TOP 10 mẫu Vẻ đẹp và sức sống của nhiên nhiên và con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân (2024) SIÊU HAY

Tùy bút "Người lái đò sông Đà" là vẻ đẹp và sức sống của Tây Bắc, con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân. Em nghĩ như thế nào về nhận định đó? lớp 12 gồm dàn ý và 1 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 1467 lượt xem
Tải về


Vẻ đẹp và sức sống của nhiên nhiên và con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Người lái đò sông Đà

Dàn ý Vẻ đẹp và sức sống của nhiên nhiên và con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân

I. Mở bài

- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỉ XX. Nền văn xuôi luôn in hằn những dấu vết nghiêm túc và đầy sáng tạo trong lao động nghệ thuật của ông.

- Tác phẩm Người lái đò sông Đà là thi phẩm tiêu biểu, thành công đánh dấu hướng đi, suy nghĩ của ông sau cách mạng tháng tám.

II, Thân bài

1. Hình ảnh con sông Đà

Theo Nguyễn Tuân con sông Đà như nhân vật có hình thù, cá tính với hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình.

*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà

· “Ở khoảng sông hẹp, bờ sông chẹt lại như một cái yết hầu, hai bờ đá đứng thành vách, mặt sông đoạn ấy rất sâu, tối, đúng ngọ mới thấy mặt trời…” “đi giữa thuyền hè vẫn thấy lạnh, nhìn lên chỉ thấy một ô sáng như cửa sổ có đèn…”

· Ngôn ngữ được sử dụng rất giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh để miêu tả từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ nên nhà văn mới tạo dựng nên cảnh bờ sông một cách động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở, nhiều cảm giác.

· “Những cái hút nước ở Tà Mường Vát như những cái giếng bê tông khổng lồ đang xoáy tít đáy mà mặt giếng, thành giếng xây toàn nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dày…” “Nước sôi lên ằng ặc… Nếu ngồi trong thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”

· Ngôn ngữ vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, đầy nguy hiểm được miêu tả rõ nét, chân thật, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông, hiện lên khuôn mặt dữ dằn của dòng sông.

· Đoạn ghềnh sông “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tiếp đến là những thác nước, từ xa nghe tiếng như là oán trách, rồi lại van xin, sau đó lại rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn mắc kẹt giữa rừng tre nổi lửa… mặt sông rung lên tung bọt trắng xóa…

· Vốn từ phong phú, ngôn ngữ giàu sức tạo hình, câu văn phóng túng, nghệ thuật vừa nhân hóa vừa so sánh làm hình ảnh con sông hiện lên có hình thù và tâm tính rõ nét. Âm thanh phát ra cuồng nộ, cơn giận dữ cho thấy bản tính hung hãn.

· Trận thủy chiến trên sông với bày trí thạch trận, nhiều vòng vây với lực lượng phối hợp của đá tảng, con sóng ngầm hò la vang động núi trời…

· Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, sử dụng từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả, tác giả đã làm hiện lên hình ảnh sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình đau đớn qua những tảng đá. Qua đó cho thấy sự uyên bác trong trang văn, sự hóm hỉnh, linh hoạt trong sáng tạo của tác giả.

*Tính cách trữ tình

· Chảy qua vùng bình nguyên hoặc khi đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà trở nên hiền hòa đến lạ, tưởng như một người bạn của con người.

· Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: qua cái nhìn say đắm, chìm sâu của tác giả sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dạng, lấp lánh

· Hình ảnh thơ mộng, phép so sánh giàu giá trị biểu cảm, ngôn từ linh hoạt, mềm mại làm nổi bật sông Đà có vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ.

· “Từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh như đứa trẻ nghịch chiếu gương… sáng lên một màu nắng tháng ba Đường Thi”

· Một phép so sánh độc đáo, mới lạ, giọng văn nhẹ nhàng cho thấy vẻ hồn nhiên, thanh bình của sông “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân…”

· Tác giả nhìn ra khía cạnh chiều sâu của sông, một vẻ đẹp thân thiện, dễ mến, hơi ấm của tình người trong dòng sông. Hơn nữa, dòng sông trở thành người bạn hiền dịu, cởi mở, niềm nở chờ đợi người phương xa trở về.

· Dưới thuyền nhìn lên thấy “bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa..”

· Một phép so sánh độc lạ, từ không gian liên tưởng về thời gian, có sự mở rộng biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ xưa nhưng thuần khiết

· Trên đồi cỏ non “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ngơ ngác…” như đang hỏi thăm ông khách sang sông. Tiếng cá đập nước, con lững lờ trôi nhớ thương…

· Biện pháp nhân hóa giàu chất thơ khiến dòng sông trở nên hồn nhiên, hoang sơ, tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn. Vẻ đẹp hiền hòa, yên bình của sông góp phần tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước.

· Miêu tả sông Đà như một kí sự bằng ngôn từ linh hoạt, phong phú, giàu sức gợi, như thế mới thấy Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê miêu tả dòng sông còn là tình yêu tổ quốc, nâng niu tiếng mẹ đẻ…

2. Hình ảnh ông lái đò

*Ngoại hình, giọng nói

· “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, đầu bạc quắc thước, thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng mun, đôi cánh tay trẻ tráng quá…”

· “giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó…”

· Ngôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp so sánh tác giả đã khắc họa thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi. Cách liên miêu tả của Nguyễn Tuân liên tưởng ngoại hình của ông lái đò có dấu ấn nghề nghiệp

*Niềm say mê lao động

· Ông lái đò là một người anh hùng vô danh, bình dị thầm lặng mà quang vinh. Ông luôn tâm huyết với nghề, mãi không thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng tự hào.

· Hình ảnh người lao động mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, chinh phục thiên nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.

*Tính cách

· Qua cách ông chiến đấu với con sông có thể thấy ông là một người có tri thức, năng lực.

· Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, thuộc làu dòng sông…

· Nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá…

· Có tài chỉ huy.

· Ông là người mưu trí, tài ba, có mưu lược và làm chủ cuộc đời, phong thái ung dung.

· Khi ra trận ông bộc lộ vẻ đẹp anh hùng vàn nghệ sĩ

· Ông bình tĩnh đưa con thuyền vào trận chiến thiên la địa võng, sẵn sàng vật lộn với con thủy quái. Lao vào trận địa như viên tướng tả xung hữu đột,,,

· Ông lái đò là người vẻ đẹp tiêu biểu yêu nghề, có tinh thần làm chủ, vừa mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân

III. Kết bài

Người lái đò sông Đà không chỉ miêu tả con sông Đà mà còn khắc họa vẻ đẹp của người lao động. Qua đó cho thấy sự tri thức, hiểu biết của tác giả mang lại một tác phẩm văn học uyên bác.

Bài giảng Ngữ văn 12 Người sông lái sông Đà

Vẻ đẹp và sức sống của nhiên nhiên và con người Tây Bắc được tái hiện bằng một tấm lòng, một tài năng rất Nguyễn Tuân (mẫu 1)

Cảnh vật và cuộc sống của bất cứ vùng đất nào khi được chọn lựa để trở thành đối tượng tùy bút của Nguyễn Tuân thì nó y hệt một hạt ngọc. Hạt ngọc này được một người nặng hồn với sông núi, nước non, cộng với sự tài hoa, một được mệnh danh là nhà kĩ thuật ngôn từ, những nhận xét tình tế mài dũa, tỉa tót. Chúng trở thành những địa danh, những nơi chốn đáng tự hào của Tổ quốc, đất nước Việt Nam. Tùy bút Sông Đà với Người lái đò sông Đà chínhlà một trong những hạt ngọc đó, một hạt ngọc Tây Bắc giàu có về tài nguyên với sự bài trí tuyệt vời: núi sông diễm lệ, hoa trời, đá, thác. Đặc biệt với dòng Đà giang: Tuôn dài như một áng tóc trữ tình... ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo với chất vàng mười của nó là vẻ đẹp của con người Tây Bắc, đã thực sự gây những ấn tượng vừa thật thiết tha với thật nhiều cảm xúc thấm mĩ.

Rõ ràng, với Sông Đà, Nguyễn Tuân đã chứng tỏ sự hội nhập của một nhà văn đã từng Vang bóng một thời với cách mạng, với thời đại. Ở đó, vẫn là một Nguyễn Tuân tài hoa, uyên bác có thiên hướng thể hiện những ấn tượng đậm nét mãnh liệt, tô đậm cái phi thường nơi những cái bình thường, những con người bình dị. Ở đó, vẫn là dáng vẻ của một nét bút cẩn thận đến chính xác từng từ, từng chữ, từng câu. Ở đó, vẫn là một Nguyễn Tuân với sức liên tưởng đa dạng đến phong phú, sắc sảo.

Mở đầu tùy bút là hình ảnh Đà giang với những biến đổi, những tiết tấu có khi trái ngược. Địa hình, sự bày biện của tạo hóa làm nên một sông Đà kì vĩ, đẹp với sự hung bạo mãnh liệt. Và một sông Đà lặng lờ, hoang vắng, đẹp như một áng tóc trữ tỉnh, hồn nhiên, mơ mộng, cổ kính như một bài Đường thi. một nỗi niềm cổ tích. Với Nguyền Tuân, khúc hát sông Đà là khúc hát dịu của bản tinh ca Tây Bắc đắm say lòng người, vừa là khúc quân hành, điệu trầm hùng, sôi nổi của một nhịp hành quân, ở cả hai góc độ, vẻ đẹp sông Đà đều được đôi mắt tinh tế, bàn tay điệu nghệ của Nguyễn Tuân tái hiện một cách sáng tạo, đầy ngẫu hứng.

Khi nhìn sông Đà ở chặng dữ dội, hung bạo nhất của nó, ông khái quát một liên tưởng đầy hình ảnh, bất ngờ gợi ấn tượng. Đó là một sông Đà có tâm địa của một bà mẹ kế. Để làm rõ tính chất này, ông đã tập trung bút lực với rất nhiều những cách thức, những biện pháp liên tưởng nghệ thuật từ nhân hóa đến ẩn dụ, từ cường điệu đến so ánh, ví von, lối mô tả gây ấn tượng để đặc tả thác, đá sông Đà. Thác, đá sông Đà nhờ vậy hóa thân thành những chứng nhân sinh động nhất về một sông Đà hung bạo. Đầu tiên là âm thanh của thác nước với thật nhiều những cung bậc. Khi thì có giọng oán trách khi van xin, khi khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo. Thế rồi, khi bị chặn bởi những thác đá, thác nước rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuôn rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng. Rõ ràng việc cả nhận như vậy không thể là việc nhận của một người chỉ một sớm một chiều ở với sông Đà. Cảm nhận đầy màu sắc, âm điệu đó chỉ xuất phát, từ trái tim yêu sông Đà tha thiết, đầy quý trọng của Nguyễn Tuân. Sinh thời, ông vốn thích ngao du tới sơn cùng thủy tận. Sông Đà với đá thác của nó đã thực sự hấp dẫn ông. Ta hãy nghe ông tả núi sông Đà. Đó quả là một bức tranh hoành tráng, đầy cung bậc: Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông... Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, nhăn nhúm, méo mó. Đá như bày thạch trận trên sông. Có thể nói đây là đoạn thể hiện rõ nhất phong cách miêu tả cùa Nguyễn Tuân. Ông vận dụng tổng hợp các tri thức từ quân sự đến võ thuật, từ cách nhìn của điện ảnh đến mĩ thuật, vẽ ra trước mắt ta một trận thủy chiến giữa đá và thuyền đầy ấn tượng dữ dội và bội phần sinh động, lột tả được đỉnh điểm chất hung bạo sông Đà. Chẳng hạn thạch trận dày bày vừa xong thì cái thuyền vụt tới. Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ phong lẫm liệt... Mặt sông trong tích tắc lòa sáng lên như một cửa bể đom rừng ùa xuống mà châm lửa vào đầu sóng. Đoạn văn thể hiện một trí tưởng tượng với sức liên tưởng thật phong phú. Ở đây, tâm hồn ông như bay lượn bằng đôi cánh mênh mông của tưởng tượng. Thế nhưng, dù vậy, nó không tùy tiện. Nó được bắt nguồn từ sự quan sát sự vật một cách chính xác, tỉ mỉ, tường tận đến từng chi tiết. Sóng nước được liên tường thật phóng khoáng, thật sáng tạo bằng hình ảnh: như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái, mà thúc gối vào bụng, vào hông thuyền. Nước xô thuyền thì giống như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thạch la nạo bạt… Lối liên tưởng, so sánh, tưởng tượng đó mang dấu ấn Nguyễn Tuân đến không thể lẫn lộn. Đó là cái rất Nguyễn Tuân thể hiện đến mức đậm trong hình ảnh một dòng sông Đà hung bạo. Ở góc độ thứ hai, tác giả hình dung nó tuôn dài như một tóc trữ tình. Giọng văn ở đoạn này êm đềm, mượt mà như một bài Đường thi cổ điển. Tác giả gọi đó là sự gợi cảm cổ nhân. Lần lượt, từ nhiều góc độ, ẩn hiện một dòng Đà giang đẹp đến mức hoang tưởng. Một sông Đà của mùa xuân cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân. Lúc đó, sông có màu xanh ngọc bích (chứ không phải màu xanh canh hến của sông Gâm, sông Lô). Sang thu, sông Đà lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn, bực bội (...) bầm đi vì bữa rượu.

