TOP 10 mẫu Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (2024) SIÊU HAY

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh lớp 12 gồm dàn ý và 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 3,573 18/12/2023
Tải về


Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Tuyên ngôn độc lập

Dàn ý Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh

1. Mở bài

Giới thiệu về tác phẩm và tác giả Hồ Chí Minh

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh ra đời của Tuyên ngôn độc lập:

+ Được viết khi Bác Hồ từ Việt Bắc trở về ngôi nhà tại số 48 Hàng Ngang Hà Nội ngày 26/8/145, sau khi quân ta làm chủ Hà Nội ngày 19/8/1945.

+ Ngày 2/9/1945, Bác Hồ đứng trước hàng triệu người Việt Nam tại quảng trường Ba Đình, đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Ý nghĩa:

+ Tuyên ngôn độc lập đã tuyên bố với cả thế giới sự ra đời của nhà nước Việt Nam, độc lập, có chủ quyền.

+ Tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật, xóa bỏ quyền lợi của Pháp tại Việt Nam.

+ Khẳng định lòng quyết tâm của dân tộc ta quyết bảo vệ Tổ quốc tới cùng

=> Tuyên ngôn độc lập được viết bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của Hồ Chí Minh, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận của Người.

b. Phong cách nghệ thuật trong văn chính luận của Người:

- Người thể hiện lối viết văn ngắn gọn, cực kì dễ hiểu:

+ Bản Tuyên ngôn chỉ dài chưa đầy hai mặt giấy, với 1010 chữ, 49 câu nhưng đầy đủ nội dung, từ cơ sở pháp lý để khẳng định quyền độc lập dân tộc của Việt Nam.

+ Nội dung cô đọng trong từng câu chữ, toàn bộ lịch sử Việt Nam dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phát xít Nhật hơn tám mươi năm được đúc kết trong 622 chữ.

+ Bác dùng 186 chữ để khẳng định quyền độc lập, tự do của Việt Nam, dựa trên những cơ sở pháp lý quốc tế, qua hai bản Tuyên ngôn độc lập của Pháp và Mỹ.

+ 58 chữ, Bác dùng để xóa gọn những ràng buộc của Pháp với ta mà Pháp đã tạo dựng ngót một thế kỷ.

+ 144 chữ Bác dùng để khẳng định sức mạnh ý chí, tinh thần của dân tộc Việt Nam, tương lai của Tổ quốc Việt Nam.

=> Mỗi vấn đề Người đều thể hiện hết sức ngắn gọn, hết sức dễ hiểu và giản dị, bằng những bằng chứng không thể chối cãi.

- Ngôn ngữ Người dùng vô cùng đơn giản, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nghe:

- Lập luận trong Tuyên ngôn độc lập vô cùng chặt chẽ, thuyết phục người nghe:

+ Về quyền độc lập của dân tộc, Bác dẫn ra những lời trích của hai bản Tuyên ngôn của hai đất nước văn minh là Pháp và Mỹ để chứng minh cho luận điểm của mình

+ Về tội ác của giặc, Bác đưa ra cụ thể tội ác tàn bạo của chúng trong từng khía cạnh và nhấn mạnh hậu quả mà chúng để lại.

=> Bằng ngòi bút lập luận cực kì sắc sảo của mình, Hồ chí Minh đã đanh thép buộc tội kẻ thù và sự thành công của Cách mạng tháng Tám chỉ với chín chữ "Pháp chạy ...thoái vị", khai sinh ra một đất nước mới: nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.

+ Cuối bản Tuyên ngôn, Người dùng băn câu để khẳng định lòng yêu nước, sự quyết tâm của cả dân tộc Việt Nam bảo vệ nền độc lập chủ quyền.

- Ngoài ra, Người còn thể hiện phong cách ở sự đa dạng về bút pháp khi viết Tuyên ngôn độc lập.

c. Kết luận chung:

- Ngòi bút chính luận của Hồ Chí Minh hết sức đặc sắc, có phong cách rất riêng.

3. Kết bài

Khẳng định lại vấn đề.

Bài giảng Ngữ văn 12 Tuyên ngôn độc lập

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 1)

Phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh rất độc đáo, phong phú và đa dạng về ngôn ngữ, về giọng văn, về thể loại, về sắc thái biểu cảm. Một cây bút uyên bác, tài hoa sử dụng tiếng Pháp, chữ Hán và tiếng Việt để sáng tác thơ ca, truyện kí, văn chính luận; ở phương diện nào, thể loại nào, Người cũng thu được những thành tựu đặc sắc. Một lối viết ngắn gọn, đầy ấn tượng: Người hay dùng thơ tứ tuyệt; Tuyên ngôn độc lập chỉ có khoảng 1000 chữ, Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến chỉ có 196 chữ,...

Lối kể chuyện ở truyện kí rất biến hóa; biến hóa về tình tiết, sự việc, biến hóa về giọng văn dí dỏm, hài hước, vừa thâm trầm, vừa sâu cay. Cái cử chỉ khinh bỉ của Phan Bội Châu đối với Va-ren, lối vi hành của vua bù nhìn Khải Định mãi mãi là "bia miệng" ở đời!

Thơ ca để tuyên truyền, vận động cách mạng được Người viết bằng thơ năm chữ, thơ lục bát rất bình dị, dễ hiểu, đi sâu vào lòng người. Có khi Bác dùng hình thức diễn ca lịch sử, lại có lúc Bác dùng hình thức ngụ ngôn, ẩn dụ để khêu gợi đồng bào đoàn kết, vùng lên đánh Pháp, đuổi Nhật (Ca sợi chỉ, Hòn đá to, Con cáo và tổ ong, Nhóm lửa, Trẻ chăn trâu, Chơi trăng...).

Lửa cách mạng sáng choang bờ cõi

Chiếu lên cờ độc lập, độc do!

Nhóm lửa

(Ngày 1 tháng 8 năm 1942)

Có lúc, Người dùng hình thức chơi chữ để châm biếm, khinh bỉ. Pê-tanh là thống chế, là tổng thống Pháp đã quỵ gối đầu hàng phát xít Đức một cách nhục nhã:

Bán nước lại còn khoe cứu nước

Ô danh mà muốn được thơm danh.

Già mà như chú, già mà thêm dại,

Tiếng xấu muôn đời nhuốc sử xanh.

Tặng thống chế Pê – tanh

(Ngày 11 tháng 7 năm 1942)

Người gọi Toàn quyền Đờ - cu là "chú", một kẻ hèn hạ chỉ biết "đội khu", bê đít phát xít Nhật:

Đối dân Việt Nam thì lên mặt,

Gặp bọn Phù Tang chí đội khu

(...)

Cũng như thống chế Pê – tanh vậy,

Chú cứ cu cù được mãi ru!

Tặng toàn quyền Đờ - cu

(Ngày 11 tháng 8 năm 1942)

Thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh mang vẻ đẹp trữ tình, hàm súc, cổ điển. Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi sông... đều là tâm hồn của Bác, lúc thì san sẻ nỗi đau buồn với nhà thơ đang bị cùm trói trong ngục tối; lúc thì đang đồng hành, đang tâm tình với người chiến sĩ trên dặm đường khói lửa trường chinh. Thiên nhiên trở thành tri âm, tri kỉ của Bác. Người tả ít mà gợi nhiều. Ngoại cảnh và hồn người đồng điệu, nhiều thơ mộng thanh cao:

Hoa hương thấu nhập lung môn lí,

Hướng lung nhân tố bất bình.

(Hương hoa bay thấu vào trong ngục,

Kể với tù nhân nỗi bất bình)

Văn cảnh (Cảnh chiều hôm)

Sơn lâu chung hưởng kinh thu mộng,

Chính thị Liên khu báo tiệp thì.

(Chuông lầu chợt tỉnh giấc

Ấy tin thắng trận Liên khu báo về)

Báo tiệp (Tin thắng trận)

Văn chính luận của Hồ Chí Minh thể hiện một phong cách đa dạng, đặc sắc, độc đáo. Những số liệu, những nhân chứng được nói tới trong "Bản án chế độ thực dân Pháp" là sự thật lịch sử mà kẻ thù của dân tộc ta không thể nào chối cãi! "Tuyên ngôn độc lập", "Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến", "Không có gì quý hơn độc lập tự do",... là những bài hịch, bài cáo trong thời đại Hồ Chí Minh; những văn kiện lịch sử trọng đại ấy đã thể hiện khát vọng độc lập, tự do và khí phách anh hùng của đất nước và con người Việt Nam. Giọng văn đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn vang lên như tiếng gọi tha thiết của non sông:

"Hỡi đồng bào!

Chúng ta phải đứng lên!

Bất kì đàn ông, đàn bà, bất kì người già, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp, cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không gươm dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước".

Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến

(Hà Nội, ngày 19 tháng 12 năm 1946)

Sự độc đáo trong phong cách nghệ thuật chính luận của Hồ Chí Minh là sự đan xen vào văn bản những vần thơ, tạo nên chất trữ tình đằm thắm, thiết tha, có sức lôi cuốn mạnh mẽ:

Trung thu trăng sáng như gương,

Bác Hồ ngắm cảnh nhớ thương nhi đồng.

Thư Trung thu gửi các cháu nhi đồng

(Ngày 13 tháng 9 năm 1951)

Nơi tuy châu chấu đấu voi

Nhưng mai voi sẽ bị lòi ruột ra

(Báo cáo chính trị

tại Đại hội đại biểu lần thứ hai của Đảng Lao động Việt Nam - ngày 11/2/1951)

Việt - Lào hai nước chúng ta,

Tình sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long.

(Tình hữu nghị Việt- Lào)

Tóm lại, văn thơ Hồ Chí Minh là di sản tinh thần, văn hóa vô cùng to lớn mà Người đã để lại cho đất nước ta, nhân dân ta.

Chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam tỏa sáng lấp lánh trong thơ văn Hồ Chí Minh, mãi mãi là bài học xây dựng đất nước, bài học chiến đấu bảo vệ Tổ quốc đối với mọi thế hệ con người Việt Nam trên hành trình vẻ vang đi tới tương lai.

