TOP 5 mẫu Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (2024) SIÊU HAY

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 13,458 18/12/2023
Tải về


Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Việt Bắc

Dàn ý Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc

1. Mở bài:

- Dẫn dắt.

- Giới thiệu khái quát về tác giả Tố Hữu và bài thơ Việt Bắc

2. Thân bài:

a. (20 câu đầu): Lời nhắn nhủ của người ở lại đối với người ra đi

* 4 câu thơ đầu: lời hỏi của người ở lại.

- Cách xưng hô mình – ta:

+ Gợi nghĩa tình thân thiết, gắn bó.

+ Là cách gọi quen thuộc trong ca dao dân ca.

=> Tạo không khí trữ tình cảm xúc.

- “Mười lăm năm”: tính từ thời kháng Nhật (khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940) đến khi những người kháng chiến trở về Thủ đô (tháng 10 – 1954)

- Câu hỏi tu từ: Kỉ niệm thời gian gắn bó lâu dài, keo sơn, bền chặt.

- Điệp từ “nhớ”: nhấn mạnh nỗi nhớ sâu sắc, thường trực, da diết.

- Hình ảnh: cây – núi, sông – nguồn gợi mối qua hệ khăng khít, thủy chung, ân tình giữa kháng chiến và Việt Bắc.

=> Người ở lại thiết tha, luyến tiếc, khơi gợi trong lòng người ra đi kỉ niệm về một giai đoạn đã qua, về không gian nguồn cội, nghĩa tình.

* 4 câu tiếp: lời đáp của người ra đi.

- Từ láy: tha thiết, bâng khuâng, bồn chồn

=> sự day dứt, lưu luyến, bối rối trong tâm trạng và hành động của người ra đi.

- Hình ảnh hoán dụ: “áo chàm” => gợi hình ảnh bình dị, thân thương của những người dân Việt Bắc.

- Hành động: cầm tay => sự luyến tiếc và nghĩa tình keo sơn gắn bó giữa cách mạng và Việt Bắc, gợi nhớ những cuộc chia tay trong văn học trung đại (nhưng đây là cuộc chia tay trong niềm vui chiến thắng).

=> Tiếng lòng người về xuôi bâng khuâng lưu luyến.

* 12 câu tiếp “Mình đi… cây đa”: Tác giả gợi những kỉ niệm về Việt Bắc trong những năm kháng chiến.

- Hình ảnh: suối lũ, mây mù, miếng cơm chấm muối => Đây là những hình ảnh rất thực gợi được sự gian khổ của cuộc kháng chiến, vừa cụ thể hoá mối thù của cách mạng đối với thực dân Pháp.

- Chi tiết “Trám bùi….để già” => diễn tả cảm giác trống vắng gợi nhớ quá khứ sâu nặng. Tác giả mượn cái thừa để nói cái thiếu.

- “Hắt hiu…lòng son” => phép đối, đảo ngữ gợi nhớ đến mái tranh nghèo. Họ là những người nghèo nhưng giàu tình nghĩa, son sắt, thuỷ chung với cách mạng.

- 6 câu hỏi tu từ lặp đi lặp lại => câu hỏi đau đáu, khơi gợi, nhắc nhớ mọi người hãy luôn nhớ về Việt Bắc.

- Địa danh: mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào => gắn liền với Việt Bắc, là hình ảnh tiêu biểu của thủ đô kháng chiến.

- Phép điệp: mình đi…, mình về…, nhớ… => lời nhắn gọi tha thiết, nhắc nhớ những kỉ niệm về một thời ở Việt Bắc.

- “Mình đi, mình có nhớ mình" => ý thơ đa nghĩa một cách thú vị. Cả kẻ ở, người đi đều gói gọn trong chữ “mình” tha thiết. Mình là một mà cũng là hai, là hai nhưng cũng là một bởi sự gắn kết của cách mạng, của kháng chiến.

=> Chân dung một Việt Bắc gian nan mà nghĩa tình, thơ mộng, rất đối hào hùng trong nỗi nhớ của người ra đi.

b. (70 câu sau): Lời của người ra đi

* 4 câu đầu “Ta với… bấy nhiêu…”: Khẳng định tình nghĩa thủy chung son sắt.

- Đại từ mình – ta: được sử dụng linh hoạt và tạo sự hòa quyện, gắn bó máu thịt;

- Giọng điệu: tha thiết như một lời thề thủy chung son sắt.

- Từ láy: mặn mà, đinh ninh => Khẳng định nghĩa tình đậm đà, bền chặt, trước sau như một của cách mạng đối với Việt Bắc.

- So sánh: bao nhiêu … bấy nhiêu => gợi tình cảm bao la, chan chứa giữa cách mạng và Việt Bắc.

* 28 câu tiếp “Nhớ gì… thuỷ chung…”: nỗi nhớ thiên nhiên, núi rừng và cuộc sống con người ở Việt Bắc.

- 18 câu tiếp “Nhớ gì… suối xa…”: Nỗi nhớ về cuộc sống ở Việt Bắc.

+ Biện pháp so sánh: “nhớ… người yêu” => So sánh nỗi nhớ Việt Bắc với nỗi nhớ người yêu, sắc thái cao nhất của nỗi nhớ.

+ Phép tiểu đối:

> “Trăng lên đầu núi / nắng chiều lưng nương” => Nỗi nhớ từ đêm sang ngày, bao trùm cả không gian lẫn thời gian.

> “Bát cơm sẻ nửa / chăn sui đắp cùng” => Hình ảnh cảm động cho thấy sự san sẻ khó khăn gian khổ, chia sớt ngọt bùi, đắng cay giữa người dân Việt Bắc và những người cách mạng.

+ Phép điệp: nhớ, nhớ từng…, nhớ sao…=> Nhấn mạnh nỗi nhớ da diết, sâu sắc.

+ Hình ảnh: người thương đi về, người mẹ nắng cháy lưng,… => Những hình ảnh thân thương, cảm động về con người Việt Bắc.

+ Những kỉ niệm: đắng cay ngọt bùi, bát cơm sẻ nửa, những giờ liên hoan,…

=> Những kỉ niệm đẹp về tình quân dân gắn bó như trong một gia đình.

=> Con người và cuộc sống Việt Bắc: khổ cực, lam lũ mà thủy chung, son sắt.

=> Thiên nhiên, núi rừng, cuộc sống và con người ở Việt Bắc luôn in đậm trong tâm trí những người về xuôi tình cảm chân thành, tha thiết của người cán bộ kháng chiến.

- 10 câu sau “Ta về… thuỷ chung”: Nỗi nhớ về bức tranh tứ bình của Việt Bắc.

+ 2 câu đầu: nỗi nhớ chung và cảm xúc chủ đạo cho cả khổ thơ;

+ 8 câu sau: bức tranh tứ bình của Việt Bắc:

> Mùa đông:

Hình ảnh: hoa chuối đỏ tươi + người lao động trên đèo cao => bình dị, khoẻ khoắn;

Màu sắc: xanh + đỏ + “nắng ánh” => màu sắc ấm áp.