Đặc biệt, trong cảm nhận thẩm mĩ của ông, sông Đà bộc lộ nét trữ tình sâu lắng nhất là vẻ yên lặng đến hoang sơ của dòng sông, vẻ đẹp hoang dại, cổ

Tích đó được nhân lên bằng chất thơ, trí tưởng tượng của Nguyễn Tuân. Bằng niềm thương vô hạn cùa một trái tim nghệ sĩ và trí tuệ của một nhà khảo cổ học, Nguyễn Tuân nửa như muốn lưu giữ lại tất cả những gì gọi là nguyên thủy của dòng sông lại nửa muốn có một đổi thay văn minh nào đó cho vùng đồi núi hoang sơ này. Ta hãy nghe đoạn văn có thể nói là hay nhất, mẫu mực của một người suốt đời tìm kiếm cái đẹp. Đoạn văn như ngọt mềm, tan trong đầu lưỡi cùa những người cảm nhận. Nếu để ý kĩ sẽ thấy dù là văn xuôi, Nguyễn Tuân cũng rất chú ý đến cấu trúc bằng - trắc để tăng nhạc điệu, tạo cảm giác mềm mại để bộc lộ chất thơ, chất trữ tình của sông Đà: Thuyền trôi trôi trên sông Đà, sáu thanh bằng cộng tới từ trôi khiến cho sông như tăng thêm vẻ hoang dại, êm đềm đến sương khói. Thuyền tôi trôi trên sông Đà. Cảnh ven sông ở đây lặng lờ. Hình như từ đời Lý, đời Trần, đời Lê quãng sông này cũng lặng tờ đến thế mà thôi. Thuyền tôi trôi qua một nương ngô. Mới nhú nên mấy lá ngô non đầu mùa. Mà tịnh không một bóng người. Cỏ gianh đồi núi đang ra những non búp. Một đàn hươu cúi đầu ngốn búp cỏ gianh đẫm sương đêm. Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích ngày xưa. Chao ôi, thấy thèm được giật mình vì một tiếng còi xúplê của một chuyến xe lửa đầu tiên đường sắt Phú Thọ - Yên Bái - Lai Châu. Con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương, chăm chăm nhìn tôi lừ lừ trôi trên mũi đò. Hươu vểnh tai nhìn tôi không chớp mắt mà như hỏi mình bàng cái tiếng nói riêng của lành: Hỡi ông khách sông Đà, co phải ông vừa nghe thấy một tiếng còi sương. Ví bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử, hồn nhiên như một niềm cổ tích ngày xưa… là những cách ví đầy sáng tạo của một bậc kĩ thuật ngôn từ đầy dụng công trong bút pháp. Cảm nhận như vậy, trước kia cũng là cảm nhận của người thơ một lần đến với sông Đà. Vâng! Đó là Tản Đà. Và trong cái dòng biệt li tuôn dòng lệ kia ở Thề non nước có nét nào của sông Đà một lần hội ngộ không?

Dải sông Đà bọt nước lênh bênh

Bao nhiêu cảnh, bấy nhiêu tình

Trong bối cảnh ấy, với tấm lòng biệt nhỡn liên tài, Nguyễn Tuân đã dựng lên trên sông Đà một tượng đài kì vĩ đến thách thức hóa công. Với bút pháp của mình,trên dòng sông có khi dữ dội đến tàn bạo, khốc liệt, hiện lên sừng sững dáng vẻ của người lái đò Lai Châu. Bằng chính bàn tay khôi óc và trái tim, những vết sẹo được Nguyễn Tuân liên tưởng là những tấm huy chương chiên công, người lái đò đã trở thành những người nghệ sĩ tài hoa. Người nghệ sĩ ấy đã chấm những nét lỗi lạc nhất của mình trên bức tranh hoành tráng sông Đà và dưới con mắt của người luôn muốn phát hiện vẻ đẹp, chất tài nghệ thuật nơi những cuộc đời đôi khi bình dị đến bình thường. Nguyễn Tuân đã mô tả cuộc vượt thác của người lái đò như một là một viên dũng tướng trận tiền, lao vào sinh tử bát quái của trận đồ đá thác, dữ dội, khốc liệt. Ở đây, ta gặp lại Nguyễn Tuân ở Vang bóng một thời, Chùa Đàn... Rõ ràng, chủ nghĩa duy mĩ của Nguyễn Tuân trước Cách mạng tháng Tám là một kiểu duy mĩ không biên giới, không giai cấp. Nguyễn Tuân nhận ra ở người đao phủ nghệ thuật chém treo ngành trác việt. Lại nhận ra bút lực, thiên lương nơi tử tội. Chiêu tuyết lãng mạn cho một người phải hành khất vì thú uống trà. Cái ngón bút chì ma quái của một gã cướp ngang tàng... và với cảm hứng ngợi ca người lái đò Lai Châu, đây cũng là dịp để tài hoa của Nguyễn Tuân trổ những đường khắc chạm. Dù vậy, điểm đáng quý ở đây, Nguyễn Tuân không rơi vào kiểu duy mi có khi hơi cực đoan, chói tai trước Cách mạng. Hành trình ấy đã có một lối rẽ để hòa nhập với thời đại. Qua cuộc đời của người lái đò vô danh nhưng nghệ sĩ, tài hoa trên thác đá sông Đà, Nguyễn Tuân muôn khẳng định rằng: chủ nghĩa anh hùng không chỉ có ở chiến trường. Nó ẩn hiện trong mỗi người, ở cuộc sống đời thường mà vì mưu sinh họ phải đối mặt đàm tâm với thiên nhiên. Chủ nghĩa duy mĩ đó của Nguyễn Tuân sau Cách mạng chính là một cách nói khác, cách nói của Nguyễn Tuân về một thứ chủ nghĩa anh hùng cách mạng đang nở rộ từng ngày, từng giờ trên từng thớ đất Việt Nam. Đó là chất vàng mười nuôi dưỡng và sản sinh ra không biết bao người đổ mồ hôi, nước mắt vì Tố quốc này.

Tônxtôi có nói rằng: Khi một nhà văn mới xuất hiện, câu đầu tiên mà tôi hỏi anh ta là, anh đã mang được gì mới cho văn học. Nguyễn Tuân không phải là một nhà văn mới, nhưng những đóng góp của ông cho nền văn học cách mạng còn non trẻ là những đóng góp của kẻ mở đường. Ông đã đặt niềm sáng cho một dòng tùy bút mà sau nay sẽ tuôn chảy bất tận - dòng tùy bút mà cảm hứng trữ tình chủ yếu là ngợi ca đất nước, con người Việt Nam. Và chính ông với với Sông Đà, đã chứng minh rằng, có một vẻ đẹp chính ở những nơi những con người giản dị, bình tâm. Có một thứ chủ nghĩa anh hùng nơi những cuộc sống đời thường. Họ góp phần tạo nên vẻ hoành tráng, sự đa dạng của nghĩa anh hùng Việt Nam thời đại mới, nói như Nguyễn Khoa Điềm trong trường ca Mặt đường khát vọng:

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Cái tôi của Hoàng Phủ Ngọc Tường trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?"

Về hình tượng Lor-ca, có ý kiến cho rằng: "Đó là mẫu nghệ - chiến sĩ ...... nên bị phát xít hành hình". Ý kiến khác: "Đó là mẫu nghệ sĩ thuần túy ..... bị giết hại ". Hãy bình luận ý kiến trên."

Chứng minh rằng: “Cảnh vượt thác trong “Người lái đò Sông Đà” và cảnh cho chữ trong “Chữ người tử tù” của Nguyễn Tuân đều là những “Cảnh tượng xưa nay chưa từng có"

Chất thơ trong "Ai đã đặt tên cho dòng sông?" của Hoàng Phủ Ngọc Tường

Một trong những nét phong cách nghệ thuật của Nguyễn Tuân là nhìn con người ở phương diện tài hoa nghệ sĩ. Hãy phân tích nhân vật người lái đò trong tùy bút "Người lái đò sông Đà" để làm sáng tỏ nhận định trên

1 1467 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: