TOP 4 mẫu Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (2024) SIÊU HAY

Chất thơ trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường lớp 12 gồm dàn ý và  4 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 745 lượt xem
Tải về


Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Ai đã đặt tên cho dòng sông

Dàn ý Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông?

I. Mở bài

1. Tác giả

- Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những cây bút viết kí xuất chúng của văn học Việt Nam giai đoạn hiện đại.

- Với sở trường về kí, tác giả đem đến cho bạn đọc vốn kiến thức uyên bác qua hệ thống ngôn từ và góc nhìn tinh tế.

2. Tác phẩm

- "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là một trong rất nhiều tác phẩm nổi bật cho phong cách kí của tác giả. Tác phẩm ca ngợi những vẻ đẹp riêng dòng sông Hương chảy qua xứ Huế bằng góc nhìn đầy tinh tế với thiên nhiên và con người để thấy hết tầm trí tuệ với những kiến thức uyên thâm về lịch sử, văn hóa phong phú, đa dạng và cả tâm hồn đậm chất thơ.

II. Thân bài

1. Phân tích chất trí tuệ tinh thông của tác giả:

- Viết về dòng sông Hương xứ Huế, Hoàng Phủ Ngọc Tường thể hiện trong chất thơ của ông sự hiểu biết rộng lớn về thế giới xung quanh trong nhiều lĩnh vực: văn hóa, văn học, lịch sử, địa lí và nghệ thuật... Nhà văn đã cung cấp cho người đọc nguồn thông tin phong phú, thú vị để hiểu sâu sắc hơn về sông Hương, về vẻ đẹp thiên nhiên cùng con người xứ Huế.

* Vẻ đẹp sông Hương về địa lý:

- Hành trình của dòng sông: nhan đề "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" gây tò mò cho người đọc với câu hỏi về nguồn gốc dòng sông và khi đi dọc theo quá trình đi khám phá dòng sông, tác giả cũng tìm thấy được cội nguồn của sông Hương:

· Thượng nguồn con sông toát lên vẻ đẹp kỳ vĩ: chảy "rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn, cuộn xoáy như cơn lốc vào những đáy vực bí ẩn..."; "phóng khoáng và man dại".

· Khi chảy khỏi phạm vi trong vùng đại ngàn, sông Hương chuyển dòng, ẩn mình trong cuộc hành trình giữa lòng Trường Sơn, "ném chìa khóa trong những hang đá dưới chân núi Kim Phụng" => Vẻ đẹp dữ dội và hùng vĩ của sông Hương mà ít ai biết đến khi lẫn vào giữa rừng già đại ngàn.

Sông Hương trở nên dịu dàng đến lạ khi chảy qua vùng núi rừng hiểm trở: "uốn mình theo những đường cong thật mềm". "Dòng sông mềm như tấm lụa", cứ thế êm đềm trôi đi giữa hai dãy đồi như thành quách, chảy qua các lăng tẩm đồ sộ, qua chùa Thiên Mụ và "những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà".

-> Tất cả những gì thiên nhiên ban tặng cho dòng sông Hương xứ Huế là tinh túy và tuyệt vời nhất để rồi dòng sông như trở thành "người mẹ phù sa" và mang trong mình vẻ đẹp "dịu dàng và trí tuệ".

· Khi chảy đến giữa thành phố Huế, dòng sông bỗng dịu dàng, tĩnh lặng, lững lờ trôi thật chậm, in cả bóng cầu Tràng Tiền trông từ phía xa nhỏ nhắn như "những vành trăng non".

· Xuôi về phía dưới Cồn Hến "quanh năm mơ màng trong sương khói", hòa cùng màu xanh bao trùm của thôn Vĩ Dạ, sông Hương mang vẻ đẹp huyền ảo, mơ màng. Và thật bất ngờ, trước khi ra khỏi kinh thành Huế, sông Hương "đột ngột rẽ dòng... để gặp lại thành phố lần cuối".

· Tác giả sử dụng biện pháp nhân hóa để thể hiện nội tâm hóa hình dáng dòng sông: "Đó là nỗi vương vấn, cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu".

-> Phép nhân hóa như một biện pháp đắt giá thổi hồn vào dòng sông và hơn cả là để nhà văn có thể kết nối sông Hương với con người và văn hóa của mảnh đất Châu Hóa xưa và xứ Huế ngày hôm nay.

- Sông Hương và thiên nhiên xứ Huế: Tiếp bước theo dòng chảy của sông Hương, ta sẽ bắt gặp một bức tranh thiên nhiên đẹp đến mê hồn:

+ Thiên nhiên Huế được nhà văn tái hiện thật sinh động với vẻ đẹp biến chuyển phong phú trong thời gian và cả không gian. Sông Hương phản chiếu vẻ đẹp biến ảo của xứ Huế "sớm xanh, trưa vàng, chiều tím". Gắn liền với dòng sông là những địa danh vô cùng quen thuộc: Hòn Chén, Nguyệt Biều, Vọng Cảnh, Thiên Thai dường như sống động hơn: "sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn", "sắc nước trở nên xanh thẳm"...-> Sông Hương tôn tạo vẻ đẹp cho thiên nhiên xứ Huế và dòng sông cũng tạo nên một mảng trời riêng đầy sắc màu, văn hóa vùng đất cổ kính cố đô.

- Sông Hương và con người xứ Huế:

· Thiên nhiên cùng dòng sông luôn đồng hành, gắn bó, gần gũi với con người. Tính cách con người xứ Huế được thể hiện qua dòng chảy sông Hương: mềm mại, chí tình, "mãi mãi chung tình với quê hương xứ xở".

· Qua màu sắc không gian đất trời của Huế, màu sương khói ẩn hiện trên sông Hương, người con gái xứ Huế hiện lên qua ánh nhìn tinh tế của nhà văn với trang phục trang nhã, dịu dàng đậm chất người con gái Huế xưa "sắc áo cưới màu điều – lục các cô dâu trẻ vẫn mặc sau tiết sương giáng".

* Vẻ đẹp của sông Hương hiện lên từ góc nhìn lịch sử:

- Với góc nhìn lịch sử, dòng sông Hương lại không còn là một cô gái "Di – gan man dại", cũng không còn là "người đẹp ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa" mà đã trở thành một chứng nhân lịch sử với những biến chuyển lớn của non sông. Sông Hương như "sử thi viết giữa màu xanh cỏ lá xanh biếc"

-> Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất hùng tráng và trữ tình. Sông Hương như một bản anh hùng ca bi tráng, còn giữa đời thường thì lại là một bản tình ca "Còn non, còn nước, còn dài – Còn về, còn nhớ...".