> Mùa xuân:

Hình ảnh: mơ nở trắng rừng + người đan nón => đẹp, nên thơ.

Màu sắc: trắng + trắng => tinh khiết, thanh nhã.

Âm thanh: hiệp vần “ơ” (mơ – nở), “ưng” (rừng – từng) cảm nhận tinh tế, âm thanh của rừng mơ đồng loạt nở hoa.

> Mùa hạ:

Hình ảnh: rừng phách đổ vàng + em gái hái măng

Màu sắc: vàng

Âm thanh: tiếng ve

=> Vẻ đẹp đặc trưng rộn rã, rực rỡ, đặc trưng của mùa hè.

> Mùa thu:

Hình ảnh: ánh trăng

Âm thanh: tiếng hát ân tình thuỷ chung

=> Vẻ đẹp thanh bình, hiền hoà.

- Nghệ thuật:

+ Phép điệp: ta về, ta nhớ, nhớ,…

+ Đại từ xưng hô: mình – ta…

+ Nhịp điệu đều đặn, cân xứng, nhịp nhàng…

+ Giọng điệu tâm tình, ngọt ngào, lời thơ giàu nhạc điệu,…

=> Mỗi mùa mỗi cảnh, đều mang vẻ đẹp riêng trong vẻ đẹp chung: đó là sự hài hòa giữa màu sắc và âm thanh, giữa người và cảnh, cảnh và người cùng làm cho nhau thêm đẹp, làm cho bức tranh thêm sinh động.

=> Thiên nhiên cảnh vật quen thuộc, bình dị, gần gũi nhưng rất thơ mộng, trữ tình và nỗi nhớ sâu sắc của người cán bộ cách mạng về Việt Bắc.

* 22 câu tiếp “Nhớ khi… núi Hồng”: Nhớ cuộc kháng chiến anh hùng ở Việt Bắc.

- 10 câu đầu “Nhớ khi… Nhị Hà…”: Thiên nhiên cùng con người sát cánh đánh giặc.

+ Phép điệp: nhớ… => gắn với những kỉ niệm trong những ngày Việt Bắc kề vai sát cánh cùng với CM trong chiến đấu.

+ Biện pháp nhân hóa: “Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”,… biến thiên nhiên thành một lực lượng kháng chiến, thể hiện tình đoàn kết đặc biệt giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc đối với Cách mạng, khẳng định tính chính nghĩa của cuộc kháng chiến. Rừng mang tính chất của con người VN quả cảm và biết phân biệt địch – ta,…Tác giả nhìn thiên nhiên xuất phát từ lòng yêu nước gắn với yêu Cách mạng.

+ Câu hỏi tu từ: hỏi để khẳng định nỗi nhớ thường trực, sâu sắc về những địa danh gắn liền với Việt Bắc.

+ Từ chỉ địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng,… => thân thuộc, gắn liền với Việt Bắc.

- 12 câu sau “Những đường… núi Hồng”: Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong những ngày ra quân sôi động làm nên chiến thắng.

+ 8 câu đầu: khí thế dũng mãnh của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Bắc:

> Các động từ mạnh: rầm rập, rung, bật => tạo thành những chuyển rung dữ dội, thể hiện sức mạnh vô địch của cuộc kháng chiến.

> Các từ láy: điệp điệp, trùng trùng => khí thế mạnh mẽ không gì có thể ngăn cản nổi.

> Biện pháp cường điệu: Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay => sức mạnh của thời đại, của ý chí tiêu diệt giặc, của tinh thần đoàn kết có thể làm nên những điều tưởng chừng không thể.

> Nhịp điệu: dồn dập, mạnh mẽ như những bước hành quân của quân dân Việt Bắc, thể hiện khí thế ra trận của cả một dân tộc trong trận chiến quyết định với kẻ thù.

+ 4 câu sau: khí thế chiến thắng ở các chiến trường khác:

> Phép điệp: “vui”, “vui + lên/về…”

> Liệt kê: các địa danh (…)

> Giọng điệu thơ: hồ hởi, vui tươi

=> Niềm vui to lớn, rộng khắp của cuộc kháng chiến.

=> Việt Bắc anh hùng trong kháng chiến, trở thành điểm đến của tất cả các cánh quân, của ý chí Việt Nam để tạo nên một cuộc đụng đầu lịch sử, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu.

* 16 câu cuối: Nỗi nhớ Việt Bắc, nhớ cuộc kháng chiến, nhớ quê hương cách mạng của người VN.

- Câu hỏi tu từ: khơi gợi tình cảm thiêng liêng về Việt Bắc.

- Các hình ảnh: ngọn cờ đỏ thắm, sao vàng rực rỡ, cụ Hồ sáng soi, Trung ương, Chính phủ, mái đình, cây đa,…=> những hình ảnh đẹp đẽ, tươi sáng thể hiện cái nhìn lạc quan của tác giả. Đó là những hình ảnh biểu tượng của cách mạng, là tương lai của dân tộc.

- Phép điệp: Ở đâu… Nhìn lên…, Ở đâu… Trông về…=> nhấn mạnh: Việt Bắc là cái nôi của cách mạng, là cội nguồn của sự sống.

- Biện pháp đối lập: u ám >< sáng soi => đề cao vai trò của lãnh tụ Hồ Chí Minh. Bác chính là chỗ dựa tinh thần tươi sáng nhất cho cách mạng và nhân dân Việt Nam.

- Cách xưng hô mình – ta…

Kết bài:

Cảm nhận chung về bài thơ.

Bài giảng Ngữ văn 12 Việt Bắc

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (mẫu 1)

Đó là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của lòng thương mến và ân tình thủy chung. Đặc biệt, bài thơ ” Việt Bắc ” trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ở bài thơ ấy, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ thứ 10 với nỗi nhớ người lãnh đạo cách mạng - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cha của dân tộc.

”Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi

Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoà bình trở lại nước ta, miền bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Lúc này, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. đây cũng chính là lúc Tố Hữu đã sáng tác nên bài thơ ”Việt Bắc”. Phần đầu của bài thơ tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu sâu đậm trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.

” Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau dớn giống nòi
Trông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền”

Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết - người đã mở cho Cách mạng Việt Nam một con đường mới. Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ”ở đâu” đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: “u ám quân thù”, ”đau đớn giống nòi”. Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói,… – một hiện thực khó mà phai mờ được. Để làm nhẹ dịu hình ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: ”Cụ Hồ sáng soi”, ”mà nuôi chí bền” ở câu thơ 8 chữ. Điệp từ ”nhìn” và ”trông” ở hai câu thơ 8 chữ đều hướng về Việt Bắc – trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. ”Cụ Hồ sáng soi” gợi đến ánh sáng của lí tưởng soi đường cho dân tộc, ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt, áng sáng của niềm tin và hy vọng. Cụm từ ”mà nuôi chí bền” diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế nào thì chỉ cần nhìn về Việt Bắc nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền, trường kì kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.

Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cáng mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…

Bốn câu thơ cuối trong khổ là lời khẳng định của người cán bộ về xuôi, cán bộ sẽ không quên 15 năm ấy - 15 năm chúng ta đã từng gắn bó thiết tha mặn nồng, đấu tranh dành độc lập tự do cho dân tộc; cán bộ sẽ không quên Việt Bắc là quê hương của Cánh mạng bởi chính nơi này mình và ta đã cùng nhau đấu để có được nền Cộng hòa cho ngày hôm nay. Một lần nữa Tố Hữu lại nhắc đến 2 địa danh nổi tiếng và 2 sự kiện nổi bật đã từng diễn ra ở Việt Bắc ” Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” chỉ để nhấn mạnh rằng mình sẽ luôn nhớ về Việt Bắc - cái nôi của Cách mạng. Ẩn trong nỗi nhớ ấy chính là lòng biết ơn sâu sắc và lời hứa sẽ luôn thủy chung của người cán bộ miền xuôi với cán bộ miền ngược. Qua đoạn thơ trên ta thấy con người Việt Bắc hiện ra nội bật với tấm lòng thủy chung sâu sắc, gắn bó với Cách mạng với kháng chiến. Đó là những con người có lòng tin vào Bác Hồ, vào sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng. Đồng thời qua khổ thơ trên tác giả đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên, con người, cuộc sống lao động và chiến đấu của núi rừng Việt Bắc trong suốt 15 năm. Đây có thể được coi là đoạn tổng kết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng với đoạn thơ trên, ta thấy rõ hơn về phong cách thơ Tố Hữu mang đậm màu sắc dân tộc. Kết cấu thơ theo lối đối đáp, diễn đạt theo thể thơ lục bát tạo nên sắc thái trữ tình nhưng không kém phần sáng tạo mới mẻ. Tố Hữu đã dùng cách diễn đạt rất riêng tư để thể hiện nghĩa tình cách mạng rộng lớn.

Đoạn thơ trên là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, là đoạn thơ có tính trữ tình chính trị sâu sắc. Đây cũng là đoạn thơ khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt Nam luôn sống gắn bó thủy chung cho dù trong những ngày khó khăn hay hạnh phúc.

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (mẫu 2)

Đó là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của lòng thương mến và ân tình thủy chung. Đặc biệt, bài thơ ” Việt Bắc ” trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc. Ở bài thơ ấy, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ thứ 10 với nỗi nhớ người lãnh đạo cách mạng - chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cha của dân tộc.

”Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi

Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.”

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoà bình trở lại nước ta, miền bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Lúc này, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. đây cũng chính là lúc Tố Hữu đã sáng tác nên bài thơ ”Việt Bắc”. Phần đầu của bài thơ tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu sâu đậm trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.

” Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau dớn giống nòi
Trông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền”

Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết - người đã mở cho Cách mạng Việt Nam một con đường mới. Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ”ở đâu” đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: “u ám quân thù”, ”đau đớn giống nòi”. Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói,… – một hiện thực khó mà phai mờ được. Để làm nhẹ dịu hình ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: ”Cụ Hồ sáng soi”, ”mà nuôi chí bền” ở câu thơ 8 chữ. Điệp từ ”nhìn” và ”trông” ở hai câu thơ 8 chữ đều hướng về Việt Bắc – trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. ”Cụ Hồ sáng soi” gợi đến ánh sáng của lí tưởng soi đường cho dân tộc, ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt, áng sáng của niềm tin và hy vọng. Cụm từ ”mà nuôi chí bền” diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế nào thì chỉ cần nhìn về Việt Bắc nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền, trường kì kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.

Mười lăm năm ấy, ai quên
Quê hương Cáng mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào…

Đoạn thơ trên là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến chống Pháp, là đoạn thơ có tính trữ tình chính trị sâu sắc. Đây cũng là đoạn thơ khắc họa rõ nét vẻ đẹp tâm hồn, tính cách con người Việt Nam luôn sống gắn bó thủy chung cho dù trong những ngày khó khăn hay hạnh phúc.

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (mẫu 3)

Văn học kháng chiến đến ngày nay vẫn chiếm một vị trí quan trọng đối với nền văn học Việt Nam. “Việt Bắc” của Tố Hữu được đánh giá là tác phẩm đồ sộ, nhiều ý nghĩa sâu sắc, là tiếng nói của quân dân ta trong kháng chiến trường kỳ. Phân tích Việt Bắc, ta sẽ thấy được tình cảm sắt son, đoàn kết một lòng của nhân dân qua ngòi bút tài hoa, trữ tình của tác giả.

Tố Hữu là nhà thơ hiện đại lớn, được mệnh danh là ngọn cờ đầu của phong trào thơ Cách mạng Việt Nam. Cuộc đời nghệ thuật của ông luôn song hành cùng những chặng đường Cách mạng của dân tộc, khiến thơ ông mang tính biên niên sử, hào hùng nhưng vẫn vô cùng sâu sắc. Lời thơ Tố Hữu giản dị, ấm áp nhưng đậm chất chính trị.

Bài thơ “Việt Bắc” sáng tác sau khi chiến thắng thực dân Pháp, là một trong những tác phẩm nổi bật nhất của Tố Hữu. Trong đầu những năm 40 của thế kỉ trước, Việt Bắc là căn cứ địa quan trọng của cuộc chiến. Nơi đây, nhân dân ta cùng với các chiến sĩ cùng sống, đùm bọc và chiến đấu. Đến năm 1954, sau chiến thắng vang dội, Trung ương Đảng và Chính phủ rời căn cứ địa Việt Bắc về Hà Nội. Nhân sự kiện trọng đại ấy của dân tộc, tác giả Tố Hữu đã sáng tác bài thơ “Việt Bắc”. Thông qua lời thơ, tác giả đã gợi lại tình quân dân thắm thiết, ân tình và sâu nặng trong cuộc kháng chiến, là tiếng lòng của quân dân ta trong máu lửa, gian lao.

Trước hết, tác giả đưa ra lời của người ở lại, là tiếng lòng của nhân dân Việt Bắc khi cán bộ, chiến sĩ về xuôi. Với thể thơ lục bát, lời thơ như tâm tình, thủ thỉ, lưu luyến không thôi:

“Mình về mình có nhớ ta
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng
Mình về mình có nhớ không
Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn”

Phân tích Việt Bắc để thấy những câu thơ chính là tâm trạng của người ở lại trong sự níu kéo và tiếc nuối khi phải chia xa. Họ phải xa những người chiến sĩ Cách mạng đã bao nhiêu năm gắn bó. Tác giả sử dụng hai đại từ xưng hô “ta” và “mình” vô cùng khéo léo. Nó đã thể hiện sự gắn bó khăng khít, son sắt và chung thủy của cán bộ và nhân dân. Ở đây, Tố Hữu đưa ra quãng thời gian cụ thể là “mười lăm năm ấy”. Đó là quãng thời gian rất dài, gắn liền với cuộc đấu tranh ác liệt của quân và nhân dân ta với thực dân Pháp tàn bạo. Đó cũng chính là quãng thời gian mà tình cảm giữa quân và dân vô cùng tha thiết, mặn nồng. Giờ đây, cả người ra đi và người ở lại tràn ngập nỗi nhớ thương, nhìn đâu đâu cũng thấy bóng dáng của những điều xưa cũ, còn vẹn nguyên và tinh khôi ở trong lòng. Tố Hữu dường như đã gieo vào lòng người đọc cái cảm giác vấn vương một cách lạ lùng.

Tâm trạng quyến luyến, bịn rịn của người ở lại khiến cho người ra đi không khỏi bồn chồn. Dường như không ai muốn rời bước chân đi:

“Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”

Những lời tâm tình, thủ thỉ của người ở lại đã khiến cho người về xuôi không đành lòng bước đi. Những lời tâm sự ấy giờ đây khiến những thương nhớ và kỉ niệm như chực trào, không thể nào quên. Tất cả tâm trạng ấy được tác giả gói gọn trong hai từ “bâng khuâng”. Nó như dùng dằng, níu kéo chẳng muốn bước đi, lại như nỗi buồn man mác khi nghĩ tới cảnh chia xa. Cảm xúc ấy khó mà có thể diễn tả bằng lời một cách dễ dàng.

Lúc này đây chính tâm trạng của người ra đi và người ở lại đều không thể lý giải được là tại sao lại như vậy. Phải chăng tình yêu đã quá lớn và kỉ niệm đã quá đầy để có thể quay mặt bước đi. Suốt 15 năm sống và gắn bó với mảnh đất nơi đây, đồng đội và đồng bào đã phải trải qua bao nhiêu cay đắng, ngọt bùi, san sẻ cho nhau từng bữa cơm giấc ngủ. Những năm tháng gian khổ ấy đâu chỉ kể với nhau trong vài câu chữ như thế này, nhưng chính câu chữ đã khiến cho cảm xúc tràn ra, không thể thôi nhớ và thôi mong. Người ra đi đã đáp trả lại tình cảm người ở lại:

“Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh”

“Ta” và “mình” dường như hòa quyện với nhau thành một thể thống nhất, không tác rời nhau. Người ra đi một mực khẳng định rằng “mặn mà đinh ninh”. Hai từ “đinh ninh” như ghim chặt vào lòng người đọc tấm lòng son sắt và thủy chung trước sau như một. Đó là tình cảm hết sức thiêng liêng và cao cả.

Phân tích Việt Bắc mới biết khi nhớ về núi rừng việt bắc tác giả nhớ tất thảy thiên nhiên và con người nơi đây. Mọi thứ hiện lên đều rất sống động, đậm nghĩa, vẹn tình. Chỉ với vài bước phác họa bức tranh tứ bình về thiên nhiên và con người nơi đây hiện lên một cách vẹn tròn, ý nghĩa, tươi đẹp nhất :

“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vang
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ cô em gái hái măng một mình”

Một bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, sống động và tinh khôi và núi rừng Việt Bắc. Trong bức tranh ấy không chỉ có hình ảnh thiên nhiên tươi đẹp, hùng vĩ mà còn xuất hiện thêm hình ảnh con người chân chất, mộc mạc nhưng lại tình cảm và ý nghĩa biết bao. Có lẽ đây là đoạn thơ hay nhất, đẹp nhất, trữ tình nhất trong toàn bộ bài thơ Việt Bắc. Nó chính là điểm sáng để cả bài thơ tràn đầy tình yêu thương và tinh thần lạc quan nhất.

Điệp từ “nhớ” được tác giả sử dụng lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong suốt tác phẩm. Nó đã khiến cho nỗi nhớ trong cả bài thơ dường như tràn ra lênh láng, cảm xúc của tác giả cũng như vỡ òa, dội lên mãnh liệt, tràn lên mặt chữ.

Nhà thơ Tố Hữu không chỉ nhớ đến cảnh vật và con người Việt Bắc mà hơn hết, ông còn nhớ những cuộc chiến tranh ác liệt gian khổ đã diễn ra trong suốt quãng thời gian dài:

“Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù”

Đến đây, giọng thơ không còn tha thiết, thủ thỉ tâm tình nữa mà trở nên hào hùng, vang dội vô cùng khi nói đến cuộc chiến oanh liệt của quân dân ta. Những trận chiến ấy xảy ra giữa núi rừng Việt Bắc, để lại từng dấu ấn nơi đây. Và không chỉ con người đồng lòng, mà thiên nhiên dường như cũng đang sát cánh bên người chiến sĩ để “vây quân thù”.

Qua những vần thơ này, dường như hào khí Đông A lại trỗi dậy, mãnh liệt và tràn đầy niềm tự hào. Để đến tận mai sau, chiến thắng vẻ vang và tình đoàn kết đồng lòng sẽ mãi mãi được khắc ghi và nhắc lại.

Với thể thơ lục bát, giọng thơ trữ tình cùng các hình ảnh độc đáo, “Việt Bắc” đã khắc họa thành công sự kiện quan trọng của dân tộc. Hơn cả, bài thơ đã tái hiện được một chặng đường hào hùng, tình cảm sắt son, gắn bó của quân và dân – yếu tố quan trọng mang tới chiến thắng vẻ vang của nhân dân ta. Đó là những con người nhỏ bé nhưng phi thường, hết lòng vì dân, vì nước, vì Cách mạng, đoàn kết, thuỷ chung với lý tưởng cao đẹp.

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (mẫu 4)

Tố Hữu là một nhà thơ lớn trong nền văn học Việt Nam nói chung và trong mảng văn học cách mạng nói riêng, là lá cờ đầu của thơ ca cách mạng và kháng chiến. Ở Tố Hữu có sự thống nhất hài hòa giữa cuộc đời cách mạng và cuộc đời thơ. Chính vì vậy có thể nói rằng, qua các tác phẩm của ông, ta không chỉ thấy được thế giới tâm hồn tình cảm, thấy được phong cách nghệ thuật độc đáo của ngòi bút thơ Tố Hữu mà qua đó dường như nhà văn đã phản ánh một cách rõ nét nhất những dấu mốc lịch sử quan trọng xuyên suốt quá trình kháng chiến bảo vệ nền độc lập dân tộc, người đọc vì thế mà có thể thấy được trọn vẹn những trang sử vẻ vang của đất nước như những thước phim quay chậm. Cùng phân tích bài thơ Việt Bắc bạn sẽ rõ.

Bài thơ được sáng tác vào tháng mười năm 1954, ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp vừa kết thúc thắng lợi, các cơ quan trung ương của Đảng và Chính phủ từ Việt Bắc – thủ đô gió ngàn của dân tộc trở về Hà Nội. Tố Hữu cũng là một trong những cán bộ kháng chiến từng sống và gắn bó với người dân và thiên nhiên Việt Bắc, nay trở về chia tay đầy ngậm ngùi và lưu luyến, nhà thơ xúc động viết nên bài thơ này.

Bài thơ được viết theo thể lục bát, thể thơ truyền thống của dân tộc mang âm hưởng nhẹ nhàng uyển chuyển thấm đẫm chất trữ tình của những câu ca dao. Trong cảm xúc lắng đọng ngậm ngùi của buổi chia li, việc sử dụng thể thơ này để biểu đạt tình cảm và hồi tưởng lại những kỉ niệm gắn bó với núi rừng Việt Bắc, người dân Việt Bắc là hoàn toàn hợp lí.

Tác giả mở đầu bài thơ bằng một loạt những câu hỏi tu từ:

Mình về mình có nhớ ta?
Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng.
Mình về mình có nhớ không?
Nhìn cây nhớ suối nhìn sông nhớ nguồn.
Tiếng ai tha thiết bên cồn
Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi
Áo chàm đưa buổi phân li
Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay…
Mình đi có nhớ những ngày
Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù
Mình về có nhớ chiến khu
Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai?
Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng, măng mai để già
Mình đi có nhớ những nhà
Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son
Mình về còn nhớ núi non
Nhớ khi kháng Nhật, thuở còn Việt Minh
Mình đi mình có nhớ mình
Tân Trào, Hồng Thái mái đình cây đa?

Những kỉ niệm đó giờ đây chỉ còn là những kỉ niệm trong dòng kí ức… chầm chậm trôi… Những câu hỏi cứ nối tiếp nhau xuất hiện làm nên một điệp khúc thấm đẫm tâm trạng của nhân vật trữ tình. Cũng chính qua những dòng thơ này mà khung cảnh núi rừng Việt bắc đại ngàn hiện ra rõ nét nhất. Đó là núi non hùng vĩ, những con sông, những cơn mưa ào ạt đổ về nguồn mây mù khói tỏa… Nhưng giữa bức tranh đó nổi bật nhất chính là cuộc sống sinh hoạt và chiến đấu hết sức gian lao, khổ cực nhưng vô cùng gắn bó, đoàn kết, thắm tình nghĩa như những người con cùng chung một dòng máu giữa cán bộ kháng chiến và nhân dân Việt Bắc. Cuộc sống chiến đấu tuy vất vả và khó khăn nhưng nhờ có sự ủng hộ và nâng đỡ tinh thần của những con người chân chất nơi núi rừng đại ngàn đó nên tất cả đã trở thành những kỉ niệm đẹp đẽ không thể nào quên trong trái tim của hai phía.

Chân bước đi mà lòng còn ở lại…trái tim gắn bó hơn mười năm giờ đây một phần đã thuộc về đất, về người, về núi rừng nơi đây giờ phải chia xa làm sao cho nỡ. Người chiến sĩ bước đi trong ngậm ngùi thương nhớ. Những câu hỏi của đồng bào Việt Bắc không chỉ thể hiện được sự lưu luyến nuối tiếc mà còn như muốn khắc sâu hơn nữa những ngày tháng kỉ niệm đó.

Cách xưng hô “mình – ta” cũng là cách xưng hô rất gần gũi thân mật thể hiện sự gắn bó máu thịt giữa quân và dân, chính vì vậy mà lời thơ như lời tâm tình thủ thỉ, giọng thơ mang âm hưởng nhẹ nhàng mà đằm thắm thiết tha. Hình ảnh áo chàm trong câu thơ: “Áo chàm đưa buổi phân li…” là hình ảnh hoán dụ chỉ đồng bào Việt Bắc đang bịn rịn trong chia li. Bàn tay đan chặt bàn tay, người đi kẻ ở, họ không biết nói gì ngoài việc trao cho nhau những cái nắm tay nồng ấm. Cái bắt tay này ta cũng đã từng gặp trong thơ của Chính Hữu:

Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Chân không giày
Thương nhau tay nắm lấy bàn tay…

Đúng, họ không có gì trao cho nhau giữa trời khuya lạnh giá ngoài tình đồng chí đồng đội keo sơn gắn bó. Cái bắt tay giản đơn thôi nhưng đã giúp người chiến sĩ vượt qua những khó khăn thiếu thốn của buổi đầu kháng chiến. Ở đây cái nắm tay này diễn ra trong bối cảnh chia li, chính vì vậy nó có ý nghĩa như một minh chứng cho tình cảm nồng thắm quân dân.

Trước tình cảm tha thiết cùng với sự bày tỏ nỗi nhớ nhung đặc biệt ấy, người chiến sĩ cũng dần trải lòng ra qua từng câu chữ:

Ta với mình, mình với ta
Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh
Mình đi mình lại nhớ mình
Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu
Nhớ gì như nhớ người yêu
Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương
Nhớ từng bản khói cùng sương
Sớm khuya bếp lửa người thương đi về
Nhớ từng rừng nứa bờ tre
Ngòi Thia sông Đáy, suối Lê vơi đầy
Ta đi ta nhớ những ngày
Mình đây ta đó đắng cay ngọt bùi….
Thương nhau chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng
Nhớ người mẹ nắng cháy lưng
Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô
Nhớ sao lớp học i tờ
Đồng khuya đuốc sáng những giờ liên hoan
Nhớ sao ngày tháng cơ quan
Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo.
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều
Chày đêm nện cối đều đều suối xa…

Những kí ức như ào ạt dội về, mỗi kỉ niệm đều vô cùng rõ nét như mới diễn ra ngày hôm qua vậy. Người chiến sĩ đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung, tình cảm dạt dào và nghĩa tình sâu nặng như nguồn nước trong mát đổ về bản làng. Người chiến sĩ còn nhớ đến vầng trăng tròn đầy sau những rặng núi xa sau bản, nhớ những vạt nắng vàng như màu mật đổ xuống những cánh đồng ruộng bậc thang ngào ngạt mùi lúa chín, nhớ những sáng tinh sương mịt mù trong mây và khói tỏa, nhớ từng dòng suối cánh rừng… Thiên nhiên núi rừng Việt Bắc lại một lần nữa hiện lên qua từng câu thơ hết sức hùng vĩ thơ mộng khiến cho ai đi xa mà chẳng nhớ về.

Anh còn thấy xao xuyến bồi hồi khi nhớ lại hương vị của củ sắn lùi, bắt cơm sẻ nửa tuy bình dị nhưng nồng thắm nghĩa tình. Hình ảnh người mẹ địu con lên rẫy làm việc là hình ảnh tiêu biểu cho phong trào nuôi quân của hậu phương nơi núi rừng Việt Bắc. Nhớ những lớp học i tờ, nhớ khúc hát ca vang rừng núi của đoàn dân quân… Những kỉ niệm ấy quả thực vô cùng đẹp đẽ và đã trở thành một phần máu thịt của anh. Chẳng cần những lời nói chia tay lưu luyến nhưng qua việc tái hiện lại một loạt các câu hỏi như thế ta cũng đủ thấy được tình cảm sâu đậm, sự gắn bó tha thiết giữa những người cán bộ và người dân.

Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung.

Chỉ qua một vài câu thơ mà nhà thơ đã tái hiện lại một cách chân thực và rõ nét nhất thiên nhiên Việt Bắc qua bốn mùa xuân hạ thu đông nhưng nhà thơ lại chọn miêu tả mùa đông trước phải chăng là những cán bộ chiến sĩ đến vào mùa đông và cũng ra đi vào mùa đông, mùa đông là mùa của gặp gỡ và chia phôi cho nên nó khắc sâu vào trong lòng người nhất. Mùa đông – mùa của những cánh rừng bạt ngàn màu xanh tươi mát, của những bông hoa chuối đỏ tươi. Con người hiện lên trong bức tranh thơ mộng đó đang trong tư thế sẵn sàng chinh phục tự nhiên: “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”. Đông qua xuân về, bức tranh Việt Bắc lại khoác lên mình màu áo mới. Đó chính là sắc trắng tinh khiết của hoa mơ, con người trong lao động hết sức cần cù miệt mài. Thu về là những cánh rừng trắng xóa màu hoa mơ chuyển sang màu hổ phách cùng tiếng ve kêu như thúc giục lòng người. Hình ảnh người con gái Việt Nam hái măng một mình cũng thật thơ mộng làm sao. Kết thúc bức tranh bốn mùa là ánh trăng hòa bình cùng với những câu hát say đắm thủy chung.

Có thể nói rằng chỉ qua một vài câu thơ nhưng dòng chảy cuộc sống như đang ngưng tụ lại trên từng câu chữ. Con người và thiên nhiên Việt Bắc như là trung tâm trong bức tranh bốn mùa đó. Những nàng tiên đại diện cho sắc màu bốn mùa như đang lướt nhẹ trên những câu chữ vậy.

Sau những câu thơ miêu tả thiên nhiên người chiến sĩ nhắc đến những hoạt động cách mạng vô cùng sôi nổi của mình:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây
Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù
Mênh mông bốn mặt sương mù
Đất trời ta cả chiến khu một lòng
Ai về ai có nhớ không?
Ta về ta nhớ Phủ Thông, đèo Giàng
Nhớ sông Lô, nhớ phố Ràng
Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà…

Những kí ức ùa về trong tâm trí là khi bộ đội đánh giặc. Khi quân giặc đến, không chỉ bộ đội ta mà cả núi rừng thiên nhiên hoang dã cùng đồng lòng đồng sức đánh giặc. Đối với quân và dân ta, rừng dang bàn tay âu yếm che chở và bảo vệ, những tán lá rừng xanh mát như một thứ ngụy trang khiến cho bộ đội yên lòng chiến đấu và chiến thắng quân thù. Còn đối với quân giặc, rừng lại như một vùng địa thế hiểm trở như một ma trận bao vây khiến chúng có thể rơi vào rất nhiều cạm bẫy. Khi ấy thiên nhiên núi rừng Việt Bắc đã góp phần làm nên chiến thắng, làm nên những trang sử vẻ vang của dân tộc.

Nhưng trên tất cả tình dân quân thể hiện rõ nhất trong đoạn thơ:

Những đường Việt Bắc của ta
Đêm đêm rầm rập như là đất rung
Quân đi điệp điệp trùng trùng
Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ man
Dân công đuốc đỏ từng đoàn
Bước chân nát đá, muôn tàn lửa bay
Nghìn đêm thăm thẳm sương dày
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên
Tin vui chiến thắng trăm miền
Hòa Bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về
Vui từ Đồng Tháp An Khê
Vui lên Việt Bắc đèo De núi Hồng.

Khí thế của đoàn quân vô cùng mạnh mẽ được thể hiện thông qua hình ảnh so sánh “đêm đêm rầm rập như là đất nung”, qua những từ ngữ gợi hình gợi tả “điệp điệp trùng trùng”, qua hình ảnh hoán dụ ánh sao đầu súng và mũ nan – những hình ảnh biểu tượng cho bộ đội và những người dân Việt Bắc. Ngọn đuốc trên tay quân dân không chỉ thắp sáng lên cả bầu trời Việt Bắc khi ấy mà nó còn thắp lên cả những thế hệ, thắp lên tương lai, thắp lên niềm tin và hi vọng về một chiến thắng không xa. Sức mạnh của cả một đoàn quân khí thế đến nỗi có thể làm cho đá nát lửa bay không một thế lực nào có thể ngăn cản được. Bằng nghệ thật phóng đại cường điệu, nhà thơ Tố Hữu dường như đã tái hiện lại bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ để rồi giờ đây chỉ qua những dòng thơ ngắn gọn, ta như trở về với một thời hào hùng của cha ông. Giữa bóng tối vây quanh ngọn đèn pha như thắp lên niềm tin niềm hi vọng của quân dân về một tương lai tốt đẹp hơn.

Cuối cùng, sau những tháng ngày chiến đấu gian lao và khổ cực quân và dân ta đã giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang. Hạnh phúc vỡ òa không từ ngữ nào có thể diễn tả. Từ Hòa Bình Tây Bắc hay Điện Biên, nhân dân như vui cùng một niềm hạnh phúc. Điều này chứng tỏ sự gắn bó máu thịt sự đoàn kết không thể nào phá rời của quân và dân ta khi đất nước gặp khó khăn.

Trong niềm thương nhớ nuối tiếc khi chia xa, nhà thơ cất lên những giai điệu hào hùng ca ngợi tổ quốc ca ngợi Đảng và Chính phủ Việt Nam:

Ai về ai có nhớ không?
Ngọn cờ đỏ thắm gió lồng cửa hang
Nắng trưa rực rỡ sao vàng
Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công
Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường
Giữ đê, phòng hạn, thu lương
Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu
Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau đớn giống nòi
Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền
Mười lăm năm ấy ai quên
Quê hương cách mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái cây đa Tân Trào.

Ngày hôm qua ấy mãi ở trong lòng người chiến sĩ cách mạng, tồn tại như một phần kí ức không thể nào tách rời. Hình ảnh ngọn cờ sao vàng như một minh chứng cho những thắng lợi vẻ vang của dân tộc. Hình ảnh Bác Hồ như một biểu tượng tiếp thêm dũng khí và nghị lực cho quân dân ta tiếp tục chiến đấu và chiến thắng. Bác như tiếp thêm cho chúng ta ý chí lòng can đảm bởi chỉ có ý chí mới vượt qua được những chông gai thử thách và khó khăn đang đợi chờ phía trước.

