TOP 15 mẫu So sánh hình ảnh bát cháo hành và nồi cháo cám (2024) SIÊU HAY
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" lớp 12 gồm dàn ý và 15 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.
So sánh hình ảnh bát cháo hành và nồi cháo cám – Ngữ văn 12
Bài giảng Ngữ văn 12 Vợ Nhặt
Dàn ý So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt"
I. Mở bài:
· Giới thiệu Nam Cao, truyện Chí Phèo và chi tiết bát cháo hành
· Giới thiệu Kim Lân, Truyện Vợ nhặt và chi tiết bát cháo cám
Mở bài tham khảo:
Nam Cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
II. Thân bài: lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh, sau đó so sánh điểm giống và khác nhau
1. Hình ảnh bát cháo hành:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở phần giữa truyện. Chí Phèo say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
· Thể hiện tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo
· Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng
· Là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo.
– Về nghệ thuật:
· Là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
· Góp phần thể hiện sinh động tư tưởng Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
2. Hình ảnh nồi cháo cám:
* Sự xuất hiện: Hình ảnh này xuất hiện ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.
* Ý nghĩa:
– Về nội dung:
+ Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945.
+ Qua chi tiết nồi cháo cám, tính cách của nhân vật được bộc lộ:
· Bà cụ Tứ gọi cháo cám là ” chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
· Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
– Về nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
3. So sánh:
– Giống nhau:
· Cả 2 hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.
· Đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người [bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật]. Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt.
· Đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn.
– Khác nhau:
· Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.
· Nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
4. Lí giải sự giống và khác nhau đó:
· Do hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945
· Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng.
Bài giảng Ngữ văn 12 Vợ Nhặt
Dàn ý So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt"
Đến với mỗi tác phẩm văn học, ta tìm thấy ở đó những hình tượng, chi tiết nghệ thuật khác nhau mang giá trị tư tưởng, tình cảm của tác giả, cũng như dụng ý nghệ thuật mà nhà văn muốn gửi gắm đến bạn đọc. Qua tác phẩm "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao, hình ảnh bát cháo hành trở thành mấu chốt thức tỉnh một con người. Không chỉ thế, khi trải lòng với "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân, hẳn là trong lòng độc giả không thôi day dứt với hình ảnh bát cáo cám đầy ám ảnh.
1. Bát cháo hành trong "Chí Phèo" của nhà văn Nam Cao:
- Hình ảnh bát cháo hành gắn liền với một tình cảm đặc biệt được ưu ái dành cho tên gọi "đôi lứa xứng đôi" giữa Chí Phèo và Thị Nở. Anh Chí - một con người vốn "lành như đất", trải qua bao thăng trầm cuộc đời, bị bỏ rơi, bị bán đi, bị xúc phạm, bị đè bẹp... để rồi trượt dài trên dốc của sự tha hóa và trở thành một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Bàn tay của bọn cường hào ác bá (mà Bá Kiến là một trong số đó) và nhà tù thực dân đã không cho Chí Phèo được lương thiện. Bị xa lánh, hắt hủi, những cơn say, những lần rạch mặt ăn vạ... ta cứ tưởng cuộc đời của Chí sẽ cứ trượt dài, trượt dài tận đáy dưới lớp của một con thú. Thế nhưng, chính bát cháo hành mà Thị Nở tự tay mang đến cho anh đã thức tỉnh một trái tim, một tâm hồn cũng biết rung động, một con người cần sự ấm áp, khao khát được thương yêu.
- Ý nghĩa của hình ảnh bát cháo hành:
+ Về nội dung:
· Tình yêu thương, chăm sóc, tình người mà Thị Nở dành cho Chí Phèo trong lúc ốm đau, bệnh tật: "mình bỏ hắn lúc này cũng bạc. Dẫu sao cũng đã ăn nằm với nhau như “vợ chồng”. Tiếng “vợ chồng” thấy ngường ngượng mà thinh thích…"
· Là lần đầu tiên Chí được chăm sóc bởi bàn tay của một người đàn bà, đầy yêu thương, ấm áp của một gia đình: “có ai nấu cho mà ăn đâu? Mà còn ai nấu cho mà ăn nữa! Đời hắn chưa bao giờ được săn sóc bởi một bàn tay đàn bà" và hắn cảm thấy cháo hành tuy đơn giản nhưng thật sự rất ngon và hắn tự hỏi: “tại sao mãi đến tận bây giờ hắn mới nếm vị mùi cháo?”.
· Là một liều thuốc giải cảm và giải độc cho tâm hồn Chí -> từ sự ngạc nhiên, rồi hắn xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Sau khi ăn bát cháo hành, Chí đã ước ao tha thiết được trở về với cuộc đời lương thiện. -> Bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo -> khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện và chính Thị sẽ giúp hắn hòa nhập.
- Về nghệ thuật:
· Là chi tiết rất quan trọng, mấu chốt để thúc đẩy sự tình huống truyện phát triển, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.
· Góp phần thể hiện một cái nhìn tư tưởng sâu sắc của nhà văn Nam Cao: tin tưởng vào sự lương thiện và tình người, vào sự tốt đẹp của con người.
2. Bát cháo cám trong "Vợ nhặt" của nhà văn Kim Lân:
- Để bắt đầu một ngày mới thật khác với sự xuất hiện của thành viên mới trong gia đình, mẹ của Tràng đã đặc biệt chuẩn bị một món ăn dù "đắng chát, nghẹn bứ" nhưng bà cụ vẫn khen "ngon đáo để" - đó chính là nồi cháo cám. Trong nạn đói, người ta vẫn khao khát một hạnh phúc ấm êm bên gia đình. Chi tiết mang nhiều dụng ý nghệ thuật mà Kim Lân muốn gửi gắm đến bao thế hệ bạn đọc.
- Ý nghĩa:
+ Về nội dung:
Nồi cháo cám là món ăn xua đi cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới mà gia đình Tràng đón nàng dâu mới về. Trong hoàn cảnh nạn đói đang dần bao trùm cái không khí u ám, chết chóc lên khắp ngôi làng, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy” số phận nghèo khổ, rẻ mạt của người dân trong nạn đói, thì nồi cháo cám ấy trở thành một niềm hạnh phúc nhỏ nhoi mà họ có.
+ Về nghệ thuật:
· Qua ngòi bút của nhà văn, tâm lý nhân vật hiện lên rõ nét và vô cùng sâu sắc, thể hiện giá trị nhân đạo, nhân văn của tác phẩm:
· Bà cụ Tứ: một người mẹ đảm đang, giàu tình yêu thương con, trọng nghĩa tình (dù trong cảnh đói kém vẫn cưu mang, đùm bọc thị). Mặc dù đã già, bà vẫn dậy sớm chuẩn bị bữa ăn cho cả nhà; hơn thế nữa là trong hoàn cảnh đói khổ và cái chết đang rình rập, bà vẫn cố gắng để có được bữa tiệc cưới giản dị cho con trai của mình.
· Vợ Tràng: sự thay đổi về tính cách: hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng - không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà cô đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.
· Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng sống và hạnh phúc.
3. So sánh:
a. Điểm giống:
· Biểu hiện của tình người ấm áp, bao dung.
· Qua đó, thể hiện sâu sắc bi kịch của nhân vật, và tái hiện lại hiện thực xã hội: bi kịch bị tha hoá + bị cự tuyêt quyền làm người (bát cháo hành) ---> dù Chí muốn lương thiện nhưng cách duy nhất là cái chết để không bị tha hóa nhân cách của chính mình. Bát cháo cám: thể hiện hiện thực tàn khốc của nạn đói (cám vốn là thức ăn của con vật thế nhưng giờ đây lại trở thành món ăn quý giá, đặc biệt của một gia đình).
=> Cái nhìn hiện thực độc đáo, tinh thần nhân đạo.
b. Điểm khác nhau:
· Bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo, thế nhưng những định kiến và cái hiện thực xã hội đương thời đã đẩy Chí vào đường cùng --> chế độ thực dân tàn bạo. Bên cạnh đó, đó cũng là cái nhìn bế tắc của Nam Cao đối với người nông dân - cảm quan hiện thực của nhà văn trước CMT8.
· Bát cháo cám: là biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nan đói. Niềm tin vào khả năng cách mạng của người dân của Kim Lân (sau bát cám thị nhắc đến đoàn người đói, là cờ Việt Minh... Tràng dường như nhận ra con đường tươi sáng hơn, tin vào Cách mạng) -> cảm quan nhà văn sau CMT8.
4. Đánh giá:
Bên cạnh những điểm tương đồng trong cái nhìn đầy nhân đạo và nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật tài tình của nhà văn, mỗi chi tiết nghệ thuật lại hiện lên với vẻ đẹp khác nhau, góp phần thúc đẩy quá trình phát triển của cốt truyện, đem đến cho người đọc những áng văn bất hủ, giàu giá trị. Nam Cao và Kim Lân chính là những "hóa công" đã xây nên hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, đầy ý nghĩa này.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 1)
Nam cao và Kim Lân đều là những cây bút có sở trường truyện ngắn, có nhiều trang viết cảm động về đề tài nông thôn và người nông dân. Điểm chung của hai nhà văn là họ đều có những truyện ngắn giản dị nhưng chứa chan tinh thần nhân đạo.Hình ảnh bát cháo hành trong Chí Phèo và bát cháo cám trong Vợ nhặt đều là những hình ảnh đặc sắc, góp phần thể hiện rõ nét nội dung tư tường của các tác phẩm và tài năng của các nhà văn.
Chúng ta lần lượt phân tích ý nghĩa của hai hình ảnh để nhận thấy điểm giống và khác nhau của những chi tiết đặc sắc này.Trước hết làm sao ta có thể quên được hình ảnh bát cháo hành: Sự xuất hiện: Hình ảnh này ở phần giữa truyện ngắn. Chí Phèo đang say rượu, gặp Thị Nở ở vườn chuối. Khung cảnh hữu tình của đêm trăng đã đưa đến mối tình Thị Nở – Chí Phèo. Sau hôm đó, Chí Phèo bị cảm. Thị Nở thương tình đã về nhà nấu cháo hành mang sang cho hắn. Trước hết ta cần phải bàn tới ý nghĩa về mặt nội dung của hình ảnh bát cháo hành của tác phẩm. Đầu tiên ta có thể khẳng định chi tiết trên là một điểm sáng của tác phẩm,nó hội tụ tình yêu thương của Thị Nở dành cho Chí phèo. Là hương vị của hạnh phúc, tình yêu muộn màng mà Chí Phèo được hưởng. Bát cháo ấy vừa giản dị nhưng đó chính là liều thuốc giải cảm và giải độc tâm hồn anh Chí : gây ngạc nhiên, xúc động mạnh, khiến nhân vật ăn năn, suy nghĩ về tình trạng thê thảm hiện tại của mình. Nó khơi dậy niềm khao khát được làm hoà với mọi người, hi vọng vào một cơ hội được trở về với cuộc sống lương thiện. Như vậy, bát cháo hành đã đánh thức nhân tính bị vùi lấp lâu nay ở Chí Phèo. Và hãy thử hình dung, nếu như không có tác phẩm trên tới bao giờ anh Chí của ngày xưa mới trở về mà nhận ra mình vẫn còn có thể trở về với lương thiện, với ước mơ nhỏ bé giản dị là một mái ấm gia đình.
Xét về góc độ nghệ thuật, bát cháo hành là chi tiết rất quan trọng thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa sâu sắc nét tính cách, tâm lí và bi kịch của nhân vật.Chi tiết này góp phần thể hiện sinh động tư tưởng của ngòi bút Nam Cao: tin tưởng vào sức mạnh cảm hoá của tình người.
Đặt bên cạnh hình ảnh bát cháo hành thì làm sao ta có thể quên được chi tiết nồi cháo cám trong tác phẩm vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Sự xuất hiện Hình ảnh này vị trí là nằm ở cuối truyện, trong bữa cơm đầu tiên đón nàng dâu mới của gia đình bà cụ Tứ.Khi ta biết rằng bữa ăn đầu tiên của con dâu về nhà chồng vốn dĩ phải là một bữa ăn đầy đủ và thịnh soạn, thì trái với lẽ thường, đó là một bữa ăn có mùi vị khó chịu, người đọc làm sao có thể quên được chi tiết này, vừa đau đớn mà vừa xót xa cho đôi vợ chồng son trong cảnh đói.Xét về mặt ý nghĩa nội dung. Đối với gia đình Tràng, nồi cháo cám là món ăn xua tan cơn đói, là món ăn duy nhất của bữa tiệc cưới đón nàng dâu mới về. Qua đó, tác giả đã khắc sâu sự nghèo đói, cực khổ và rẻ mạt của người nông dân trong nạn đói 1945. Từ chi tiết nồi cháo cám,đó chính là nút thắt để tác giả tập trung lách sâu ngòi bút của mình khắc họa tính cách của nhân vật trong thế giới truyện được bộc lộ. Bà cụ Tứ gọi cháo cám là “chè khoán”, bà vui vẻ, niềm nở, chuyện trò với các con ->> là người mẹ nhân hậu, thương con, và có tinh thần lạc quan. Nồi cháo cám là nồi cháo của tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, mẹ con Tràng dám cưu mang, đùm bọc thị, chia sẻ sự sống cho thị. Bà cụ Tứ nói toàn chuyện vui, đem nồi cháo cám ra đãi nàng dâu vốn để làm không khí vui vẻ hơn.
Vợ Tràng đã có sự thay đổi về tính cách. Hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám nhưng người con dâu mới vẫn điềm nhiên và vào miệng để làm vui lòng mẹ chồng. Chứng tỏ, Thị không còn nét cách chỏng lỏn như xưa nữa mà đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới.Về phương diện nghệ thuật: Chi tiết góp phần bộc lộ tính cách các nhân vật, thể hiện tài năng của tác giả Kim Lân trong việc lựa chọn chi tiết trong truyện ngắn.
Từ hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, người yêu văn chương dễ dàng nhận ra sự đồng điệu của chúng.Cả hai hình ảnh đều là biểu tượng của tình người ấm áp.Mặt khác, cả hai chi tiết nghệ thuật này đều thể hiện bi kịch của nhân vật và hiện thực xã hội: Ở “Chí Phèo” là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người (bát cháo hành rất bình dị, thậm chí là nhỏ bé, tầm thường nhưng đó là lần đầu tiên Chí được cho mà không phải đi cướp giật). Ở “Vợ nhặt”, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt( theo không về làm dâu cũng chỉ bằng bốn bát bánh đúc), bữa ăn đầu tiên con dâu về nhà chồng cũng chỉ đơn thuần là một nồi cám lợn chẳng hơn.Thế nhưng hai chi tiết này đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, cái nhìn tin tưởng vào sức mạnh của tình yêu thương con người của các nhà văn vượt lên số phận.
Bên cạnh những điểm đồng điệu của hai nhà văn với các chi tiết nghệ thuật độc đáo thì ta cũng nhận thấy sự khác nhau ở đây.Nếu bát cháo hành: biểu tượng của tình thương mà thị Nở dành cho Chí Phèo nhưng xã hội đương thời đã cự tuyệt Chí, đẩy Chí vào bước đường cùng. Qua đó, chúng ta thấy bộ mặt tàn bạo, vô nhân tính của XH thực dân nửa phong kiến cũng như cái nhìn bi quan, bế tắc của nhà văn Nam Cao.Thế nhưng nồi cháo cám: biểu tượng tình thân, tình người, niềm tin và hy vọng vào phẩm chất tốt đẹp của người dân lao động trong nạn đói. Sau bát cháo cám, mọi người nói chuyện về Việt Minh. Qua đó, thức tỉnh ở Tràng khả năng cách mạng. Như vậy ở Kim Lân có cái nhìn lạc quan, đầy tin tưởng vào sự đổi đời của nhân vật, dưới sự lãnh đạo của Đảng.Đó là sự khác biệt về cái nhìn của một nhà văn trước cách mạng, còn một nhà văn là lá cờ đầu của nền văn học Việt Nam hiện đại khi được giác ngộ lý tưởng vào ngòi bút của mình.Ta có thể lí giải tường tận sự giống và khác nhau đó.Khi hai nhà văn đều viết về người nông dân trong nạn đói 1945.Có sự khác nhau đó là do ảnh hưởng của lí tưởng Cách mạng với mỗi nhà văn . Nam Cao có cái nhìn bi quan, bế tắc về số phận của người nông dân. Kim Lân có cái nhìn lạc quan, tin tưởng vào tương lai tươi sáng
Nếu như trong một tác phẩm thơ điều làm nên ấn tượng là nhãn tự của bài thơ nhiều khi chỉ là một chữ một từ một tiếng gồm trọn cả ý tứ của thi phẩm. Thì trong một tác phẩm tự sự, yếu tố then chốt gây xúc động mạnh trong lòng người đọc đó chính là chi tiết nghệ thuật đặc sắc của tác phẩm. Với bát cháo hành của Chí Phèo – Nam Cao đã tạo ra bước ngoặt trong sự thức tỉnh của người nông dân bị tha hóa biến chất. Thì trở lại với nồi cháo cám của Vợ Nhặt – Kim Lân đó chính sự lấn át của tình người trước cảnh đói, ông đã thực sự thành công khi khẳng định sức mạnh tình thương sẽ dìu dắt con người vượt qua tăm tối.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 2)
Mỗi một tác phẩm văn học là một đứa con tinh thần của nhà văn chân chính. Trong tác phẩm ấy mỗi hình tượng và chi tiết nghệ thuật đều mang giá trị tư tưởng, tình cảm và dụng ý của tác giả. Nam Cao và Kim Lân là hai nhà văn xuất sắc trên thể loại truyện ngắn viết về người nông dân Việt Nam với tình cảm chân thành và lòng thương yêu vô bờ. Nếu Nam Cao thành công với kiệt tác “Chí Phèo” trong đó có chi tiết bát cháo hành tình người có nhiều ý nghĩa thì Kim Lân với tác phẩm “Vợ nhặt” có bát cháo cám tình thương để lại ấn tượng sâu sắc và nhiều suy ngẫm cho bạn đọc. Dù chỉ là hai chi tiết nghệ thuật xuất hiện ở gần cuối mỗi tác phẩm nhưng có giá trị to lớn, thể hiện quan điểm tư tưởng của nhà văn.
Trước tiên là bát cháo hành thị Nở dành cho Chí. Đây là bát cháo của tình người. Thị và Chí là hai con người cùng cực, thuộc tầng lớp dưới đáy cùng của xã hội. Một kẻ lưu manh trượt dài trên cái dốc tha hóa mất hết nhân hình lẫn nhân tính, một kẻ thuộc dòng giống con nhà mả hủi, xấu ma chê quỷ hờn lại còn nghèo và ngẩn ngơ. Họ bị xã hội ruồng bỏ, bị mọi người xa lánh, họ sống trong cô đơn cô độc giữa cuộc đời. Nhưng trong đêm tình ái ấy hai tâm hồn đồng điệu tìm về với nhau để làm thành “đôi lứa xứng đôi”. Tưởng rằng cuộc đời Chí chìm đắm trong bóng tối, u mê với men say và sống mãi bằng một nghề rạch mặt ăn vạ, cướp của giết người. Sự xuất hiện của thị cùng với bát cháo hành tình người ấy đã khiến hắn thức tỉnh, hồi sinh và khao khát muốn làm người lương thiện, muốn sống cuộc sống để yêu thương và được yêu thương. Bát cháo hành dù chỉ một lần được ăn nhưng nó đã cảm hóa được con quỷ dữ trong Chí. Tình thương, sự cảm thông ấy của thị đến một cách tự nhiên và bình dị nhất khiến Chí ngạc nhiên và xúc động giọt nước mắt con người đã chảy ra bởi đây là lần thứ nhất hắn được một người đàn bà cho. “Xưa nay nào hắn thấy ai tự nhiên cho hắn cái gì. Hắn vẫn phải dọa nạt hay cướp giật. Hẳn là phải làm cho người ta sợ.” Ấy thế mà giờ đây hắn hiền như cục đất, mắt hắn hình như ươn ướt. Hắn cảm động bởi sự chân thành của thị, bát cháo hành là hiện thân cho tình người ấm áp, là thuốc giải độc cho cơn sốt bất thường và chữa lành vết thương tâm hồn quặt què bấy lâu nay trong Chí. Chi tiết bát cháo hành trong tác phẩm “Chí Phèo” đẩy mấu chốt của câu chuyện phát triển lên một bước, là điều kiện để Nam Cao khắc họa tâm lí nhân vật, bộc lộ phần người bị vùi lấp trong Chí trỗi dậy, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách đáng trân trọng của người đàn bà xấu xí là thị Nở. Qua đó nhà văn thể hiện tư tưởng nhân văn của mình luôn tin vào sự tốt đẹp trong con người lương thiện và khẳng định chỉ có tình người mới cảm hóa được tội ác.
Chi tiết bát cháo cám trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân cũng mang một nét đẹp và giá trị nghệ thuật riêng. Trong nạn đói Ất Dậu năm ấy khiến cho bao nhiêu người dân Việt Nam phải thiệt mạng vì giặc đói hoành hành. Hai mẹ con bà cụ Tứ và thị là những nạn nhân tiêu biểu nhưng cơ duyên và tình thương đã đưa họ về cùng một nhà. Hôm ấy trong bữa cơm đầu tiên đón dâu mới đáng lẽ người ta phải đãi nhau rượu thịt để chúc mừng hạnh phúc thì bà cụ Tứ lại đãi nàng dâu bát cháo cám. Nghe có vẻ nghịch lí nhưng trong hoàn cảnh đó là một “món sang” bởi “xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”. Bát cháo cám đắng chát nghẹn bứ ở cổ nhưng lại có ý nghĩa nhân sinh. Bởi đây là bát cháo của tình thương yêu những người trong gia đình dành cho nhau, bát cháo của những ngày đói khát khó khăn nhưng lại lóe lên hy vọng về một tương lai ngày mai. Bát cháo làm thay đổi tâm lí nhân vật khiến cho bà cụ Tứ_một bà mẹ yêu thương con dù nghèo đói nhưng vẫn cố gắng cưu mang thị, dù đã gần đất xa trời nhưng bà vẫn giàu niềm tin, hy vọng động viên đôi vợ chồng trẻ cố gắng làm ăn “không ai giàu ba họ không ai khó ba đời”, bát cháo khiến cô con dâu hiểu cho hoàn cảnh của gia đình mà thay đổi tính nết không còn “chỏng lỏn”, chua chát như trước. Bát cháo cám là hạnh phúc gia đình trong những ngày đói khát cùng cực.
Như vậy, hình ảnh hai bát cháo có nhiều nét tương đồng sâu sắc. Đó đều là bát cháo bình dị của nông thôn nghèo khó chẳng có thịt đậm hương thơm ngon ngọt mà chỉ là những thứ đơn giản nhất của người nhà nông thậm chí là còn không được nấu bằng gạo mà bằng cám. Tuy nhiên đó là bát cháo hiện thân của tình người đầy bao dung, ấm áp, bát cháo cho con người ta thêm hy vọng để sống có ích có ý nghĩa hơn. Bát cháo hành của thị cho Chí sự hồi sinh và hạnh phúc làm người, bát cháo cám của bà cụ Tứ cho đôi vợ chồng lời động viên chân thành và niềm tin để vượt qua những tháng ngày đói khát cùng cực.
Hình ảnh hai bát cháo mang giá trị hiện thực nghiệt ngã. Chí bị xã hội ruồng bỏ, “Tất cả dân làng đều sợ hắn và tránh mặt hắn mỗi khi hắn qua” chỉ có thị là thấy hắn hiền như đất, chỉ có thị là cảm thông và thấu hiểu cho hoàn cảnh của hắn để rồi chỉ một bát cháo và sự chân thành cảm hóa được Chí. Bát cháo cám là hiện hữu của cái nghèo, đói đến đáng sợ. Hiện thực qua hai bát cháo tố cáo xã hội đã đẩy người nông dân như Chí đến mức đường cùng của của thú dữ, đẩy những người nghèo khổ như gia đình Tràng rơi vào hoàn cảnh éo le bên bờ vực giữa sự sống và cái chết mong manh.
Từ giá trị hiện thực ấy mà làm nổi bật lên giá trị nhân đạo, tư tưởng, tình cảm của tác giả được thể hiện và gửi gắm thông điệp đến bạn đọc. Bát cháo hành minh chứng cho sức mạnh của tình người, Nam Cao luôn tin vào giá trị tốt đẹp của con người không bao giờ bị mất đi mà chỉ cần có cơ hội lại trỗi dậy đòi quyền sống mãnh liệt. Bát cháo cám cho ta hy vọng dù đứng bên ranh giới sống chết nhưng con người ta vẫn luôn có niềm tin, động viên lẫn nhau cùng vượt qua khó khăn làm nên điều khác biệt khi cùng viết về người nông dân Kim Lân đã từng nói: "Khi viết về nạn đói người ta thường viết về sự khốn cùng và bi thảm. Khi viết về con người năm đói người ta hay nghĩ đến những con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết một truyện ngắn với ý khác. Trong hoàn cảnh khốn cùng, dù cận kề bên cái chết nhưng những con người ấy không nghĩ đến cái chết mà vẫn hướng tới sự sống, vẫn hi vọng, tin tưởng ở tương lai. Họ vẫn muốn sống, sống cho ra con người." Dù chỉ xuất hiện ở cuối tác phẩm nhưng chi tiết hai bát cháo rất có ý nghĩa, để lại sự suy tư và ám ảnh cho độc giả.
Mỗi một nhà văn ở một giai đoạn khác nhau nên có cái nhìn và quan điểm khác nhau khi đối diện với hiện thực. Nam Cao viết “Chí Phèo” trước cách mạng tháng Tám nên cái nhìn của ông đối với người nông dân ở giai đoạn này là bế tắc, tuyệt vọng nên kết thúc truyện là bi kịch bị cự tuyệt quyền làm người, Chí đã cầm dao đâm chết Bá Kiến và tự sát, thị nhìn xuống cái bụng của mình và hình ảnh cái lò gạch cũ lại thoáng hiện lên. Kim Lân thì lại khác tác phẩm “Vợ nhặt” được viết ngay sau cách mạng tháng Tám thành công nên người nông dân trong truyện luôn có niềm tin vào cuộc sống mới, đặc biệt là kết thúc nhà văn để hình ảnh lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới xuất hiện. Quan điểm tưởng khác nhau nên mới tạo ra sự khác biệt. Cùng viết về một đề tài là người nông dân nhưng trong mỗi tác phẩm người nông dân lại hiện lên khác nhau trong suy nghĩ cho thấy nét độc đáo riêng, thể hiện phong cách văn chương của mỗi nhà văn.
Như vậy chi tiết bát cháo hành trong “Chí Phèo” của Nam Cao và bát cháo cám trong “Vợ nhặt” của Kim Lân có nhiều giá trị về cả nội dung và nghệ thuật làm nên sự thành công của tác phẩm có đóng góp cho nền văn học dân tộc. Hai bát cháo mang giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc để lại ấn tượng độc đáo trong trong lòng độc giả. Gập lại trang sách nhưng ắt hẳn chúng ta không thể quên bát cháo hành tình người và bát cháo cám tình thương đầy suy ngẫm, trăn trở cho giá trị sống, giá trị làm người khi có mặt ở trên đời.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 3)
Bên cạnh dòng văn học lãng mạn, văn học hiện thực Việt Nam cũng đạt được những thành tựu rực rỡ, với những tác phẩm nổi tiếng. Trong số những ngôi sao của làng văn học hiện thực ta không thể không nhắc đến Nam Cao và Kim Lân. Nam Cao là cây bút hiện thực xuất sắc với tác phẩm nổi tiếng Chí Phèo – là kết tinh nghệ thuật trong đời văn ông. Còn Kim Lân có sở trường viết truyện ngắn về nông thôn và người nông dân với tác phẩm để đời Vợ nhặt. Ở cả hai tác phẩm này đều có những chi tiết nghệ thuật đặc sắc bát cháo hành (Chí Phèo), nồi cháo cám (Vợ nhặt) góp phần thể hiện tư tưởng cũng như tài năng nghệ thuật của hai tác giả.
Chi tiết bát cháo hành xuất hiện ở phần giữa của tác phẩm Chí Phèo. Chí Phèo sau khi đi uống rượu nhà Tư Lãng, trở về căn lều của mình, trên đường trở về hắn thấy khó chịu nên không về nhà ngay mà rẽ xuống sông tắm, ở đây hắn đã gặp thị Nở đang nằm ngủ cạnh bụi chuối. Dưới ánh trăng mờ ảo, khung cảnh hữu tình đã nảy nở tình yêu giữa thị Nở và Chí Phèo. Đến nửa đêm, Chí Phèo bị cảm, nôn thốc, nôn tháo, thị Nở là người đã dìu Chí vào lều, đắp cho manh chiếu và trở về nhà. Nhưng khi về đến nhà thị vẫn chưa yên tâm, bởi: Thổ trận ấy thật là phải biết. Cứ gọi là hôm nay nhọc đừ, thương cho Chí chỉ có một thân một mình thị Nở quyết định sẽ nấu cháo mang cho Chí Phèo giải cảm. Bát cháo hành là chi tiết nghệ thuật giàu ý nghĩa, giàu giá trị biểu đạt.
Bát cháo là sự quan tâm, chăm sóc ân cần không vụ lợi toan tính của thị Nở dành cho Chí Phèo. Sau cái đêm ăn nằm với nhau thị cảm thấy mình có trách nhiệm phải quan tâm, giúp đỡ Chí Phèo. Nhưng sâu xa hơn, nó còn xuất phát từ tình yêu thương Thị dành cho Chí: Cái thằng liều lĩnh ấy kể ra cũng đáng thương, còn gì đáng thương bằng đau ốm mà nằm còng queo một mình. Đây mới là nguyên nhân gốc rễ dẫn đến hành động thị dành cho Chí. Không chỉ vậy, bát cháo hành đã khơi nguồn, nảy nở tình yêu đẹp đẽ giữa hai con người bất hạnh. Xét ở một khía cạnh nào đó, thị Nở cũng là kẻ bị gạt ra ngoài rìa của xã hội, không tìm được hạnh phúc, bởi vậy, nhờ có bát cháo hành mà thị đã thực sự được làm thiên chức của một người phụ nữ, được quan tâm chăm sóc cho người mình thương.
Không chỉ vậy, bát cháo tuy bé nhỏ về vật chất nhưng lại là niềm an ủi to lớn về tinh thần với Chí Phèo. Đây là tình người hiếm hoi mà Chí Phèo được nhận trong khi tất cả mọi người đều xa lánh, hắt hủi Chí. Đây cũng hương vị tình yêu, hạnh phúc muộn màng mà Chí được được duy nhất đón nhận một lần. Lần đầu tiên chí được chăm sóc bởi tay một người đàn bà. Bát cháo không chỉ giúp Chí giải cảm, vượt qua cái mệt mỏi về thể xác mà còn giúp Chí thanh lọc, giải độc về tâm hồn. Chí thấy vừa xúc động, vừa vui, vừa buồn vừa như là ăn năn. Nó giúp Chí suy nghĩ về tình trạng thê thảm của bản thân hiện tại khi bị tất cả mọi người ruồng rẫy, gạt ra bên ngoài cuộc sống. Xưa nay hắn chỉ sống bằng cướp giật, dọa nạt. Nếu không còn đủ sức mà cướp giật, dọa nạt nữa thì sao […] Nhưng hắn mơ hồ thấy rằng sẽ có lúc mà người ta không thể liều được nữa. Thế mới nguy. Và trong Chí bùng lên khát khao được trở thành người lương thiện, muốn làm hòa với mọi người và thị Nở chính là người sẽ mở đường cho hắn. Như vậy, với Chí Phèo bát cháo hành đã đánh thức phần người, phần nhân tính mà bấy lâu nay bị phần con che lấp mất.
Chi tiết bát cháo hành cũng có giá trị lớn về mặt nghệ thuật. Với chi tiết này đã giúp bộc lộ tính cách nhân vật : Thị Nở yêu thương, quan tâm người khác vô điều kiện, Chí Phèo phục hồi phần nhân tính bị khuất lấp. Không chỉ vậy chi tiết này còn góp phần thúc đẩy truyện phát triển, tạo nên trình tự truyện hợp lí, tự nhiên. Qua đó thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của Nam Cao : tin vào sức mạnh của sự cảm hóa.
Cũng như chi tiết bát cháo hành, chi tiết nồi cháo cám trong Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân cũng chứa đựng nhiều giá trị sâu sắc. Chi tiết này xuất hiện vào cuối tác phẩm, trong bữa cơm đầu tiên khi cô vợ nhặt bước chân vào nhà anh cu Tràng. Miếng cháo cám đắng ngắt, nhưng họ vẫn lặng lẽ ăn và không ai nói với nhau câu nào nữa.
Trong nạn đói năm 1945, hàng nghìn người chết đói, thì nồi cháo cám đó có đắng chát cũng là phương tiện giúp gia đình Tràng xua tan cơn đói, đây cũng có thể coi là bữa tiệc trong ngày đón nàng dâu mới về. Điều đó đã cho thấy sự nghèo đói và cuộc sống cực khổ của nhân dân ta vào thời điểm năm 1945. Ý nghĩa hơn cả, chi tiết nồi cháo cám còn giúp bộc lộ tính cách nhân vật. Nồi cháo cám được bà cụ Tứ niềm nở bê ra, đã cho thấy đó là một người phụ nữ đảm đang, yêu thương con hết mực. Trong cuộc sống khổ cực như vậy, nhưng bà vẫn tìm mọi cách để đem đến niềm vui nhỏ bé cho đôi vợ chồng trẻ. Đối với người vợ nhặt, tính chao chát, chỏng lỏn đã biến đi đâu mất, thay vào đó là người phụ nữ điềm nhiên, bình tĩnh : người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng. Người con dâu ấy đã có sự thay đổi về tính nết, chấp nhận hoàn cảnh và trong cô cũng sẵn sàng để cùng gia đình nhỏ bé mới này vượt qua mọi khó khăn. Không chỉ vậy, nồi cháo cám còn là biểu tượng của tình người, của niềm tin và hi vọng. Trong hoàn cảnh đói kém, họ vẫn không ngần ngại cưu mang thêm một người, sống trong sự đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau. Quanh nồi cháo cám, bà cụ Tứ nói những chuyện vui, tương lai tốt đẹp để khơi dậy vào cuộc sống mới đẹp đẽ hơn cho đôi vợ chồng trẻ.
Đây là hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc, nó là biểu tượng của tình người ấm áp, của tình yêu thương chân thành con người dành cho nhau trong hoàn cảnh khó khăn, hoạn nạn. Với mỗi chi tiết còn góp phần bộc lộ, sự thay đổi tính cách của nhân vật. Không chỉ vậy nó còn thể hiện bi kịch của con người trong xã hội cũ : Chí Phèo bị cự tuyệt quyền làm người, bị xã hội đẩy ra bên lề. Còn cô vợ nhặt, số phận con người cũng trở nên rẻ mạt hơn. Qua các chi tiết này, cả hai tác giả đều thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc, niềm tin vào sức mạnh của tình yêu thương có thể thay đổi, cảm hóa con người.
Bên cạnh những điểm giống nhau, các chi tiết nghệ thuật này cũng có những điểm khác biệt. Bát cháo hành là tình yêu thương chân thành, không toan tính thị Nở dành cho Chí Phèo khi tất cả xã hội đã cự tuyệt Chí, coi Chí như con quỷ và đẩy Chí Phèo vào bước đường cùng. Qua đó, giúp người đọc hình dung được bộ mặt bất nhân, tàn bạo của xã hội thực dân nửa phong kiến. Còn chi tiết bát cháo cám là biểu tượng không chỉ của tình yêu thương mà còn là niềm tin vào tương lai, hi vọng vào tương lai tốt đẹp, khi trong bữa cơm ấy họ bàn về chuyện Việt Minh. Đó là cái nhìn đầy lạc quan, tin tưởng của Kim Lân vào cuộc sống. Có sự khác biệt như vậy là do phong cách sáng tác của hai tác giả là khác nhau. Không chỉ vậy, yếu tố thời đại chi phối đến nhãn quan của mỗi nhà văn : Nam Cao bi quan, bế tắc, Kim Lân lạc quan, tin tưởng.
Qua những chi tiết nghệ thuật đặc sắc của hai nhà văn người đọc đã thấy được tấm lòng nhân đạo bao la của họ vào con người, luôn mang niềm tin tưởng vào sự cảm hóa qua tình yêu thương. Không chỉ vậy, với các chi tiết nghệ thuật này còn cho thấy tài năng nghệ thuật bậc thầy của họ.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 4)
Một tác phẩm văn học chạm được đến trái tim người đọc không phải là những trang viết có ngôn từ trau chuốt, mượt mà, dùng từ đắc địa. Kỳ thực một tác phẩm có thể khiến người đọc thấy ngấm phải là tác phẩm có những "chi tiết đắt", là điểm sáng thổi bùng lên chủ đề tác phẩm. Nam Cao đã đưa chi tiết "bát cháo hành" đầy tính nhân văn trong truyện ngắn "Chí Phèo", và Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh "Nồi cháo cám" vào trong tác phẩm, giữa nạn đói năm 1945 đang hoành hành. Chi tiết "Nồi cháo cám" trong truyện ngắn "Vợ nhặt" có thể xem là đầy dụng ý nghệ thuật và giàu tính nhân văn.
"Vợ nhặt" là một truyện ngắn tái hiện lại cuộc sống cùng cực, thê thảm, nhưng không bế tắc của những con người sống giữa nạn đói năm 1945. Kim Lân đã khắc họa thành công hình ảnh bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng. Và hơn hết chỉ có một chi tiết nhỏ "Nồi cháo cám" ở giữa truyện dường như đã đẩy cao trào cái đói khổ lên tận cùng và cũng đẩy tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ đến ngưỡng cao nhất. Người đọc khi gấp trang sách lại sẽ bị ám ảnh bởi chi tiết này, cảnh tượng nạn đói năm 1945 dường như hiển hiện ra ngay trước mặt.
Tác giả đã rất khéo léo để lựa chọn đưa chi tiết "nồi cháo cám" vào câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng. Thời điểm này đã nói lên tất cả nỗi cơ cực, đường cùng của những nạn nhân năm 1945 và cũng qua đó mới thấy được tình thương yêu bao la, vô bờ bến của người mẹ. Giữa cái đói nhưng tình yêu thương vẫn không bị mai một, nó vẫn luôn bùng cháy, chỉ là đôi lúc nó ngấm ngầm chảy trong người.
"Nồi cháo cám" không phải xuất hiện trong một bữa ăn bình thường mà xuất hiện ngay trong buổi sáng hôm sau, buổi sáng đầu tiên của "lễ ra mắt con dâu", đáng nhẽ ra như bà cụ Tứ đã nói "kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này". Cái sự tình khốn khổ, nghèo đói giữa năm 1945 này thật khiến co người ta phải nghẹn ngào.
Bữa cơm đón dâu giữa nạn đói thực sự thê thảm, "giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành". Cái không khí đói bao trùm nhưng ai cũng biết, ai cũng nén trong lòng, không bộc lộ ra bên ngoài. Điều đáng nói hơn hết là trong bữa cơm ngày đói này, tâm trạng của bà cụ Tứ khác hẳn, bà không rủ rũ như mọi ngày, bà kể toàn chuyện vui, nói toàn chuyện hay. Đây có thể xem là sự chuyển biến tâm lý đột ngột của người đàn bà nghèo khổ. Người mẹ này tuy nghèo đói một đời nhưng rất biết cách chiều con, với lại nhà lại có thêm cô con dâu mới giữa cảnh đói kém triền miên. Có thể nói những lời bà cụ Tứ nói đều gợi mở lên một tương lai tươi sáng của con người và của đất nước.
Nhưng có một chi tiết chuyển biến để nhấn mạnh hình ảnh "nồi cháo cám" khiến người đọc không kìm nổi xúc động "bà lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói". Sau đó chính là lời thoại của chính bà cụ Tứ, lời thoại chan chat, nghẹn ứ ở trong lòng như chính "nồi cháo cám" ấy:
"Chè khoái đấy, ngon đáo để" và "Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ". Một chi tiết thật đắt giá, một chi tiết gợi lên cái đói, cái nghèo đến cùng cực. Mặc dù ăn cháo cám nhưng ba mẹ con không ai than hay chê trách, ai cũng ăn một cách ngon lành. Bởi đây là nồi cháo yêu thương, nồi cháo đong đầy tình mẹ và nồi cháo của sự yêu thương và lòng vị tha. Người đọc sẽ thấy được rằng giữa cái đói nghèo cùng cực nhưng tình mẹ vẫn luôn bất diệt, luôn vĩnh cửu không bao giờ thay đổi. Bởi rằng trong suy nghĩ của bà cụ Tứ thì "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời" nên bà vẫn luôn vạch ra trước mắt của hai đứa con một viễn cảnh tươi sáng nhất.
Chi tiết "nồi cháo cám" vừa có giá trị hiện thực sâu sắc vừa có giá trị nhân đạo, chạm đến trái tim người đọc. Về giá trị hiện thực "nồi cháo cám" tái hiện lại cuộc sống nghèo khổ, túng quẫn đến cùng cực của nạn đói năm 1945. Giữa khung cảnh ấy hiện lên những con người nghèo khổ đến tận cùng của xã hội, tưởng rằng sẽ không còn một lối thoát nào cho tương lai. Nồi cháo cám ấy cho đến bây giờ vẫn ám ảnh tâm trí của người đọc, bởi nó có sức ám ảnh quá lớn.
Bên cạnh đó, "nồi cháo cám" còn mang giá trị nhân văn sâu sắc, là tấm lòng người mẹ nghèo thực sự đáng trân trọng. Dù đói khổ nhưng bà cụ Tứ luôn dành những yêu thương, những ân cần sâu sắc nhất đối với con.
Ngoài giá trị nội dung thì chi tiết "nồi cháo cám" còn mang giá trị nghệ thuật, bởi đây là một chi tiết nghệ thuật, tự bản thân của hình ảnh đó đã mang giá trị trong mình, khiến cho cả câu truyện ngắn trở nên tươi đẹp và ấm áp hơn trong cảnh đói nghèo, chết chóc.
Gấp lại trang sách, hình ảnh "nồi cháo cám" của Kim Lân vẫn luôn quẩn quanh trong tâm trí người đọc. Nó thực sự ám ảnh, thực sự có sức lay động ghê gớm. Nạn đói năm 1945 và những con người thời kỳ đó bằng tình yêu thương và lòng nhân hậu đã có thể vượt qua tất cả.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 5)
Thành công của một tác phẩm được làm nên từ rất nhiều yếu tố. Một trong số đó là những chi tiết đắt giá làm nên ấn tượng sâu sắc với người đọc và đồng thời qua đó phải thể hiện được dụng ý nghệ thuật cũng như tư tưởng của tác giả trong tác phẩm đó. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh nồi cháo cám vào trong tác phẩm, qua đó làm nổi bật tư tưởng nhân đạo của nhà văn đối với cuộc đời và con người.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống cùng cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Tiêu biểu cho những người nghèo đói là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nhà khó khăn đến vậy, việc lấy vợ của anh khiến cho ai nấy đều ngạc nhiên hết sức. Bởi giữa cảnh nghèo đói, cận kề với cái chết, nuôi thân mình còn chưa xong vậy mà lại còn đeo thêm miệng ăn, “rước cái của nợ ấy về”. Và trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ. Với chi tiết này, nhà văn cũng muốn nói lên tình yêu thương con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Nếu trong bữa ăn nghèo đói thường ngày thì đã đành, nhưng đây trong bữa sáng đầu tiên nhà có cô dâu mới mà cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy lại càng khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào vì bữa cơm đón nàng dâu mới thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu rõ, với bữa cơm như vậy thì lấy đâu ra mà ăn ngon lành cho cho được. Nhưng ở đây, cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì ai cũng hiểu, ai cũng nén trong lòng và cố làm ra vẻ vui tươi.
Nhưng có lẽ đó cũng là niềm vui thực sự. Bởi lẽ, vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt, con người ta cũng biết trân trọng những hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ chính là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, dù trong cảnh nghèo đói nhưng vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới, thậm chí là còn vui mừng vì những tưởng con mình không có ai để ý đến vậy mà nay con đã lấy được vợ. Chính vì thế mà trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà. [..] Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những chuyện tốt đẹp để mong tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là những mong ước của tất cả mọi người trong hoàn cảnh khó khăn ấy.
Nhưng vừa mới nhen nhóm lên được chút hy vọng thì thực tại đã đổ sầm ngya trước mắt. Khi mà bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!” nhưng kì thực đó lại là một nồi cháo cám. Đây được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, khi mà “Xóm ta khối nhà còn chả có cám mà ăn đấy”, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món “chè” xa xỉ hơn nhiều nhà khác rồi. Và vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng tuy cảm thấy nghẹn bứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng không còn chao chát đỏng đảnh như hôm gặp trên phố nữa mà thị đã chấp nhận hoàn cảnh, đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Chính vì thế mà tất cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong tâm trí người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân đạo rất lớn. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu rõ hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy vậy nhưng trong cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy ánh lên tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng như đang trong bờ vực của cái chết lắt lay, người ta chỉ nghĩ đến những thống khổ nhưng không, ở đây người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ dành cho chồng và trách nhiệm của một người chồng dành cho gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 6)
Có những chi tiết nghệ thuật đọc rồi là nhớ mãi bởi nó có sức rung động sâu xa, sức ám ảnh lâu bền trong người đọc như “bát cháo hành” của Thị Nở trong Chí Phèo (Nam Cao), như “nồi cháo cám” của bà cụ Tứ trong Vợ nhặt (Kim Lân). Nếu bát cháo hành là liều thuốc giải độc đối với những “con quỷ dữ” như Chí Phèo biết quay về cuộc sông lương thiện, thì nồi cháo cám chính là tấm lòng thương yêu chân thực, cảm động của người mẹ nghèo khổ đối với những đứa con trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới.
Gấp trang truyện lại, không hiểu sao trước mắt ta cứ hiện lên rõ ràng như thực hình ảnh “người mẹ tươi cười, đon đả: – Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem. Xóm ta khối nhà chả có cám mà ăn đấy”. Có thật chăng món chè cám ngon đáo để? Có thật chăng lòng người mẹ đang vui sướng? Chỉ biết rằng cỏ một niềm xúc động rất thật cứ dâng lên trong lòng ta trước tấm lòng bà cụ Tứ khi bà “lễ mễ” bưng nồi cháo ra, đon đả tươi cười múc cháo cho hai đứa con.
Nhớ lại cuộc đời dài nghèo khổ của bà, mấy khi trên gương mặt u tối ấy sáng lên một nụ cười? Ngay cả đêm qua, biết con trai đã nên vợ nên chồng, trong giờ phút đầu tiên gặp người con dâu mới, nước mắt khổ đau và lo lắng của bà vẫn chảy nhiều hơn tuy trong thâm tâm bà cũng có chút “mừng lòng” và một vài tia hi vọng về chúng. Vậy thì vì sao trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới lại có chuyện “nồi cháo cám" với nụ cười đon đả làm bừng sáng cả khuôn mặt già nua, nhẫn nhục của bà? Ta hiểu, không phải bà vui cho bà, mà chính là bà đang cố tạo ra những niềm vui, dù còn rất mong manh, cho con trai và con dâu trong ngày đầu tiên nên vợ nên chồng. Tâm lòng người mẹ nghèo thương con thật cảm động. Bà đã dậy sớm, “xăm xắn” dọn dẹp nhà cửa, vườn tược cho quang quẻ, trong bữa cơm toàn nói những chuyện vui về tương lai như chuyện nuôi gà … Và “nồi cháo cám” chính là đỉnh cao của tấm lòng người mẹ nghèo thương hai đứa con vừa tìm đến với nhau trong cảnh “vợ nhặt” giữa những ngày đói khủng khiếp nhất của năm 1945.
Còn nhớ một điều, đây không phải là một bữa cơm thường nhật hằng ngày, mà là bữa cơm đầu tiên đón dâu mới, bữa cơm ngày “nhị hỉ” thiêng liêng theo phong tục Việt Nam. Chính đêm qua, bà đã nói với người đàn bà lạ bỗng trở nên thân thiết với mình: “Lẽ ra mẹ phải có dăm ba mâm, mời bà con họ hàng, nhưng Bữa cơm ấy phải tươm tất, nhưng vì đang trong những ngày đói nên chỉ có “một niêu cháo lõng bõng, một dúm rau chuối thái rối chấm với muối trắng”. Ba mẹ con ăn vui vẻ nhưng loáng cái đã hết nhẵn, không còn chút gì trên cái mẹt rách được dùng làm mâm. Một tình thế hụt hẫng sẽ đến trong bữa cơm ngày cưới, điều này, bà đã nhìn thấy trước, và bằng tấm lòng thương yêu của mình, bà đã tìm cách “cứu nguy” cho nó, mục đích là để cho con trai và con dâu có được niềm vui trọn vẹn trong ngày đầu tiện nên vợ nên chồng. Nồi cháo cám có được là do lòng thương con chân thành của bà, cũng là do cách nghĩ hồn nhiên mộc mạc của bà – những bà mẹ nông dân suốt đời lam lũ nghèo khổ.
Bà nấu nồi cháo cám, giấu con trai và con dâu, để đến cái giờ phút nguy kịch đó mới đem ra “cứu nguy” như khi ta xổ ra con át chủ bài lúc ván bài đã đến nước quyết định. Và như ta thấy, bà đã vui vẻ mời chào,đon đả đón lấy bát của con dâu và con trai để múc cháo. Bà còn “nói trại" đi đó là chè khoán, ngon đáo để. Trong chi tiết nghệ thuật này, hai lần Kim Lân miêu tả cái dáng tươi cười, đon đả của bà mẹ với hai đứa con một cách thật chân thành và hồn nhiên. Chính điều này làm ta xúc động, xót thương và cảm phục tấm lòng của người mẹ nghèo khổ. Bà đang vui (điều này hẳn là có vì con trai bà đã có gia đình bà đã có con dâu) hay bà đang cố tạo ra niềm vui cho hai đứa con tội nghiệp của bà đã nên vợ nên chồng trong lúc đói kém này? (Điều này chắc là nhiều hơn, là điều chủ yêu trong lòng bà lúc bấy giờ). Dường như bà cố ý xua đi không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi ,tỉnh ấy, ta biết lòng người mẹ đang thổn thức. Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa … Tội nghiệp cho niềm vui của bà – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, vẫn còn đó bát cháo cám “chát xít, nghẹn bứ trong miệng” anh con trai và làm “tối sầm hai con mắt” người con dâu. Và, tiếng cười của bà tắt hẳn khi “một nỗi tủi hờn dâng lên bao quanh mâm cơm”, họ cắm mặt ăn cho xong bữa, ăn mà không nhìn nhau … Kim Lân viết những dòng này tưởng như khách quan, nhưng ta biết lòng ông đau nhói biết chừng nào, bởi chính ông, gia đình ông, trong những ngày đói của năm Ất Dậu ấy, cũng đã từng phải ăn cháo cám, ông đã biết mùi vị của cháo cám là thế nào? … Phải, cái nồi cháo cám ấy có gì là quý giá đâu, nhưng tấm lòng người mẹ nông dân một đời nghèo khổ ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Nhưng bà sống vì con, cả con trai và người con dâu mới mà bà đã thương yêu sâu sắc, bà tìm thây ý nghĩa đời mình trong sự chăm lo vun vén cho con. Cái đức hi sinh, vị tha ấy là của bà, của bao bà mẹ nông dân khác mà ta đã gặp trong cuộc đời. Và nồi cháo cám mà Kim Lân đã dành cho bà ở đây, trong phần kết thúc thiên truyện ngắn này, nó vẫn gợi lên sâu sắc âm hưởng đau xót của nạn đói khủng khiếp năm 1945, vẫn giữ lại cái hương vị đằm thắm nhân bản của khát khao tổ ấm gia đình dù trong cảnh “Vợ nhặt”; nhưng trên hết và bao trùm tất cả, đó là tấm lòng nhân hậu cao cả của những người mẹ Việt Nam – “đằng sau manh áo rách là những tấm lòng vàng!”
Đó là một chi tiết nghệ thuật đặc, sắc mà ta thường gặp ở cây bút viết truyện ngắn sở trường về người nông dân Việt Nam: nhà văn Kim Lân.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 7)
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo, tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai.
Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích. Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…
Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn ven. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sông đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy "chợn" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà. Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quí trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.
Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu. Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 8)
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn thành công, mang danh tiếng đến cho nhà văn Kim Lân. Truyện tái hiện cuộc sống cùng cực dần đi vào ngõ cụt nhưng không bao giờ bế tắc của người dân sống trong nạn đói 1945. Nhà văn đã khắc họa nên hình ảnh “nồi cháo cám” chống đói của bà cụ Tứ, Tràng và cô vợ nhặt. Chính hình ảnh đắt giá này đã thổi bùng lên nội dung tác phẩm, khiến người đọc hình dung được nạn đói hoành hành. Đồng thời, lột tả hết được tình thương, vị tha của người mẹ đối với những đứa con của mình.
Hình ảnh “nồi cháo cám” không xuất hiện trong một bữa ăn giữa đời thường mà xuất hiện trong chính ngày lễ trọng đại – ngày ra mắt con dâu. Đặc biệt hơn, với tình thương con mãnh liệt, bà cụ Tứ đã rằng “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Hình ảnh bùng lên giữa nạn đói năm 1945 khiến người ta không tránh khỏi sự nghẹn ngào. Vậy nhưng, có ăn đã là may, ai cũng nén sự xót thương trong lòng cố ăn để chống chọi với nạn đói.
“Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Điều đáng ngạc nhiên hơn rằng bà cụ Tứ không nói về những chuyện buồn xưa cũ, thay vào đó bà kể những câu chuyện vui, những ngày còn lo ấm. Điều này giúp người đọc phần nào thấy được tâm lý của bà cụ, dù đói nhưng biết cách an ủi con. Đồng thời, những câu nói quanh bữa ăn như một khát khao về tương lai tươi sáng của con người.
“Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói: Chè khoán đấy, ngon đáo để. Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Câu nói vừa dứt, sống mũi người đọc ắt hẳn sẽ cay cáy nhưng tại hoàn cảnh này, ba nhân vật trong câu chuyện không một câu chê trách nào. Bởi nồi cháo không chỉ chống đói, mà còn thể hiện sự yêu thương.
“Nồi cháo cám” không chỉ mang ý nghĩa hiện thực khi tái hiện những hình ảnh nghèo khổ đến cùng cực tưởng như không còn lối thoát. Bên cạnh đó, còn mang giá trị nhân văn sâu sắc khi thể hiện được tình thương yêu của người mẹ. Hình ảnh nồi cháo bốc khói trong buổi lễ ra mắt con dâu còn mang đến giá trị nghệ thuật to lớn, kiến câu chuyện thêm phần thú vị.
8. Phân tích hình ảnh nồi cháo cám trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân mẫu 7
Nhà văn Kim Lân là một tác giả có phong cách giản dị, mộc mạc, khiến cho người đọc cảm động ám ảnh bởi trong mỗi tác phẩm ông đều gửi gắm nhiều tình cảm chất chứa. Hình ảnh nồi cháo cám trong tác phẩm Vợ nhặt là liều thuốc có sức rung động sâu xa, thể hiện sức sống mãnh liệt vượt qua bao thời gian.
Truyện ngắn Vợ nhặt lấy bối cảnh nạn đói năm 1945 khi mà cả nước ta rơi cảnh lầm than, cơ cực, người chết như ngả rạ, trong bối cảnh lịch sử đó nhiều người dân đã thiệt mạng, những người sống thì sống cuộc đời cơ cực lay lắt. Hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người đọc cảm thấy ám ảnh, về cuộc sống lay lắt, khổ cực của người nông dân dưới chế độ áp bức bóc lột một cổ nhiều tròng.
Trong bối cảnh nạn đói hoành hành, Tràng một người con trai nghèo khó sống cảnh mẹ góa con côi, nhà nghèo, thân hình bên ngoài thô kệch, quai hàm bạnh ra, hai con mắt ti hí hấp háy, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười một mình. Nếu bình thường thì một người con trai như anh cu Tràng sẽ không bao giờ lấy được vợ, nhưng trong hoàn cảnh cả nước đói kém người chết đầy đường thì anh cu Tràng lại dễ dàng nhặt được vợ như nhặt một thứ gì đó rơi ngoài đường mang về nhà.
Hoàn cảnh khốn khó cũng đã xô đẩy một người con lấy chồng mà không có sự chứng kiến của hai bên họ hàng, không có nổi mâm cơm cúng ông bà tổ tiên…Mọi thứ đều quá đơn giản. Hai con người nghèo khó gắn kết lại với nhau, họ nương tựa vào nhau để tìm một hy vọng mới. Bà cụ Tứ mẹ anh cu Tràng được tác giả Kim Lân phác họa lên là một người phụ nữ hiền lành, nhân hậu bà sẵn sàng chấp nhận người con gái xa lạ làm con dâu mình “Có gặp thời buổi này thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình mới có vợ” đó là những suy nghĩ chân thực cảm động của một người phụ nữ thương con.
Sau đêm tân hôn, buổi sáng thức dậy anh cu Tràng thấy nhà cửa đã được quét dọn sạch sẽ, vợ anh ngồi đó là thật mà cứ ngỡ như là mơ. Bà cụ Tứ đon đả bưng bữa ăn sáng ra “Chè khoán đấy”. Nồi cháo cám hiện ra khiến cho mọi người đều cảm thấy đau xót nhưng tất cả đều điềm nhiên chấp nhận cái đói nghèo, mỗi người đều ăn uống vui vẻ như thể ngon lắm. Một bữa ăn toàn những sơn hào hải vị.
Trong bữa ăn những con người đó mơ về một tương lai tốt đẹp hơn về chuyện làm vườn rồi mua đôi gà về nuôi, chuyện làng Sùng người ta không cần phải thu thuế, rồi người dân lao động phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Hình ảnh nồi cháo cám là thực tế phũ phàng mà đôi trẻ phải đối diện sau khi cưới nhau chưa được bao lâu. Nhưng bằng tấm lòng người mẹ thương con bà cụ Tứ đã gợi ra những hy vọng mới cho con trai và con dâu của mình, để họ có thêm động lực hướng tới tương lai, niềm tin vào những chặng đường sắp tới.
Người mẹ nghèo khổ xót xa khi phải giấu các con nấu một nồi cháo cám tới gần bữa ăn mới đem ra, bà còn nói tránh đi “Chè khoán đây, ngon đáo để” làm sao có thể ngon với một loại thức ăn đắng ngắt. Trong bữa cơm bà vui vẻ kể nhiều chuyện vui để cho các con vui vẻ theo. Một người mẹ nhất mực thương con, quặn thắt lòng khi con trai cưới vợ trong hoàn cảnh khốn khó này.
Hình ảnh nồi cháo cám mà Kim Lân đã miêu tả có sức sống vô cùng mãnh liệt ám ảnh người đọc, gợi lên những âm hưởng tha thiết thể hiện sự khát khao hạnh phúc của những con người trong bối cảnh lịch sử. Hình ảnh này thể hiện sự tài tình của Kim Lân trong ngòi bút của mình, thể hiện sự sâu sắc của tác giả, khi phác họa chi tiết, tình huống truyện.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 9)
Kim Lân (1920- 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng huyện Từ Sơn. Ông là một nhà văn độc đáo và xuất sắc viết về nông dân của làng quê Việt Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu phải kể đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm ra đời ngay sau cách mạng tháng tám, viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945. Và trong tác phẩm, Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “nồi cháo cám” vào tác phẩm, một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật và giá trị nhân đạo.
Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “nồi cháo cám” dường như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ánh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “nồi cháo cám”, người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ. Hình ảnh “nồi cháo cám” xuất hiện trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không phải trong bữa ăn hàng ngày của một gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng, cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay. Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè khoán đây, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nồi cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân trọng và đầy yêu thương.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 10)
“Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm”, không một tác phẩm nào xuất sắc, nếu không thể tạo được những chi tiết giàu ý nghĩa nhân văn. Trong Chí Phèo ta còn nhớ những chi tiết tiếng chửi, bát cháo hành… còn với tác phẩm Vợ Nhặt của Kim Lân, tác giả đã xây dựng thành công một chi tiết vô cùng đắt giá và nổi bật, đó chính là “nồi chè khoán” của gia đình anh Cu Tràng.
Vợ Nhặt của Kim Lân lấy bối cảnh nước ta trong nạn đói năm 1945, thời gian đó người ta sống trong hoàn cảnh “ngụ cư” và phải chịu rất nhiều tấn khổ cực. Bi kịch của kiếp người là những cái chết ngả rạ, chết vì đói, mà cũng có thể là chết vì…no. Vì vậy, Kim Lân đã đặc biệt xây dựng thành công một hình ảnh “nồi chè khoán” vô cùng đặc biệt. Liệu đó có phải nồi chè khoán thật hay không? Tại sao trong một gia đình có mối nghèo truyền kiếp và hai miệng ăn còn không đủ no, lại có được một thức ăn đặc sản như thế trong những ngày đói cùng cực như vậy?
Hình ảnh nồi chè khoán của bà cụ Tứ hiện lên trong hoàn cảnh vô cùng ý nghĩa. Đó là nồi chè bà đã cất công làm ra để thiết đãi cô con dâu mới – Thị vừa mới về làm dâu với anh Cu Tràng, con trai bà cụ Tứ. Bà cụ Tứ bưng bát cháo ra với tâm trạng vui phơi phới, và cố kiềm đi nỗi tủi cực của một hoàn cảnh nghèo khó, mà vui vẻ nói: “chúng mày đợi nhá. Tao có cái này hay lắm cơ” rồi bà bưng ra một cái nồi bốc khói lên nghi ngút, và lại vui vẻ nói tiếp: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ” nhưng thực ra đây đâu có phải chè khoán? Bà cố tình vui vẻ thế thôi, vui vẻ trước mặt cô con dâu mới, vui vẻ để truyền niềm vui, lạc quan hi vọng vào các con.
Thể hiện tâm trạng của một người mẹ nghèo trong nạn đói Ất Dậu 1945. Hơn thế, đó còn là sự biểu hiện một tâm trạng vui mừng của bà cụ Tứ trong ngày hạnh phúc của con trai mình. “Cám đấy mày ạ, hì. Ngon đáo để” lời nói trong vui mà có buồn, nỗi xót xa như ứ đọng nhưng buộc phải vui để mà sống. Vì vậy ta càng cảm nhận hơn một trái tim ấm áp, tấm lòng nhân hậu và vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng.
Là một chi tiết đắt giá trong truyện, hình ảnh “nồi cháo khoán” còn có ý nghĩa rất cao về nghệ thuật. Là một trong những chi tiết có tính thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện, khắc họa rõ nét tính cách, và tâm lí hành động của người mẹ nghèo nhưng rất thương con. Tuy là một chi tiết nhỏ, nhưng lại mang sức gợi rất cao. Đó là sự tin tưởng, một khát vọng sống vươn lên hoàn cảnh, và còn là sức mạnh của tình thương, một trái tim đẹp của con người dành cho nhau.
Kim Lân đã vô cùng tài hoa khi xây dựng được một chi tiết có nhiều giá trị nghệ thuật và nội dung đến như vậy. Thông qua đó còn gửi gắm một tấm lòng nhân đạo của ông dành cho con người, luôn tôn vinh và ngợi ca họ dù trong hoàn cảnh khó khăn và khốn cùng của kiếp người. Và nhờ chi tiết độc đáo “nồi cháo khoán” đã cho ta thấy một tầm vóc lớn của một nhà văn giàu lòng nhân đạo. Chi tiết đã nâng tầm của câu truyện lên và khiến cho ta, về sau khi đọc lại, vẫn sẽ luôn nhớ mãi một chi tiết “nồi cháo khoán” giản dị như một hời ấm nhen lên giữa những ngày đau thương của dân tộc.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 11)
Đôi khi trong những tác phẩm lớn, người đọc sẽ không thể nào nhớ hết các tình tiết trong chuyện mà họ chỉ nhớ đến một chi tiết đắt giá đã là đủ rồi. Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân, hình ảnh nồi cháo cám để để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng độc giả.
“Vợ nhặt” là một bức tranh toàn cảnh về cuộc sống khổ cực, thê thảm của người nông dân trong nạn đói lịch sử 1945. Điển hình cho những người dân trong thời kỳ này là gia đình anh Tràng. Trong hoàn cảnh nghèo đói đến vậy, việc anh lấy vợ đã gây lên sự ngạc nhiên cho nhiều người. Bởi giữa cảnh đói nghèo không lo được cho mình mà anh còn “rước cái của nợ ấy về”. Chính vì thế trong bữa cơm đón nàng dâu mới, hình ảnh nồi cháo cám khiến cho người ta không khỏi xót xa và thương cảm cho những số phận cùng khổ ấy. Qua chi tiết này, nhà văn muốn thể hiện tình yêu thương với con người và mơ ước về một tương lai tươi sáng, tốt đẹp hơn.
Trong khung cảnh nghèo đói của xã hội lúc bấy giờ, cả nhà lại ngồi với nhau bên nồi cháo cám. Bà cụ Tứ sợ con dâu buồn nên đã phân trần: “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Tình cảnh khốn khó ấy khiến cho người đọc không khỏi nghẹn ngào với bữa cơm đón nàng dâu thực sự thê thảm: “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cả bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ anh và cả người đọc đều hiểu bữa cơm như vậy không hề ngon một chút nào. Tuy nhiên cả ba người đều “ăn rất ngon lành” là vì nấy đều muốn thể hiện sự vui vẻ trong hoàn cảnh này.
Nhưng có lẽ đây cũng là niềm vui thực sự khi 3 con người ấy luôn muốn vượt lên trên cái nghèo đói hiện diện trước mắt để trân trọng niềm hạnh phúc đời thường. Bà cụ Tứ là một người mẹ đầy nhân hậu và bao dung, khi trong cảnh nghèo đói vẫn vui vẻ chấp nhận cô con dâu mới. Có lẽ vì điều này nên trong bữa cơm sáng, bà cụ đã nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai để động viên các con: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà…. ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Những câu chuyện mà bà cụ nói đều là những điều tốt đẹp để hy vọng có một tương lai sẽ rộng mở hơn. Đây cũng là mong ước của tất cả mọi người trong thời kỳ khó khăn ấy.
Trong không khí vui vẻ của bữa cơm gia đình, bà cụ “lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. […] vừa khuấy vừa nói: Chè đây! Chè khoán đây!”. Nhưng thực chất đó lại là một nồi cháo cám. Hình ảnh này được xem là một chi tiết đắt giá, nó vừa gợi lên cái nghèo đói cùng cực, vừa cho thấy tình người cao đẹp trong đó. Trong hoàn cảnh là nạn đói năm 1945, nhiều người không có nổi cám mà ăn, thì nồi cháo cám lại được xem là một món ăn cứu đói, là món ăn xa xỉ đối với nhiều người khác. Chính vì thế, mặc dù có chút thất vọng nhưng cả ba người không một ai chê trách. Cả 3 đều rất vui vẻ tiếp nhận nồi cháo cám. Mẹ Tràng thì đon đả khen “ngon đáo để”. Tràng dù cảm thấy nghẹn bứ nơi cổ họng nhưng vẫn cố gắng ăn để mẹ vui lòng. Còn người vợ thì “điềm nhiên và vào miệng”. Chi tiết này cũng cho thấy vợ Tràng đã chấp nhận hoàn cảnh, không còn trở nên đỏng đảnh như trước và thị đã thực sự sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những tháng ngày khó khăn sắp tới. Có được những điều này có lẽ là do cả ba người cùng tin vào một tương lai sẽ tốt đẹp hơn sẽ đến với họ.
Có thể nói rằng, hình ảnh nồi cháo cám đã để lại những ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc. Chi tiết này vừa có giá trị hiện thực lại vừa có giá trị nhân văn, nhân văn sâu sắc. Qua hình ảnh nồi cháo cám, người đọc hiểu hơn về tình cảnh nghèo đói, khốn khó của đồng bào ta trong nạn đói 1945. Tuy nhiên trong hoàn cảnh chết chóc nghèo đó, người ta vẫn thấy được tình người, tình yêu thương và lòng ham sống vô bờ bến. Tưởng chừng trong bờ vực của cái chết lay lắt ấy, người ta chỉ nghĩ đến những đau khổ, bất hạnh, nhưng không, ở hoàn cảnh ấy người đọc vẫn bắt gặp tình thương của một người mẹ dành cho con, tình cảm của người vợ đối với chồng và trách nhiệm của một người chồng đối với gia đình của mình. Tất cả đều cùng hướng đến một tương lai hạnh phúc và no đủ hơn.
Qua bút pháp tả thực cùng mới việc sử dụng những từ ngữ, hình ảnh dân dã và tượng trưng đã góp phần thể hiện sự thành công của tác phẩm. Những tài hoa trong nghệ thuật viết truyện của nhà văn Kim Lân cũng giúp người đọc hiểu và thông cảm cho những con người ở thời kỳ đó. Đồng thời, ta cũng thấy được tình cảm chân thành và tác giả đã dành cho những nhân vật của mình.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 12)
Kim Lân là một nhà văn tài năng và đặc biệt ông bén duyên với những tác phẩm mang tính chất rất giản dị đặc biệt là các tác phẩm về những số phận khó khăn. Tác phẩm “Vợ nhặt” là một trong số những tác phẩm tiêu biểu mà trong đó tác giả đưa ra cho ta những cách nhìn rất chân thực về người nông dân trong cảnh đói nghèo, tù túng. Tác phẩm đã thể hiện rất rõ hai giá trị, giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực rất sâu sắc.
Với tư cách là một nhà văn của nông thôn, Kim Lân là người rất hiểu người nông dân, lại là người trong cuộc của cái nạn đói khủng khiếp này, Vợ nhặt được tái hiện là một bức tranh cô đúc mà đầy đủ, khái quát mà cụ thể, khắc sâu thành ấn tượng rõ nét.
Qua tác phẩm ta có thể thấy bức tranh toàn cảnh về nạn đói khủng khiếp năm 1945 với cảnh người đói "bồng bế, dắt díu nhau xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ", "bóng những người đói dật dờ đi lại lặng lẽ như những bóng ma", và sau đó là "người chết như ngả rạ", "thây nằm còng queo bên đường", "không khí vẩn lên mùi gây của xác người", rồi "mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết theo gió thoảng vào khét lẹt" và "tiếng hờ khóc tỉ tê trong đêm khuya"…như thế cái đói đó đã tràn đến xóm ngụ cư, ùa vào gia đình anh Tràng, bủa vây và đe dọa số phận từng con người, không trừ một ai. Tác phẩm cũng vẽ ra “Bức tranh về số phận những con người trên bờ vực thẳm của nạn đói: "những khuôn mặt hốc hác u tối trong "cuộc sống đói khát", "không nhà nào có ánh đèn, lửa", đến cả trẻ con cũng ngồi ủ rũ dưới những xó đường không buồn nhúc nhích.
Trong gia đình Tràng thì bà cụ Tứ già lão không làm được gì, anh con trai đẩy xe bò thuê để kiếm sống qua ngày, người con dâu "áo quần tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp hẳn đi, hai con mắt trũng hoáy, cái ngực gầy lép nhô hẳn lên"… Số phận của họ có khác gì "cái nhà vắng teo đứng rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” và bữa cơm ngày đói với nồi cháo cám "đắng chát và nghẹn bứ trong cổ"…Vợ nhặt của Kim Lân còn là niềm khát khao tới cháy bỏng với tổ ấm gia đình trọn ven. Niềm khát khao tổ ấm gia đình được thể hiện chân thực và có chiều sâu qua tâm trạng nhân vật Tràng :từ trên bờ vực thẳm của cái chết, họ đã dám khát khao đến tổ ấm gia đình, đến một cuộc sông đích thực và cao đẹp của con người. Cho nên, tuy "chợn" khi nghĩ "thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không, lại còn đèo bòng", nhưng Tràng vẫn "Chậc, kệ!" và dẫn vợ về nhà.
Trong tác phẩm Vợ nhặt “Anh vừa xấu hổ lại vừa tự hào khi đưa vợ đi qua xóm ngụ cư, bởi vì có "một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy" dâng lên "ôm ấp, mơn man khắp da thịt..,"; và nhất là, trong buổi sáng đầu tiên khi có vợ, Tràng thấy cuộc đời mình bỗng nhiên thay đổi hẳn: "Hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng", "một nguồn vui sướng, phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng", "bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này". Đây là đoạn văn đầy cảm hứng nhân đạo với các nhân vật của ông. Chính vì yêu thương chính vì khát khao có một mái ấm gia đình nên con người ta biết quí trọng những thứ xung quanh hơn.
Ở “Vợ Nhặt” giá trị hiện thực tuy chưa rõ nét nhưng đã hiện ra ở cuối truyện trong ý nghĩ của Tràng: "cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi trên đê Sộp. Đằng trước có lá cờ đỏ to lắm". Đoàn người đi phá kho thóc Nhật và lá cờ của Việt Minh. Đây là hiện thực nhưng cũng là ước mơ của những người giống như Tràng.Không những truyện thể hiện giá trị hiện thực mà còn là giá trị nhân đạo sâu sắc. ở đây chúng ta có thể nhận ra tình thương yêu giai cấp, sự cưu mang lẫn nhau của những người nghèo khổ được thể hiện rất cao đẹp và cảm động qua tấm lòng bà cụ Tứ đối với con trai và con dâu.
Vượt lên tình thương con – nhất là đối với người đàn bà lạ bỗng nhiên thành con dâu mới – đó là tình thương yêu giai cấp của những người nghèo khổ. Bà cụ tứ đã gọi thị là "con", tôn trọng thị, nói chuyện thân mật với thị ngay đêm đầu gặp mặt. Và sáng hôm sau, bà cụ tứ cố tạo ra niềm vui cho con trai và con dâu vui. Trong tác phẩm” Chi tiết nồi cháo cám thật cảm động trong bữa cơm ngày đói đón dâu mới. Không chỉ là tấm lòng người mẹ thương con mà trong tình thương ấy còn có cả đức vị tha cao cả.
Truyện kết thúc với một cái kết đầy gợi mở đã tạo cho người đọc những cảm hứng trong tìm tòi và chiêm nghiệm. Dưới ngòi bút tài hoa của tác giả Kim Lân chúng ta có cơ hội đắm chìm trong không gian ấy, và nhận ra những vẻ đẹp của hai giá trị lớn: giá trị hiện thực sâu sắc và giá trị nhân đạo cao cả.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nh
nên nhà văn lớn". Quả thực như vậy, giá trị của một tác phẩm không chỉ được phản ánh thông qua cốt truyện hấp dẫn, nội dung tư tưởng sâu sắc mà còn bởi chính những tình tiết đắt giá được người nghệ sĩ đưa vào trong tác phẩm của mình. Qua những tình tiết nhỏ, người nghệ sĩ gửi gắm vào đó được những giá trị lớn, đó là chủ đề, tư tưởng hay thông điệp cho toàn bộ tác phẩm. Kim Lân trong truyện ngắn Vợ nhặt cũng xây dựng được một tình tiết đắt giá như thế, đó chính là hình ảnh nồi cháo cám của bà cụ Tứ.
Nồi cháo cám xuất hiện trong một hoàn cảnh vô cùng đặc biệt, đó là trong bữa cơm đầu tiên khi gia đình của bà cụ Tứ và anh cu Tràng đón chào cô con dâu mới. Mâm cơm ngày đói cũng thật thê thảm "giữa cái mẹt rách chỉ có độc một lùm rau chuối thái rối và một đĩa muỗi ăn với cháo". Trong khung cảnh sum họp hạnh phúc, cái đói, cái khổ cứ bày ra thực khiến người ta xót xa, nghẹn ngào.
Nồi cháo cám là "món quà cưới" đặc biệt mà bà cụ Tứ chuẩn bị cho các con của mình. Trong bữa cơm, cụ Tứ giới thiệu bằng giọng hồ hởi "Tao có cái này hay lắm cơ" rồi bà "lật đật chạy xuống bếp, lễ bễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút". Nồi cháo cám được bà cụ Tứ gọi với cái tên đầy hấp dẫn "Chè khoán đây, ngon đáo để cơ". Sự xuất hiện của nồi cháo cám trong mâm cơm của gia đình cụ Tứ là hiện thân cho cái đói khát, thê thảm của con người trong nạn đói: phải ăn đến cả đồ ăn vốn không dành cho con người. Thế nhưng qua lời giới thiệu của cụ Tứ, nồi cháo cám như một món ăn gì đấy đặc biệt lắm. Đặt trong bối cảnh khốc liệt của nạn đói, khi con người bị đẩy đến ranh giới mong manh của sự sống và cái chết thì món cháo cám ấy là cả một sự cố gắng mới có được, nó là tấm lòng của người mẹ dành cho con.
Nồi cháo cám không chỉ gợi liên tưởng về hiện thực thê thảm của con người ngày đói, bởi như lời bà cụ Tứ tâm sự với các con thì "Xóm mình có khối người không có cám mà ăn ấy chứ" mà qua đó còn bộc lộ được vẻ đẹp của các nhân vật trong truyện, từ bà cụ Tứ, anh cu Tràng đến người vợ nhặt. Qua việc chuẩn bị "quà cưới" cùng những lời động viên các con trong bữa cơm, bà cụ Tứ đã bộc lộ được tấm lòng thương con sâu sắc. Trong cái đói, bà vẫn quan tâm đến những giá trị tinh thần, việc chuẩn bị nồi cháo cám thể hiện sự trân trọng, yêu thương của bà cụ Tứ với người con dâu mới. Nồi cháo cám ấy trở nên thật đặc biệt không phải bởi giá trị, hương vị của món ăn mà đó là tình yêu thương, tấm lòng bao la của một người mẹ. Đến đây người đọc không khỏi bồi hồi, xúc động bởi trong cái đói cùng cực thì tình yêu của người mẹ dành cho con vẫn không thay đổi, không những thế người mẹ ấy còn gieo niềm tin, hi vọng cho các con về một tương lai tươi sáng "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời".
Anh Tràng cũng có sự thay đổi lớn, không còn là người đàn ông ngờ nghệch, vô tâm thường ngày mà trở nên chín chắn, trưởng thành hơn. Trong bữa cơm ngày đói, khi ăn miếng cám "đắng chát và nghẹn bứ nơi cổ" thì Tràng vẫn tỏ ra điềm tĩnh, cách ứng xử này thể hiện được khéo léo, tế nhị để bữa cơm không bị trùng xuống bởi ám ảnh đói khát. Mặt khác, nhìn vào sự trầm tư của Tràng ta có thể thấy được Tràng hiểu được hoàn cảnh gia đình, bắt đầu ý thức được trách nhiệm của bản thân với vợ, với mẹ và với gia đình nhỏ của mình.
Thông qua chi tiết nồi cháo cám, ta còn thấy được sự thay đổi đáng ngạc nhiên của người vợ nhặt. Không còn là một người đanh đá với những lời nói chao chát, chỏng lỏn như khi còn ở chợ Huyện, khi về làm dâu thị trở nên dịu dàng, rất đúng mực. Thị hết sức ngạc nhiên trước nồi cháo cám, thế nhưng không để mẹ chồng buồn lòng, thị vẫn cố gắng nuốt xuống miếng cháo đáng chát. Để xua đi không khí bữa cơm vừa trùng xuống, Thị đã chủ động kể về câu chuyện phá kho thóc Nhật của người dân mạn Thái Nguyên, Bắc Giang. Có thể thấy người vợ nhặt đã coi bà cụ Tứ và anh Tràng là gia đình, người thân của mình. Mọi hành động, lời nói của Thị đều cố gắng vun vén cho hạnh phúc gia đình và có lẽ Thị cũng đã sẵn sàng cùng gia đình vượt qua những ngày tháng khó khăn sắp tới.
Có thể nói, "nồi cháo cám" là một chi tiết đắt giá trong truyện ngắn Vợ nhặt, nó không chỉ góp phần phát triển nội dung câu chuyện, tái hiện sống động mà cũng đầy xót xa về cuộc sống đói nghèo, túng quẫn của con người trong nạn đói mà còn chứa đựng giá trị nhân văn vô cùng sâu sắc. "Nồi cháo cám" góp phần bộc lộ những nhân cách tốt đẹp bên trong các nhân vật, đó là vẻ đẹp của tình thương, của khát vọng sống và khát khao hạnh phúc. Dẫu đứng bên bờ vực của cái chết thì con người vẫn dành cho nhau những tình cảm tốt đẹp, họ không ngừng hi vọng vào một tương lai tươi sáng.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 14)
Vợ nhặt được xem là truyện ngắn thành công, mang danh tiếng đến cho nhà văn Kim Lân. Truyện tái hiện cuộc sống cùng cực dần đi vào ngõ cụt nhưng không bao giờ bế tắc của người dân sống trong nạn đói 1945. Nhà văn đã khắc họa nên hình ảnh “nồi cháo cám” chống đói của bà cụ Tứ, Tràng và cô vợ nhặt. Chính hình ảnh đắt giá này đã thổi bùng lên nội dung tác phẩm, khiến người đọc hình dung được nạn đói hoành hành. Đồng thời, lột tả hết được tình thương, vị tha của người mẹ đối với những đứa con của mình.
Hình ảnh “nồi cháo cám” không xuất hiện trong một bữa ăn giữa đời thường mà xuất hiện trong chính ngày lễ trọng đại – ngày ra mắt con dâu. Đặc biệt hơn, với tình thương con mãnh liệt, bà cụ Tứ đã rằng “kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo quá, cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này”. Hình ảnh bùng lên giữa nạn đói năm 1945 khiến người ta không tránh khỏi sự nghẹn ngào. Vậy nhưng, có ăn đã là may, ai cũng nén sự xót thương trong lòng cố ăn để chống chọi với nạn đói.
“Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Điều đáng ngạc nhiên hơn rằng bà cụ Tứ không nói về những chuyện buồn xưa cũ, thay vào đó bà kể những câu chuyện vui, những ngày còn lo ấm. Điều này giúp người đọc phần nào thấy được tâm lý của bà cụ, dù đói nhưng biết cách an ủi con. Đồng thời, những câu nói quanh bữa ăn như một khát khao về tương lai tươi sáng của con người.
“Bà lật đật chạy xuống bếp, lễ mễ bưng ra một cái nồi bốc lên nghi ngút. Bà lão đặt cái nồi xuống bên cạnh mẹt cơm, cầm cái môi vừa khuấy vừa nói: Chè khoán đấy, ngon đáo để. Cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ”. Câu nói vừa dứt, sống mũi người đọc ắt hẳn sẽ cay cáy nhưng tại hoàn cảnh này, ba nhân vật trong câu chuyện không một câu chê trách nào. Bởi nồi cháo không chỉ chống đói, mà còn thể hiện sự yêu thương.
“Nồi cháo cám” không chỉ mang ý nghĩa hiện thực khi tái hiện những hình ảnh nghèo khổ đến cùng cực tưởng như không còn lối thoát. Bên cạnh đó, còn mang giá trị nhân văn sâu sắc khi thể hiện được tình thương yêu của người mẹ. Hình ảnh nồi cháo bốc khói trong buổi lễ ra mắt con dâu còn mang đến giá trị nghệ thuật to lớn, kiến câu chuyện thêm phần thú vị.
So sánh bát cháo hành trong "Chí Phèo" và bát cháo cám trong "Vợ nhặt" (mẫu 15)
Kim Lân ( 1920- 2007), tên thật là Nguyễn Văn Tài, quê ở làng Phù Lưu, xã Tân Hồng huyện Từ Sơn. Ông là một nhà văn độc đáo và xuất sắc viết về nông dân của làng quê Việt Nam. Ông có rất nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó tiêu biểu phải kể đến “Vợ nhặt”. Tác phẩm ra đời ngay sau cách mạng tháng tám, viết về thời kỳ xảy ra nạn đói năm 1945. Và trong tác phẩm, Kim Lân đã rất thành công khi đưa hình ảnh “nồi cháo cám” vào tác phẩm, một hình ảnh đầy dụng ý nghệ thuật và giá trị nhân đạo.
Ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã khắc họa rất thành công những nhân vật như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, vợ Tràng, cùng cuộc sống khốn khổ, thê thảm của những con người giữa nạn đói năm 1945. Và để khắc họa rõ nét hình ảnh đó, chi tiết “nồi cháo cám” dường như đẩy mạch truyện lên cao trào, phản ánh thực tại khốn cùng về cái đói khổ, cùng với tình yêu thương và lòng vị tha của người mẹ lên cao nhất. Qua “nồi cháo cám”, người đọc có thể tưởng tượng ra cảnh tượng nạn đói năm 1945 một cách chân thực, rõ nét nhất.
Câu chuyện nhặt được vợ của anh cu Tràng được tác giả khéo léo đưa chi tiết “nồi cháo cám” vào để nói lên nỗi cơ cực, đường cùng của những con người đang phải sống trong nạn đói năm 1945. Và trong hoàn cảnh đó, tình yêu thương bao là của người mẹ cũng hiện lên thật rõ nét. Dù đang lúc đói khổ, thì tình yêu thương đó vẫn luôn âm ỉ cháy trong trái tim của những người mẹ. Hình ảnh “nồi cháo cám” xuất hiện trong một tình huống vô cùng đặc biệt. Không phải trong bữa ăn hàng ngày của một gia đình, mà lại xuất hiện ngay trong buổi sáng của lễ ra mắt cô con dâu mới. Bà cụ Tứ ngượng ngùng nói với cô con dâu” kể ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy nhưng nhà mình nghèo quá , cũng chả ai chấp nhặt gì lúc này.” Sự đói khổ, nghèo hèn khiến con người ta phải nghẹn ngào.
Mâm cơm dành cho nàng dâu mới trong nạn đói thật thê thảm, “giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Cái đói, cái nghèo bao trùm thì ai cũng biết, nhưng họ nén ở trong lòng, cố không bộc lộ ra bên ngoài. Vậy nhưng trong bữa cơm ấy, tâm trạng của cụ Tứ vô cùng phấn khởi, không ủ rũ như mọi ngày. Bà nói rất nhiều chuyện vui, chuyện hay. Diễn biến tâm lý của người đàn bà nghèo khổ có sự thay đổi rõ rệt. Bà tuy nghèo, tuy khổ nhưng lại rất yêu chiều con, kể cả con dâu mới. Có thể thấy, bà cụ Tứ đang nói những lời vô cùng tốt đẹp, về một tương lai tươi sáng của chính gia đình mình, và của cả đất nước.
Rồi bà lật đật chạy xuống bếp, bưng lên nồi cháo cám. Nói với các con rằng: Chè khoán đây, ngon đáo để; cám đấy mày ạ, xóm mình còn có khối người không có cám mà ăn ấy chứ.” Chi tiết này vô cùng đắt giá, gợi lên cái đói, nghèo đến cùng cực. Và dù ăn cháo cám nhưng cả ba người đều ăn rất ngon lành, vui vẻ. Có lẽ vì đây là nồi cháo đong đầy tình yêu thương của người mẹ. Chi tiết này khiến người đọc cảm thấy ấm áp, rằng dù trong hoàn cảnh nào thì tình mẹ vẫn luôn như vậy không bao giờ thay đổi, mẹ luôn hy vọng các con có một tương lai tươi sáng hơn.
Hình ảnh “nồi cháo cám” trong Vợ nhặt vừa có giá trị hiện thực sâu sắc, tái hiện lại cuộc sống con người nghèo khổ đến tận cùng của nạn đói năm 1945. Lại vừa mang giá trị nhân đạo khi nồi cháo cám ấy nói đến hình ảnh người mẹ với một sự đáng trân trọng và đầy yêu thương.
Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:
Phân tích giá trị hiện thực truyện ngắn "Vợ chồng A Phủ"
Tâm trạng và hành động của nhân vật Mị trong đêm cứu A Phủ trong "Vợ chồng A Phủ" của Tô Hoài
Phân tích giá trị hiện thực trong truyện ngắn "Vợ nhặt" của Kim Lân
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 12 (sách mới) | Giải bài tập Hóa 12
- Lý thuyết Hóa học 12
- Giải sbt Hóa học 12
- Các dạng bài tập Hoá học lớp 12
- Giáo án Hóa học lớp 12 mới nhất
- Giải sgk Toán 12 (sách mới) | Giải bài tập Toán 12 Tập 1, Tập 2
- Các dạng bài tập Toán lớp 12
- Lý thuyết Toán 12
- Chuyên đề Toán lớp 12 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 12 mới nhất
- Giáo án Toán lớp 12 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 12 (sách mới) | Giải bài tập Sinh học 12
- Lý thuyết Sinh học 12 | Kiến thức trọng tâm Sinh 12
- Giải sgk Địa Lí 12 (sách mới) | Giải bài tập Địa lí 12
- Lý thuyết Địa Lí 12
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 12
- Giải sgk Vật Lí 12 (sách mới) | Giải bài tập Vật lí 12
- Giải sbt Vật Lí 12
- Lý thuyết Vật Lí 12
- Các dạng bài tập Vật lí lớp 12
- Giáo án Vật lí lớp 12 mới nhất
- Giải sgk Lịch sử 12 (sách mới) | Giải bài tập Lịch sử 12
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 12
- Lý thuyết Lịch sử 12
- Giải sgk Giáo dục công dân 12
- Lý thuyết Giáo dục công dân 12
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 12 (sách mới) | Giải bài tập GDQP 12
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 12 | Kiến thức trọng tâm GDQP 12
- Lý thuyết Tin học 12
- Lý thuyết Công nghệ 12