Văn chương Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát huy cao độ mọi tinh hoa của nền văn hiến Đại Việt, đã kết hợp một cách tinh tế, hài hòa, sâu sắc mối quan hệ giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa chính trị và văn học, giữa truyền thống và hiện đại.

"Hãy hát lên bài ca về Người".

Thơ văn Hồ Chí Minh là hành trang, là niềm tự hào của nhân dân Việt Nam, của tuổi trẻ Việt Nam, hôm nay và ngày mai.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 2)

Hồ Chí Minh coi văn học nghệ thuật là vũ khí chiến đấu lợi hại, phụng sự cho sự nghiệp cách mạng. Nhà văn – chiến sĩ “Văn hóa nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt trận ấy”

“Nay ở trong thơ nên có thép

Nhà thơ cũng phải biết xung phong”

(Cảm tưởng đọc “Thiên gia thi”)

Hồ Chí Minh luôn coi trọng tính chân thật và tính dân tộc của văn học. Phải miêu tả cho hay, cho chân thật và cho hùng hồn hiện thực phong phú của đời sống cách mạng và phải giữ gìn tình cảm chân thật, chú ý phát huy cốt cách dân tộc. Về nghệ thuật, Người có ý thức giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, viết giản dị, dễ hiểu, không cầu kì, xa lạ, nhưng phải đề cao tính sáng tạo của người nghệ sĩ.

Khi cầm bút, Hồ Chí Minh bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để quy định nội dung và hình thức tác phẩm: “Viết cho ai?”, “Viết để làm gì?”, “Viết cái gì?”, “Viết như thế nào?”. Người đã vận dụng phương châm đó theo nhiều cách khác nhau, vì thế những tác phẩm của Người chẳng những có tư tưởng sâu sắc, nội dung thiết thực mà còn có hình thức nghệ thuật sinh động, đa dạng. Ở mỗi thể loại, Hồ Chí Minh luôn tạo ra những nét phong cách riêng, độc đáo, và hấp dẫn.

Với thể loại chính luận: Người viết ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, bằng chứng đầu thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. Là văn chính luận nhưng thấm đượm tình cảm, cảm xúc và giàu hình ảnh. Giọng điệu đa dạng khi ôn tồn, tha thiết, thấu tình đạt lí, khi đanh thép, mạnh mẽ hùng hồn.

Truyện và kí rất hiện đại. Thể hiện tính chất mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén. Tiếng cười trào phúng tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Còn thơ ca rất sâu sắc, tinh tế, thể hiện vẻ đẹp tâm hồn. Có những bài thơ mang phong cách giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian nhằm mục đích truyền bá cách mạng, lại có những bài viết theo cảm hứng thẩm mỹ, phong cách phương Đông cổ điển kết hợp với bút pháp hiện đại.

Nhìn chung, phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất phong phú, đa dạng và thống nhất, thể hiên sự hài hòa của người cầm bút.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 3)

“Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: “Viết nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết thế nào?”. Đối tượng của “Tuyên ngôn Độc lập” không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là để nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu tái chiến Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.

Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội, một mũi tên mà bắn trúng hai đích: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học”. Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.

Lối viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị”. Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác, gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng, có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kì xúc động: “Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Cách dùng từ ngữ, nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác vừa đanh thép: “thẳng tay chém giết…”, “thoát li hẳn…”, “xóa bỏ hết…”, “xóa bỏ tất cả…”. Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ điệp ngữ,cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp… tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng:

“Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp 80 năm nay, tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”

Hồ Chí Minh đã viết “Tuyên ngôn Độc lập” vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập” là “những giờ phút sảng khoái nhất” của Người.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã kế thừa và phát triển bài thơ “Thần” của Lý Thường Kiệt, “Bình Ngô đai cáo” của Nguyễn Trãi. Đó là bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh, nói lên khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam anh hùng. Với giá trị lịch sử to lớn, với lập luận chạt chẽ, sắc bén đanh thép, hùng hồn, bản “Tuyên ngôn Độc lập” là một nét chói lọi góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam. Trong cuốn hồi kí “Những năm tháng không thể nào quên”, Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết:

“Bản án chế độ thực dân Pháp” đã có từ 30 năm trước đây. Nhưng hôm naymới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỉ nguyên mới bắt đầu: Kỉ nguyên Độc tập, Tự do, Hạnh phúc… Cả dân tộc đã hồi sinh. Vô vàn khó khăn còn phía trước mắt. Nhưng đối với bọn đế quốc, muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ dàng như xưa”.

“Tuyên ngôn Độc lập” là thành quả chiến đấu trong suốt 80 năm của nhân dân ta, là sự kết tinh bằng máu của hàng triệu con người Việt Nam:

“Tự do đã nở hoa hồng,

Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam”.

(Tố Hữu)

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 4)

"Tuyên ngôn Độc lập" đã thể hiện một cách cao đẹp và sáng tỏ phong cách chính luận của Hồ Chí Minh. Bác viết văn làm thơ là để phục vụ cách mạng. Trước lúc cầm bút, Người tự hỏi: "Viết nhằm mục đích gì? Viết cho ai? Viết về vấn đề gì? Viết thế nào?". Đối tượng của "Tuyên ngôn Độc lập" không chỉ nói với nhân dân Việt Nam mà còn để nói với thế giới, đặc biệt là để nói với bọn đế quốc, thực dân đang âm mưu tái chiến Việt Nam. Mọi lí lẽ, luận cứ đều tập trung hướng về những đối tượng ấy và khẳng định quyền độc lập, tự do của nhân dân ta.

Những luận cứ được Hồ Chủ tịch nêu lên trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" là những bằng chứng không thể chối cãi được. Chỉ một lời vạch tội, một mũi tên mà bắn trúng hai đích: "Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học". Đó là chính sách đàn áp khủng bố và ngu dân của thực dân Pháp.

Lối viết ngắn gọn, hàm súc, đầy thuyết phục. Chỉ một câu 9 từ mà nêu bật một cục diện chính trị: "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị". Cách dùng từ ngữ của Bác rất chính xác, gợi cảm. Văn chính luận, bản chất của nó là lí lẽ và cách lập luận. Thế nhưng, có lúc xuất hiện những hình ảnh cực kì xúc động: "Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu". Cách dùng từ ngữ, nhất là động từ, trạng ngữ vừa chính xác vừa đanh thép: "thẳng tay chém giết...", "thoát li hẳn...", "xóa bỏ hết...", "xóa bỏ tất cả...". Văn phong của Bác rất nhuần nhị, uyển chuyển trong cách sử dụng điệp từ điệp ngữ, cấu trúc cân xứng, trùng điệp, tăng cấp... tạo nên những câu văn đẹp, ý tưởng sâu sắc, đầy ấn tượng:

"Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp 80 năm nay, tộc đã gan góc đứng về phe Đồng minh chống phát mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!"

Hồ Chí Minh đã viết "Tuyên ngôn Độc lập" vào hạ tuần tháng Tám năm 1945, tại căn nhà số 48 phố Hàng Ngang, Hà Nội, ngay sau ngày Người từ chiến khu Việt Bắc về tới thủ đô (26-8-1945). Hồ Chí Minh đã có lần nói, suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, chỉ có lúc soạn thảo "Tuyên ngôn Độc lập" là "những giờ phút sảng khoái nhất" của Người.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã kế thừa và phát triển bài thơ "thần" của Lý Thường Kiệt, "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi. Đó là bản anh hùng ca của thời đại Hồ Chí Minh, nói lên khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam anh hùng. Với giá trị lịch sử to lớn, với lập luận chặt chẽ, sắc bén đanh thép, hùng hồn, bản "Tuyên ngôn Độc lập" là một nét chói lọi góp phần làm rạng rỡ nền văn hiến Việt Nam. Trong cuốn hồi kí "Những năm tháng không thể nào quên", Đại tướng Võ Nguyên Giáp có viết:

"Bản án chế độ thực dân Pháp" đã có từ 30 năm trước đây. Nhưng hôm nay mới chính là ngày chế độ thực dân Pháp bị đưa ra cho toàn dân Việt Nam công khai xét xử. Lịch sử đã sang trang. Một kỉ nguyên mới bắt đầu: Kỉ nguyên Độc lập, Tự do, Hạnh phúc... Cả dân tộc đã hồi sinh. Vô vàn khó khăn còn phía trước mắt. Nhưng đối với bọn đế quốc, muốn phục hồi lại thiên đàng đã mất, mọi việc cũng không còn dễ dàng như xưa".

"Tuyên ngôn Độc lập" là thành quả chiến đấu trong suốt 80 năm của nhân dân ta, là sự kết tinh bằng máu của hàng triệu con người Việt Nam:

"Tự do đã nở hoa hồng,

Trong dòng máu đỏ, trên đồng Việt Nam".

Hồ Chí Minh một vị lãnh tụ thiên tài của đất nước Việt Nam, cả cuộc đời của Người đều lo cho dân cho nước, và có nhiều những tác phẩm của Người đã để lại cho dân tộc những giá trị sâu sắc và điều đó đã được đúc kết và thấu hiểu qua phong cách nghệ thuật độc đáo.

Nghệ thuật trong cách sáng tác của Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, cả cuộc đời của Người luôn luôn xác định được lối viết đúng, khi viết ông luôn xác định viết cái gì, viết như thế nào, viết phải chân thực, phải mang những giá trị cao quý, người cầm bút chính là những người chiến sĩ ngoài mặt trận. Văn chương là thể loại phong phú và có giá trị to lớn đối với mỗi con người, chúng ta cần phải học hỏi những kinh nghiệm sống và giá trị tốt đẹp từ phong cách của Hồ Chí Minh. Qua các tác phẩm chính của Người chúng ta thấy được một con người luôn sống và viết, cuộc đời của Người phải trải qua rất nhiều những cực khổ và trải nghiệm đó đã mang lại cho Người nhiều điều ý nghĩa và giá trị nhất. Những tác phẩm của Hồ Chí Minh mang đậm giá trị hiện thực và nó phản ánh được những năm tháng cực khổ khi bị thực dân, đế quốc xâm lược.