Mình về thành thị xa xôi
Nhà cao còn thấy núi đồi nữa chăng?
Phố đông còn nhớ bản làng
Sáng đèn còn nhớ mảnh trăng giữa rừng?
Mình đi ta hỏi thăm chừng
Bao giờ Việt Bắc tưng bừng thêm vui?

Lời thơ như lời băn khoăn day dứt khôn nguôi của người dân Việt Bắc đối với người chiến sĩ cách mạng trong giờ phút chia tay. Các hình ảnh hoán dụ như nhà cao, núi đồi, phố đông, sáng đèn, mảnh trăng giữa rừng là các hình ảnh tượng trưng cho cuộc sống nơi thành thị và nơi núi rừng. Đối lập giữa một bên là cuộc sống sung túc và đủ đầy và một bên là cuộc sống dân dã nghèo khổ nhưng đầy ắp kỉ niệm nơi núi rừng thiên nhiên, tác giả đã diễn tả sự băn khoăn trong lòng người dân rằng liệu hoàn cảnh sống thay đổi, những người cán bộ có thay lòng đổi dạ, có lãng quên quá khứ, lãng quên đi những con người đã cùng kề vai sát cánh trong những tháng ngày gian khó, đang ngày đêm nhớ nhung và mong chờ họ trở về thăm. Đáp lại, người cán bộ bày tỏ:

Đường về đây đó gần thôi
Hôm nay rời bản về nơi thị thành
Nhà cao chẳng khuất núi xanh
Phố đông càng giục chân nhanh bước đường
Ngày mai về lại thôn hương
Rừng xưa núi cũ yêu thương lại về
Ngày mai rộn rã sơn khê
Ngược xuôi tàu chạy bốn bề núi giăng…

Người cán bộ cách mạng đã khẳng định tấm lòng son sắt thủy chung của mình: dù hoàn cảnh sống có thay đổi nhưng lòng luôn hướng về Việt Bắc, con tim luôn dạt dào nỗi nhớ và tình cảm dành cho con người và thiên nhiên nơi đây. Dù sống trong nhà cao nhưng sẽ không quên được những rặng núi xanh mát. Vào một ngày không xa họ sẽ trở về thăm lại bản làng, tình cảm lại trở về tươi mới vẹn nguyên như thuở ban đầu.

Trong những giây phút chia li cuối cùng, lời nhắn cuối cùng mà người dân Việt Bắc muốn nhắn nhủ là:

Mình về với Bác đường xuôi
Thưa giùm Việt Bắc không nguôi nhớ người
Nhớ ông Cụ mắt sáng ngời
Áo nâu túi vải đẹp tươi lạ thường
Nhớ Người những sáng tinh sương
Ung dung yên ngựa trên đường suối reo
Nhớ chân Người bước lên đèo
Người đi rừng núi trông theo bóng Người.

Hình ảnh Bác lại một lần nữa hiện lên trong bài thơ. Chỉ có điều Bác hiện lên không phải như một biểu tượng đẹp tiếp thêm cho người chiến sĩ cách mạng ý chí và niềm tin, không phải là một biểu tượng cho sức mạnh đánh tan quân thù nữa mà Bác hiện lên trong những câu thơ này là một con người hết sức đời thường: mắt sáng ngời, áo nâu túi vải trong tư thế ung dung trên yên ngựa vào mỗi sáng tinh sương. Quả thật hình ảnh Bác hiện lên như một ông tiên trong những câu chuyện cổ, rất bình dị nhưng vẫn đẹp một cách phi thường. Giờ đây con người đó đã đi xa cả rừng núi như dõi theo từng bước đi của Người.

Kết thúc bài thơ là hai câu thơ với âm hưởng tươi sáng:

Cầm tay nhau hát vui chung
Hôm sau mình nhé hát cùng thủ đô.

Hai câu cuối bài thơ mang âm hưởng tươi vui chính vì vậy mà dù đề tài có viết về cảnh chia tay nhưng không hề gây cho người đọc cảm giác buồn bã đau thương hay nuối tiếc mà trái lại vẫn tươi vui trong sáng, mở ra một tương lai huy hoàng, một viễn cảnh tương lai khi đất nước phát triển đi lên không ngừng. Khúc ca cuối bài khép lại bài thơ như là lời ngợi ca sức sống của Tổ quốc, cũng chính là khúc ca chia tay đầy tin tưởng.

Bài thơ Việt Bắc khép lại nhưng để lại trong lòng người đọc những dư vị khó phai. Có được thành công như vậy trước hết là phải kể đến những nét đặc sắc về nghệ thuật. Bài thơ mang tính dân tộc được thể hiện khá rõ xuyên suốt bài thơ. Thể thơ lục bát – một thể thơ quen thuộc trong dân gian được nhà thơ sử dụng hết sức thành công, âm hưởng nhẹ nhàng tinh tế in sâu vào tâm trí mỗi người. Chất văn xuôi cũng được đưa vào trong thơ và được vận dụng sáng tạo linh hoạt, những hình ảnh so sánh, những cách nói ví von cũng góp phần tạo nên giọng điệu của bài thơ.

Bài thơ Việt Bắc không chỉ tái hiện lại được không khí vào những năm kháng chiến chống Pháp mà còn đưa người đọc ngược dòng thời gian để tìm về với những nét đẹp trong tâm hồn người quân dân: vẻ đẹp của tấm lòng thủy chung son sắt, vẻ đẹp của sự đoàn kết gắn bó, rộng hơn nữa đó chính là ý thức trách nhiệm đối với Tổ quốc với nhân dân. Cũng từ đó mà ta thấy được tài năng và khả năng giao cảm tinh tế với cái đẹp của thiên nhiên, của con người Việt Bắc của Tố Hữu. Để làm được điều đó Tố Hữu đã trải qua một thời gian dài sống và gắn bó với người dân, với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc.

Bài Việt Bắc của Tố Hữu cùng với những bài thơ khác cùng thời, cùng đề tài như Đồng chí của Chính Hữu, Bài thơ về tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật, đã góp phần rất lớn vào trong chủ đề thơ ca cách mạng không những có tác dụng cổ vũ động viên tinh thần người chiến sĩ mà còn như những tấm gương phản chiếu về một thời đại vẻ vang của dân tộc, để cho thế hệ sau mãi tự hào từ đó mà càng thấy được.

Cảm nhận khổ 10 bài thơ Việt Bắc (mẫu 5)

Tố Hữu là nhà thơ cách mạng nổi tiếng của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông đã để lại cho đời nhiều tập thơ như: ''Từ ấy'', ''Việt Bắc'', ''Máu và hoa'', ... tất cả đều mang một phong cách nghệ thuật độc đáo. Đó là một hồn thơ cách mạng sôi nội, mãnh liệt. Đó là nhà thơ của lẽ sống lớn, tình cảm lớn, niềm vui lớn của lòng thương mến và ân tình thủy chung. Đặc biệt, bài thơ ''Việt Bắc'' trong tập thơ cùng tên của Tố Hữu là một tác phẩm nghệ thuật đặc sắc.

Ở bài thơ ấy, Tố Hữu đã khẳng định tình cảm thủy chung của người cán bộ về xuôi với nhân dân Việt Bắc, với kháng chiến, với cách mạng. Tiêu biểu trong bài là khổ thơ thứ 10 với nỗi nhớ người lãnh đạo cách mạng- chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, người cha của dân tộc.

''Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi
...
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào.''

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơ-ne-vơ được kí kết, hoài bình trở lại nước ta, miền bắc được giải phóng. Một trang sử mới của đất nước và một giai đoạn mới của cách mạng được mở ra. Lúc này, các cơ quan Trung ương của Đảng và Chính phủ rời chiến khu Việt Bắc trở về thủ đô Hà Nội. đây cũng chính là lúc Tố Hữu đã sáng tác nên bài thơ ''Việt Bắc''. phần đầu của bài thơ tái hiện giai đoạn gian khổ, vẻ vang của Cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc nay đã trở thành những kỉ niệm sâu sâu đậm trong lòng người. Phần sau nói lên sự gắn bó giữa miền ngược và miền xuôi trong một viễn cảnh hòa bình tươi sáng của đất nước và kết thúc bằng lời ngợi ca công ơn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng đối với dân tộc.

'' Ở đâu u ám quân thù
Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi
Ở đâu đau dớn giống nòi
Trông về Biệt Bắc mà nuôi chí bền''

Qua 4 câu thơ đầu của khổ thơ ta thấy được nỗi nhớ của cán bộ về xuôi cũng như nhân dân Việt Bắc về vị cha già kính yêu của dân tộc một cách thật tha thiết - Người đã mở cho Cách mạng Việt Nam một con đường mới. Lối điệp cấu trúc qua hai câu thơ 6 chữ bắt đầu bằng chữ ''ở đâu'' đều xuất hiện hình ảnh của hiện thực đau đớn của quê hương đất nước ta: "u ám quân thù'', '' đau đớn giống nòi''. Đó là những hình ảnh hiện thực đau đớn của một dân tộc bị mất nước, bị giặc ngoại xâm: chúng bóc lột nhân dân ta một cách vô cùng tàn nhẫn, chúng gây ra nạn đói khủng khiếp khiến hơn 2 triệu đồng bào ta bị chất đói,... một hiện thực khó mà phai mờ được.

Để làm nhẹ dịu hình ảnh đau đớn ấy, nhà thơ đã lồng vào 2 hình ảnh đối lập: '' Cụ Hồ sáng soi'', ''mà nuôi chí bền'' ở câu thơ 8 chữ. Điệp từ ''nhìn'' và ''trông'' ở hai câu thơ 8 chữ đểu hướng về Việt Bắc - trung tâm đầu não của cuộc kháng chiến. ''Cụ Hồ sáng soi'' gợi đến ánh sáng của lí tường soi đường cho dân tộc, ánh sáng của những chỉ đạo sáng suốt , áng sáng của niềm tin và hy vọng. Cụm từ '' mà nuôi chí bền '' diễn tả dù hiện thực có gian khổ đến đâu thì, phải đối diện với những khó khăn thử thách nhiều thế nào thì chỉ cần nhìn về VB nhân dân sẽ cảm thấy có lòng tin và ý chí chiến đấu, nuôi chí bền, trường kì kháng chiến chắc chắn sẽ thành công.

Mười lăn năm ấy, ai quên
Quê hương Cáng mạng dựng nên Cộng hòa
Mình về mình lại nhớ ta
Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào...

Bốn câu thơ cuối trong khổ là lời khằng định của người cán bộ về xuôi, cán bộ sẽ không quên 15 năm ấy - 15 năm chúng ta đã từng gắn bó thiết tha mặn nồng, đấu tranh dành độc lập tự do cho dân tộc; cán bộ sẽ không quên Việt Bắc là quê hương của Cánh mạng bởi chính nơi này mình và ta đã cùng nhau đấu để có được nền Cộng hòa cho ngày hôm nay. Một lần nữa Tố Hữu lại nhắc đến 2 địa danh nổi tiếng và 2 sự kiện nổi bật đã từng diễn ra ở Việt Bắc '' Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào'' chỉ để nhấn mạnh rằng mình sẽ luôn nhớ về Việt Bắc - cái nôi của Cách mạng. Ẩn trong nỗi nhớ ấy chình là lòng biết ơn sâu sắc và lời hứa sẽ luôn thủy chung của người cán bộ miền xuôi với cán bộ miền ngược.

Qua đoạn thơ trên ta thấy con người Việt Bắc hiện ra nội bật với tấm lòng thủy chung sâu sắc, gắn bó với Cách mạng với kháng chiến. Đó là những con người có lòng tin vào Bác Hồ, vào sự chỉ đạo sáng suốt của Đảng. Đồng thời qua khổ thơ trên tác giả đã vẽ nên bức tranh toàn cảnh về thiên nhiên, con người, cuộc sống lao động và chiến đấu của núi rừng Việt Bắc trong suốt 15 năm. Đây có thể được coi là đoạn tổng kết về cuộc kháng chiến chống Pháp. Cũng với đoạn thơ trên, ta thấy rõ hơn về phong cách thơ Tố Hữu mang đậm màu sắc dân tộc. Kết cấu thơ theo lối đối đáp, diễn đạt theo thể thơ lục bát tạo nên sắc thái trữ tình nhưng không kém phần sáng tạo mới mẻ. Tố Hữu đã dùng cách diễn đạt rất riêng tư để thể hiện nghĩa tình cách mạng rộng lớn.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Tính dân tộc qua bài thơ "Việt Bắc" của Tố Hữu

Nghệ thuật của cách xưng hô "Mình – Ta" trong "Việt Bắc" của Tố Hữu

Phân tích khổ 2 bài thơ "Tây Tiến": "Doanh trại bừng lên hội đuốc hoa... Trôi dòng nước lũ hoa đong đưa"

Phân tích khổ cuối bài thơ "Tây Tiến": "Tây Tiến người đi không hẹn ước... Hồn về Sầm Nứa chẳng về xuôi"

Có người nói: ""Tuyên ngôn Độc lập" là một văn kiện có giá trị lịch sử to lớn, là một bài văn chính luận súc tích, lập luận chặt chẽ, lời lẽ hùng hồn đầy sức thuyết phục". Hãy phân tích "Tuyên ngôn Độc lập" để làm sáng tỏ nhận định trên

1 13,458 18/12/2023
Tải về