những vẻ đẹp vô cùng phong phú, đa dạng và độc đáo của nó. Những lời hay ý đẹp ấy đâu phải dễ thường mà có ngay được. Nó hẳn phải là kết tinh của tình yêu sâu đậm, của những hiểu biết tường tận về dòng sông và của một lối tư duy sắc bén đã được tưới tắm trong niềm xúc cảm say mê, để rồi thăng hoa trong cảm hứng nghệ thuật.

Tuy nhiên, đó mới chỉ là góc nhìn địa lý. Từ góc nhìn lịch sử, con sông của xứ Huế cũng hiện lên trong cảm hứng say mê ngợi ca của nhà văn. Sông Hương là “dòng sông của thời gian ngân vang, của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc”. Trong chiến tranh, nó “biết cách tự hiến đời mình làm một chiến công”. Nhưng khi trở về đời thường, nó lại lặng lẽ, khiêm nhường làm một “người con gái dịu dàng của đất nước”. Thì ra, với Hoàng Phủ Ngọc Tường, từ lâu sông Hương đã không còn đơn thuần là một dòng chảy địa lý mà nó giống như sinh thể có tâm trạng, nó là một người dân Việt Nam yêu nước trong những năm tháng gian khổ mà hào hùng của dân tộc.

Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái chín mà vẫn thể hiện một "thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội tâm"- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: "dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết..." và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều "tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc". Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động của tình yêu - một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ Huế.

Niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải "Ai đã đặt tên cho dòng sông" Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều" vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

Vô cùng phong phú. Có khi nó được bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái "tôi" tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời", khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở "nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu"; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để "thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại"; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa "màu áo lục điều với loại vải...ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện" để từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới "màu của sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông". Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.

Phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa...Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.

Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần...Và trong quá trình tìm hiểu "Ai dó đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 9)

Tác phẩm là nơi thể hiện con người và cá tính sáng tác độc đáo của các tác giả, vậy cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong Ai đã đặt tên cho dòng sông đã thể hiện đặc sắc như thế nào, các em cùng phân tích cái tôi tác giả để hiểu hơn về phong cách văn chương của nhà văn tài hoa này.

Một người trí thức yêu nước vừa bước ra từ trong khói lửa chiến tranh,vừa bừng bừng khí thế chống giặc ngoại xâm, vừa hào hứng ngợi ca chủ nghĩa anh hùng,một tư thế tự do, tự tin và tự hào để mà nhìn vào mối quan hệ và dòng chảy của lịch sử dân tộc để khẳng định sức sống, sức mạnh của nó.

Một người nghệ sỹ giàu rung động và rất lãng mạn khi chọn cho mình một điểm nhìn thật đặc biệt về con sông.Chất lãng mạn, nghệ sĩ thể hiện ở sự lựa chọn thời gian mùa thu và không gian khu vườn cổ sầm uất, một khu vườn mùa nào cũng có hoa nở và trái chín mà vẫn thể hiện một "thần thái yên tĩnh và khoáng đạt giống như một sự tự do nội tâm"- một không gian vừa cổ kính, vừa thắm tươi, vừa phóng khoáng. Trong không gian ấy, tâm thế của nhà văn trở nên thư thái, có sự tự do nội tâm để cảm nhận một cách tinh tế và có chiều sâu về đối tượng. Sự thư thái biểu hiện trong những hoạt động cụ thể: vừa ăn trái hồng ngọt và thanh để cảm nhận hương vị thực, vừa đọc Kiều để đắm mình trong thế giới tưởng tượng của thơ ca. Đi giữa cõi thực và cõi thơ, sống trong sự giao thoa của những rung động với khung cảnh thiên nhiên và những rung động trước một mối tình say đắm trong những trang Kiều để từ đó nhà văn có một phát hiện độc đáo về mối liên hệ giữa những câu Kiều với âm hưởng sâu thẳm của Huế: "dòng sông đáy nước in trời và những nội cỏ thơm, nắng vàng khói biếc, nỗi u hoài của dương liễu và sắc đẹp nồng nàn của hoa trà mi, những mùa thu quan san, những vầng trăng thắm thiết..." và quan trọng nhất là nhận ra rằng sông Hương và thành phố của nó như một vang bóng trong thời gian hình tượng cặp tình nhân lý tưởng của Truyện Kiều "tìm kiếm và đuổi bắt, hào hoa và đam mê, thi ca và âm nhạc". Có thể thấy đó là một tư thế và tâm thế rất thích hợp với việc bộc lộ những rung động của tình yêu - một thứ tình yêu rất sâu và rất đắm say của nhà văn với con sông xứ Huế.

Niềm say sưa tìm kiếm và khẳng định vẻ đẹp riêng, sức cuốn hút, quyến rũ riêng của con sông xứ Huế ở các phương diện không gian và thời gian, lịch sử và văn hoá. Cả bài tuỳ bút dường như là cuộc hành trình tìm kiếm cho câu hỏi đầy khắc khoải "Ai đã đặt tên cho dòng sông" Và cuộc tìm kiếm, lý giải cái tên của dòng sông đã trở thành cuộc tìm kiếm đầy hào hứng và say mê không chỉ vẻ đẹp của diện mạo hình hài mà còn là độ lắng sâu của tâm hồn và rung động. Con sông xứ Huế hiện lên trong cuộc tim kiếm của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã không chỉ là con sông địa lý mà là một sinh thể, một con người "sông Hương quả thực là Kiều, rất Kiều" vừa xinh đẹp, vừa tài hoa, vừa thăng trầm chìm nổi cùng lịch sử lại vừa đằm thắm lắng sâu với nền văn hoá riêng của nó.

Vô cùng phong phú. Có khi nó được bộc lộ trực tiếp với các trạng thái nội tâm: vừa thích thú, vừa lơ đãng , miên man trong vẻ đẹp của dòng sông đang đổi sắc không ngừng, nhớ da diết điệu chảy lặng lờ của con sông khi ngang qua thành phố, cái điệu chảy như một điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế trong trăm nghìn ánh hoa đăng; thất vọng khi nghe nhạc Huế giữa ban ngày hoặc trên sân khấu bởi hiểu sâu sắc rằng nền âm nhạc Huế được sinh thành trên mặt nước sông Hương, là linh hồn của con sông nên chỉ là chính nó vang lên trong đêm giữa tiếng rơi bán âm của nước từ những mái chèo khuya. Có khi cảm xúc yêu thương da diết với xứ Huế lại được bộc lộ gián tiếp trong cuộc hành trình lặng lẽ với rất nhiều những tìm kiếm và phát hiện: Cái "tôi" tác giả khi thì chứng kiến một nghệ nhân già sau nửa thế kỷ chơi nhạc đã chợt nhận ra khúc nhạc Huế trong những trang Kiều "Trong như tiếng hạc bay qua. Đục như tiếng suối mới sa nửa vời", khi bất ngờ và ngỡ ngàng nhận ra điểm tương đồng giữa con sông và con người ở "nỗi vương vấn và chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu"; có khi lại cũng vì yêu Huế mà đọc văn kiện của Liên Hiệp quốc về Huế bằng sự rung động thẩm mỹ của tâm hồn để "thấy hiện bóng khuôn mặt quyến rũ và tươi trẻ của dòng sông thành phố giữa lòng thế giới hiện đại"; đồng thời cũng hoài niệm đến khắc khoải khi phát hiện ra một sắc màu xưa cũ của chiếc áo cưới ở Huế ngày xưa, rất xưa "màu áo lục điều với loại vải...ở bên trong, tạo thành một màu tím ẩn hiện" để từ cái sắc màu văn hoá ấy mà liên tưởng một cách rất ngẫu hứng mà có lí tới "màu của sương khói trên sông Hương giống như tấm voan huyền ảo của tự nhiên, sau đó ẩn giấu khuôn mặt thực của dòng sông". Rõ ràng Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đem tình yêu đằm thắm lắng sâu và những cảm xúc sôi nổi say sưa phổ vào trang viết để rồi mỗi dòng văn như một nốt nhạc trong bản đàn lòng để tôn vinh vẻ đẹp của sông Hương.

Phong phú và có chiều sâu. Có thể nói trong bài bút ký pha tuỳ bút này, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã huy động vốn kiến thức tổng hợp nhiều mặt về con sông Hương từ địa lý, lịch sử, văn hoá, văn chương và đời sống, tự nhiên và khảo cổ, cái hiện sinh và những gì thuộc về xa xưa...Đọc bài viết có thể thấy công phu nghiên cứu, tìm hiểu của nhà văn thật đáng nể: vừa quan sát để thấy được từng nét diện mạo của con sông trong từng khoảng không gian cụ thể, vừa nghiên cứu để thấy mối liên hệ giữa đặc điểm địa lý với đặc điểm dòng chảy của con sông, vừa tìm hiểu con sông trong từng thời kỳ lịch sử, vừa thâm nhập thực tế để nhận biết một cách cụ thể những nếp sinh hoạt, những cách thức lao động, những hương vị riêng của cỏ cây, hoa trái, đất đai, vừa đọc tư liệu, sách vở để hình dung ra quá khứ một thời vang bóng trong những dấu tích còn lại của thành quách, đình đền. Trong khối lượng kiến thức được huy động, đáng kể nhất là kiến thức địa lý, lịch sử và văn hoá. Các mặt kiến thức này không tách rời nhau, không độc lập tồn tại mà hoà quyện, hỗ trợ nhau tạo thành một điểm tựa vững chắc cho ngòi bút nhà văn khi miêu tả con sông của xứ Huế.

Cả bài tuỳ bút là cuộc hành trình hào hứng và cẩn trọng, say sưa và rất nghiêm túc để tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi "Ai đã đặt tên cho dòng sông". Đây là câu hỏi ngỡ như bâng quơ của một nhà thơ nào đó khi đến với Huế song cũng là một câu hỏi đầy ngụ ý của chính Hoàng Phủ Ngọc Tường. Hỏi như một cách để xác lập mối quan hệ giữa dòng sông với con người, giữa cái tên của dòng sông với cách nhìn, cách nghĩ và những cảm nhận của con người về nó. ý thức về điều này nên trong khi tìm hiểu về sông nhà văn cũng rất công phu tìm hiểu về cuộc sống và con người bên dòng sông ấy. Nghĩa là con sông đã được đặt trong mối quan hệ gắn bó mật thiết với con người. Trong mối liên hệ ấy, sông đã được soi ngắm từ nhiều góc độ, thời gian và không gian, văn hoá và lịch sử, sinh hoạt và phong tục, đời sống sinh hoạt và thế giới tinh thần...Và trong quá trình tìm hiểu "Ai dó đặt tên cho dòng sông", Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ mình không chỉ là một cái tôi giàu hiểu biết, ham tìm hiểu mà còn là một cái tôi rất mực tinh tường và vô cùng sâu sắc trong những khám phá, tìm hiểu những chiều sâu văn hoá tinh thần, tâm hồn của sông Hương cũng là của con người xứ Huế.

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" (mẫu 10)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một nhà văn chuyên viết về bút kí, một loại văn giàu tính chân thực của đời sống. Nét đặc sắc trong sáng tác của ông là sự keets hợp nhuần nhuyễn giữa chất trí tuệ và chất trữ tình, giữa nghị luận sắc bén với tư duy tổng hợp đa chiều đa diện. Sự nghiệp văn chương của ông để lại rất nhiều trong đó tập bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” 1986 là một tập văn tiêu biểu. Bài bút kí “Ai đã đặt tên cho dòng sông” được lấy làm tựa đề cho tập bút kí nói trên là một tác phẩm đặc sắc của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường. Phần đầu bài bút kí này tác giả đã ca ngợi vẻ đẹp đa chiều đa diện của dòng sông Hương xứ Huế trong mối quan hệ với địa lí lịch sử thi ca. Tìm hiểu sâu sắc bài bút kí chúng ta sẽ thấy được sắc diện và tâm hồn của dòng sông Hương thơ mộng.

Bài viết mang tính bút kí nên nhà văn khi giới thiệu về dòng sông Hương tác giả bắt đầu từ phía thượng nguồn của dòng sông. Một nhận xét chung của tác giả về dòng sông Hương khi ở thượng nguồn “là một bản trường ca của rừng già”. Bản trường ca này thể hiện hai cung bậc mạnh mẽ hoang dại và dịu dàng say đắm.

Trước hết vì dòng sông sinh ra giữa rừng già giữa đại ngàn nên nó mang âm hưởng của vùng núi cao vực sâu, nó ‘rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy như những cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn’. Tuy nhiên “cũng có lúc nó trở nên dịu dàng và say đắm giữa những dặm dài cói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng”. Cũng có lúc nó “phóng khoáng và man dại như cuộc đời của cô gái Digan” ở vùng nước Nga xa xôi.

Ngoài những dáng vẻ nói trên, cái nhìn tổng thể của nhà văn là sông Hương ở phía thượng nguồn có “tâm hồn sâu thẳm”, “đã đóng kín ở cữ rừng và ném chìa khóa trong những hang đá’ như giữ nguyên điều bí ẩn của mình. Qua vài nét phác thảo của nhà văn sông Hương phía đại ngàn có sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng đầy cá tính bí ẩn.

Khác với sông Hương ở thượng nguồn, sông Hương khi về phía đồng bằng ở ngoại vi thành phố Huế đã có một hình dáng và một màu sắc mới. Cảm nhận vẻ đẹp sông hương ở ngoại vi thành phố Huế của tác giả là luôn uốn lượn xanh thẳm và trầm mặc.

Khi “ra khỏi vùng núi”, sông Hương “chuyển mình một cách liên tục” nó vòng khúc nó vặn mình, khi thì “theo hướng nam bắc”, khi “sang hướng tây bắc”, khi “về phía đông bắc”, rồi “xuôi dần về Huế”. Về với vùng thấp sông Hương “mềm như tấm lụa xanh thẳm”. Nhìn chung sông Hương khi về phía đồng bằng nó chạy qua những vùng đồi những rừng thông có lăng mộ của các vua chúa với giấc ngủ nghìn năm nên sông Hương có “vẻ đẹp trầm mặc nhất”.

Nếu như sông Hương ở phía thượng nguồn hoang dã man dại thì sông Hương khi về đồng bằng có vẻ đẹp uốn lượn trầm mặc. Đoạn sông Hương chảy qua thành phố Huế được nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường tả một cách cụ thể và tinh tế hơn. Đoạn sông này vừa mang dáng dấp xanh thẳm dịu dàng của đoạn sông ở phía ngoại ô nhưng lại vừa có nét rất riêng của nó là mềm mại dịu dàng yên tĩnh.

Sông Hương “khi giáp mặt thành phố”, nó “vui tươi hẳn lên”. Nét nổi bật của dòng sông qua thành phố là “uốn một cánh cũng rất nhẹ” rồi “mềm hẳn đi” như một tiếng “vâng” không nói ra của tình yêu. Khi đi qua thành phố sông Hương “trôi đi chậm thực chậm cơ hồ chỉ còn là mặt hồ yên tĩnh”. Nếu như liên hệ với dòng sông Neva ở nước Nga xa xôi chảy qua thành phố với tốc độ rất nhanh “không kịp cho lũ hải âu nói điều gì với ban” thì sông Hương lại “chảy lặng lờ” như một “điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế” và khi bắt đầu ra khỏi Huế “con sông như ngập ngừng vấn vương” một nỗi lòng. Đúng như nhà thơ Thanh Hải viết:

“Con sông dùng dằng con sông không chảy

Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu”

Ở những phần trên của bài bút kí nhà văn đặt dòng sông Hương trong mối quan hệ với những đại ngàn với những lăng tẩm trầm mặc, với thành phố Huế mộng mơ để mà ca ngợi vẻ đẹp của nó. Thì đến đoạn cuối của đoạn trích này nhà văn đã đặt dòng sông trong mối quan hệ với lịch sử và thơ ca của dân tộc, để từ đó nói lên vẻ đẹp mang tính tầm vóc của dòng sông.

Theo tác giả sông Hương có quan hệ với lịch sử dân tộc từ rất lâu đời. Nó là “dòng sông biên thuỳ xa xôi của đất nước các vua hùng”, là “biên giới phía nam của tổ quốc Đại Việt qua những thế kỉ trung đại”, là “soi bóng kinh thành Phú Xuân của người anh hùng Nguyễn Huệ” ở thế kỉ 18, nó gắn với “những cuộc khởi nghĩa bi tráng” của nhân dân ta thế kỉ 19, nó chứng kiến “những chiến công rung chuyển của thời đại cách mạng tháng tám”, nó “cổ vũ nồng nhiệt cho chiến công năm Mậu Thân”.

Không những gắn liền với lịch sử mà sông Hương còn là một dòng sông thi ca. Điều đặc biệt của sông Hương là bất cứ nghệ sĩ nào phản ánh về nó cũng không lặp lại nhau không trùng nhau về ý nghĩa sáng tạo. Đã rất nhiều thi nhân viết về sông Hương với những vẻ đẹp rất khác nhau. Với Tản Đà là “dòng sông trắng lá cây xanh”, với Cao Bá Quát là “như kiếm dựng trời xanh”, với bà huyện Thanh Quan là “bóng chiều bảng lảng”, với Tố Hữu là “dòng sông gắn liền với sức mạnh tâm hồn”.

Với một vốn kiến thức phong phú uyên bác về lịch sử văn hoá văn chương, với một văn phong tao nhã hào hoa tinh tế, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dựng lên một chân dung về sông Hương với một vẻ đẹp rất đa chiều đa dạng.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Vẻ đẹp dòng sông Hương qua bài "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích đoạn văn sau trong bài tùy bút "Người lái đò sông Đà" của Nguyễn Tuân: "Thuyền tôi trôi trên sông Đà... nó khác hẳn những con đò đuôi én thắt mình dây cổ điển trên dòng trên"

Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông qua tác phẩm “Người lái đò sông đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế

1 7,467 18/12/2023
Tải về