- Tác giả đã nhìn thấy những dấu tích lịch sử từ dòng sông; từng nhánh sông nhỏ đến "những cây đa, cây cừa cổ thụ" cũng chất chứa trong đó một phần của lịch sử:

· Nhìn lại quá khứ để một lần nữa khẳng định vai trò quan trọng của dòng sông Hương trong những trang sử dân tộc. Từ thời đại Vua Hùng, sông Hương là "dòng sông biên thùy xa xôi". Trong các giai đoạn trung đại của lịch sử, sông Hương với tên gọi Linh Giang, đã "oanh liệt bảo vệ biên giới phía nam của Tổ quốc Đại Việt".

· Dòng sông gắn liền với những chiến công Nguyễn Huệ. Sông Hương đẫm máu những cuộc khởi nghĩa TK XIX. Sông Hương gắn liền với cuộc CMT8 và cùng đó là những chiến công vang dội rung chuyển non sông. Và sông Hương cùng rất nhiều di sản văn hóa Huế phải oằn mình gánh vác sứ mệnh đất nước dưới sự tàn phá của bom Mỹ...

-> Chất trữ tình có đôi chút giảm đi để nhường chỗ cho chất phóng sự với những dấu ấn sự kiện lịch sử.

=> Quay về một thời quá khứ đạn bom oanh liệt, nhà văn thể hiện rõ niềm tự hào về lịch sử của một dòng sông có cái tên mềm mại, nhẹ nhàng nhưng đầy kiên cường, kiêu hãnh qua thăng trầm lịch sử.

* Vẻ đẹp của sông Hương từ góc nhìn văn hóa:

Trong góc nhìn tinh tế của nhà văn, sông Hương còn chất chứa một nền văn hóa phi vật chất.

- Sông Hương - dòng sông âm nhạc:

· Chính những âm thanh đặc biệt của dòng sông (tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga, tiếng mái chèo khua sóng đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền...) đã hình thành nên những làn điệu hò da diết và một nền âm nhạc cổ điển đáng nhớ nơi đất Huế. Cũng chính trên dòng sông ấy, những câu hò Huế được cất lên tự nhiên nhất làm mênh mang, xao xuyến lòng người...

· Quan sát sông Hương, nhà văn đã nhiều lần liên tưởng đến "Truyện Kiều" của Nguyễn Du. Đại thi hào cũng đã từng có quãng thời gian sống ở đây, những trang Kiều đã được ra đời trên mảnh đất cố đô này. Đó là cơ sở để Hoàng Phủ Ngọc Tường hóa thân vào một người nghệ nhân già để lắng nghe những câu thơ tả về tiếng đàn của Kiều rồi chợt nhận ra được những rung cảm trong âm hưởng của âm nhạc cung đình và phải thốt lên: "Đó chính là Tứ đại cảnh"

-> Bóng dáng đại thi hào Nguyễn Du và những trang Kiều nhiều lần được thể hiện trong bài kí thể hiện khả năng liên tưởng vô cùng phong phú, với vốn văn hóa sâu rộng cùng sự gắn kết với những thông điệp truyền thống.

- Sông Hương - dòng sông thi ca:

· Tác giả đã thổi hồn vào những vần thơ tâm đắc của Tản Đà về Huế: "Dòng sông trắng – Lá cây xanh". Từ hình ảnh thơ trên kết hợp cùng với tâm hồn thơ của tác giả "màu cỏ lá xanh biếc" là minh chứng rõ ràng nhất cho sự tương giao giữa những tâm hồn nghệ sĩ với những rung động nhạy cảm về sắc biếc đặc trưng của thiên nhiên đất Huế.

· Bên cạnh đó là một sông Hương hùng tráng bất tử "như kiếm dựng trời xanh" trong thơ Cao Bá Quát hay hình ảnh một sông Hương "nỗi quan hoài vạn cổ" trong thơ Bà Huyện Thanh Quan...

=> Bằng vốn kiến thức văn học giàu có và phong phú mà tác giả đã chạm tới linh hồn của một dòng sông mà văn chương nghệ thuật vẫn luôn gọi tên nhưng chính dòng sông ấy chẳng bao giờ tự lặp lại mình trong cảm nhận và cảm hứng của những người nghệ sĩ.

2. Chất thơ của một ngòi bút tài hoa:

- Chất thơ được toát ra từ chính những hình ảnh xinh đẹp, ấn tượng nhất giàu chất nghệ thuật: "những xóm làng trung du bát ngát tiếng gà", "lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ..." ; qua cách so sánh liên tưởng gợi cảm: "Chiếc cầu trắng của thành phố in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như những vầng trăng non".

- Chất thơ còn được điểm tô thêm ca dao, lời thơ Tản Đà, Cao Bá Quát, Bà Huyện Thanh Quan.

- Chất thơ được cảm nhận ngay từ nhan đề bài kí gợi nét âm vang, trầm lắng của dòng sông: "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

III. Kết bài

1. Giá trị nghệ thuật

Nguyên liệu sáng tác giàu có, phong phú với khối kiến thức sâu rộng cùng sự kết hợp chất thơ hài hòa.

2. Giá trị nội dung

"Ai đã đặt tên cho dòng sông?" là tác phẩm không chỉ hay nhất viết về sông Hương mà còn là bản bút kí xuất sắc bậc nhất văn học Việt Nam hiện đại.

Bài giảng Ngữ văn 12 Ai đã đặt tên cho dòng sông

Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (mẫu 1)

Bút kí là một thể loại ký văn học ghi lại sự việc, con người, cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe nhưng bút ký không chỉ phản ánh những sự kiện khách quan mà có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng và nhất là cảm xúc, do đó bút ký có chất trữ tình. Tuy nhiên, tùy theo phong cách của từng tác giả mà yếu tố trữ tình đó có thể là đậm đặc, xuyên suốt hay điểm xuyết giữa những yếu tố thuyết minh, tự sự, nghị luận...

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ.

Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ...

Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài bút kí mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bằng tất cả tình yêu say đắm với sông Hương đẹp và dịu dàng, với Huế cổ kính thơ mộng.

Đoạn mở đầu với những khu vườn cổ, những kí ức về Nguyễn Du đã gợi cảm xúc về một vùng đất có vẻ đẹp sâu lắng (thanh khiết, cổ kính, có tác dụng như một khúc dạo đầu của một bản đàn hay bài ca thơ mộng).

Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp với những từ ngữ gợi cảm, diễn tả tình yêu say đắm của con người với dòng Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan khoáng và ma dại”. “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

Với liên tướng kỳ thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp, đầy màu sắc và ấn tượng. "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. "Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Đến ngoại vi thành Huế, sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u.