Trong thơ của Hồ Chí Minh cũng độc đáo và vô cùng hấp dẫn, sự nghiệp sáng tác của ông vô cùng đa dạng và hấp dẫn người đọc, mỗi thể loại đều mang những dấu ấn riêng và vô cùng độc đáo nó đã tạo nên một phong cách riêng biệt và độc đáo trong phong cách của người, mỗi bài đều rất súc tích và vô cùng chặt chẽ, ngôn ngữ mà ông sử dụng cũng rất đanh thép và hào hùng, nó mang nhiều giá trị to lớn ngay cả về mặt hình thức và nội dung, những tác phẩm của ông đã có giá trị tới muôn vàn người trong xã hội. Hồ Chí Minh có tập thơ Nhật kí trong tù cũng vô cùng đa dạng và phong phú, mỗi tác phẩm viết lên đều mang những cung bậc riêng và vô cùng độc đáo, nó giàu cảm xúc và biểu tượng cho một con người giàu chất suy tư và trải nghiệm trong cuộc sống, mỗi một tác phẩm để lại những dấu ấn riêng và vô cùng độc đáo, mỗi bài là những cung bậc cảm xúc mạnh mẽ và vô cùng to lớn, khi tác giả đã dùng chính tài năng và nghệ thuật của mình để viết lên. Không chỉ trong lĩnh vực thơ Hồ Chí Minh còn nổi bật trong cả thể loại văn chính luận nó giàu giá trị và đậm đà, mỗi hình ảnh đều có giá trị chung hướng tới nhân loại. Cuộc đời của Người chỉ dành cho dân cho nước, một người biết ống và phục vụ vì lợi ích của dân tộc, đặt lợi ích của dân tộc lên hàng đầu.

Trong các thể loại mà Hồ Chí Minh viết có văn chính luận đậm đà hình ảnh và ngôn ngữ vô cùng mạnh mẽ, nó đanh thép và thấu tình đạt lý, thu hút sự chú ý của đọc giả, ngoài những tác phẩm mang tính chính luận sâu sắc thì cũng có những bài mang những giọng điệu châm biếm chua cay nhưng vô cùng thâm túy, nó đã để lại những cảm xúc riêng và vô cùng mạnh mẽ đối với con người, mỗi người chúng ta nên học hỏi và phát triển điều đó theo những bản năng vốn có và phát triển những giá trị tốt đẹp học hỏi từ vị lãnh tụ thiên tài, trong các tập truyện của Người cũng có rất nhiều bài có giá trị và để lại nhiều ảnh hưởng về sau, thế hệ tiếp nối đã và đang học hỏi được những phong cách độc đáo và giàu giá trị nhất cho mỗi con người, chúng ta nên tiếp thu và phát triển được điều đó, với một tâm hồn trong sáng và giàu cảm xúc mỗi tác phẩm của người cũng để lại những cảm xúc riêng, đối với thơ ca đây là thể loại có thể nói là vô cùng phát triển của con người, nó mang đậm những giá trị và cả vẻ đẹp tinh tế của ngôn từ.

Các tác phẩm của Hồ Chí Minh đều có những đặc điểm chung đó là hướng tới nhân dân, hướng tới cách mạng, những tác phẩm đã phản ánh sâu sắc được thời cuộc lúc bấy giờ, và những cảm xúc mang đậm nhiều cảm xúc đối với con người, mỗi lời thơ đều vô cùng giản dị không hề được trau chuốt mà những lời thơ viết ra nó giản dị đến vô ngần, và mang nhiều giá trị cổ điển. Ngôn ngữ mộc mạc với lời thơ không chau chuốt đó là những phong cách nổi bật của Hồ Chí Minh, với những lời thơ mang đậm chất tình, và cả những nỗi nhớ mong mang nhiều cung bậc to lớn đã để lại nhiều giá trị tốt đẹp nhất cho con người, mỗi chúng ta đều có thể nhìn thấy điều đó qua cung bậc riêng và giàu giá trị nhất định. Sự tài hoa của người còn được thể hiện qua việc kết hợp các yêu tố cổ điển với yếu tố hiện đại, chúng ta có thể nhìn điều đó qua tác phẩm Chiều tối của Hồ Chí Minh.

Mỗi tác phẩm đều mang đậm phong cách riêng và vô cùng độc đáo của Hồ Chí Minh nó không chỉ đem lại nhiều giá trị nhất cho nhân loại mà còn để cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú và giàu cảm xúc nhất, với ngôn ngữ giản dị, trong sáng và cũng vô cùng đanh thép nên để lại nhiều dấu ấn trong nền văn học Việt Nam, mỗi tác phẩm là những sáng tác riêng và vô cùng độc đáo dành cho mỗi con người, không chỉ cho dân tộc hôm nay, mà nó còn ở lại với người đọc đương thời trong những thời gian xa hơn, và các tác phẩm đó sẽ mãi sống với nhân loại và cuộc sống của mỗi người là mang đậm giá trị hạnh phúc và tự hào về một đất nước có truyền thống phong phú và những con người tài năng.

Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân loại những giá trị cao quý và những tác phẩm có giá trị. Với phong cách độc đáo và riêng biệt Hồ Chí Minh đã để lại tên tuổi của mình trong nền văn học Việt Nam. Các thể loại mà ông đóng góp đã mang tiếng vang lớn, thể loại chính luận như những bài luật đường mà giá trị của nó vừa mang tính triết lý sâu sắc và thấu tình đạt lý, mỗi bài đều để lại những giá trị riêng và mang đậm ý nghĩa sáng tạo sâu sắc. Người luôn luôn hòa mình vào các tác phẩm của mình để từ đó những sáng tác của Người đều rung lên những cung điệu riêng nhưng đều mang đậm chất triết lý và giàu chất suy tưởng, mỗi lời thơ và văn của Hồ Chí Minh đã để lại cho nhân loại nhiều giá trị, nó không chỉ mang những ngôn ngữ dễ hiểu dễ nghe mà còn đậm chất dân tộc. Hồ Chí Minh đã vận dụng tốt những điều mà ông học tập được của nhân loại cho chính bản thân mình.

Những tinh hoa của Hồ Chí Minh đã được đúc kết mạnh mẽ trong các tác phẩm của Người, nó không chỉ được sử dụng rộng rãi mà còn trở thành một phong cách riêng độc đáo và vô cùng ý nghĩa đối với mỗi con người, hình ảnh thơ mang đậm cảm xúc, với những tính chất cổ điển được lồng ghép vào trong thơ làm cho nó mang đậm những giá trị cổ xưa và những hình ảnh mang những tính thống nhất chung giữa người đọc và người viết. Nội dung của các tác phẩm cũng vô cùng phong phú và đậm đà, mỗi tác phẩm để lại những cung bậc riêng và giàu giá trị nhất định, nội dung đã hàm chứa trong đó rất nhiều cảm xúc và những phong cách riêng của Hồ Chí Minh, những tác phẩm đậm giá trị và nhiều những cảm xúc khó diễn tả khi phong cách của người đã dư âm của những tinh hoa và hạnh phúc của nhân loại.

Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất đậm nét trong các tác phẩm đó là những điều vô cùng đáng quý và để lại những giá trị vô cùng to lớn và sâu sắc cho kho tàng dân ca Việt Nam, những động lực đó sẽ làm nên những giá trị cốt lõi cho cuộc sống này, những tinh hoa đó sẽ được nhân loại công nhận và học hỏi, nền văn học Việt Nam sẽ ngày càng phát triển mạnh mẽ và có nhiều ưu thế sẽ sánh vai với cường quốc năm châu trong nhân loại.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 5)

Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của phong trào nhân dân đồng thời cũng là nhà thơ lớn góp phần làm cho nền văn học Việt Nam thêm phong phú, những bài thơ của Người đa dạng về hình thức và đặc sắc về phong cách nghệ thuật. Bài thơ “Chiều tối” nằm trong tập thơ “Nhật kí trong tù”, đây là là tập thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Bài thơ sáng tác trong thời gian Bác bị giam cầm đầy ải tại các nhà lao thuộc tỉnh Quảng Tây Trung Quốc. Bài thơ đã phản ánh sự thối nát của chế độ cai trị của Tưởng Giới Thạch. Qua bài thơ, tác giả cũng cho ta hiểu hơn về hình ảnh người chiến sĩ cộng sản vĩ đại có tình yêu thương bao la.

Hai câu thơ đầu cho người đọc thấy một bức tranh thiên nhiên núi rừng Quảng Tây trong một buổi chiều.

“Quyển điểm quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”

Dịch thơ:

“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”

Tâm điểm của bức tranh thiên nhiên là cánh chim về rừng và áng mây cô lẻ, bằng bút pháp chấm phá Bác đã giúp người đọc hình dung ra một bức tranh thiên nhiên hùng vĩ có bầu trời trong xanh bất tận, có núi rừng trùng trùng điệp điệp thiên nhiênhùng vĩ yên ả, thanh bình. Hai câu thơ mang đậm chất cổ điển của một bài thơ Đường.

Hình ảnh cánh chim chiều đã từng gặp nhiều trong thơ ca cổ điển phương Đông và mỗi lần cánh chim chiều xuất hiện,lại mang một ý nghĩa về không gian và thời gian. Nó gợi lên khung cảnh bầu trời vào thời khắc chiều tối như Nguyễn Du đã viết “Chim hôm thoi thóp về rừng”. Cánh chim chiều trong thơ của Bác cũng vậy nhưng cái hay, cái đặc sắc ở trong nghê thuật biểu hiện ở chữ “mỏi” nếu “chim bay” mới chỉ trạng thái bên ngoài thì “chim mỏi” là sự cảm nhận rất sâu ở trạng thái bên trong sự vật có nghĩa là từ điểm nhìn rất xa Bác vẫn có thể cảm nhận được sự mệt mỏi bên trong của cánh chim bay về tổ, quả thật Bác là người có cái nhìn tinh tế, có trái tim giao hòa đồng cảm mới có thể phát hiện được sự vất vả mệt mỏi của cánh chim. Trên bầu trời, Người cũng cảm nhận được có sự tương đồng giữa người và cảnh quan, chữ “mỏi” cũng dễ hiểu vì sau một ngày làm việc vất vả mỏi mệt là chuyện đương nhiên. Người tù cũng vậy, sau một ngày chuyển lao đi bộ đường rừng xiềng xích thay cho dây trói thì cũng chẳng giấu được mệt mỏi, cánh chim còn có sự tự do của nó còn có chỗ để về, còn Bác đang phải ở nơi đất khách quê người không biết đâu là điểm dừng. Bút pháp tả cảnh ngụ tình phát huy cao độ giúp ta cảm nhận rõ ràng tâm trạng của Bác gửi vào cánh chim chiều.

Hình ảnh áng mây trên trời trong thơ ca cổ điển phương Đông gợi sự vĩnh hằng “Ngàn năm mây trắng bây giờ còn bay” “Hoàng Hạc lâu” khi lại mang tâm sự nỗi niềm của người trước thời thế. Từ “cô vân”khơi gợi cho người đọc liên tưởng tới hình ảnh người tù đang ở nơi đất khách quê người. Từ “mạn mạn” là điệu bay chầm chậm lửng lơ của áng mây trên trời lại giúp người đọc hình dung tư thế của nhân vật trữ tình đang ngẩng cao đầu thong thả, nhàn nhã ngắm nhìn áng mây trôi đã cho thấy phong thái ung dung tự tại, ý chí nghị lực của người cộng sản.Như vậy, trong hai câu thơ đầu, qua hai bút pháp chấm phá và tả cảnh ngụ tình, người đọc không chỉ được chiêm ngưỡng bức tranh thiên nhiên núi rừng mà còn hiểu hơn tình yêu thiên nhiên núi rừng, tâm hồn tinh tế nhạy cảm và phẩm chất thép của Người.

Nếu như ở hai câu thơ đầu, Bác đã sử dụng bút pháp cổ điển, thì đến haicâu thơ cuối lại mang dáng vẻ của sự hiện đại.

Phiên âm:

“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng”

Dịch thơ:

“Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết, lò than đã rực hồng”

Sự mới mẻ hiện lên qua hình ảnh của con người lao động, trong thơ ca cổ điển người lao động hiện lên chỉ là ngư, tiều, canh, mục và trong tự nhiên, con người nhỏ bé bị thiên nhiên lấn áp. Còn trong thơ Bác, con người được miêu tả cận cảnh hiện lên sự giản dị trong công việc lao động thường ngày đó là xay ngô, vừa là trung tâm của bức tranh chiều tối không hề bị thiên nhiên lấn áp mà ngược lại người lao động đã đem lại một luồng sinh khí mới làm cho bức tranh trở nên xôn xao hơn.

Xét về ngôn ngữ và giọng điệu, câu thơ nguyên tác chữ Hán có giọng điệu trang trọng nâng niu, thể hiện sự trân trọng của Bác đối với người lao động ở vùng quê. Bác đã hòa mình với thiên nhiên với con người nơi đây, đây chính là nét đẹp của chiều sâu tâm hồn Bác mà người đọc cảm nhận được. Tình cảm của Bác không chỉ dành cho nhân dân Việt Nam mà còn cho người dân các nước trên thế giới.

Từ “thiếu nữ” trong nguyên tác thể hiện sự trẻ trung, khỏe khoắn, hăng say lao động vẻ đẹp giản dị của cô gái xay ngô tối, có câu nói “Bình thường là cái chết của nghệ thuật” quả thật đúng. Cái hay của 2 câu thơ là ở điệp liên hoàn “ma bao túc” và “bao túc mà hoàn”, gợi vòng quay nhịp nhàng của cối xay ngô. Chi tiết này cho người đọc thấy được sự chăm chỉ của người lao động và giúp ta cảm nhận được bước đi của thời gian từ chiều tối đến đêm. Trong nguyên tác còn có cái hay ở chỗ Bác không viết tối mà để cho người đọc tự cảm nhận sự thay đổi của thời gian đó là nhờ “lò than đã rực hồng”.

Màn đêm buông xuống là sự ảm đạm nhưng trong thơ thì không, chữ “hồng” đã đánh bay tất cả sự ảm đạm đó bằng thứ ánh sáng ấm áp từ bếp lò. Chữ “hồng” là chữ thứ 28 trong bài thơ, theo thi pháp đây chính là “nhãn tự” (con mắt chữ) của bài thơ. Khi chữ “hồng” xuất hiện, đã xua tan cái lạnh giá, u ám và thay vào đó là sự ấm áp và sưởi ấm lòng người. Bài thơ dùng phương thức cổ điển nhưng lại mang màu sắc hiện đại. Bên cạnh đó, nhãn tự của bài thơ cũng đã góp phần thể hiện một tinh thần thép của người chiến sĩ cộng sản trong hoàn cảnh tù đầy nhưng ung dung tự tại. Ánh sáng của bếp lửa còn được hiểu là ánh sáng của Đảng dẫn đường, chỉ lối cho chúng ta thoát khỏi tăm tối, u mê. Bài thơ đã làm cho người đọc xúc động trước tình cảm nhân ái bao la của người chiến sĩ cộng sản Hồ Chí Minh dù trong mọi hoàn cảnh Người vẫn vượt qua mọi gian khổ. Người đọc thấy được ý chí phi thường, phong thái ung dung tự do, giữ vững niềm tin vào tương lai tươi sáng của người tù Hồ Chí Minh.

Với phong cách cổ điển và hiện đại cùng thể thơ tứ tuyệt quen thuộc, “Chiều tối” là một thi phẩmthành công của Hồ Chủ tịch trong việc tả cảnh ngụ tình, lấy thiên nhiên để nói nên tâm trạng của mình. Bài thơ còn mang chất hiện đại trong việc xây dựng hình ảnh con người lao động với công việc quen thuộc hằng ngày, qua đó cho ta thấy được sự lạc quan của người chiến sĩ cộng sản và ý chí kiên cường vượt qua mọi gian khổ. Là thế hệ trẻ của đất nước, chúng ta cần cố gắng, ra sức học tập tốt để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 6)

Hồ Chí Minh là một cái tên mà tất cả con dân Việt Nam đều ghi tạc trong tim với một lòng yêu quý, kính trọng vô bờ bến. Trong quá trình tìm lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu rất nhiều khổ cực, gian khó, đã rất nhiều lần bị bắt giam, chuyển từ nhà tù này sang nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn ấy, ở Người vẫn ánh lên một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Bài thơ "Chiều tối" nằm trong tập thơ "Nhật kí trong tù" đã thể hiện được phần nào tinh thần ấy của Người. Bài thơ chỉ đơn giản là tả lại cảnh nơi thôn dã vào một buổi chiều tối, thế nhưng ẩn chứa trong đó là một ước mơ tự do cho bản thân, ước mơ được quay trở lại quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.

Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Bức tranh chiều tối được nhìn qua cặp mắt của người tù tay đeo gông chân vướng xiềng:

"Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ

Cô vân mạn mạn độ thiên không."

Dịch thơ:

"Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,

Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không."

Buổi chiều thường là lúc đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta thấy vô cùng cô đơn nếu không có một chốn để về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy thế, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, phải có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, vượt lên mọi gông cùm về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.

Tuy chỉ hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra được cảnh chiều muộn nơi rùng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.

Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:

"Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,

Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng."

Dịch thơ:

"Cô em xóm núi xay ngô tối,

Xay hết, lò than đã rực hồng."

Giữa cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, cô sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh trở nên sinh động, vui tươi hơn. Đó chính là nét cố điển mà hiện đại trong thơ của Hồ Chí Minh. Bức tranh vừa có người, vừa có hoạt động khỏe khoắn của con người trong đó. Đó chính là nét đẹp, nét đáng quý của người dân lao động. Cô gái đang miệt mài xay ngô bên lò than rực hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ không đảm bảo được nghệ thuật của bản chữ Hán. Bác đã lặp lại hai chữ "bao túc" ở cuối câu thứ ba và đầu câu thứ tư, như những vòng xay nối tiếp nhau của cô gái, như sự tuần hoàn của thời gian, trời đã tối, tối dần. Bức tranh vừa ấm áp bởi cảnh tượng lao động khỏe khoắn của người thôn nữ lao động, vừa bởi cái ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một thứ hạnh phúc bình dị, vậy mà Bác vẫn gạt bỏ hết những đau đớn, mệt mỏi về thân xác để cảm nhận được.

Nhà văn Nam Cao đã viết: "Khi người ta đau chân, người ta không còn tâm trí đâu để nghĩ đến người khác được", để nói rằng, con người ta thường có xu hướng lo cho những đau khổ của bản thân. Thế nhưng, ở Bác Hồ – một người lúc nào cũng lo nỗi lo của dân tộc, của đất nước – vậy mà cũng vẫn luôn quan tâm đến những thứ nhỏ nhặt nhất, bình dị nhất. Đó chính là nhân cách cao đẹp của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.

Bài thơ "Chiều tối" là một bài thơ tiêu biểu cho nét đẹp cổ điển và hiện đại trong thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ chỉ đơn giản là tả về phong cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi khi chiều muộn, đồng thời, cũng ẩn chứa trong đó nỗi niềm ước mong được tự do, được sum họp của Người. Đồng thời, ở Bác, chúng ta vẫn luôn thấy ánh lên một vẻ đẹp của tinh thần quên mình, của một trái tim giàu lòng yêu thương luôn biết quan tâm đến những điều bình dị nhất.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 7)

Sinh thời Hồ Chí Minh không hề có ý định xây dựng cho mình một sự nghiệp văn chương để lại cho đời, nhưng thực tế Người đã trở thành một nhà văn, nhà thơ lớn Những sáng tác của Bác lại hết sức phong phú, đa dạng về phong cách nghệ thuật. Không nói toàn bộ sự nghiệp sáng tác văn học của Người, chỉ cần phân tích mấy tác phẩm Truyện và Ký Người viết vào đầu những năm 20 của thế kỷ và tập thơ Ngục trung nhật ký cũng đủ thấy rõ điều đó

Người viết vào đầu những năm 20 của thế kỷ

Vì sao lại có hiện tượng dường như một nghịch lý như vậy? Giải thích hiện tượng này có nghĩa là tìm hiểu quy luật sáng tác Văn học độc đáo của Hồ Chí Minh. Có thể nói quan điểm sáng tác nhất quán của Bác là nguyên nhân tạo nên phong cách nghệ thuật hết sức đa dạng, phong phú của thơ văn Hồ Chí Minh. Quan điểm sáng tác ấy là: coi hành vi sáng tác văn chương trước hết phải phục vụ hết sức hiệu quả cho sự nghiệp cách mạng, phải có đối tượng và mục tiêu cụ thể thiết thực. Vì vậy trước khi cầm bút, Người luôn luôn tự đặt cho mình các câu hỏi: Viết cho ai (đối tượng)? Viết để làm gì (mục đích)? Viết cái gì? (nội dung) và viết thế nào (hình thức)? Hồ Chí Minh trên bước đường hoạt động của mình, từ Đông sang Tây, từ ngoài nước đến trong nước, tuỳ từng nơi, từng lúc, tuỳ từng tình huống cụ thể, Người đã phải giải quyết bao nhiệm vụ khác nhau, phải liên kết bao bạn bè gần xa, phải đối phó với bao kẻ thù lớn nhỏ sao cho phù hợp với chiến lược và sách lược cách mạng từng thời kỳ. Phục vụ cho những yêu cầu cách mạng cụ thể ấy, nhằm vào những mục tiêu và đối tượng vận động cách mạng cụ thể rất khác nhau, thơ văn của Người tất nhiên cũng phải hết sức phong phú đa dạng từ nội dung đến hình thức, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật. có thể coi đó là quan điểm và quy luật sáng tác văn học độc đáo của Hồ Chí Minh. Quan điểm ấy thể hiện rất rõ qua những Truyện Ký và tập thơ Nhật ký trong tù của Người.

Trước hết, tính chất phong phú đa dạng của phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh thể hiện ngay ở sự khác biệt hầu như hoàn toàn giữa phong cách viết truyện ký và phong cách thơ Nhật ký trong tù. Nói như Phạm Huy Thông trong bài tựa bản dịch truyện ký Nguyễn Ái Quốc: "Hồ Chủ Tịch đa viết "Nhật ký trong tù" bằng chữ Hán với phong cách Đường, Tống và đã viết những truyện ký bằng tiếng Pháp (...) như một ngòi bút phương Tây sắc sảo, rất điêu luyện, rất Pháp".

Nói riêng về những tác phẩm truyện ký. Đây là nhừng truyện ngắn và bút ký viết bằng tiếng Pháp ra đời vào đầu những năm hai mươi của thế kỷ này Như trên đã nói đây là những tác phẩm được viết hàng một ngòi bút phương Tây hiện đại và "rất Pháp" Tất cả đều nhằm tố cáo tội ác của bọn thực dân tư bản, bọn phong kiến tay sai đối với nhân dân lao động các nước thuộc địa, đồng thời đề cao những tấm gương yêu nước và cách mạng.

Tuy vậy không truyện nào giống truyện nào, dù là những tác phẩm cũng nhằm vào một đích (chẳng hạn truyện Vi hành và truyện Lời than vãn của bà Trưng Trắc cùng lên án tên vua bù nhìn Khải Định).

Trong Vi hành tác giả tạo ra một tình huống nhầm lẫn rất thú vị, trong đó nhân vật chinh "Khải Định" không có mặt, mà lại được khắc hoạ rất rõ nét. Tác giả dùng hình thức viết thư để có thể dễ dàng chuyển cảnh, chuyển giọng một cách linh hoạt và tự nhiên, Ở lời than vãn của bà Trưng Trắc trí tưởng tượng lại được phát huy để tạo ra một thế giới rùng rợn, diễn tả cơn ác mộng của Khải Định bị tổ tiên xỉ nhục và ruồng bỏ. Với tác phẩm Varen và Phan Bội Châu thì tác giả vận dụng tài quan sát và kí hoạ, tạo ra những đoạn tường thuật sắc sảo hệt như quay một cuộn phim tư liệu về hành trình của Varen, đồng thời khai thác triệt để thủ pháp đối lập để làm nổi bật hai nhân cách: Varen thì bằng nháng, ba hoa, ti tiện, còn Phan Bội Châu thì uy nghi lẫm liệt. Truyện ngắn Pari lại sử dụng ngòi bút phóng sự rất linh hoạt, giọng văn thì đi từ mỉa mai chua chát đến căm giận xót xa. Con người biết mùi hun khói có thể gọi là một truyện viễn tưởng chính trị Còn Đồng tâm nhất trí lại có dáng dấp một truyện ngụ ngôn đậm màu sắc dân gian.v.v...

Nhật ký trong tù cũng là một tác phẩm rất đa dạng về phong cách nghệ thuật Tập thơ cũng tạo nên sự thống nhất hài hoà rất độc đáo của nhiều yếu tố tư tưởng và nghệ thuật tưởng như đối lập nhau.

Chỉ điểm qua hệ thống đề tài đã thấy như thế. Bên cạnh những đề tài rất thú vị, vốn quen thuộc với thơ ca cổ điển: phong, hoa, tuyết, nguyệt, triệu cảnh, văn cảnh, đãng sơn, ức hữu... là những đề tài rất nôm na, đầy chất văn xuôi như các bài: Điền Đông, Sơ đáo Thiên Bảo ngục, Lại sang, Bào hương cẩu nhục, Hạn chế, Nhân đỗ ngã...

Đi vào thế giới hình tượng thì thấy bên cạnh một cái tôi trữ tình có phong thái ung dung nhàn tản, bầu bạn với thiên nhiên tựa như Nguyễn Trãi ở Côn Sơn, Nguyễn Bỉnh Khiêm ở Bạch Vân Am, là một cái tôi khao khát tự do, khát khao chiến đấu, lòng như lửa đốt hướng về Tổ quốc, về đồng bào, đồng chí đang ngóng đợi mình.

Thà chết chẳng cam nô lệ mãi,
Tung bay cờ nghĩa khắp trăm miền
Xót mình còn hãm trong tù ngục
Chưa được xông ra giữa trận tiền.
(ở Việt Nam có báo động...)

Nghĩa là bên cạnh một bậc hiền triết của thuở xưa sống thanh thản ở ngoài dòng chảy của thời gian, là một chiến sĩ cách mạng luôn tính đếm từng chút thời khắc đi qua một cách oan uổng bên ngoài song sắt nhà lao: "Bốn tháng rồi”, "Tám tháng hao mòn với xích gông”, "Mồng chín ta vừa đến Liễu Châu”, "Ngoảnh lại hơn trăm ngày ác mộng", ”Ngày đi bạn tiễn đến bên sông – hẹn bạn về khi lúa đỏ đồng”, "Giam lâu ngày không được chuyển”, "Tiếc ngày giờ".v.v...

Ấy là sự thống nhất hài hoà giữa cái cổ điển và cái hiện tại trong một phong cách thơ phong phú độc đáo. Người ta thường nói, nhiều bài thơ trong Nhật ký trong tù có phong cách Đường thi. Nhận xét ấy thực ra chỉ đúng một nửa Phải thấy rằng những bài thơ ấy một mặt "rất Đường", mặt khác lại không hẳn là "Đường". "Đường" ở chỗ khi viết về thiên nhiên thường chỉ dùng vài nét chấm phá, để lại nhiều khoảng trống, cốt ghi lấy linh hồn của cảnh hơn là vẽ hình xác của tạo vật. "Đường" ở thế giới hình tượng tĩnh, có tính phi thời gian, và ở chỗ hình tượng nhân vật trữ tình ung dung tự tại, tâm hồn hoà hợp với thiên nhiên. Nhưng không hẳn là "Đường" vì thế giới nghệ thuật của nhà thơ cách mạng thể hiện một quan niệm khác với người xưa về không gian, thời gian và con người trong quan hệ với tạo vật. Nếu trong thơ xưa, thiên nhiên là chủ thể, con người thường sắm vai ngư, tiều, canh, mục, ẩn dật giữa chốn thôn dã, lâm tuyền, thì trong thơ Hồ Chi Minh, con người là con người hành động. Con người không ẩn đi mà hiện ra, không phải ẩn sĩ mà là chiến sĩ. Con người sống cao độ với thời gian. Con người là chủ thể:

Đi đường mới biết gian lao
Núi cao rồi lại núi cao trập trùng;
Núi cao lên dến tận cùng
Thu vào tầm mắt muôn trùng nước non
(Đi đường)

Sự đa dạng của phong cách Nhật ký trong từ còn liên quan đến tính chất nhật ký của tác phẩm Trong nhà tù Bác ngồi ghi chép những sự thật diễn ra hàng ngày mà Người quan sát được. Cũng là một cách để giải trí đồng thời còn có nhu cầu của một con người hết sức năng động, không chịu để cho tâm trí mình được nghỉ ngơi chăng?

Có hai sự thật người tù cách mạng có thể theo dõi quan sát và ghi chép: một là sự thật khách quan, nghĩa là những điều mắt thấy tai nghe ở trong nhà tù và trên đường đi đày. Đối với sự thật này, tác giả thường dùng lối thơ hướng ngoại là chính, một thứ thơ thiên về bút pháp tự sự - tả thực.

Hoả lò ai cũng có riêng rồi
Nhỏ nhỏ to to mấy cái nồi
Cơm, nước, rau, canh đun với nấu,
Suốt ngày khói lửa mãi không thôi.
(Sinh hoạt trong tù)

Kết hợp những bài thơ này lại, ta có thể hình dung được rất cụ thể, chi tiết như xem một cuốn phim tài liệu, bộ mặt của nhà tù và một phần của xã hội Trung Quốc Hồi 1942 - 1943.

Nhưng có một loại sự thật khác, ấy là diễn biến tư tưởng và tâm trạng của tác giả khi một mình đối diện với thiên nhiên hay với bản thân mình. Đối với sự thật này, tất nhiên phải dùng lối thơ hướng nội, bút pháp trữ tình, một thứ nhật ký tâm sự, nhật ký tư tưởng. Kết hợp những bài này lại, ta được chiêm ngưỡng một bức chân dung tinh thần tự hoạ rất rõ nét và sinh động của nhà thơ.

Ở loại bài thứ nhất, người ta thấy trong thơ Hồ Chí Minh có nhà báo Nguyễn Ái Quốc hết sức sắc sảo trong bút pháp ký sự, phóng sự và nghệ thuật mỉa mai châm biếm.

Ở loại bài thứ hai, ta lại thấy trong nhà thơ cách mạng có sự nối tiếp truyền thống thi ca lâu đời của Phương Đông, của dân tộc, từ Lý Bạch, Đỗ Phủ... đến Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến, Tú Xương...

Sự nghiệp thơ văn của Hồ Chí Minh là một khối thống nhất, toàn vẹn, nhưng không đơn điệu. Thống nhất ở lý tưởng độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội; thống nhất ở quan điểm sáng tác phục vụ đấu tranh cách mạng, nhưng hết sức phong phú, đa dạng về thể loại và phong cách nghệ thuật. Đó là một hiện tượng văn học lớn và độc đáo; một cây bút có thể gọi là đa phong cách rất đặc biệt trong nền văn học Việt Nam hiện tại.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 8)

Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc ta, Người không chỉ là một nhà chính trị quân sự xuất sắc mà còn là thi sĩ, nhà văn với những tác phẩm để lại dấu ấn cực kì đậm nét. Sự nghiệp sáng tác của Người khá đồ sộ, không chỉ các tác phẩm truyện, kí mà còn là thơ văn và các bài chính luận rất đặc sắc. Các tác phẩm của Người đều ghi lại một phong cách rất riêng, rất Hồ Chí Minh. Với thơ ca, Người chau chuốt trong từng lời thơ, vừa đẹp lại vừa giản dị, với truyện, Người viết một cách hài hước, nhưng đầy sự châm biếm, mỉa mai, còn với các áng văn chính luận, Người lại có một phong cách rất khác biệt ngắn gọn, súc tích nhưng đầy thuyết phục. Và điều đó được thể hiện thật rõ qua tác phẩm Tuyên ngôn độc lập mà Người đã đọc vào ngày 2/9/1945.

Trong lịch sử của dân tộc ta, có tới ba áng văn thơ được công nhân là những bản Tuyên ngôn độc lập của đất nước, đó là Nam Quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi và tác phẩm Tuyên ngôn Độc lập của Hồ Chí Minh. Thế nhưng, nếu như hai tác phẩm trên được viết bằng thể loại thơ thì Hồ Chí Minh lại viết tác phẩm của mình bằng lối văn chính luận.

Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh được viết ngay sau khi Người từ chiến khu Việt Bắc trở về Hà Nội, tại ngôi nhà số 48 Hàng Ngang. Ngày 2/9/1945, Người đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập ấy trước toàn thể người dân Việt Nam tại quảng trường Ba Đình lịch sử khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn độc lập là lời tuyên bố của nhân dân Việt Nam với thế giới sự ra đời của một nhà nước non trẻ nhưng có độc lập, có chủ quyền, dân tộc Việt Nam đã được tự do sau tám mươi năm Pháp thuộc. Nó còn là lời tố cáo đanh thép tội ác của kẻ thù xâm lược với đất nước và nhân dân Việt Nam và khẳng định sự đoàn kết, lòng yêu nước và tình thần quyết chiến của dân tộc ta với bất cứ kẻ thù xâm lược nào!

Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn độc lập bằng ngòi bút chính luận cực kì xuất sắc của mình, khẳng định phong cách nghệ thuật văn chính luận rất riêng của Người. Đó là lối viết ngắn gọn, súc tích nhưng đơn giản và dễ hiểu, được thể hiện bằng ngôn ngữ mộc mạc, giọng điệu mạnh mẽ, đanh thép. Đồng thời, Người cũng đưa ra những lập luận cực kì sắc bén, cực kì chặt chẽ và thuyết phục đối với người nghe. Và hơn thế, phong cách viết của Người còn được xen kẽ với đa dạng các loại bút pháp thể hiện.

Hồ Chí Minh luôn tâm niệm rằng, ngòi bút của mình là viết cho nhân dân, cho quần chúng, "viết cho đại đa số nhân dân đọc", "viết để phục vụ nhân dân", vậy nên mỗi tác phẩm của Người đều được chọn lựa kĩ càng câu chữ cũng như lối viết sao cho ngắn gọn nhất. Như bản Tuyên ngôn độc lập, một áng văn mà khai sinh ra một đất nước cũng chỉ dài có 1010 chữ và chỉ gồm 49 câu chữ ngắn ngủi, ấy vậy mà nó đã hàm chứa những nội dung cực kì sâu sắc. Không chỉ là sự đúc kết một cách cô đọng nhất nội dung của cuộc Cách mạng tháng Tám mà còn là một lời tuyên bố mà người dân Việt Nam ta đã mong đợi gần ngót một thế kỷ nay.

Nội dung của Tuyên ngôn độc lập được cô đọng trong từng câu từng chữ, không hề có một chữ thừa nào trong văn bản này. Trước tiên, khi lấy cơ sở để khẳng định quyền độc lập của đất nước ta, Bác đưa ra cơ sở pháp lý quốc tế đó là hai bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Pháp. Chỉ với 186 chữ, Người đã dùng hai bản Tuyên ngôn kia làm tiền đề khẳng định quyền được độc lập, được tự do, được hạnh phúc của người dân Việt Nam.

Không chỉ thế, Người còn tiếp tục đưa ra những lời lẽ để tố cáo tội ác của thực dân Pháp đã làm với nước ta trong suốt hơn tám mươi năm qua. Những tội ác ấy được thể hiện ở tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội. Ở mỗi phần ấy, Người chỉ dùng một câu nêu luận điểm rồi diễn giải bằng bốn hoặc năm câu nhưng đã tóm gọn được hết những ý chính tội ác của thực dân Pháp. Người còn đặt rõ ràng từng phần để người nghe hiểu rõ hơn về những điểm chính ấy. Từng tội ác của bè lũ thực dân xâm lược đều hiện lên một cách rõ ràng, cực kì đanh thép, ngắn gọn nhưng rõ ràng.

Và cũng chỉ bằng 58 chữ, Người đã dùng để xóa bỏ hoàn toàn những ràng buộc, những hiệp định mà thực dân Pháp đã áp lên nước ta ngót một thế kỉ "Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam". Ngắn gọn nhưng đầy sức thuyết phục, súc tích và vô cùng rõ ràng, Việt Nam đã chính thức thoát khỏi ách đô hộ mà thực dân Pháp đã cất công xây dựng lên đất nước ta bao lâu nay

Không chỉ vô cùng ngắn gọn, Hồ Chí Minh còn sử dụng trong bản Tuyên ngôn ngôn ngữ vô cùng dễ hiểu, bởi Người nói "viết để phục vụ quần chúng nhân dân". Đặt vào hoàn cảnh khi ấy, đất nước ta vừa mới đi qua chiến tranh, với hơn hai triệu đồng bào chết đói, còn nghèo đói, lạc hậu, vậy nên không phải ai cũng có điều kiện được học hành, chính vì thế, Người đã diễn giải bằng ngôn ngữ mộc mạc nhất, dễ hiểu nhất và đọc đến tận tai, để cho tất cả mọi người dân Việt Nam đều có thể hiểu được ý nghĩa của bản Tuyên ngôn này. Còn đối với kẻ thù, mỗi câu mỗi chữ mà Người viết là một mũi tên, một loại vũ khí mạnh mẽ và sắc bén đánh lên bè lũ cướp nước và bán nước.

Mỗi từ ngữ đều được Hồ Chí Minh chọn lựa cực kì kĩ lưỡng để nó mang một tầng ý nghĩa lớn, ví như từ "tắm". Đây là một trong những từ ngữ đắt giá nhất tác phẩm, "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của chúng ta trong bể máu"! Một từ thôi nhưng đã nêu bật lên được sự tàn ác của kẻ thù xâm lược đối với nhân dân ta, sự đàn áp dã man của chúng lên những cuộc nổi dậy. Vậy nên mới nói, mỗi lời, mỗi câu , mỗi chữ trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đều khiến người ta phải khâm phục và tự hào.

Không chỉ là sự ngắn gọn, súc tích với ngôn từ ý nghĩa, dễ hiểu, văn chính luận của Hồ Chí Minh nói chung và tác phẩm Tuyên ngôn độc lập nói riêng còn khiến người ta phải trầm trồ khi có những lập luận sắc bén, thuyết phục, đặc biệt ở đoạn nêu lên tội ác của thực dân Pháp.

Bác vạch trần bộ mặt của thực dân Pháp với những tội ác dã man chúng gây nên cho dân tộc Việt Nam qua những khía cạnh khác nhau từ chính trị, kinh tế đến xã hội. Bác đưa ra những luận điểm rõ ràng rồi diễn giải chúng bằng những dẫn chứng thuyết phục.

Bác ví trên phương diện chính trị, thực dân Pháp đã "tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào". Để chứng minh cho luận điểm này, Người đưa ra những bằng chứng như sự thi hành luật pháp dã man ở ba miền, "chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học", "chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu", ...

Còn về phương diện kinh tế, Người cũng đưa ra một luận điểm đó là "chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thống, nước ta xơ xác, tiêu điều". Sau đó, bằng phương pháp liệt kê, Người đưa ra một loạt những chứng cứ xác thực để chứng minh cho luận điểm của mình như "chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu", "chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý", ...

Có thể nói, mỗi lập luận của Người đều vô cùng sắc sảo, những bằng chứng và lý lẽ thấu tình đạt lý. Người đã minh chứng cho sự tàn ác của thực dân Pháp - một đất nước tự nhận là đưa văn minh đến thuộc địa của mình, tự nhận mình là "nước Mẹ" mà lại đối xử dã man với "đứa con" của mình. Chính vì thế, Hồ Chí Minh đã thẳng thắn khẳng định sự phản bội của "nước Mẹ" với đứa con Việt Nam khi Người đưa ra bằng chứng hai lần Pháp đã dâng Việt Nam cho Phát xít Nhật "trái lại, trong vòng năm năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho NHật" khiến cho nhân dân ta phải chịu hai tầng xiềng xích và khiến chúng ta phải chịu một tổn thất vô cùng nặng nề "hai triệu đồng bào ta bị chết đói'.

Có thế nói bằng ngòi bút chính luận xuất sắc của mình, Hồ Chí Minh đã dùng những lập luận sắc sảo, lý lẽ đanh thép mà buộc tội kẻ thù xâm lược, khiến chúng không còn một lời nào có thể biện hộ nữa. Không chỉ thế, Người còn đi tới một kết luận, một lời khẳng định chỉ với chín chữ ngắn ngủi nhưng chứa đựng toàn bộ kết tinh sự chiến đấu của dân tộc ta trong cuộc Cách mạng tháng Tám vừa qua "Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị" - bức tranh về toàn bộ kẻ thù được dựng lên và hình ảnh một đất nước mới được ra đời.

Những lập luận của Người còn thể hiện ở những dòng cuối trong bản Tuyên ngôn ấy, chỉ với năm câu, Người khẳng định một cách mạnh mẽ, đanh thép rằng "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Đó là ý chí, là niềm tin mãnh liệt vào một tương lai tươi sáng của dân tộc.

Có thể nói, chỉ với 49 câu, với những lập luận sắc sảo, ngôn từ chặt chẽ, Hồ Chí Minh đã tuyên bố với cả thế giới sự khai sinh của một Nhà nước non trẻ nhưng có đầy đủ quyền độc lập và tự do. Người sử dụng những cơ sở pháp lý quốc tế để chứng minh cho sự tự do ấy.

Ngoài ra, phong cách nghệ thuật văn chính luận Hồ Chí Minh còn được chú ý bởi bút pháp cực kì đa dạng. Người sử dụng bút pháp cổ điển pha lẫn với hiện đại để chứng minh cho những luận điểm nêu ra trong bản tuyên ngôn. Ví như câu đầu tiên "Hỡi đồng bào cả nước", đó như một lời hiệu triệu mang âm hưởng của Hịch tướng sĩ của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn.

Văn chính luận của Hồ Chí Minh - bản Tuyên ngôn độc lập, đã để lại trong lòng chúng ta những dấu ấn về phong cách vô cùng đậm nét. Đó là dấu ấn về một văn bản ngắn gọn, nhưng vô cùng đầy đủ nội dung, ngôn ngữ giản dị nhưng vô cùng đanh thép khi tố cáo tội ác của kẻ thù, dấu ấn về cách lập luận cực kì sắc sảo với những lý lẽ không thể chối cãi và về bút pháp được kết hợp vô cùng đa dạng.

Bác Hồ - Người không chỉ mang đến cho dân tộc ta con đường đi tươi sáng, mà con ghi lại dấu ấn trong lòng người yêu văn thơ một phong cách nghệ thuật khác biệt, cái chất riêng của Người. Có thể nói, Người chính là tấm gương để mỗi thế hệ chúng ta noi theo khi viết bất kì một văn bản nào đó, viết cho nhân dân, viết để phục vụ nhân dân, dễ hiểu, dễ nghe, ngắn gọn nhưng cũng thật đầy đủ.

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện lịch sử tuyên bố trước quốc dân đồng bào và thế giới về việc chấm dứt chế độ thực dân, phong kiến ở nước ta, đánh dấu kỉ nguyên độc lập, tự do của nước ta. Đồng thời bản tuyên ngôn cũng thể hiện phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận.

Đây không chỉ là văn kiện chính trị có ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là áng văn chính luận tiêu biểu, mẫu mực. Hồ Chí Minh đã quan niệm, văn chương phải có sức chiến đấu, phục vụ cho cách mạng. Khi cầm bút, Người bao giờ cũng xuất phát từ mục đích, đối tượng tiếp nhận để từ đó quyết định nội dung và hình thức tác phẩm.

Ở bản “Tuyên ngôn độc lập”, đối tượng mà bản tuyên ngôn này hướng đến là đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le xâm lược nước ta lần nữa. Bằng những lí lẽ, lập luận đanh thép, Hồ Chí Minh đã nêu ra những tội ác của thực dân Pháp và khẳng định rằng: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Lối lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, ngôn ngữ hùng hồn, bằng chứng thuyết phục, Hồ Chí Minh đã tố cáo, vạch trần tội ác của thực dân Pháp gây ra cho nước ta. Chúng thi hành những luật pháp dã man, lập ba chế độ khác nhau ở ba miền để ngăn cản việc thống nhất đất nước và ngăn cản tình đoàn kết của nhân dân ta. Chúng thi hành chính sách ngu dân, dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược. Chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, đặt ra nhiều thứ thuế vô lí, trong 5 năm chúng bán nước ta hai lần cho Nhật. Chúng lập nhà tù nhiều hơn trường học, chúng “tắm các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta trong bể máu”, chúng còn gây ra tội diệt chủng khi khiến hơn hai triệu đồng bào ta chết đói trong nạn đói 1945. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp liệt kê để tố cáo những tội ác của thực dân Pháp. Tất cả những dẫn chứng trên đã làm cho bản tuyên ngôn trở nên đanh thép, hùng hồn hơn. Đó cũng là những bằng chứng không thể chối cãi được về những tội ác mà thực dân Pháp gây ra cho đất nước ta.

Bên cạnh đó, phong cách trong văn chính luận của Người còn được thể hiện ở lối viết ngắn gọn, hàm súc, cách dùng từ chính xác, hình ảnh xúc động như “chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu”. Từ “tắm” có giá trị biểu cảm rất cao. Biện pháp nhân hóa đã nhấn mạnh tội ác và sự đàn áp của chúng đối với nhân dân ta.

Ngoài ra, Hồ Chí Minh còn sử dụng hàng loạt các động từ mạnh: “thẳng tay chém giết”, “xóa bỏ hết”, “thoát li hẳn”… cùng với các cấu trúc trùng điệp làm câu văn trở nên uyển chuyển, mềm mại nhưng hết sức đanh thép.

Như vậy, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh trong văn chính luận. Sức mạnh và tính thuyết phục của tác phẩm được thể hiện chủ yếu ở cách lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén, bằng chứng xác thực, ngôn ngữ hùng hồn, đầy cảm xúc.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 9)

Văn chương không phải là sự nghiệp chính của Hồ Chí Minh tuy nhiên bên cạnh sự nghiệp Cách Mạng, Người còn để lại cho dân tộc ta một di sản van học lớn lao về tầm vóc tư tưởng phóng phú về thể loại, đa dạng và độc đáo về phong cách nghệ thuật.Văn chương không phải là sự nghiệp chính của Hồ Chí Minh tuy nhiên bên cạnh sự nghiệp Cách Mạng, Người còn để lại cho dân tộc ta một di sản van học lớn lao về tầm vóc tư tưởng phóng phú về thể loại, đa dạng và độc đáo về phong cách nghệ thuật.

Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh vừa độc đáo đa dạng lại vừa có tính thống nhất.

Tính đa dạng và độc đáo được thể hiện qua những điểm sau:

Hồ Chí Minh không chỉ là nhà lãnh đạo tài ba, nhà quân sự có đầu óc nhạy bén mà còn có một tâm hồn đầy lãng mạn và thể hiện cái hiện thực sâu sắc và ý nghĩa, cùng với tấm lòng nhân đạo, nhân văn người đã mang đến cho nền văn học Việt Nam nói chung mà cả nền văn học thế giới nói riêng một tài sản khổng lồ về giá trị nhân văn và hiện thực sắc sắc. Người thành công trên hầu hết các thể loại, nhìn chung ở mỗi thể loại văn học từ văn chính luận, truyện và kí cho đến thơ ca, Hồ Chí Minh đều tạo được những nét phong cách riêng độc đáo và hấp dẫn.

Văn chính luận: Văn chính luận của Người ngắn gọn, súc tích, bằng chứng đầy thuyết phục giàu tính luận chiến và đa dạng về bút pháp. Văn chính luận mà vẫn thấm đượm tình cảm, giàu hình ảnh, giọng tình đạt lí, như đưa lẽ phải vào lòng người, khi lại rất mạnh mẽ và hùng hồn.

Tác phẩm lôi cuốn người đọc không chỉ bằng những sự việc được miêu tả rất chân thực, cứ liệu phong phú, chính xác mà còn ở thái độ, tình cảm sâu sắc mãnh liệt của tác giả và nghệ thuật châm biếm đả kích sắc sảo, giàu chất trí tuệ. Người viết còn rất thành công khi kể lại những câu chuyện nhỏ nhưng có tác dụng sâu sắc trong việc tố cáo tội ác của bọn chủ nghĩa thực dân.

Nói đến văn chính luận của Hồ Chí Minh không thể không nói tới bản Tuyên Ngôn Độc Lập – văn kiện chính trị này không chỉ mang ý nghĩa lịch sử trọng đại mà còn là một áng văn chính luận tiêu biểu mẫu mực.

Truyện và kí: những tác phẩm truyện và kí của người rất hiện đại thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và nghệ thuật trào phúng sắc bén, tiếng cười trào phúng của Nguyễn Ái Quốc tuy nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng thâm thúy, sâu cay. Phạm Huy Thông đã nhận xét: “ Văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc có đặc điểm nổi bật là dí dỏm, hài hước điều đó không ngăn người viết nên những lời thắm thiết trữ tình khi xúc động”.

Các truyện ngắn của người đều thể hiện một bút pháp hiện đại và nghệ thuật trần thuật linh hoạt, Nguyễn Ái Quốc đã tạo nên được những tình huống truyện độc đáo, hiện tượng sinh động, sắc sảo. Qua những thiên truyện này, người đọc có thể nhận ra một cây bút văn xuôi tài năng với trí tưởng tượng phong phú, con mắt quan sát sắc sảo, lời văn linh hoạt hóm hỉnh, sắc cạnh, một vốn văn hóa sâu rộng, một trí tuệ sắc sảo và một trái tim tràn đầy nhiệt tình yêu nước và Cách Mạng.

Kí: Người để lại một số tác phẩm tiêu biểu như: Nhật kí chìm tàu (1933) và vừa đi đường vừa kể chuyện (1963). Đọc những bài kí này người đọc thấy hiển hiện một cái tôi Hồ Chí Minh rất đỗi trẻ trung hồn nhiên và giản dị, say mê hoạt động, ham học hỏi, có năng khiếu quan sát sắc sảo mau lẹ của một kí giả có tài ở đâu làm gì cũng sống hết mình với công việc, với người cảnh. Tinh thần dân chủ thấm sâu trong tác phong sinh hoạt hàng ngày, trong thái độ, chân tình, yêu qúy với những con người thường vô danh, nhưng họ là nền tảng của dân tộc là độc lực vĩ đại của lịch sử.

Thơ ca: thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh, thơ của Người có thể chia làm 2 loại, mỗi loại có những nét phong cách riêng.

Những bài thơ nhằm mục đích tuyên truyền Cách Mạng thường được viết bằng hình thức bài ca, bài vè, lời lẽ giản dị, mộc mạc, dễ hiểu, dễ nhớ mang hình thức dân gian hiện đại.

Những bài thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mĩ hầu hết là thơ tứ tuyệt cổ điển bằng chữ Hán mang đặc điểm của thơ cổ phương Đông với sự kết hợp hài hòa giữa màu sắc cổ điển với bút pháp hiện đại. Loại thơ nghệ thuật này là tiếng nói tinh tế và sâu sắc nhất của tâm hồn Hồ Chí Minh vừa hồn nhiên, tự nhiên, vừa trẻ trung, hiện đại, vừa đậm đà phong vị cổ điển, vừa đầy chất thép kiên cường, vừa chan chứa tinh thần nhân đạo vừa dạt dào cảm xúc trước vẻ đẹp thiên nhiên. Nhà phê bình người Pháp Rô-giê Đơ-nuy đã nhận xét: “ Thơ người nói ít mà gợi nhiều, là loại thơ có màu sắc thanh đạm, có âm thanh trầm lặng, không phô diễn mà như cố khép lại trong đường nết để người đọc tự thưởng thức lấy cái phần ‎ ở ngoài lời”.

Nhật kí trong tù là một tập thơ đặc sắc đa dạng và linh hoạt. về bút pháp, kết hợp hài hòa giữa vẻ đẹp cổ điển và tinh thần hiện đại. Tập thơ kết tinh giá trị tư tưởng và nghệ thuật thơ ca.

Ngoài nhật kí trong tù phải kể đến một số chùm thơ Người làm ở chiến khu Việt Bắc 1941 – 1945 và trong thời gian kháng chiến chống Pháp. Bên cạnh những bài được viết nhằm mục đích tuyên truyền như: Dân cày, Ca công nhân, ca binh lính, ca sợi chỉ, … là những bài thơ nghệ thuật vừa có màu sắc cổ điển, vừa mang tinh thần hiện đại như: Pác bó hùng vĩ, Tức cảnh Pác bó, cảnh rừng Việt Bắc, Nguyên tiêu thượng sơn, cảnh khuya. Nổi bật trong thơ Người là nhân vật trữ tình luôn mang nặng nỗi nước nhà mà phong thái vẫn ung dung, tâm hồn luôn hòa hợp với thiên nhiên, thể hiện bản lĩnh của một nhà Cách Mạng vĩ đại luôn luôn làm chủ tình thế, tin tưởng vào tương lai tất thắng của Cách Mạng, tuy trước mắt còn nhiều gian nan, thử thách.

Nội dung sáng tác văn học của Hồ Chí Minh rất phong phú về thể loại, lớn lao về tầm vóc tư tưởng và đặc sắc nghệ thuật. Đó mãi mãi là những di sản văn học vô giá của dân tộc ta.

Phong cách của Hồ Chí Minh còn là hình tượng vừa đa dạng lại vừa thống nhất:

Phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh là một hình tượng vừa đa dạng vừa thống nhất. Tính thống nhất đa dạng của Hồ Chí Minh thể hiện trong toàn bộ sáng tác thơ văn của Người. Đó là sự nhất quán trên quan điểm sáng tác. Khi cầm bút bao giờ Người cũng xác định viết cho ai, viết để làm gì, viết cái gì và viết như thế nào? Nhất quán ở cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị với sự sáng tạo linh hoạt, hoàn toàn chủ động trong sử dụng hình thức thể loại và ngôn ngữ. Các bút pháp và thủ pháp nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích thiết thực của mỗi tác phẩm. Đồng thời từ tư tưởng đến hình tượng nghệ thuật luôn luôn vận động một cách tự nhiên, nhất quán, hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.

Sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh nước mất nhà tan, lí tưởng lớn lao duy nhất của Hồ Chí Minh là cứu nước, cứu dân. Người đã tâm sự: “ Cả đời tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”. Vì ham muốn ấy mà Người đã ra đi tìm đường cứu nước và cống hiến cả đời mình cho sự nghiệp Cách Mạng giải phóng dân tộc. Trên con đường hoạt động Cách Mạng, Người đã thấy rõ văn học là vũ khí sắc bén, lợi hại, phục vụ đắc lực cho chính trị, cho sự nghiệp đấu tranh Cách Mạng. Người đã mài giũa ngòi bút của mình. Sáng tác văn chương để làm Cách Mạng. Mục đích chính trị đã chi phối quan niệm sáng tác nghệ thuật và phong cách nghệ thuật của Người.

Phân tích phong cách nghệ thuật Hồ Chí Minh (mẫu 10)

Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là một nhà yêu nước và nhà cách mạng vĩ đại của dân tộc Việt Nam, mà người còn là một nhà hoạt động lỗi lạc của phong trào Quốc tế cộng sản. Cùng với sự nghiệp cách mạng vĩ đại, Người còn để lại một sự nghiệp văn học lớn lao về tầm vóc tư tưởng, phong phú về thể loại và đa dạng về phong cách nghệ thuật. Tuy phong cách nghệ thuật của Hồ Chí Minh rất phong phú, độc đáo như vậy nhưng lại hết sức nhất quán, kết hợp sâu sắc và nhuần nhụy mối quan hệ giữa chính trị và văn chương, giữa tư tưởng và nghệ thuật, giữa truyền thống và hiện đại. Hơn nữa, ở trong mỗi thể loại sáng tác, Người lại có một phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn và có giá trị bền vững.

Văn chính luận của Người thường ngắn gọn, tư duy sắc sảo, lập luận chặt chẽ, lí lẽ đanh thép, hùng hồn, bằng chứng đầy thuyết phục, giàu tính luận chiến và đa dạng về phút pháp. Văn chính luận mà vẫn giàu hình ảnh, thấm đượm tình cảm chân thành của người viết. Giọng điệu khi ôn tồn, thấu tình, đạt lí, khi lại đanh thép, mạnh mẽ, hùng hồn,... tùy theo mục đích của Người khi viết.

Những tác phẩm truyện và kí của Người viết rất hiện đại, thể hiện tính chiến đấu mạnh mẽ và kết hợp được nghệ thuật trào phúng sắc bén, nhẹ nhàng, hóm hỉnh nhưng đả kích rất sâu cay: Văn tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc có đặc điểm nổi bật là dí dỏm, hài hước. Điều đó không ngăn Người đã viết nên những lời thắm thiết trữ tình khi xúc động (Phạm Huy Thông).

Thơ ca thể hiện sâu sắc và tinh tế nhất vẻ đẹp tâm hồn của Hồ Chí Minh. Thơ của người chia làm hai loại, mỗi loại lại có những nét phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn. Với thơ tuyên truyền cách mạng thì lời thơ thường giản dị, mộc mạc, dễ nhớ, mang màu sắc dân gian hiện đại; còn với thơ nghệ thuật viết theo cảm hứng thẩm mĩ thì mang vẻ đẹp hàm súc, hòa hợp giữa bút pháp cổ điển và hiện đại, giữa chất tình và chất thép.

Văn học là một hoạt động sáng tạo không ngừng. Phong cách của nhà văn cũng luôn vận động, tự đổi mới. Tuy dù đa dạng, phong phú đến đâu nhưng phong cách của nhà văn cũng có những hạt nhân nhất quán. Với thơ văn của Hồ Chí Minh cũng vậy, ta có thể thấy sự nhất quán thể hiện ở cách viết ngắn gọn, trong sáng, giản dị; sử dụng sáng tạo, linh hoạt các thủ pháp, bút pháp nghệ thuật khác nhau nhằm mục đích thiết thực của mỗi tác phẩm. Đồng thời, trong tư tưởng, tình cảm, hình tượng nghệ thuật trong những sáng tác của Bác đều luôn vận động một cách tự nhiên hướng về sự sống, ánh sáng và tương lai.

Những đặc điểm trong phong cách trên của Người bắt nguồn từ truyền thống gia đình, môi trường, hoàn cảnh sống, hoạt động cách mạng và bản sắc tinh thần của Người. Thế giới thơ Đường, thơ Tống và văn chương cổ điển Việt Nam đã đến với Người khi còn nhỏ để trở thành màu sắc cổ điển đậm đà, tự nhiên, mang hồn cốt phương Đông trong thơ văn của Bác. Tính hiện đại của phong cách phải chăng là ảnh hưởng của nền văn học phương Tây khi Người đi bôn ba tìm đường cứu nước ? Ngoài ra, phong cách nghệ thuật của Người còn được hình thành do quan điểm sáng tác thơ văn của Người. Văn chương là hành động cách mạng. Người cầm bút trước khi viết phải quan tâm đến đối tượng, mục đích rồi từ đó mới quyết định nội dung và hình thức thể hiện. Những phương châm ấy đã tạo nên tính đa dạng, phong phú của sự nghiệp và phong cách thơ văn Hồ Chí Minh.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Phân tích nghệ thuật lập luận trong Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

Phân tích bài thơ Tây Tiến

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến

1 3,573 18/12/2023
Tải về