Đoạn tả sông Hương chảy vào thành phố, tác giả sáng tạo những hình ảnh đầy ấn tượng :chiếc cầu trắng in trên nền trời, uốn một cánh cung rất nhẹ”. Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đa Nuýp xanh” trong văn.

Trí tưởng tượng thật phong phú trong những liên tưởng so sánh, những hồi tưởng đầy hình ảnh kỳ thú “Sông Nê-va và những phiến băng trôi nhanh như những chiếc thuyền của những chú chim hải âu” (Chim hải âu đứng trên băng - NBS).

Vẻ đẹp của đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối thì thăng hoa cao nhất, đẹp nhất. Tác giả lý giải tên dòng sông băng huyền thoại đầy chất thơ khiến cho dòng sông vốn có cái tên thơ càng thơm hơn: Hương thơm, thơm của ngàn hoa, của nước nấu trăm loại hoa đổ xuống, làm thơm cả từng hơi đất.

Bút ký cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút ký sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.

Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (mẫu 2)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, ông sáng tác thành công ở nhiều thể loại, cả thơ và văn xuôi nhưng đạt được thành tựu lớn hơn cả là thể kí. Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều dành cho thể kí. Ông đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học sau năm một 975 ở thể loại này. Theo Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường có tính chất tự do tản mạn thiên về tùy bút, bộc lộ một trí tuệ sắc sảo, uyên bác. Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí của ông chính là một tấm lòng yêu quê hương đất nước, tâm huyết với tinh hoa văn hóa dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra ở Huế, cả cuộc đời gắn bó với đất Huế, do đó kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Tô Hoài đã nhận xét: “Nếu có thể so sánh thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến ngõ ngách, đến tích xưa của Sài Gòn, Bến Nghé, thì tôi nhớ được ít nhiều tên thành phố, tên làng ở Hà Nội, riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường thì đằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước của Huế”. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí độc đáo về sông Hương được sáng tác tháng một /một 98một và được đưa vào tập kí cùng tên năm một 984. Tác phẩm thuộc thể kí nhưng là bút kí văn hóa thiên về tùy bút, nó vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ với nội dung thông tin phong phú.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đi nhiều, tích lũy vốn sống vốn hiểu biết sâu sắc. Ông am hiểu những gì mình viết. Đọc tác phẩm của ông là tiếp xúc với một kho tri thức phong phú trên nhiều góc độ văn hóa, triết học, địa lí lịch sử, âm nhạc, điện ảnh, văn chương nghệ thuật.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức uyên bác để khám phá và xây dựng hình tượng sông Hương, cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông và cả thiên nhiên, con người xứ Huế.

Trước hết nhà văn khám phá sông Hương dưới góc nhìn địa lí. Ngay từ những câu văn mở đầu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn độc giả làm một cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sông Hương để thấy được sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng say đắm. Sông Hương được khắc họa bằng hình ảnh đầy ấn tượng: mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy qua những cơn lốc giữa màu sắc rực rỡ chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng... Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương giống như một bản trường ca của rừng già với thanh âm rầm rộ của tiếng nước qua ghềnh thác. Âm hưởng hào hùng đã khiến câu văn miêu tả sông Hương ở vùng thượng lưu đậm đà chất sử thi lãng mạn. Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa kết hợp với khả năng liên tưởng phong phú đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy dòng sông như một sinh thể có linh hồn có cảm giác có tính cách lúc dữ dội nó tựa như cô gái Digan man dại, phóng khoáng. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng khoáng, lúc êm đềm nó mang sắc đẹp dịu dàng của người mẹ phù sa bồi đắp nuôi dưỡng mảnh đất xứ sở. Hình như bất kỳ dòng sông nào ở chốn thượng nguồn cũng dữ dội, bạo liệt. Sông Đà của Nguyễn Tuân là một loại thủy quái khổng lồ dữ dội, bạo liệt, xảo trá. Cũng là miêu tả cái dữ dội, mãnh liệt của dòng sông, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương đúng là một bản trường ca chứ không phải một bản anh hùng ca như sông Đà của Nguyễn Tuân.

Xuôi dòng sông Hương ra khỏi đại ngàn – sông Hương đã khép lại vẻ dữ dội bạo liệt của mình: đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong cái hang đá ở chân núi Kim Phụng. Kể từ đây sông Hương đã mang một vẻ đẹp khác. Sông Hương không còn là một cô gái Di gan với tâm hồn tự do, phóng khoáng mà đã trở thành một người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, đợi người tình nhân của mình đến đánh thức dậy. Chẳng còn đâu nữa những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe. Sông Hương hiện ra với những nét vẽ dịu dàng, bay bướm với những đường cong thật mềm, một hình cung thật tròn. Cũng chẳng còn sắc màu chói lọi, rực rỡ mà chỉ thấy dòng sông mềm như tấm lụa với màu nước thay đổi theo từng thời điểm trong ngày: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Có thể nói qua những sắc màu gợi cảm để sông Hương “bình dị mà không tầm thường”, “trầm mặc mà không ủy mị”, “dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).

Đẹp nhất, duyên dáng nhất, trữ tình nhất là lúc sông Hương về được với thành phố Huế. Nó như tìm đúng đường về nên vui tươi hẳn lên. Tác giả cảm nhận sông Hương giống như một cố nhân xa xứ, háo hức được trở lại với mảnh đất quê hương xứ sở. “con người” ấy ngắm nhìn thành phố từ xa thấy chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Tách khỏi Huế sông Hương chỉ là một dòng nước chảy vô tri, chảy giữa đôi bờ nhưng gắn với Huế thì cảnh vật nào cũng thanh thoát nhẹ nhàng, dịu dàng như chính giọng nói ngọt ngào của con người nơi đây. Những địa danh: Hòn Chén, Nguyệt Điền. Tuần, vọng Cảnh, Thiên Thai trở nên sống động hơn. Và giáp mặt với thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến và làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Sông Hương qua những từ tượng hình đã hiện ra thật rõ nét, sống động.

Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vùng cao ở ngoại ô Vĩ Dạ nhớ lại một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột rẽ dòng sang hướng Đông Tây để gặp thành Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Cuộc chia tay của sông Hương với Huế giống cuộc chia ly của đôi tình nhân với bao vương vấn và cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhà văn cũng phát huy sức liên tưởng để thấy sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc hành trình từ thượng nguồn về phía hạ lưu của sông Hương để thấy sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục. Ông đã thổi hồn mình vào sông Hương để khám phá vóc dáng và tính cách của dòng sông thuộc về thành phố duy nhất này.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhìn sông Hương từ góc độ lịch sử. Sông Hương không chỉ là một cô gái Digan man dại. Không chỉ là người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa mà dòng nước sông Hương còn chở trên mình bao biến động thời gian, bao vui buồn nhân thế, bao thăng trầm của thời đại. Sông Hương là chứng nhân của những biến thiên lịch sử, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Nhà văn ví sông Hương viết giữa màu cỏ lá xanh biếc là để nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình. Sông Hương là một bản trường ca và cũng là một bản tình ca. Từng nhánh rẽ của dòng sông đến những cây đa, cây dừa cổ thụ cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược về quá khứ để thấy vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi, trong những thế kỉ trung đại với tên gọi Linh Giang nó đã oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn liền với chiến công của Nguyễn Huệ, sông Hương đẫm máu trong những cuộc khởi nghĩa thế kỉ XX, sông Hương cũng gắn liền với cách mạng tháng Tám. Sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân. Tác giả đã so sánh với các trung tâm văn hóa khác để thấy sông Hương bị hủy diệt một cách đau đớn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy sông Hương tự hiến đời mình là một chiến công, từng giữ những nhiệm vụ lịch sử vinh quang, lịch sử dân tộc đã ghi bằng nét son. Tên của thành phố Huế, của sông Hương đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc. Không thể nói hết niềm tự hào, kiêu hãnh về một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng “sông Hương”.

Bằng tất cả sự tinh tế của mình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy sông Hương hàm chứa trong nó nền văn hóa phi vật thể. Sông Hương chính là dòng sông âm nhạc. Từ âm thanh của dòng sông: tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga lên mặt nước, tiếng mái chèo khua giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền … đã làm nên những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Giữa đời thường, sông Hương là một bản tình ca. Những câu hò xứ Huế vút lên luyến láy bồi hồi xao động: “con nước còn nước còn về còn nhớ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nghe vọng về từ trong sâu thẳm những câu hò của Ưng Bình

Thúc Dạ Thị của con người cố đô:
Chiều chiều trước bến Phu Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Nếu như các nghệ sĩ khác nhìn sự lặng tờ của sông Hương mà nghĩ tới tâm trạng dùng dằng mong chờ của con người thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có những liên tưởng riêng, độc đáo. Tác giả thấy dòng nước chùng chình giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nghe nhạc Huế mà nghe ban ngày thật là vô duyên bởi nhạc Huế có linh hồn riêng, cốt cách riêng mà hay nhất là được nghe trên sông Hương, giữa mênh mang của sóng nước, giữa tĩnh lặng của màn đêm. Từng lời ca tiếng nhạc thấm sâu vào lòng người để lại những dư vị không nguôi. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì Nguyễn Du đã có những đêm xuôi thuyền trên sông Hương. Ngắm nhìn phiến trăng sầu treo lơ lửng giữa trời trên sông nước êm đềm. Rồi lắng nghe những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển và những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong truyện Kiều, trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thoảng mưa sầu, lúc trong, lúc đục của Kiều, phải chăng có tiếng của âm nhạc cổ điển Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hóa thân vào một nghệ nhân già. Nghe những câu thơ tả tiếng đàn Thúy Kiều chợt nhận ra âm hưởng của nhạc cung đình và bật thốt lên đó chính là Tứ Đại Cảnh.

Sông Hương còn là dòng sông thơ. Con sông ấy không bao giờ lặp lại chính mình trong cảm hứng thi ca của những người nghệ si. Mỗi người nghệ sĩ có cách nhìn, cách cảm riêng về sông Hương. Sông Hương thay hình đổi dạng trong những trang thơ. Bằng những kiến thức phong phú với lối viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thức dậy một dòng sông, đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa và nay. Đó là những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế:Dòng sông trắng, lá cây xanh. Trên văn bản của Hoàng Phủ Ngọc Tường câu thơ của Tản Đà tựa một nét chấm phá gợi cảm khiến dòng sông Hương càng trở nên thơ mộng giữa màu cỏ lá xanh biếc và “dòng sông trắng lá cây xanh” có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên. Đó là một dòng sông Hương như kiếm dựng trời xanh, hùng tráng bất tử trong câu thơ của Cao Bá Quát. Đó là sự tương quan tinh tế giữa sông Hương và không gian xứ Huế trong thơ của Bà huyện Thanh Quan. Nào ai quên được nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt sông Hương cạnh những trang Kiều của Nguyễn Du và thực bất ngờ ông lại gợi dòng Hương giang nước trong veo với những phận Kiều đã được Tố Hữu đề cập đầy chất nhân đạo trong những trang thơ từ ấy. Trong giây phút xuất thần thi sĩ Bùi Giáng, người con của Huế đã viết nên những câu thơ để đời:

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương

Rõ ràng sông Hương là đặc ân của trời đất dành cho Huế, đó là dòng sông huyền thoại, dòng sông thi ca, dòng sông văn hóa. Nhiều người yêu say đắm sông Hương, say đắm những trang văn trang thơ, những tình khúc viết về xứ Huế, sông Hương.

Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương đã thể hiện những nét đặc trưng của thể kí, phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? Ngỡ như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập hồn vào Huế. Với xứ Huế dường như nhà văn hiểu sâu sắc từng cảnh cây ngọn cỏ, tường tận từng tên đất tên làng. Am hiểu sâu sắc về văn hóa Huế, nền âm nhạc cổ điển hay những trang thơ viết về sông Hương. Với sông Hương ông thuộc từng khúc cong, từng dòng nước, chỗ ghềnh thác cuộn xoáy chỗ phẳng lặng như một mặt hồ yên tĩnh. Ông đến với Huế, với phong thái của một người du lãng, với phong cách của một người nghiên cứu. Bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, ông đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của dòng sông cũng như thiên nhiên và con người xứ Huế.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là những trang bút kí chứa lượng thông tin phong phú, chính xác, cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về dòng sông Hương cũng như con người và văn hóa Huế. Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đem đến những trang bút kí đậm dấu ấn của tùy bút ở đó, tác giả tùy theo ngọn bút đưa đi từ sự việc này đến sự việc kia. Từ liên tưởng này đến liên tưởng khác để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy rõ chất thơ. Chất thơ trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn đặt đúng chỗ. Chất thơ thoát ra từ hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật, chẳng thể quên được những xóm làng trung du “bát ngát tiếng gà” hay “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Chất thơ của thiên kí được tác giả điểm xuyết qua ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát hay âm hưởng hoài cổ của thơ bà huyện Thanh Quan hay nhan đề bài ký gợi mãi những âm thanh trầm lắng của dòng sông. Lúc nào cũng trăn trở trước câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Quả thật kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin phong phú. Đây cũng là nét phong cách được định hình của nhà văn tạo nên nét riêng độc đáo. Nhận định trong SGK đã cho ta một định hướng trong việc cảm nhận và lĩnh hội tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cuộc đi tìm cội nguồn. Một sự phát hiện bề dày văn hóa, lịch sử của các hình tượng đời sống. Ở đó luôn luôn có sự gặp gỡ giữa những người yêu nước với một nghệ sĩ có kiến thức uyên bác. Ông biết khám phá bình diện văn hóa với một tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.

Cảm nhận về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ một cái tôi tài hoa, uyên bác. Raxun Zamatop đã từng nói rằng nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này. Bằng những trang viết tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần tạo một thế giới sông Hương đẹp và thơ. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển chính là hành trình của đời người , hành trình của tâm hồn xứ Huế, của nền văn hóa Huế.

Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (mẫu 3)

Bút kí là một thể loại ký văn học ghi lại sự việc, con người, cảnh vật mà nhà văn mắt thấy tai nghe nhưng bút ký không chỉ phản ánh những sự kiện khách quan mà có những nhận xét, suy nghĩ, liên tưởng và nhất là cảm xúc, do đó bút ký có chất trữ tình. Tuy nhiên, tùy theo phong cách của từng tác giả mà yếu tố trữ tình đó có thể là đậm đặc, xuyên suốt hay điểm xuyết giữa những yếu tố thuyết minh, tự sự, nghị luận...

Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong những nhà văn chuyên về bút kí. Nét đặc sắc trong phong cách nghệ thuật của ông là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa trữ tình và chính luận, sử thi hóa lịch sử và khám phá chiều sâu văn hóa của đối tượng. Chất trữ tình trong bút kí của ông xuyên thấm vào tất cả và thăng hoa thành chất thơ của ngôn ngữ.

Chất thơ là một phẩm chất tổng hợp được tạo nên từ nhiều yếu tố cảm xúc, cái đẹp, trí tưởng tượng, tính chất của cuộc sống và nhạc điệu của ngôn ngữ...

Khó có thể tách các yếu tố này khỏi nhau bởi nó hòa quyện với nhau, trong từng hình ảnh, từ ngữ, câu văn, đoạn văn.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? Là bài bút kí mà Hoàng Phủ Ngọc Tường đã viết bằng tất cả tình yêu say đắm với sông Hương đẹp và dịu dàng, với Huế cổ kính thơ mộng.

Đoạn mở đầu với những khu vườn cổ, những kí ức về Nguyễn Du đã gợi cảm xúc về một vùng đất có vẻ đẹp sâu lắng (thanh khiết, cổ kính, có tác dụng như một khúc dạo đầu của một bản đàn hay bài ca thơ mộng).

Mỗi đoạn văn là một chắt lọc tinh túy về hành trình, về dáng vẻ, về vẻ đẹp với những từ ngữ gợi cảm, diễn tả tình yêu say đắm của con người với dòng Sông Hương đã sống một nửa cuộc đời của mình như một cô gái Digan khoáng và ma dại”. “Sông Hương khi về đồng bằng đã thay đổi tính cách, sông như đã chế ngự bản năng ở người con gái để mang một sắc đẹp dịu dàng và trí tuệ, trở thành phù sa của một vùng văn hóa xứ sở”.

Với liên tướng kỳ thú, diễm tình, tác giả ví sông Hương như một người con gái đẹp được người tình mong đợi đến đánh thức. Những câu văn đẹp, đầy màu sắc và ấn tượng. "Sông Hương vẫn đi trong dư vang của Trường Sơn”, “Sắc nước trở nên xanh thẳm”, “nó trôi đi giữa hai dãy đồi sừng sững như những thành quách”. "Dòng sông như tấm lụa, với những chiếc thuyền xuôi ngược nhỏ bé vừa bằng con thoi, những ngọn đồi này tạo nên nhiều mảng phản quang nhiều màu sắc”. “Sớm xanh, trưa vàng, chiều tím”.

Đến ngoại vi thành Huế, sông Hương lại có vẻ đẹp trầm mặc như những rừng thông u tịch và những lăng tẩm đồ sộ phong kín niềm kiêu hãnh âm u.

Đoạn tả sông Hương chảy vào thành phố, tác giả sáng tạo những hình ảnh đầy ấn tượng :chiếc cầu trắng in trên nền trời, uốn một cánh cung rất nhẹ”. Tác giả sử dụng rộng rãi đặc sắc những phép tu từ gợi cảm vốn là sở trường của thơ như so sánh kết hợp với nhân hóa, ẩn dụ: “Dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu, khúc quanh trước khi ra biển, như một nỗi vấn vương cả một chút lẳng lơ kín đáo của tình yêu”. Những chi tiết về phong tục, lễ hội cũng trở thành họa, thành nhạc, thành tình, nghĩa là thành thơ. “Trăm nghìn cánh hoa đang bồng bềnh vào những đêm hội rằm tháng bảy từ điện Hòn Chén trở về bỗng ngập ngừng như muốn đi, muốn ở, chao nhẹ trên mặt nước như những vấn vương của một nỗi lòng”.

Thi trung hữu nhạc đó là nhạc của lòng, trong văn của Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng có nhạc, gợi nhớ nhạc “Điệu chảy lặng lờ của nó (sông Hương) ngang qua thành phố. Đúng là điệu slow tình cảm dành riêng cho Huế. Những câu văn trải dài, uyển chuyển, du dương mà tự nhiên, nhuần nhị như dòng sông, dòng nhạc đẹp, một "Đa Nuýp xanh” trong văn.

Trí tưởng tượng thật phong phú trong những liên tưởng so sánh, những hồi tưởng đầy hình ảnh kỳ thú “Sông Nê-va và những phiến băng trôi nhanh như những chiếc thuyền của những chú chim hải âu” (Chim hải âu đứng trên băng - NBS).

Vẻ đẹp của đoạn văn tăng lên trong từng chi tiết, đến chi tiết cuối thì thăng hoa cao nhất, đẹp nhất. Tác giả lý giải tên dòng sông băng huyền thoại đầy chất thơ khiến cho dòng sông vốn có cái tên thơ càng thơm hơn: Hương thơm, thơm của ngàn hoa, của nước nấu trăm loại hoa đổ xuống, làm thơm cả từng hơi đất.

Bút ký cuốn hút người đọc một phần ở việc, ở trí thức, sự việc lạ, trí thức mới nhưng nếu chỉ có thế, bài bút ký sẽ không hơn một bài báo và nó nhanh qua đi mà không đọng lại trong lòng người. Bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giống như thế, nó đầy chất liệu quý, thể hiện một vốn sống, vốn văn hóa phong phú, nhất là về Huế. Hơn thế nó còn mãi, ngân mãi vì nó đầy chất thơ. Chất thơ ấy gắn với nhiều yếu tố, bắt đầu từ nhiều nguồn nhưng yếu tố quan trọng nhất, nguồn lớn lao, dào dạt nhất là tình yêu, tình yêu tha thiết với dòng sông, với Huế, với đất nước của tác giả.

Chất thơ trong Ai đã đặt tên cho dòng sông? (mẫu 4)

Hoàng Phủ Ngọc Tường là cây bút tiêu biểu của văn học hiện đại Việt Nam, ông sáng tác thành công ở nhiều thể loại, cả thơ và văn xuôi nhưng đạt được thành tựu lớn hơn cả là thể kí. Toàn bộ tinh hoa và năng lực của Hoàng Phủ Ngọc Tường đều dành cho thể kí. Ông đã thành danh và đóng góp nhiều cho văn học sau năm một 975 ở thể loại này. Theo Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường là một trong số mấy nhà văn viết kí hay nhất của văn học ta hiện nay. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thường có tính chất tự do tản mạn thiên về tùy bút, bộc lộ một trí tuệ sắc sảo, uyên bác. Nguồn mạch xuyên suốt các tác phẩm kí của ông chính là một tấm lòng yêu quê hương đất nước, tâm huyết với tinh hoa văn hóa dân tộc.

Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh ra ở Huế, cả cuộc đời gắn bó với đất Huế, do đó kí viết về Huế chiếm số lượng lớn trong sự nghiệp sáng tác của ông. Huế trở thành một phần trong đời sống tinh thần của nhà văn. Tô Hoài đã nhận xét: “Nếu có thể so sánh thì tôi nghĩ rằng Sơn Nam thuộc đến ngõ ngách, đến tích xưa của Sài Gòn, Bến Nghé, thì tôi nhớ được ít nhiều tên thành phố, tên làng ở Hà Nội, riêng Hoàng Phủ Ngọc Tường thì đằm cả tâm hồn trong khuôn mặt cuộc đời cùng với đất trời sông nước của Huế”. “Ai đã đặt tên cho dòng sông?” là bài kí độc đáo về sông Hương được sáng tác tháng một /một 98một và được đưa vào tập kí cùng tên năm một 984. Tác phẩm thuộc thể kí nhưng là bút kí văn hóa thiên về tùy bút, nó vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ với nội dung thông tin phong phú.

Hoàng Phủ Ngọc Tường là người đi nhiều, tích lũy vốn sống vốn hiểu biết sâu sắc. Ông am hiểu những gì mình viết. Đọc tác phẩm của ông là tiếp xúc với một kho tri thức phong phú trên nhiều góc độ văn hóa, triết học, địa lí lịch sử, âm nhạc, điện ảnh, văn chương nghệ thuật.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã vận dụng vốn kiến thức uyên bác để khám phá và xây dựng hình tượng sông Hương, cung cấp cho người đọc một lượng thông tin đa dạng để hiểu sâu hơn về dòng sông và cả thiên nhiên, con người xứ Huế.

Trước hết nhà văn khám phá sông Hương dưới góc nhìn địa lí. Ngay từ những câu văn mở đầu, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã dẫn độc giả làm một cuộc hành trình tìm về cội nguồn của sông Hương để thấy được sức sống mãnh liệt, hoang dại nhưng cũng có lúc dịu dàng say đắm. Sông Hương được khắc họa bằng hình ảnh đầy ấn tượng: mãnh liệt qua những ghềnh thác, cuộn xoáy qua những cơn lốc giữa màu sắc rực rỡ chói lọi màu đỏ của hoa đỗ quyên rừng... Hoàng Phủ Ngọc Tường cảm nhận sông Hương giống như một bản trường ca của rừng già với thanh âm rầm rộ của tiếng nước qua ghềnh thác. Âm hưởng hào hùng đã khiến câu văn miêu tả sông Hương ở vùng thượng lưu đậm đà chất sử thi lãng mạn. Biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa kết hợp với khả năng liên tưởng phong phú đã giúp Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy dòng sông như một sinh thể có linh hồn có cảm giác có tính cách lúc dữ dội nó tựa như cô gái Digan man dại, phóng khoáng. Rừng già đã hun đúc cho nó một bản lĩnh gan dạ, một tâm hồn tự do phóng khoáng, lúc êm đềm nó mang sắc đẹp dịu dàng của người mẹ phù sa bồi đắp nuôi dưỡng mảnh đất xứ sở. Hình như bất kỳ dòng sông nào ở chốn thượng nguồn cũng dữ dội, bạo liệt. Sông Đà của Nguyễn Tuân là một loại thủy quái khổng lồ dữ dội, bạo liệt, xảo trá. Cũng là miêu tả cái dữ dội, mãnh liệt của dòng sông, nhưng Hoàng Phủ Ngọc Tường thấy sông Hương đúng là một bản trường ca chứ không phải một bản anh hùng ca như sông Đà của Nguyễn Tuân.

Xuôi dòng sông Hương ra khỏi đại ngàn – sông Hương đã khép lại vẻ dữ dội bạo liệt của mình: đóng kín lại ở cửa rừng và ném chìa khóa trong cái hang đá ở chân núi Kim Phụng. Kể từ đây sông Hương đã mang một vẻ đẹp khác. Sông Hương không còn là một cô gái Di gan với tâm hồn tự do, phóng khoáng mà đã trở thành một người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, đợi người tình nhân của mình đến đánh thức dậy. Chẳng còn đâu nữa những nét vẽ gân guốc, chắc khỏe. Sông Hương hiện ra với những nét vẽ dịu dàng, bay bướm với những đường cong thật mềm, một hình cung thật tròn. Cũng chẳng còn sắc màu chói lọi, rực rỡ mà chỉ thấy dòng sông mềm như tấm lụa với màu nước thay đổi theo từng thời điểm trong ngày: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím. Có thể nói qua những sắc màu gợi cảm để sông Hương “bình dị mà không tầm thường”, “trầm mặc mà không ủy mị”, “dịu dàng nhưng vẫn tiềm ẩn khí mạnh của đất đai” (Sử thi buồn).

Đẹp nhất, duyên dáng nhất, trữ tình nhất là lúc sông Hương về được với thành phố Huế. Nó như tìm đúng đường về nên vui tươi hẳn lên. Tác giả cảm nhận sông Hương giống như một cố nhân xa xứ, háo hức được trở lại với mảnh đất quê hương xứ sở. “con người” ấy ngắm nhìn thành phố từ xa thấy chiếc cầu trắng in ngần trên nền trời nhỏ nhắn như vầng trăng non. Tách khỏi Huế sông Hương chỉ là một dòng nước chảy vô tri, chảy giữa đôi bờ nhưng gắn với Huế thì cảnh vật nào cũng thanh thoát nhẹ nhàng, dịu dàng như chính giọng nói ngọt ngào của con người nơi đây. Những địa danh: Hòn Chén, Nguyệt Điền. Tuần, vọng Cảnh, Thiên Thai trở nên sống động hơn. Và giáp mặt với thành phố ở cồn Dã Viên, sông Hương uốn một cánh cung rất nhẹ sang Cồn Hến và làm cho dòng sông mềm hẳn đi như một tiếng vâng không nói ra của tình yêu. Sông Hương qua những từ tượng hình đã hiện ra thật rõ nét, sống động.

Khi rời khỏi kinh thành Huế, sông Hương lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc và của những vùng cao ở ngoại ô Vĩ Dạ nhớ lại một điều gì chưa kịp nói nó đột ngột rẽ dòng sang hướng Đông Tây để gặp thành Huế ở thị trấn Bao Vinh xưa cổ. Tác giả dùng biện pháp nhân hóa để nội tâm hóa dáng hình của dòng sông. Cuộc chia tay của sông Hương với Huế giống cuộc chia ly của đôi tình nhân với bao vương vấn và cả một chút lẳng lơ, kín đáo của tình yêu. Nhà văn cũng phát huy sức liên tưởng để thấy sự dùng dằng của sông Hương như nàng Kiều chí tình trở lại tìm Kim Trọng để nói một lời thề trước khi về biển cả.

Hoàng Phủ Ngọc Tường đã làm một cuộc hành trình từ thượng nguồn về phía hạ lưu của sông Hương để thấy sông Hương đã vượt qua một cuộc hành trình với sự chuyển dòng liên tục. Ông đã thổi hồn mình vào sông Hương để khám phá vóc dáng và tính cách của dòng sông thuộc về thành phố duy nhất này.

Hoàng Phủ Ngọc Tường cũng đã nhìn sông Hương từ góc độ lịch sử. Sông Hương không chỉ là một cô gái Digan man dại. Không chỉ là người đẹp nằm ngủ mơ màng giữa cánh đồng Châu Hóa mà dòng nước sông Hương còn chở trên mình bao biến động thời gian, bao vui buồn nhân thế, bao thăng trầm của thời đại. Sông Hương là chứng nhân của những biến thiên lịch sử, là dòng sông của sử thi viết giữa màu cỏ lá xanh biếc. Nhà văn ví sông Hương viết giữa màu cỏ lá xanh biếc là để nhấn mạnh sự hòa quyện giữa chất hùng tráng và chất trữ tình. Sông Hương là một bản trường ca và cũng là một bản tình ca. Từng nhánh rẽ của dòng sông đến những cây đa, cây dừa cổ thụ cũng hàm ẩn một phần lịch sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã ngược về quá khứ để thấy vai trò của sông Hương trong lịch sử dân tộc. Từ thời đại các vua Hùng, sông Hương là dòng sông biên thùy xa xôi, trong những thế kỉ trung đại với tên gọi Linh Giang nó đã oanh liệt bảo vệ biên giới phía Nam của Tổ quốc Đại Việt. Sông Hương gắn liền với chiến công của Nguyễn Huệ, sông Hương đẫm máu trong những cuộc khởi nghĩa thế kỉ XX, sông Hương cũng gắn liền với cách mạng tháng Tám. Sông Hương cùng những di sản văn hóa Huế đã oằn mình dưới sự tàn phá của Mĩ trong mùa xuân lịch sử Mậu Thân. Tác giả đã so sánh với các trung tâm văn hóa khác để thấy sông Hương bị hủy diệt một cách đau đớn. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thấy sông Hương tự hiến đời mình là một chiến công, từng giữ những nhiệm vụ lịch sử vinh quang, lịch sử dân tộc đã ghi bằng nét son. Tên của thành phố Huế, của sông Hương đã cống hiến xứng đáng cho Tổ quốc. Không thể nói hết niềm tự hào, kiêu hãnh về một dòng sông có cái tên mềm mại, dịu dàng “sông Hương”.

Bằng tất cả sự tinh tế của mình Hoàng Phủ Ngọc Tường còn thấy sông Hương hàm chứa trong nó nền văn hóa phi vật thể. Sông Hương chính là dòng sông âm nhạc. Từ âm thanh của dòng sông: tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga lên mặt nước, tiếng mái chèo khua giữa đêm khuya, tiếng nước vỗ vào mạn thuyền … đã làm nên những điệu hò dân gian và nền âm nhạc cổ điển Huế. Giữa đời thường, sông Hương là một bản tình ca. Những câu hò xứ Huế vút lên luyến láy bồi hồi xao động: “con nước còn nước còn về còn nhớ”. Hoàng Phủ Ngọc Tường còn nghe vọng về từ trong sâu thẳm những câu hò của Ưng Bình

Thúc Dạ Thị của con người cố đô:
Chiều chiều trước bến Phu Văn Lâu
Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm?
Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông?
Thuyền ai thấp thoáng bên sông?
Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non.

Nếu như các nghệ sĩ khác nhìn sự lặng tờ của sông Hương mà nghĩ tới tâm trạng dùng dằng mong chờ của con người thì Hoàng Phủ Ngọc Tường lại có những liên tưởng riêng, độc đáo. Tác giả thấy dòng nước chùng chình giống như người tài nữ đánh đàn lúc đêm khuya. Nghe nhạc Huế mà nghe ban ngày thật là vô duyên bởi nhạc Huế có linh hồn riêng, cốt cách riêng mà hay nhất là được nghe trên sông Hương, giữa mênh mang của sóng nước, giữa tĩnh lặng của màn đêm. Từng lời ca tiếng nhạc thấm sâu vào lòng người để lại những dư vị không nguôi. Trong trí tưởng tượng của Hoàng Phủ Ngọc Tường thì Nguyễn Du đã có những đêm xuôi thuyền trên sông Hương. Ngắm nhìn phiến trăng sầu treo lơ lửng giữa trời trên sông nước êm đềm. Rồi lắng nghe những điệu nhạc dìu dặt từ khoang thuyền để rồi âm hưởng của dòng nhạc cổ điển và những điệu hò dân gian đã ít nhiều để lại dấu vết trong truyện Kiều, trong tiếng đàn ai oán nỉ non, lúc gió thoảng mưa sầu, lúc trong, lúc đục của Kiều, phải chăng có tiếng của âm nhạc cổ điển Huế. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã hóa thân vào một nghệ nhân già. Nghe những câu thơ tả tiếng đàn Thúy Kiều chợt nhận ra âm hưởng của nhạc cung đình và bật thốt lên đó chính là Tứ Đại Cảnh.

Sông Hương còn là dòng sông thơ. Con sông ấy không bao giờ lặp lại chính mình trong cảm hứng thi ca của những người nghệ si. Mỗi người nghệ sĩ có cách nhìn, cách cảm riêng về sông Hương. Sông Hương thay hình đổi dạng trong những trang thơ. Bằng những kiến thức phong phú với lối viết đầy chất thơ, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã thức dậy một dòng sông, đã gợi cảm hứng sáng tạo cho bao người nghệ sĩ xưa và nay. Đó là những vần thơ biếc xanh của Tản Đà về Huế:Dòng sông trắng, lá cây xanh. Trên văn bản của Hoàng Phủ Ngọc Tường câu thơ của Tản Đà tựa một nét chấm phá gợi cảm khiến dòng sông Hương càng trở nên thơ mộng giữa màu cỏ lá xanh biếc và “dòng sông trắng lá cây xanh” có sự tương giao đồng điệu của những tâm hồn nghệ sĩ nhạy cảm với sắc biếc của thiên nhiên. Đó là một dòng sông Hương như kiếm dựng trời xanh, hùng tráng bất tử trong câu thơ của Cao Bá Quát. Đó là sự tương quan tinh tế giữa sông Hương và không gian xứ Huế trong thơ của Bà huyện Thanh Quan. Nào ai quên được nỗi quan hoài vạn cổ với bóng chiều bảng lảng. Hoàng Phủ Ngọc Tường đã đặt sông Hương cạnh những trang Kiều của Nguyễn Du và thực bất ngờ ông lại gợi dòng Hương giang nước trong veo với những phận Kiều đã được Tố Hữu đề cập đầy chất nhân đạo trong những trang thơ từ ấy. Trong giây phút xuất thần thi sĩ Bùi Giáng, người con của Huế đã viết nên những câu thơ để đời:

Dạ thưa xứ Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương

Rõ ràng sông Hương là đặc ân của trời đất dành cho Huế, đó là dòng sông huyền thoại, dòng sông thi ca, dòng sông văn hóa. Nhiều người yêu say đắm sông Hương, say đắm những trang văn trang thơ, những tình khúc viết về xứ Huế, sông Hương.

Hoàng Phủ Ngọc Tường khi viết về sông Hương đã thể hiện những nét đặc trưng của thể kí, phản ánh sự thật khách quan và tính xác thực. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông? Ngỡ như Hoàng Phủ Ngọc Tường đã nhập hồn vào Huế. Với xứ Huế dường như nhà văn hiểu sâu sắc từng cảnh cây ngọn cỏ, tường tận từng tên đất tên làng. Am hiểu sâu sắc về văn hóa Huế, nền âm nhạc cổ điển hay những trang thơ viết về sông Hương. Với sông Hương ông thuộc từng khúc cong, từng dòng nước, chỗ ghềnh thác cuộn xoáy chỗ phẳng lặng như một mặt hồ yên tĩnh. Ông đến với Huế, với phong thái của một người du lãng, với phong cách của một người nghiên cứu. Bằng những con chữ lóng lánh tài hoa, ông đã góp phần làm nổi rõ bản sắc của dòng sông cũng như thiên nhiên và con người xứ Huế.

Ai đã đặt tên cho dòng sông? là những trang bút kí chứa lượng thông tin phong phú, chính xác, cung cấp cho chúng ta những hiểu biết sâu sắc về dòng sông Hương cũng như con người và văn hóa Huế. Tuy nhiên Hoàng Phủ Ngọc Tường còn đem đến những trang bút kí đậm dấu ấn của tùy bút ở đó, tác giả tùy theo ngọn bút đưa đi từ sự việc này đến sự việc kia. Từ liên tưởng này đến liên tưởng khác để bộc lộ những cảm xúc, những suy nghĩ của mình. Đọc Ai đã đặt tên cho dòng sông ta thấy rõ chất thơ. Chất thơ trong bút kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường thoát ra từ thiên nhiên cảnh vật, từ tâm hồn con người và từ những huyền thoại mà nhà văn đặt đúng chỗ. Chất thơ thoát ra từ hình ảnh đẹp, từ độ nhòe mờ của hình tượng nghệ thuật, chẳng thể quên được những xóm làng trung du “bát ngát tiếng gà” hay “lập lòe trong đêm sương những ánh lửa thuyền chài của một linh hồn mô tê xưa cũ”. Chất thơ của thiên kí được tác giả điểm xuyết qua ca dao, lời thơ của Tản Đà, Cao Bá Quát hay âm hưởng hoài cổ của thơ bà huyện Thanh Quan hay nhan đề bài ký gợi mãi những âm thanh trầm lắng của dòng sông. Lúc nào cũng trăn trở trước câu hỏi “Ai đã đặt tên cho dòng sông?”

Quả thật kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường vừa giàu chất trí tuệ, vừa giàu chất thơ, nội dung thông tin phong phú. Đây cũng là nét phong cách được định hình của nhà văn tạo nên nét riêng độc đáo. Nhận định trong SGK đã cho ta một định hướng trong việc cảm nhận và lĩnh hội tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường. Kí của Hoàng Phủ Ngọc Tường là cuộc đi tìm cội nguồn. Một sự phát hiện bề dày văn hóa, lịch sử của các hình tượng đời sống. Ở đó luôn luôn có sự gặp gỡ giữa những người yêu nước với một nghệ sĩ có kiến thức uyên bác. Ông biết khám phá bình diện văn hóa với một tư liệu lịch sử phong phú và một tâm hồn Huế nồng nàn.

Cảm nhận về sông Hương, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã bộc lộ một cái tôi tài hoa, uyên bác. Raxun Zamatop đã từng nói rằng nếu nhà thơ không tham gia vào việc hoàn thành thế giới thì thế giới đã không được đẹp đẽ như thế này. Bằng những trang viết tài hoa, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã góp phần tạo một thế giới sông Hương đẹp và thơ. Hành trình của sông Hương từ thượng nguồn ra biển chính là hành trình của đời người , hành trình của tâm hồn xứ Huế, của nền văn hóa Huế.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Vẻ đẹp dòng sông Hương qua bài "Ai đã đặt tên cho dòng sông" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Vẻ đẹp trữ tình của hình tượng dòng sông qua tác phẩm “Người lái đò sông đà” của Nguyễn Tuân và “Ai đã đặt tên cho dòng sông” của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

Về hình tượng Lor-ca, có ý kiến cho rằng: "Đó là mẫu nghệ - chiến sĩ ...... nên bị phát xít hành hình". Ý kiến khác: "Đó là mẫu nghệ sĩ thuần túy ..... bị giết hại ". Hãy bình luận ý kiến trên."

Chứng minh rằng: “Cảnh vượt thác trong “Người lái đò Sông Đà” và cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đều là những “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có"

1 745 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: