TOP 15 mẫu Cảm nhận về người đàn bà hàng chài (2024) SIÊU HAY

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài lớp 12 gồm dàn ý và 15 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 1,526 20/12/2023
Tải về


Cảm nhận về người đàn bà hàng chài

Dàn ý cảm nhận về người đàn bà hàng chài

I. Mở bài

Giới thiệu về Nguyễn Minh Châu, tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa: Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thuộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật. Nổi bật trong truyện là hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

II. Thân bài

1. Tên tuổi, ngoại hình

- Tên tuổi: Không tên không tuổi, chỉ được gợi là người đàn bà hàng chài hoặc người đàn bà.

- Ngoại hình: trạc ngoài bốn mươi, thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch, tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…

=> Sự lam lũ, vất vả của người phụ nữ.

2. Tính cách, phẩm chất

- Hiền lành, nhút nhát: Người đàn bà chỉ quen sống giữa mặt nước vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi”, Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.

- Từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn…”, hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có biển động…”, “ Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông…”

- Giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, hy sinh vì con cái “ Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”

- Một người phụ nữ giàu tình yêu thương: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn no”, yêu thương thằng bé Phác nhất “ . Trong cái đám con cái đông đúc đang sống ở dưới thuyền, mụ không yêu một đứa nào bằng thằng Phác”...

III. Kết bài

Đánh giá về tác phẩm cũng như nhân vật người đàn bà hàng chài: Chiếc thuyền ngoài xa mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng khắc họa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài để lại trong lòng người đọc những ấn tượng sâu sắc.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 1)

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thuộc giai đoạn kháng chiến chống Mỹ. “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn xuất sắc của ông, thể hiện nhiều quan niệm sâu sắc về con người và nghệ thuật. Nổi bật trong truyện là hình ảnh người đàn bà hàng chài đã để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Nhà văn đã xây dựng nhân vật này hiện lên vô cùng chân thực, sinh động. Đó là một người phụ nữ có tên tuổi cụ thể, mà chỉ được gọi một cách phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” hay “mụ”... Qua đó, chúng ta thấy được rằng nhân vật trong tác phẩm của Nguyễn Minh Châu cũng chỉ là một trong số biết bao người đàn bà vùng biển khác. Nhưng chính nhân vật này lại đại diện cho số phận của những người phụ nữ vùng biển.

Tiếp đến, nhà văn đã khắc họa cho người đọc thấy đôi nét về ngoại hình của người đàn bà hàng chài. Dáng người mang đặc trưng của những người phụ nữ sống ở vùng biển “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Khuôn mặt của người đàn bà hiện lên đầy “mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”, “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng…”. Có thể thấy, cuộc sống cực khổ, lam lũ đã in đậm lên ngoại hình của nhân vật này.

Điều bất ngờ mà Nguyễn Minh Châu mang đến là đằng sau vẻ ngoại hình xấu xí lại là một tâm hồn đẹp đẽ. Điều đó được Nguyễn Minh Châu hé mở trong cuộc trò chuyện của Phùng, Đẩu với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện. Chứng kiến cảnh tượng bạo lực của người đàn ông vũ phu, Phùng đã chạy vào can ngăn. Mấy ngày sau đó, người đàn bà hàng chài đã được chánh án Đẩu mời lên tòa. Người phụ nữ quanh năm vất vả, lam lũ chỉ quen với sông nước, khi vừa đặt chân vào trong phòng đầy bàn ghế và giấy má liền tìm đến một góc tường để ngồi. Tại đây, Đẩu khuyên chị hãy bỏ người chồng vũ phu: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu. Chị nghĩ thế nào?”. Thế nhưng, khi chánh án Đẩu nhắc đến chuyện ly hôn, chị ta lại van xin “Con lạy quý tòa … Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó...”. Câu trả lời của người đàn bà hàng chài khiến cho Phùng cảm thấy gian phòng ngủ lồng lộng gió biển của Đẩu tự nhiên bị hút hết không khí, trở nên ngột ngạt và phải bước ra. Truyện càng trở nên hấp dẫn hơn, khi sự xuất hiện của Phùng khiến người phụ nữ cảm thấy lo lắng, sợ hãi vì nghĩ rằng anh chính là nhân chứng được mời tới.

Nhưng đằng sau sự nhút nhát đó, trái với vẻ sợ sệt lúc ban đầu, người đàn bà hàng chài là tỏ ra là một người phụ nữ từng trải, thấu hiểu lẽ đời: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc...”. Chị tự nhận lỗi lầm về mình: “ Giá tôi đẻ ít đi hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn, từ ngày cách mạng về đã đỡ đói khổ chứ trước kia vào các vụ bắc, ông trời làm động biển suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối... ”. Và bênh vực người chồng vũ phu: “ Lão chồng tôi khi ấy là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”, “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con, nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Người phụ nữ ấy cũng thật giàu đức hy sinh: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất được!”. Niềm vui lớn nhất của người đàn bà ấy cũng là lúc được ngồi nhìn các con được ăn no, lúc vợ chồng con cái sống hòa thuận vui vẻ.

Chiếc thuyền ngoài xa mang một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống và con người. Đồng thời, Nguyễn Minh Châu cũng khắc họa hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài với vẻ đẹp khuất lấp thật đáng trân trọng và yêu mến.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 2)

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu thời chống Mĩ, cũng là cây bút tiên phong thời kì đổi mới. “Chiếc thuyền ngoài xa” là truyện ngắn xuất sắc ở thời kì sau, viết về lần giáp mặt của một nghệ sĩ với cuộc sống đầy nghịch lí của một gia đình hàng chài, qua đó thể hiện lòng xót thương, nỗi lo âu đối với con người và những trăn trở về trách nhiệm của người nghệ sĩ. Tác phẩm được xây dựng với nhiều nhân vật, nhưng có lẽ nhân vật để lại nhiều ấn tượng trong lòng người đọc nhất là nhân vật người đàn bà hàng chài.

Trong tác phẩm, nhân vật người đàn bà hàng chài chính là tâm điểm trong câu chuyện của Phùng. Nhân vật này chủ yếu xuất hiện trong phát hiện thứ hai của phùng về chiếc thuyền chài lưới và xuất hiện trong chính câu chuyện cuộc đời chị kể ở tòa án huyện. Qua đó, cuộc đời, số phận, tích cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở đối với tác giả và người đọc.

Người đàn bà hàng chài, không được gọi tên. Chỉ được gọi bằng những đại từ” Người đàn bà, bà…” Người đàn bà chạc bốn mươi tuổi, mang thân hình quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con, nghèo khó. Người đàn ông xấu xí (chồng chị), một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửi rửa chị và các con chị “ Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ” Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của chồng tàn bạo, nhưng chị vẫn “ Với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng Phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố”. Cả hai mẹ con chỉ biết khóc.

Khi gặp chánh án Đẩu và gợi ý cho chị về vấn đề ly hôn, chị nhất định không chịu, chị hiểu rằng trên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Xưa chồng chị là một con người cục tính nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đánh vợ con. Chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Theo chị, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạn nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

Khi bị người chồng đánh, chị không có một phản kháng nào, không chống trả, cũng không chạy trốn. Chị coi việc bị đánh như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị đã phải gửi thằng Phác lên rừng để nó không phải hận bố vì thấy cảnh đã đánh mẹ. Chị không muốn bỏ chồng vì không muốn nhìn cảnh các con thấy bố mẹ chia tay. Cũng vì thương con chị đã yêu cầu lão chồng vũ phu mang chị lên bờ mà đánh vì sợ con nhìn thấy. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Tác giả đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con, am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người đàn bà hàng chài trong truyện chiếc thuyền ngoài xa, chúng ta vẫn thấy thấp thoáng người phụ nữ Việt Nam, dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong là một phẩm chất cao quí, luôn nghĩ tới gia đình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn chăm sóc gia đình mình. Đồng thời tác phẩm đã phản ánh một điều, không nên có cái nhìn một chiều về con người và cuộc sống mà cần phải có cái nhìn bao quát và toàn diện hơn.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 3)

Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất cho người đọc là người đàn bà làng chài - người phụ nữ vô danh với tấm lòng bao dung, vị tha, đức hi sinh .

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới..toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng . Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Xuyên suốt toàn bộ câu chuyện, hầu như người đọc không hề được biết đến tên gọi của người đàn bà tội nghiệp ấy, Nguyễn Minh Châu đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta.... Không phải nhà văn "nghèo" ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà dường như đằng sau cách gọi phiếm định ấy đã hé mở một cuộc đời ngang trái, một số phận bị vùi dập giữa cuộc sống bộn bề lo toan.

Dường như cuộc sống chẳng có gì đáng nói nhưng trong chị lại chứa đựng nhiều điều kì diệu khiến người khác phải suy nghĩ. Người đàn bà trạc ngoài 40, hình dáng thô kệch, rỗ mặt, khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và gợi ấn tượng người đàn bà xấu xí, mệt mỏi dường như đang buồn ngủ. Và cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch.

Qua câu chuyện ở tòa án huyện người đọc hiểu hơn sự bất hạnh trong cuộc đời chị. Dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu, tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ... Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh, suốt từ khi còn nhỏ. Có mang với một anh hàng chài, đến mua bản về đan lưới, rồi thành vợ chồng. Cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,...

Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, với lời lẽ cay độc" Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ". Khi bị đánh chị không hề kêu một tiếng, không chống trả, không tìm cách chạy trốn mà coi đó là một lẽ đương nhiên.

Người đàn bà đã nhẫn nhục, cam chịu. Chị không muốn đàn con phải nhìn thấy cảnh cha đánh mẹ. Chị xin chồng lên bờ mà đánh khi con lớn. Chị xót xa đau đớn khi phải chứng kiến cảnh thằng Phác đánh cha: “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, và làm rỏ xuống những dòng nước mắt…’

Người đàn bà ấy là người sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Cái sự thâm trầm trong thấu hiểu lẽ đời dường như chị chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bên ngoài. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình, chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy. Khi được đề nghị giúp đỡ thì : “Xin các chú lượng tình cho cái sự lạc hậu”; "Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được nhưng đừng bắt con bỏ nó".

Chị ý thức được thiên chức của người phụ nữ :"Ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con và nuôi con cho đến khi khôn lớn". Trong cuộc mưu sinh đầy cam go: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề. Sự cần thiết của việc có người đàn ông làm chỗ dựa, để chèo chống khi phong ba bão táp, cùng nuôi dạy các con: "Đàn bà trên thuyền chúng tôi phải sống cho con, không thể sống cho mình như trên đất được". Chị "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình".

Có thấu hiểu được như vậy chúng ta mới hiểu hết tình cảm, tấm lòng của người đàn bà bất hạnh. Bởi nếu hiểu sự việc một cách đơn giản chỉ cần yêu cầu người đàn bà bỏ chồng là xong. Nhưng nhìn vấn đề một cách thấu suốt thì suy nghĩ và cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được. Nguyên nhân sâu xa của sự cam chịu chính là tình thương con vô bờ bến của chị.

Người đàn bà ấy còn là người giàu lòng vị tha. Chị thấu hiểu nguyên nhân vì sao chồng lại trở nên như thế. Chị hiểu được trước đây chồng vốn là anh con trai cục tính nhưng hiền lành, cũng nghĩ cho vợ con nhưng rồi cuộc sống mưu sinh khổ nhọc làm cho anh tha hóa. Có thể chúng ta không chấp nhận cho hành vi tội lỗi của ông nhưng chúng ta phần nào cảm thông cho ông.

Đặc biệt ở người đàn bà là chị cũng đã vẫn giữ trong tâm hồn mình ngọn lửa của hy vọng, của niềm tin để thắp lên hạnh phúc mỏng mạnh: Trong khổ đau triền miên, người đàn bà ấy vẫn chắt lọc được những niềm hạnh phúc nhỏ nhoi : "..vui nhất là lúc ngồi nhìn con tôi chúng nó được ăn no”; “trên chiếc thuyền cũng có lúc vợ chồng con cái chúng tôi sống hòa thuận, vui vẻ”.

Đằng sau sự nhẫn nhục ấy là bản năng sinh tồn mãnh liệt và một tấm lòng yêu thương đáng thương. Người đàn bà hàng chài vừa lam lũ, chất phác, có tình thương con vô bờ bến, vừa luôn mang nỗi đau, vừa có cái thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời. Thấp thoáng trong người đàn bà ấy là bóng dáng của biết bao phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, giàu lòng vị tha và đức hi sinh.

Gấp trang truyện lại người đọc còn mãi ám ảnh bởi những câu hỏi: Cuộc đời người đàn bà ấy rồi sẽ kết thúc ra sau? Những đứa con tội nghiệp của bà có được cuộc sống hạnh phúc? Đó là những vấn đề nhà văn vẫn chưa đưa ra lời giải đáp. Câu trả nằm trong cuộc sống, hành động của mỗi người chúng ta . Điều đó nói lên giá trị của tác phẩm và tầm vóc to lớn của nhà văn Nguyễn Minh Châu trong văn xuôi Việt Nam hiện đại.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 4)

Nguyễn Minh Châu là một nhà văn nổi tiếng. Trong số các tác phẩm làm nên tên tuổi của ông phải kể đến truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”. Tác phẩm đã gây được ấn tượng sâu sắc với người đọc qua nhân vật người đàn bà hàng chài.

Nhân vật này được xây dựng là số phận đại diện cho trăm ngàn người đàn bà hàng chài sống lênh đênh trên sông nước. Nhân vật này không xuất hiện ngay từ đầu truyện và xuất hiện trong một tình huống éo le, oái ăm. Người đàn bà bước xuống từ Chiếc thuyền ngoài xa tuyệt đẹp – là tâm điểm của bức ảnh nghệ thuật mà nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng sau hơn một tuần lễ “phụ kích” đã tìm thấy được. Nhưng Phùng không thể nào ngờ tới đằng sau vẻ đẹp tuyệt đích của bức ảnh nghệ thuật lại là một câu chuyện đời thường, một số phận bi thương, ai oán.

“Người đàn bà” là một phụ nữ xấu số, khuôn mặt bị rỗ chằng chịt, là kết quả của một trận đậu mùa từ tấm bé. Lớn lên, làm vợ một người đàn ông làng chài. Số phận bi thảm của người đàn bà có thể gọi bằng nạn bạo hành gia đình. Bà bị chồng đánh đập hành hạ “ba ngày một trận nhẹ”, “năm ngày một trận nặng”, nhưng vẫn không kêu lên một tiếng, vẫn không oán trách, không tìm cách trốn chạy. Ngay cả khi được tòa án động viên, khuyên nhủ, người đàn bà ấy vẫn kiên quyết không chịu rời bỏ người chồng vũ phu, độc ác.

Có thể ta ngạc nhiên và thấy kỳ lạ trước hành động và thái độ không bình thường của người đàn bà này nhưng khi những lời tâm sự thật tình của bà, thì chánh án Đẩu, nghệ sĩ Phùng và tất cả chúng ta mới vỡ lẽ ra căn nguyên của sự việc. Qua những lời kể của người đàn bà, ta phần nào hình dung được về người đàn ông – chồng bà là một người đàn ông cộc tính nhưng hiền lành ‘chẳng bao giờ đánh đập tôi cả”, nhưng giờ đây, vẫn người đàn ông ấy đã trở thành một kẻ vũ phu, độc ác, vô nhân tính. Cái gì cũng có nguyên nhân, sự thay đổi đó, cái đói khiến cho con người ta quên đi tất cả, khiến người ta cáu gắt, lạnh lùng, bực bội. Tội ác sinh ra từ đó, ‘bất kể lúc nào cảm thấy bực bội là lão lại vác tôi ra đánh”. Những lời người đàn bà kể xoáy sâu hơn vào nỗi đau của con người trước tình cảnh đói nghèo – “cả nhà vợ chồng con cái đều phải ăn xương rồng luộc chấm muối”, đẻ nhiều, đông con, làm ăn khó khăn “trời làm cho biển động cả tháng trời”. Người đàn bà nhìn suốt vào cả cuộc đời mình: “chỉ tại tôi đẻ nhiều quá, cả nhà không thể sắm một chiếc thuyền rộng hơn”. Đó là một sự thật phũ phàng, là hiện tượng phổ biến không thể tránh khỏi của những con người làm nghề chài lưới. Vì thế, gánh nặng cơm áo luôn đè nặng lên vai người đàn ông khiến ông ta không khỏi rơi vào bế tắc, ông ta phải trút mọi uất ức, đau khổ lên một nơi nào đó để giải thoát minh, và nơi trút không đâu khác hơn là người vợ. Và thế là ta hiểu vì sao khi vừa bước xuống bờ, “đôi mắt dữ dằn của lão cứ dán chặt vào tấm lưng bạc phếch và rách rưới của người đàn bà”. Lão tìm thất ở vợ căn nguyên đau khổ của cả cuộc đời mình. Đến khi hai người khuất vào sau chiếc xe rà phá mìn, lão đàn ông “lập tức trở nên hùng hổ, mặt đỏ gay…” hắn trút mọi giận dữ bằng cách rút chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, hắn vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két, mỗi nhát quật xuống hắn lại rên rỉ trong đau đớn, uất ức: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ!”. Nghe trong mỗi tiếng rên xiết của lão đàn ông độc ác, ta vẫn thấy được nỗi đau xót, bế tắc, bất lực trước hiện thực cuộc sống nghèo đói, túng quẫn của lão. Vì thế, ta hiểu rằng đánh vợ là cách mà lão đàn ông giải tỏa gánh nặng, đánh vợ nhưng chính ông cũng không cảm thấy sung sướng, nhẹ nhõm.

Còn người đàn bà, khi bị chồng đánh đập, hành hạ cũng không hề kêu lên một tiếng, không hề chống trả, cũng không tìm cách trốn chạy, phải chăng người đàn bà ấy bị đánh đòn nhiều quá nên thành quen, hay bà ta tăm tối, dốt nát đến mức không còn nhận thức được về quyền sống của mình. Có lẽ không phải thế? Khi Kiều bị đánh đập, Nguyễn Du đã phải thốt lên rằng:

“Thịt da ai cũng là người

Lòng nào chẳng rụng, thắm vào chẳng rơi.”

Đúng thế, người đàn bà cũng là con người như tất cả chúng ta, có cảm giác, có đau đớn, có khả năng tự vệ. Nhưng vì cuộc sống của bà quá lênh đênh, quá chìm nổi bất trắc trên một chiếc thuyền, với một sắp con nhỏ trên dưới chục đứa, liệu rằng người đàn bà ấy có cách nào khác để thay đổi cuộc sống.

Nhân dân ta có câu “cá chuối đắm đuối vì con”, có lẽ người đàn bà ấy ý thức được hơn bất kỳ ai thiên chức làm mẹ của mình, vì thế “trên thuyền phải có một người đàn ông chèo chống phong ba bão táp để cùng làm ăn và nuôi nấng đặng sắp con nhỏ’. Bà ý thức sâu sắc số phận và trách nhiệm của mình đối với con “đàn bà hàng chài sống trên truyền chỉ có thể sống vì con chứ không thể sống vì mình như đàn bà trên đất được”. Người đàn bà ấy sẵn sàng chịu khổ, chịu hành hạ cũng vì những đứa con. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà là bóng dáng của hàng ngàn hàng triệu người phụ nữ Việt Nam đôn hậu, giàu tình thương, cam chịu và giàu đức hy sinh.

Nhẫn nhục đối với chồng nhưng người đàn bà rất tự trọng đối với con, lo lắng cho tương lai của chúng. Bà nơm nớp lo sợ những hành động bạo lực của người cha sẽ gây tổn thương tinh thần cho những đứa con. Vì lẽ đó, khi những đứa con dần lớn lên, người đàn bà xin với chồng ‘đưa lên bờ mà đánh”. Bà không muốn con chứng kiến nỗi đau khổ của cả một cuộc đời bà, đối với bà: chẳng gì đau đớn hơn sự tổn thương đầu đời gây ra cho những đứa con. Bà không cho phép con làm gì có lỗi với bố, dù sao đi chăng nữa, người đàn ông ấy vẫn là bố của chúng, vẫn là cái trụ cột vững vàng của cả cái gia đình đông đúc này. Bà âm thầm chịu đựng những đau khổ, giày vò về thể xác lẫn tinh thần, chỉ với một mong mỏi duy nhất là nuôi lớn đàn con. Bà dành tình yêu thương cho đàn con, nhất là đối với thằng Phác. Trong đau khổ, tủi nhục song cũng có lúc người đàn bà ấy cảm thấy hạnh phúc. Đó là những lúc nhìn thấy những đứa con được ăn no, ấy là một hạnh phúc đời thường nhỏ bé và giản dị biết bao nhưng đối với người đàn bà bất hạnh, điều đó trở thành nghị lực sống, vực bà dậy từ những cơ cực, tủi nhục.

Người đàn bà làng chài ý thức được thiên chức làm mẹ cao cả của mình và nắm giữ lấy những khoảnh khắc hạnh phúc bé nhỏ trong cuộc sống. Đó chính là lý do khiến những hành động và suy nghĩ của bà đều hướng về một niềm tin gắn bó với thuyền, với người chồng độc ác, vũ phu. Khi được toà án mời đến và vị thẩm phán vô cùng cảm thông chia sẻ với nỗi đau và cuộc sống của người đàn bà, và vẫn kiên quyết từ chối việc ly hôn chồng. Vị thẩm phán đã nhận được câu trả lời tưởng chừng vô lý mà lại vô cùng thấm thía: “các chú có lòng tốt nhưng các chú đâu phải là người làm ăn, đâu thể hiểu được việc của những người làm ăn lam lũ khó nhọc”. Trước một người đàn bà làng chài thất học, lam lũ mà trải đời, vị thẩm phán thông minh thật bé nhỏ, tầm thường, có thể anh là một người thông hiểu pháp luật nhưng anh chưa thực sự thấu suốt lẽ đời. Anh thấy “có cái gì đó mới vỡ ra trong đầu”. Anh thấm thía hơn bao giờ hết nghịch lý của cuộc sống, những nghịch lý khó có thể chấp nhận tựa như “các chú không phải đàn bà, không thể nào hiểu được những khó nhọc của người đàn bà trên thuyền không có đàn ông”. Và anh bắt đầu nhận ra rằng cuộc chiến chống đói nghèo thực ra là một cuộc chiến rất cam go, vất vả, phải có một giải pháp thực tế hữu hiệu chứ không thể giải quyết bằng những thiện chí và những lý thuyết đẹp đẽ xa rời thực tế. Cuộc chiến ấy còn khó khăn hơn cuộc chiến chống ngoại xâm, bởi lẽ khi chưa thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn bế tắc của đói nghèo, con người ta vẫn phải sống chung với cái xấu, cái cũ.

Cuộc sống và số phận của người đàn bà làng chài cũng đem đến cho Phùng, người nghệ sĩ nhiếp ảnh cái nhìn mới mẻ về nghệ thuật, con thuyền nghệ thuật có thể ở rất xa, con người khó có thể với tới được nhưng hiện thực cuộc sống ở rất gần ta, xung quanh ta và gắn bó với ta. Đó cũng chính là mối quan hệ mật thiết giữa nghệ thuật và cuộc sống, “nghệ thuật sẽ chẳng là gì nếu không vì cuộc sống mà có” (Phạm Văn Đồng).

Qua số phận đầy cay đắng của người đàn bà làng chài, Nguyễn Minh Châu đã ca ngợi phẩm chất cao đẹp của những con người lao động bình thường và đồng cảm sẻ chia với những người phụ nữ làng chài. Thấp thoáng ở đó, ta vẫn thấy ở người phụ nữ nghèo khổ lam lũ ấy những phẩm chất cao đẹp, rất tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam: đảm đang, giàu tình yêu thương và đức hi sinh cao đẹp. Qua hình tượng người đàn bà nhà văn đã chia sẻ, cảm thông với những số phận đau khổ tủi nhục của những người lao động vô danh đông đảo trong xã hội, đồng thời cũng phát hiện, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của người lao động. Mặt khác, Nguyễn Minh Châu còn đặt ra trách nhiệm cho đông đảo tầng lớp văn nghệ sĩ phải có cái nhìn đa chiều, đa diện về cuộc sống: “Con người thì đa đoan, cuộc đời thì phải đa sự”.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 5)

Người nghệ sĩ vốn là người suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mĩ bên trong. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.

Chiếc thuyền ngoài xa là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, khi anh vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lí của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ, người đàn bà hàng chài ấy không chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong sự giận dữ tột độ. Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn như thế?

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và thống khổ như thế?

Người đàn bà ấy qua lời kể của Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch, không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, một dáng vẻ kham khổ của một người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” và “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, tự ti. Thậm chí khi Đẩu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.

Đọc từng câu chữ, người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm. Ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!

Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụ bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này sang bất hạnh khác, thế nhưng, bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!

Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay chăng, khi mà chiến tranh đã qua đi, và dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng vất vả mỗi ngày?

Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.

Nguyễn Minh Châu đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn tiếp diễn.

Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn thấy ánh lên ở mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mọi khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc, thấu hiểu và bao dung vô cùng.

Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ biến thành những người đàn ông thật nông nổi, hời hợt vô cùng.

Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!

Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con”, “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn. Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến nhường ấy!

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc.

Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.

Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của người đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì người đàn bà hàng chài lại luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”, “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả mọi tội lỗi đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!

Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm. Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt “mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho bản thân mình.

Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của mụ “lần đầu tiên, chợt ửng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ, yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn kiên cường chịu đựng, hy sinh vì con cái.

Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu, vị tha.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 6)

Chiếc thuyền ngoài xa là một truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Minh Châu. Trong truyện, em cảm thấy ấn tượng nhất với nhân vật người đàn bà hàng chài.

Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: “thân hình cao lớn”, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tóm lại, người đàn bà hàng chài là nhân vật được xây dựng rất thành công của Nguyễn Minh Châu. Qua nhân vật này, nhà văn cũng gửi gắm được tư tưởng nhân văn có giá trị đến độc giả.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 7)

Trong cuộc sống phức tạp này, sự thật đôi khi không phải là điều ngay trước mắt mà sự thật là cái ẩn giấu bên trong. Vì vậy muốn nhìn nhận đúng về cuộc sống về con người, chúng ta phải nhìn vào cái bên trong, bản chất thật, nhìn cuộc sống một cách đa diện. Giống như nhân vật người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu trong truyện ngắn chiếc thuyền ngoài xa.

Người đàn bà hàng chài xuất hiện trong tác phẩm không có tên tuổi, chỉ được gọi bằng những đại từ “người đàn bà hàng chài”, “mụ”. Ngoại hình được khắc họa với những nét quen thuộc của người vùng biển cao lớn với những đường nét thô kệch, mặt rỗ. Người đàn bà có ngoại hình thật xấu xí và phi thẩm mĩ. Trước kia, người đàn bà này sống ở phố. Con một gia đình khá, nhưng không ai lấy vì xấu. Chị đã có mang với anh làng chài và đã có cuộc sống hôn nhân với anh. Người khác nhìn vào cho rằng đây là địa ngục vì ba ngày chị bị một trận nhỏ, năm ngày chị bị một trận lớn. Đúng vậy cuộc sống của chị thật đáng thương và khổ cực. Chị khổ cả về thể xác và tinh thần, giống bao gia đình làng chài khác, gia đình chị đông con. Nhà thì nghèo khó. Thuyền thì bé, có những lần gia đình chị phải ăn xương rồng luộc chấm muối. Một cuộc sống không thể nào khổ hơn. Người ta nhiều khi khổ về vật chất, nhưng tinh thần đầy đủ cũng là hạnh phúc " một túp lều tranh hai trai tim vàng". Nhưng chị đâu được thế cuộc sống tinh thần của chị còn khổ hơn. Người đàn ông xấu xí- chồng chị, một phần vì cuộc sống làm cho tính cách hắn hung bạo. Hắn dùng cách giải thoát sự bức xúc bằng cách đánh đập chị, chửa rửa chị và các con chị: “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết đi cho ông nhờ’. Bị những trận đòn roi những cái quất mạnh của công tàn bạo, nhưng chị vẫn “với vẻ mặt cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không tìm cách chống trả, không tìm cách chạy trốn. Trận đòn roi chỉ dừng lại khi thằng phác lao tới cứu mẹ và đánh lại bố”. Người đàn bà kể trước kia khi con còn nhỏ, hắn đánh chị trên thuyền. Sau khi con lớn, chị xin hắn đưa lên bờ rồi đánh. Chúng ta thấy rằng cuộc sống của chị thật khó khăn, chị chỉ biết cam chịu và đôi khi chính là sự ngu dốt.

Nhưng thực chất bên trong còn nhiều điều mà mọi người chưa rõ. Khi chánh án đầu gợi ý ly hôn, chị nhất định không chịu, van nài xin không ly hôn, nhận hết trách nhiệm, tội lỗi lên đầu mình. Vì sao ư? Vì chị là một người am hiểu lẽ đời, cho dù thất học. Chị hiểu rằng tên con thuyền này cần một người đàn ông chèo chống vượt qua. Phong ba và nuôi cho sấp con của chị cũng rất cảm thông cho chồng chị, xưa là một con người cực tình nhưng không bao giờ đánh vợ. Nhưng cũng vì cuộc sống khó khăn, làm cho người đàn ông đâm ra đánh vợ con , chị nhẫn nhục cam chịu, nhận hết trách nhiệm về bản thân mình. Nhận vì mình đẻ nhiều con mà cuộc sống khổ cực. Ngoài cam chịu, chấp nhận hy sinh, cuộc sống của chị còn có niềm vui đó là khi các con chị được ăn no, mặc ấm.

Người mẹ nào cũng vậy, thấy các con mình hạnh phúc, thì bản thân hạnh phúc gấp một trăm lần rồi. Và đôi khi gia đình chị cũng hòa thuận, đầm ấm, vui vẻ chị còn có lòng tự trọng cao. Chị biết xấu hổ khi có người khác biết truyện mình bị đánh, đặc biệt là thằng phác. Người chị yêu thương nhất " Cái thằng con từ tính khí đến mặt mũi giống như lột từ cái lão đàn ông đã hành hạ mụ" Chị đã khóc khi phùng nhắc tới thằng phát. Chị thương con vô cùng, Chị cũng đem đến cho đẩu và phùng những bài học quý giá.

Nguyễn Minh Châu đã thành công trong việc sử dụng nghệ thuật đối lập. Một bên là người đàn bà xấu xí, phi thẩm mĩ, một bên là vẻ đáng thương, phẩm chất bên trong của con người đáng trân trọng. Người đàn bà trong truyện là người có cốt cách bên trong, biết nhìn xa, thương đàn con nhỏ, giàu đức hi sinh, lòng vị tha, thương chồng, thương con am hiểu lẽ đời, sẵn sàng hi sinh bản thân về hạnh phúc, no ấm cho chồng, cho con. Đây chính là những phẩm chất cao quý của người phụ nữ Việt Nam.

Qua hình ảnh người đàn bà trong truyện chúng ta thấy người phụ nữ Việt Nam vẫn giữ được những nét đẹp truyền thống của người phụ nữ Á Đông. Dù vẻ ngoài không đẹp nhưng bên trong luôn có phẩm chất cao quý. Luôn nghĩ tới gia đình, hạnh phúc nhỏ của mình, sẵn sàng hi sinh mọi thứ để giữ gìn, chăm sóc gia đình, hạnh phúc đó chính là con cái của mẹ. Người phụ nữ mang một lòng vị tha cao cả, Những khác biệt của người phụ nữ làng chài, phụ nữ ngày nay năng động hơn, làm chủ cuộc sống hơn, làm chủ được kinh tế.

Họ không còn phải nhẫn nhục chịu trận đòn roi của chồng. Họ yêu thương chồng con, họ cần một người đàn ông chèo kéo mái ấm gia đình, là người yêu thương gia đình, yêu thương vợ con. Nhưng nếu là người đàn ông vũ phu đánh đập vợ con, họ sẵn sàng báo cơ quan chức năng để bảo vệ quyền lợi hạnh phúc của gia đình mình. Bên cạnh đó vẫn còn những người phụ nữ nhu mì, hèn nhắc, nhẫn nhục sẵn sàng chịu đựng đòn roi của chồng. Cố bấu víu lấy cái hạnh phúc chỉ có trong ảo tưởng, sống không có lập trường. Họ cần phải thay đổi cách sống, cách suy nghĩ tới giải pháp cuối cùng để giải thoát tìm hạnh phúc , cho mình cơ hội để đến với hạnh phúc đích thực.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa đã cho ta thấy sự đối lập, vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ. Chúng ta cần phải nhìn cuộc sống và tâm hồn đa diện, phải tìm kiếm, khám phá cái bản chất bên trong, từ vẻ bề ngoài của người đàn bà trong truyện yêu thương chồng con hy sinh cao cả.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 8)

Nguyễn Minh Châu là một trong số những tác giả tiêu biểu nhất của văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, bằng ngòi bút tinh tế, nhẹ nhàng, ẩn chứa nhiều những bài học, những quan điểm có giá trị nhân văn ông đã đem đến cho nền văn học hiện đại một xu hướng mới. Không còn viết về những đề tài chiến tranh thảm khốc, những nỗi đau thương mất mát trên chiến trường, hay sự hào hùng hy sinh anh dũng của những con người ở tiền tuyến và hậu phương.

Nguyễn Minh Châu đã đặt trọng tâm vào việc phản ánh đời sống xã hội lúc bấy giờ, đi sâu vào từng cuộc đời cá nhân với những nỗi đau và những vẻ đẹp lẩn khuất, để cuối cùng mở ra những quan niệm mới mẻ về cuộc đời, khiến chúng ta nhận thức được những điều có lý trong chính những nghịch lý của cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm nổi tiếng nhất của Nguyễn Minh Châu với nhân vật người đàn bà làng chài mang trong mình những nỗi bất hạnh, đớn đau. Tuy nhiên từ trong những nỗi đau thương bất hạnh ấy, độc giả lại cảm nhận được thật rõ nét những vẻ đẹp tâm hồn đáng quý, cũng như thấu hiểu cảm thông hơn cho nhân vật này, cho những người phụ nữ làm nghề chài lưới ven biển giai đoạn sau giải phóng, khi mà chiến tranh đi qua nhưng những hậu quả để lại trên mảnh đất Việt Nam còn quá lớn và dai dẳng.

Trước hết để diễn tả nỗi bất hạnh của người đàn bà làng chài, người ta không thể bỏ qua những chi tiết về ngoại hình của chị. Chẳng còn gì đáng buồn hơn là ông trời đã bắt người đàn bà ấy phải chịu nỗi đau của một người phụ nữ có dung mạo xấu xí, chị vốn sinh ra trong một gia đình giàu có, thế nhưng một cơn đậu mùa đi qua đã để lại trên mặt chị cơ man nào là những nốt rỗ chi chít, rồi trở thành cô gái quá lứa lỡ thì, rồi cuối cùng may mắn nên duyên cùng người chồng hiện tại. Thế nhưng ấy chẳng phải là cuộc hôn nhân hạnh phúc, viên mãn gì, bởi lẽ lấy chồng nghèo, chị đã phải hy sinh cả cuộc đời của mình cho những nỗi lo cơm áo gạo tiền, cuối cùng giờ đây chị biến thành một người phụ nữ trung niên, dáng vẻ thô kệch, khuôn mặt tiều tụy, xơ xác, thảm hại vô cùng. Nhưng bất hạnh của chị chưa dừng lại ở đó, mà nó còn khủng khiếp hơn khi bản thân người phụ nữ này còn là nạn nhân của cảnh bạo hành gia đình dã man. Bước vào đầu câu chuyện, người ta đã không khỏi xuýt xoa say mê trước cái cảnh một con tàu tiến vào bờ trong ánh mai hồng, tựa như một bức danh họa thời cổ, một cảnh "đắt" trời cho hiếm có. Thế nhưng giữa lúc ấy bước xuống khỏi con thuyền như mơ, lại là một cặp vợ chồng, tiều tụy, lam lũ, và khủng khiếp hơn ấy là cảnh người đàn ông dùng thắt lưng quất liên tiếp vào người đàn bà đi cùng vừa đánh vừa chửi rủa đay nghiến những lời cay độc, còn người đàn bà thì chỉ biết chịu đựng, không bỏ chạy, không la hét chống cự. Rồi cả nỗi đau đớn của chị khi phải chứng kiến đứa con trai của mình là thằng Phác lao vào đánh lại bố nó để bảo vệ mẹ. Tất cả những điều ấy khiến người ta dễ dàng đặt ra một dấu hỏi lớn, vì sao người đàn bà ấy lại phải nhẫn nhịn và chịu đựng một cách nhu nhược và hèn nhát đến nhường này, trong khi bản thân chị cũng có được sự bảo vệ của thằng con, sao chị vẫn cứ căng mình để nhận lấy những đòn roi từ người chồng vũ phu, độc ác.

Tuy nhiên, chỉ khi được Phùng và chánh án Đẩu mời lên giải quyết chuyện ly hôn, chị mở lòng tâm sự những điều mình giấu trong lòng bấy lâu nay người ta mới vỡ lẽ ra rằng, không phải việc gì chúng ta cho là có lý cũng hoàn toàn đúng trong mọi trường hợp. Với câu chuyện của người đàn bà làng chài, khi được Phùng và Đẩu giúp đỡ làm thủ tục ly hôn, giải thoát khỏi cảnh bạo lực gia đình nghiêm trọng, thì phản ứng của chị không phải là vui mừng, hạnh phúc, muốn ly hôn lập tức. Mà trái lại, người đàn bà ấy sống chết cầu xin đừng bắt chị ly hôn chồng, có lẽ đối với nhiều người đó là một hành động không thể nào "gàn dở" hơn, thế nhưng phải đứng vào vị trí ấy của người đàn bà làng chài chúng ta mới hiểu chị có biết bao nhiêu nỗi lo, nỗi khó xử. Chị không muốn ly hôn chồng chung quy tất cả cũng là tấm lòng thương con của người mẹ, vì những đứa con còn tuổi ăn tuổi lớn của mình, chị sợ rằng không có người đàn ông chèo chống lúc phong ba bão táp, thì mình chị làm sao có thể gồng gánh để nuôi từng ấy miệng ăn qua những ngày biển động. Lão chồng vũ phu của chị dù có đánh đập, hành hạ chị đến cỡ nào, rồi cũng phải quay về con thuyền này, làm tròn bổn phận của một người cha, ra sức lao động để cùng chị nuôi lớn con cái. Vì con chị chẳng sợ gì đòn roi, đau đớn, miễn sao là những đứa con của chị có thể được ăn no, được lớn lên đàng hoàng, khỏe mạnh, là đã đủ khiến chị hạnh phúc, mãn nguyện. Tấm lòng người đàn bà, người mẹ ấy thật bao dung, ấm áp. Không chỉ lo lắng về vật chất, cơm ăn áo mặc, mà hơn thế nữa chị còn lo lắng cả về mặt tinh thần cho những đứa con của mình, chị muốn chúng có bố như bao đứa trẻ khác, có một gia đình đầy đủ vẹn toàn. Và dù bị đánh đập dã man, chị cũng không muốn để con mình nhìn thấy, chính vì vậy chị luôn xin gã chồng vũ phu có đánh thì rời khỏi thuyền rồi hãy đánh chị. Bởi lẽ chị không muốn những hình ảnh bạo lực, sự rạn nứt tình cảm gia đình giữa cha mẹ làm ảnh hưởng đến tâm hồn của con cái. Về chuyện của thằng Phác, khi phát hiện nó thù ghét cha mình, thậm chí có những suy nghĩ lệch lạc, chị đã nhanh chóng gửi nó về nhà ngoại, để tránh việc nó làm ra những chuyện không thể vãn hồi. Có thế mới thấy được tình mẫu tử thiêng liêng của người đàn bà làng chài, dẫu trên tấm lưng và tâm hồn dày đặc những vết thương đau đớn, thế nhưng chị vẫn một lòng bảo hộ chu toàn cho những đứa con bằng cách của riêng mình. Sống một cuộc đời nhiều sóng gió, vất vả và đau thương như thế nhưng bản thân chị không mấy khi nghĩ đến những chuyện đớn đau mà trái lại chị luôn hướng về những tháng ngày hạnh phúc, gia đình quây quần đầm ấm bên nhau trong những bữa cơm, đối với chị chỉ cần nhìn thấy con cái ăn no là chị cũng đã đủ hạnh phúc. Đối với chị "ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ" cho nên họ "phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Chị thấu hiểu lẽ ấy, nên chấp nhận nhẫn nhịn, hy sinh tất cả để củng cố cuộc đời của các con.

Bên cạnh vẻ đẹp của tình mẫu tử thiêng liêng, ở người đàn bà làng chài còn có vẻ đẹp của sự nhẫn nhịn, cam chịu và tấm lòng bao dung sâu sắc. Đối với việc bị đánh đập tàn nhẫn của người chồng vũ phu, người đàn bà làng chài không than trách, không kết tội, mà trái lại chị có phần thấu hiểu, cảm thông và bào chữa cho hắn. Chị cho rằng chung quy lại cũng chỉ tại khổ quá, đói kém quá, biết bao nhiêu gánh nặng của một gia đình hơn chục miệng ăn cứ quanh năm suốt tháng đè nặng lên đôi vai của người chồng, khiến hắn mệt mỏi và cần một nơi để trút giận, trút hết những uất ức bấy lâu, xong rồi thì hắn lại quay về lao động, kiếm sống. Chị hồi tưởng về những ngày trẻ và nhắc lại một cách dịu dàng rằng chồng chị khi ấy "cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi". Sau cùng chị tổng kết "giá mà tôi đẻ ít đi", một nạn nhân, một người đáng được che chở bảo vệ, cuối cùng lại nhận hết mọi trách nhiệm về mình và biện minh cho người đã gây ra biết bao đau khổ cho bản thân. Có tấm lòng nào nhân hậu và bao dung được hơn thế nữa. Thêm nữa có lẽ bản thân chị vẫn luôn ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng, mặc dầu cuộc đời chị có thể không được trọn vẹn, nhưng ít nhất chị cũng có một gia đình và những đứa con của riêng mình, không phải chịu sự cô độc đến già.

Bên cạnh ấy, ở người đàn bà làng chài, lam lũ, ít học, thế nhưng người ta lại nhận ra được vẻ đẹp của một tâm hồn từng trải, thấu tình đạt lý, có một cái nhìn rất đa chiều và sâu sắc về cuộc đời. Chị không chỉ là một con người biết nhẫn nhịn, biết chịu đựng mà bản thân chị còn là một người biết phân biệt đúng sai, chị cũng hiểu được rằng hành động của Phùng và Đẩu cốt là để giúp đỡ chị, thế nhưng phải đứng trong hoàn cảnh của chị người ta mới thấy khó khăn để lựa chọn cỡ nào. Từng lời phân tích, với những lý lẽ mộc mạc, giản đơn, giàu đức hy sinh của người đàn bà làng chài, dường như đã khiến Phùng và Đẩu vỡ ra một điều gì đó. Đó là việc những cái có lý vẫn có thể tồn tại ngay trong lòng những điều nghịch lý nhất, mà bản thân con người phải có một cái nhìn đa diện nhiều chiều thì mới nhận ra và thấu hiểu được.

Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu là một trong những tác phẩm xuất sắc phản ánh rất rõ bức tranh xã hội Việt Nam sau ngày giải phóng hoàn toàn miền Nam, tuy chiến tranh đã đi qua thế nhưng hậu quả nó để lại cho con người, cho mảnh đất quê hương thì còn mãi dai dẳng, chính cái đói, cái nghèo kiệt quệ đã khiến con người ta khốn khổ, tha hóa. Tuy nhiên không nhằm mục đích nhấn mạnh vào vấn đề này, mà chủ yếu Nguyễn Minh Châu muốn khai thác vẻ đẹp tâm hồn của những con người nhỏ bé, những khía cạnh đạo đức, từ đó dẫn ra những quan điểm mới về cách nhìn nhận cuộc đời, cách cảm nhận những vẻ đẹp chân chính mà ở đây là hình ảnh người đàn bà làng chài với vẻ đẹp của tình mẹ, sự bao dung và thấu hiểu lý lẽ ở đời.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 9)

Hình tượng người phụ nữ là đề tài trở đi trở lại trong văn học. Sự yêu thương giành cho những người phụ nữ sâu sắc bao nhiêu thì trước nỗi đau thân phận của họ những trang viết lại càng nhức nhối bấy nhiêu. Nỗi đau ấy từ thân phận nàng Kiều, những người chinh phụ chảy trong tim những nghệ sĩ đến với những Thị Nở, những cô vợ nhặt…và trở nên đầy ám ảnh trong Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu. Ở đây tác giả đã xây dựng thành công hình tượng nhân vật người đàn bà hàng chài, một người phụ nữ lao động lam lũ, bất hạnh, trải đời và sáng đẹp tình yêu thương, đức hi sinh và lòng vị tha cao cả. Người phụ nữ bất hạnh ấy đã để lại cho người đọc một niềm cảm thông và trân trọng sâu sắc bởi những phẩm chất đáng quá của người phụ nữ.

Truyện “Chiếc thuyền ngoài xa” ra đời trong hoàn cảnh đất nước ta đang dần đổi mới, cuộc sống kinh tế có nhiều mặt trái, nhiều tồn tại khiến người ta phải băn khoăn. Truyện ngắn này lúc đầu được in trong tập Bến quê (1985), sau được nhà văn lấy làm tên chung cho một tuyển tập truyện ngắn in năm 1987.

Nguyễn Minh Châu được coi là “người mở đường tinh anh và tài năng” trong nền văn học nước nhà. Là nhà văn luôn đi tìm tòi, khám phá con người ở chiều sâu nội tâm nên những tác phẩm của ông như những văn bản tự sự cỡ nhỏ. Nhà văn có thể chỉ “cắt lấy một lát”, “cưa lấy một khúc” và “chớp lấy một khoảnh khắc” để phản ánh bi kịch của cả một đời người và đưa ra triết lí nhân sinh. Tác giả đã xây dựng thành công nhân vật Phùng bên cạnh nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật lên phẩm chất đáng quý của người đàn bà ấy. Tất cả mọi việc xảy ra trong cuộc đời, số phận, tính cách, cảnh ngộ của chị gây xúc động, trăn trở mạnh mẽ không chỉ với tác giả mà còn với người đọc.

Truyện được kể lại qua lời của nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Phùng được dịp trở về chiến trường xưa để chụp một bức tranh cảnh biển theo lời đề nghị của trưởng phòng. Tại đây anh đã phát hiện ra một bức tranh cảnh biển có một không hai: “trước mặt tôi là một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ. Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù..Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hòa”. Cảnh đẹp ấy khiến cho người nghệ sĩ dường như vừa “khám phá thấy cái chân lí của sự hoàn thiện”. Nhưng đằng sau chiếc thuyền đẹp như trong mơ ấy lại là một cảnh tượng phũ phàng: Người đàn bà xấu xí, người chồng vũ phu, thô bạo hành hạ người đàn bà bằng những trận đòn thù, người đàn bà nhẫn nhục chịu đựng. Phùng từ sung sướng đến ngạc nhiên, sững sờ sửng sốt. Nghịch cảnh ấy khiến lòng anh tan vỡ.

Đọc hết câu truyện người đọc cũng không biết tên thật của người đàn bà ấy là ai, tác giả đã gọi một cách phiếm định: khi thì gọi là người đàn bà hàng chài, lúc lại gọi mụ, khi thì gọi chị ta…. như một sự xóa mờ nhằm tô đậm thêm số phận của chị. Khi người đàn bà này xuất hiện ở tòa án huyện để gặp chánh án Đẩu, ta vẫn không biết tên. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Minh Châu không đặt tên cho người đàn bà hàng chài này, cũng không phải nhà văn “nghèo” ngôn ngữ đến độ không thể đặt cho chị một cái tên mà là vì chị cũng giống như hàng trăm người đàn bà ở vùng biển nhỏ bé này: chị là người vô danh, là hình ảnh tiêu biểu cho cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ như bao người phụ nữ khác không hiếm gặp trên những miền quê Việt Nam. Điều đó chỉ ra một thực tế rằng, không phải chỉ mình người đàn bà đó gặp bất hạnh mà có rất nhiều phụ nữ trong xã hội lúc bấy giờ chịu những bất hạnh như thị. Nhân vật người đàn bà hàng chài ít nhiều cũng làm ta nhớ đến nhân vật thị trong truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân. Phải chăng vẫn là những số phận của con người đang sống giữa cuộc đời mà sự sống thật mong manh. Cảm thương thay cho số phận những con người.

Tác giả đã dùng những ngôn từ rất đắt giá để miêu tả về ngoại hình người đàn bà hàng chài có thân hình xấu xí tàn tạ “trạc ngoài 40, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Vì cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, vất vả, đau khổ làm cho diện mạo chị đã xấu giờ trở nên thô kệch. Không những thế tác giả còn tập trung miêu tả ánh mắt của người đàn bà: “Chị đưa mắt nhìn xuống chân,… nhìn ra ngoài bờ phá”. Cách miêu tả của nhà văn không chỉ cho thấy sự tủi cực, vất vả của người phụ nữ ấy mà còn hé mở những đau khổ tinh thần đang giày xéo tâm can

Người đàn bà hàng chài bất hạnh ấy không chỉ phải chịu thiệt thòi về ngoại hình mà tạo hóa mang lại mà dường như mọi sự bất hạnh của cuộc đời đều trút cả lên chị, xấu, nghèo khổ, lam lũ, lại phải thường xuyên chịu những trận đòn roi của người chồng vũ phu tổn thương, đau xót cho các con phải nhìn cảnh bố đánh mẹ… Cái xấu đã đeo đuổi chị như định mệnh đã vậy chị lại còn có khuôn mặt rỗ là hậu quả của trận dịch đậu mùa nên không ai thèm để ý, suốt từ khi còn nhỏ. Rồi chị có mang với một anh hàng chài đến mua bả về đan lưới và thành vợ chồng.

Cứ ngỡ tưởng có một cuộc sống gia đình thì sẽ có hạnh phúc và ấm êm. Nhưng cuộc sống mưu sinh trên biển cực nhọc, vất vả, lam lũ, bấp bênh. Gia đình nghèo lại còn đông con, thuyền thì chật,… Bị chồng thường xuyên đánh đập, hành hạ thường xuyên cứ “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Cứ khi nào lão chồng thấy khổ quá là lại xách chị ra đánh, như là để trút giận, như đánh một con thú với lời lẽ cay độc “Mày chết đi cho ông nhờ, chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”. Quả thực, người đàn bà hàng chài có cả một cuộc đời cơ cực, nhọc nhằn, khốn khổ. Chị là nạn nhân của sự nghèo đói, thất học và lạc hậu. Số phận, cuộc đời chị dần dần hiện ra rõ nét khi chị đến toà án huyện. Số phận đầy bi kịch ấy được tác giả tái hiện đầy cảm thông và chia sẻ.

Nhân vật người đàn bà hàng chài để lại ấn tượng không thể phai mờ trong lòng người đọc chính là bởi những vẻ đẹp tâm hồn. Là một người phụ nữ yếu đuối phải chịu bao đắng cay tủi phận của cuộc đời nhưng chị lại có một phẩm chất đáng quý. Trước hết là sự nhẫn nhục, chịu đựng vì hoàn cảnh. Chị coi việc mình bị đánh đó như một phần đã rất quen thuộc của cuộc đời mình. Chị chấp nhận, không kêu van, không trốn chạy cũng như không hề có ý định rời bỏ gia đình ấy, rời bỏ người chồng vũ phu của mình. Chị hiểu cơ cực của cuộc sống mưu sinh đầy cam go trên biển nếu không có người đàn ông: thuyền ở xa biển, cần một người đàn ông khỏe mạnh, biết nghề và còn để đối mặt với những ngày phong ba bão tố. Đó là sự cam chịu, nhẫn nhục đáng cảm thông, chia sẻ thậm chí là trân trọng. Cách xử sự của người đàn bà là không thể khác được đối với một con người sống đầy trách nhiệm.

Ở nhân vật người đàn bà hàng chài xấu xí và khổ đau ấy có một tình mẫu tử bao la. Mặc dù phải chịu khổ cực, nhưng người phụ nữ ấy quyết cam chịu tất cả, làm tất cả vì những đứa con thân yêu của mình. Thị nhận thấy rằng, các con là cuộc sống, lẽ sống, là tất cả những gì có trên cuộc đời này của mụ. Khi tòa án đưa ra giải pháp li dị, chị đã từ chối. Có nghĩa là chị từ chối trút bỏ tấm bi kịch nhục nhã của đời mình. Với người đàn bà này thà bị đi tù, bị đánh đập còn hơn phải bỏ chồng: “Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, nhưng đừng bắt con bỏ nó”. Lí do bà đưa ra thật đơn giản nhưng cũng thật xót xa: cần có chồng để cùng nuôi những đứa con. Thì ra sự sinh tồn của những đứa con là nguyên nhân để người đàn bà ấy sống kiếp cam chịu.

Tình yêu thương của người mẹ dành cho đàn con chính là sức mạnh để người đàn bà ấy nhẫn nhục: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình như ở trên đất liền được”. Người đàn bà đã chủ động nhận về mình mọi đau đớn để đảm bảo sự sinh tồn cho con cái bởi gia đình đông con sống dựa vào nghề sông nước đầy bất trắc. Thậm chí khi bị đánh bà còn chủ động xin chồng thay đổi địa điểm đánh: “Sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được với lão…đưa tôi lên bờ mà đánh”. Bà muốn hứng trọn nỗi đau cho riêng mình, không để các con bị tổn thương.

Cũng giống như bà cụ Tứ quay mặt đi giấu những giọt nước mắt vào sâu trong lòng cho riêng mình để Tràng và thị được hưởng chút hạnh phúc nhỏ nhoi trong cuộc sống mưu sinh khi cái đói cái chết cận kề. Tình yêu thương như một bản năng mãnh liệt ngàn đời được bộc lộ một cách cảm động và sâu sắc nhất ở người phụ nữ này. Tình mẫu tử vút lên, trên cái nền của cuộc sống cơ cực, ngang trái, đau đớn đầy xót xa. Nên ai đó có ví công lao của người mẹ như biển Thái Bình thì ta thiết nghĩ cũng thật dễ hiểu.

Thậm chí, bà rất thương yêu thằng Phác, thằng con ương bướng nhất trong số những đứa con của bà, tính nết và ngoại hình của nó giống bố như lột nên rất yêu con mà bà phải gửi có lên rừng cho ông nuôi. Thật đau đớn biết bao khi người mẹ ấy đã phải van xin chồng cho lên bờ đánh để các con không nhìn thấy cảnh đó. Nhưng chính thằng Phác lại tận mắt chứng kiến cảnh bố nó đánh đập mẹ nó thậm tệ. Một tình mẫu tử đã trỗi dậy, theo bản năng của một đứa trẻ con còn suy nghĩ nông cạn nó lao nhanh như mũi tên bắn vào chống trả quyết liệt. Thậm chí nó còn định lấy dao đâm bố. Bởi nó đã hứa với lòng mình chừng nào nó còn ở đây thì sẽ không để mẹ nó bị đánh. Ta vừa cảm thương và vừa tủi giận trước hành động rất con trẻ của thằng Phác.

Và thật bất ngờ khi người mẹ phản ứng trước cách thằng Phác thương mình. Khi gã chồng tát cho thằng con một cái ngã dúi dụi xuống cát và bỏ đi thì lúc này lòng thương con mới trỗi dậy. “Người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã”. Để rồi miệng bà mếu máo gọi, “người đàn bà ngồi xẹp xuống trước mặt thằng bé, ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Ta lại tìm thấy một nghịch lí trong cách hành xử của người đàn bà. Tại sao khi bị gã đàn ông đánh chửi vũ phu, tàn bạo bà không xấu hổ, tủi nhục mà khi chứng kiến cảnh con đánh trả bố bà lại đau đớn đến vậy?. Có lẽ lúc này đã có vô số luồng điện chạy trong tâm trí của người đàn bà kia. Liệu thằng Phác nhìn thấy cảnh này tâm hồn của một đứa trẻ sẽ ra sao? Nó nghĩ gì về bố và mẹ nó? Sau này lớn lên liệu có giống tính bố nó không?

Bà đã cố giữ gìn một mái ấm gia đình trước mắt các con để chúng có niềm vui và đặc biệt để tâm hồn chúng không bị lắng những cặn bẩn của cuộc sống để vẩn đục tâm hồn. Nhưng giờ đây bà bất lực. Sự chịu đựng và hi sinh của bà đã vô ích chăng? Bởi khi nhìn thằng Phác chẳng hề hé răng thì bà như có cảm giác “như một viên đạn bắn vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà làm rỏ xuống những dòng nước mắt”. Cảm nhận được nỗi đau đớn cực đỉnh của người đàn bà lúc này ta mới thấy hết bà yêu thương con đến nhường nào, cái nỗi đau tận cùng vì lòng yêu mà hi sinh nhưng vô ích. Thật cảm động trước tấm lòng người mẹ lao động nghèo khổ này. Hành động giản đơn mà cao đẹp nghĩa tình.

Người đàn bà cằn cõi ấy lại có lòng bao dung, độ lượng vô bờ bến. Sau tất cả những nỗi đau mà người chồng đã gây ra cho bà, bà vẫn có một tấm lòng bao dung, độ lượng đối với chồng. Nghệ sĩ Phùng và chánh án Đẩu nhìn người chồng là kẻ vũ phu, thô bạo, đáng lên án. Nhưng qua cái nhìn của người vợ, lão từng là: “anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập tôi”. Bị chồng đánh đập thô bạo nhưng bà cũng không oán trách vì bà hiểu nỗi khổ của chồng, hiểu cái khổ đã làm người hiền lành trở thành ác độc. Chính cuộc vật lộn mưu sinh đã biến lão trở thành kẻ vũ phu, thô bạo.

Người ta làm điều ác nhiều khi không phải vì người ta xấu mà là vì khổ sở. Bà còn hiểu rằng chồng mình vừa là nạn nhân khốn khổ, vừa là thủ phạm gây nên bao đau khổ cho người thân của mình cũng chỉ vì nghèo đói, ít học vì cuộc sống mưu sinh. Thậm chí bà còn sẵn sàng nhận lỗi về mình, coi mình là nguyên nhân khiến cuộc sống của chồng trở nên khốn khổ bởi bà nghĩ: lũ đàn bà trên thuyền đẻ nhiều quá, nhà nào cũng một đặng trên dưới chục đứa con. Chính vì vậy công cuộc mưu sinh như dồn hết lên đôi vai của người dàn ông. Chính vì thế bà nghĩ mình là căn nguyên nỗi khổ và sự tha hóa của người chồng vốn hiền lành nhưng hơi cục tính xưa kia. Đây quả là người phụ nữ có cái nhìn sâu sắc, đa chiều, bao dung, độ lượng với chồng.

Người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu là một người trải đời, hiểu đời. Phải nói rằng, nhà văn đã có cái nhìn đầy thương cảm và trân trọng đối với người phụ nữ ấy nên mới khắc họa lên được một người đàn bà hàng chài tuy thất học nhưng không tăm tối, ngược lại rất thấu trải lẽ đời, rất sắc sảo. Đó là phẩm chất phi thường không phải ai cũng có được. Sự trải đời ấy của người đàn bà bị che lấp sau vẻ bề ngoài thô kệch, xấu xí. Thậm chí là những hành động tưởng như đầy lóng ngóng, bỡ ngỡ khi đặt chân vào căn phòng của chánh án Đẩu. Ẩn trong vẻ khúm núm, sợ sệt trước thái độ của Đẩu và sự xuất hiện đường đột của Phùng. Nhưng người đàn bà ấy bỗng chốc trở nên nhanh nhẹn và sắc sảo không ngờ khi bà nói về cuộc đời với những lí lẽ riêng của một con người từng trải. Để từ đó Đẩu và Phùng phải vỡ lẽ và “ngộ” ra bao điều.

Bà hiểu thiện chí của chánh án Đẩu và nghệ sĩ Phùng khi khuyên bà bỏ người chồng vũ phu, tàn bạo. Song bà càng hiểu hơn cuộc sống trên sông nước. Bà chắt ra từ cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ một chân lý mộc mạc nhưng thấm vị mặn của đời thường: “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba”. Cuộc sống thực tế cần có một người đàn ông để làm chỗ dựa, dù đó là người chồng vũ phu tàn bạo. Bà cũng hiểu và tự hào với thiên chức của người phụ nữ: “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Chính vẻ đẹp mẫu tính, đầy hi sinh cao thượng ấy đã tôn vinh người đàn bà với vẻ ngoài xấu xí, thô kệch.

Trong khổ đau, người đàn bà nâng niu chút hạnh phúc nhỏ nhoi đời thường. Cuộc sống của người đàn bà ấy có đau khổ thì nhiều mà hạnh phúc thì quá hiếm hoi. Vì vậy bà rất nâng niu những giây phút vợ chồng con cái sống bên nhau vui vẻ, hoà thuận. Vì cái hạnh phúc hiếm hoi, ít ỏi đó phải trả giá bằng những hành hạ, bạo tàn những nỗi đau cả thể xác lẫn tinh thần. Niềm vui lớn nhất là của chị là “lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”.

Với những kiếp đàn bà nhọc nhằn đó nói đến niềm vui thật xa xỉ, nhưng sự tận tụy hi sinh cho chồng con chính là niềm vui lớn nhất đối với người phụ nữ. Đó chính là sức mạnh nội tâm nâng đỡ người đàn bà: “lần đầu tiên trên gương mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên một nụ cười”- Nụ cười được góp nhặt và chắt chiu trong cuộc đời đầy khổ đau, nước mắt với đòn roi. Đó là triết lí sâu sắc về cuộc sống và con người: Quan niệm hạnh phúc của con người nhiều khi thật đơn giản, khát vọng hạnh phúc thật nhỏ bé mà vẫn nằm ngoài tầm tay.

Nguyễn Minh Châu đã rất chú trọng trong việc miêu tả nhân vật. Tác giả đã dùng biện pháp đối lập giữa hoàn cảnh và tính cách, giữa ngoại hình và tâm hồn, của người phụ nữa ấy để làm nổi bật lên những phẩm chất cao thượng đáng được ngợi ca. Qua cuộc đời của người đàn bà hàng chài, tác giả cũng đặt ra những vấn đề nhức nhối của cuộc sống: nạn bạo hành trong gia đình, sự nghèo đói, thất học, sự tha hóa về nhân cách… những ngang trái, nghịch lý của cuộc sống.

Trong tác phẩm tác giả còn xây dựng một nhân vật nữ như bóng ảnh của người đàn bà đó chính là chị gái lớn của thằng Phác. Cô gái ấy không xuất hiện nhiều trong tác phẩm nhưng cũng để lại những suy tư và ám ảnh. Nếu thằng Phác là bóng ảnh của gã đàn ông thì cô gái ấy là bóng ảnh của người đàn bà. Trong khi thằng Phác nông nổi thương mẹ bằng cách chống trả bố mình một cách quyết liệt. Thì cô chị gái thể hiện sự trưởng thành và chín chắn của mình. Nó đã kịp ngăn cản thằng em, không cho em làm việc dại dột và kịp lấy con dao ra khỏi tay thằng Phác. Đó là suy nghĩ của một cô gái đã trưởng thành và nhận thức.

Đặc biệt, cô chị còn là chỗ dựa tinh thần vững chắc cho người đàn bà, bởi cô ấy gần gũi và bên mẹ một cách âm thầm, lặng lẽ không ồn ào như thằng Phác. Đó là cách biểu hiện tình yêu thương của một cô con gái. Hôm người mẹ đi lên tòa án huyện cô con gái đã đi cùng. Cô lặng lẽ ngồi bên ngoài đợi mẹ với chiếc áo tím. Khi người mẹ đưa ánh mắt mệt mỏi nhìn ra ngoài bờ phá cũng là lúc bà bấu víu vào hình ảnh cô con gái thân thương của mình với chiếc áo tím ngồi đợi bà trên chiếc thuyền thúng.

Chỉ với hai chi tiết nhỏ nhưng người đọc có thể tìm thấy những nét tương đồng ở cô thiếu nữ trẻ này với người đàn bà hàng chài mà cô gọi là mẹ kia. Liệu sau này lớn lên cô có trở thành người phụ nữ cam chịu, nhẫn nhịn, bao dung, từng trải và am hiểu như mẹ mình hay không? Câu trả lời có lẽ đã tìm được nhưng chúng ta vẫn hi vọng cuộc sống của những người đàn bà ven biển sẽ tốt lên, sẽ không còn những cô gái áo tím theo chân những người đàn bà hàng chài kia nữa.

Người đàn bà hàng chài có lẽ không chỉ là hình ảnh đeo bám, ám ảnh Phùng mỗi khi anh nhìn vào tấm ảnh đã chụp của mình mà còn là hình ảnh làm day dứt lòng người đọc sau khi gấp trang truyện lại. Ta băn khoăn tự hỏi lòng rồi thân phận người phụ nữ ấy sẽ ra sao giữa cuộc đời cơ cực, khó khăn. Đó là câu hỏi không chỉ Nguyễn Minh Châu đặt ra trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa cách đây ba thập niên mà còn là vấn đề thời sự ngày nay khi xã hội đề cao nữ quyền và chống bạo lực gia đình. Thế nên, chắc chắn tác phẩm của Nguyễn Minh Châu mãi mãi về sau vẫn sẽ còn nguyên giá trị.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài –(Mẫu 10)

Nguyễn Minh Châu là một trong số những nhà văn tiêu biểu với rất nhiều các tác phẩm được sáng tác trong thời kì kháng chiến chống Mĩ. Như lời đánh giá của nhà văn Nguyễn Khải “Nguyễn Minh Châu là người kế tục xuất sắc những bậc thầy của nền văn xuôi Việt Nam và cũng là người mở đường rực rỡ cho những cây bút trẻ tài năng sau này”. Ông đã để cho lớp người đi sau một tác phẩm rất đặc sắc mang tên “Chiếc thuyền ngoài xa” với nguồn cảm hứng vô tận và những bài học từ cuộc sống. Nhân vật trung tâm cho câu chuyện của ông chính là người đàn bà hàng chài đã để lại trong lòng người đọc rất nhiều suy nghĩ, trăn trở về những câu chuyện đời.

Sau những bức tranh thiên nhiên vô cùng đẹp đẽ, lộng lẫy mà đôi mắt của nhà nhiếp ảnh Phùng đã được dịp bắt gặp nhân dịp chuyến đi công tác ở vùng biển. Thế nhưng, phía sau những ánh sáng chói lòa, lung linh ấy là những góc khuất mà con người bỏ lỡ. Hình ảnh của người đàn bà hiện lên hoàn toàn trái ngược với vẻ đẹp của thiên nhiên nơi đây. Đó là một người đàn bà trạc ngoài bốn mươi tuổi, tác giả cũng chẳng biết tên tuổi mà đặt một ngôi “mụ”, “người đàn bà hàng chài” như để ám chỉ nơi đây, có biết bao nhiêu người phụ nữ cũng có chung hoàn cảnh như mụ.

Sau vài nét gợi tả, hình ảnh của người đàn bà với “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt, dường như đang buồn ngủ”. Chắc hẳn, những vết rỗ khuôn mặt mụ đều từ gánh nặng của công việc, của nắng mưa gió bão miền biển hẳn lên trên khuôn mặt ấy. Một người lao động lam lũ, chịu thương chịu khó nhưng cái nghèo vẫn bủa vây lấy gia đình của mụ. Sự nghèo ung sướng đến kinh “tấm áo bạc phếch có miếng vá, nửa thân dưới ướt sũng”. Từ cách hành xử, đi đứng đến “tìm đến một góc tường để ngồi” càng làm cho mụ trở nên đáng thương đến tội nghiệp. Một con người dám vượt qua phong ba bão táp trên vùng đại dương mênh mông, nhưng lại trở nên tự ti, mặc cảm khi đối diện với con người.

Không chỉ dừng lại ở đó, tác giả đã lột tả thật sâu sắc, chân thật cả những tính cách con người mụ. Một người đàn bà, một người vợ luôn nhẫn nhục, cam chịu điển hình trong xã hội Việt Nam. Khi chứng kiến cảnh người đàn ông to lớn, thô kệch giáng những cú đánh mạnh mẽ vào tấm thân yếu ớt của người đàn bà ấy, đến một người đàn ông như Phùng cũng chẳng thể nhẫn nhịn nổi. Vậy nhưng, người đàn bà ấy vẫn cam chịu biết bao lời hằn học, mắng nhiếc. Đôi mắt của chị hắt lên một con đường tối đen không tìm thấy ánh sáng nào trong cuộc đời chị. Có lẽ, mụ đã quá quen và chấp nhận cuộc đời của mụ sẽ phải chịu đựng cảnh “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”.

Những đau đớn về thể xác của chị chẳng thể nào sánh với những nỗi đau đớn, giày vò về tinh thần khi chị lo lắng cho con cái sẽ bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đau đớn ấy. Thằng con trai của chị thương mẹ, lăm lăm con dao trong tay nhưng người mẹ ấy đã “chắp tay vái mấy đứa con để nó đừng phạm phải một tội ác trái thường đạo lí”. Tuy nghèo, tuy khổ nhưng chị vẫn biết đạo lí trong đời, chị không muốn con của chị phải đi theo những vết xe đổ nghèo hèn mà cuộc đời bố mẹ nó đang phải trải qua. Lòng chị cũng đau đớn, buồn tủi vô cùng khi cái nghèo đẩy cả gia đình chị vào cái vòng quẩn quanh nghèo đói. Những ngày tháng ăn xương rồng luộc chấm muối, bữa đói bữa no vẫn luôn hiện hữu, thường trực trên chiếc thuyền chật chội, mục nát của gia đình chị.

Tưởng chừng với dáng người thô kệch ấy sẽ chẳng biết đâu là lễ phép đạo lý, thế nhưng với những điều mà chị đã từng trải, vẻ đẹp của tâm hồn của người đàn bà ấy càng trở nên sâu sắc. Khi bị đưa về tòa án, Phùng và Đẩu đã muốn giúp chị giải thoát khỏi cuộc ly hôn ấy nhưng chị đã xin quan tòa rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đến tận cùng nỗi đau, khi đưa cho chị một sự lựa chọn giải thoát nhưng chị lại chối bỏ. Chắc hẳn, người đọc sẽ cảm thấy thật khó hiểu và nực cười cho người bà dại dột ấy. Thế nhưng, sau những lời tâm tình của chị, người ta mới vỡ lẽ và cảm thấy khâm phục người phụ nữ ấy. Chị vẫn luôn dành cho chồng những lời ngợi khen, chị biết chồng chị là người hiền lành cục tính, nhưng cái nghèo đã khiến anh ta trở thành một con người vũ phu, cộc cằn.

Hình ảnh của người đàn ông cũng có biết bao điểm chung như những nhân vật Chí Phèo của Nam Cao hay nhân vật Hộ trong tác phẩm Đời thừa vậy. Chị có cái nhìn sâu xa, thấu hiểu lẽ đời, lòng người, khác hẳn với cái nhìn của Đẩu và Phùng. Người đàn bà ấy biết rõ rằng: thân gái dặm trường, họ cần một người đàn ông để chèo lái con thuyền, con cái của họ cần có một người cha để dựa dẫm. Dù cho họ có vũ phu, cộc cằn đến nhường nào thì đó vẫn là một người đàn ông mà họ cần. Họ nghèo nên thiết nghị, họ không có quyền đòi hỏi một người đàn ông giàu sang, có học vấn.

Trong khi đường lối của Đảng trước và sau cách mạng luôn hướng tới bảo vệ nhân quyền cho mọi người, giúp cho nhân dân được hưởng cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Thế nhưng, tại nơi đây những con người lênh đênh trên bốn bể là nước, họ vẫn chịu những gánh nặng to lớn của miếng cơm manh áo hàng ngày. Sự hi sinh, thấu hiểu cuộc đời của chị càng khiến người đọc cảm thấy xót xa cho một người phụ nữ.

Đằng sau việc trọng tình nghĩa với người chồng của chị, tình mẫu tử cũng của chị cũng thật đáng ngưỡng mộ. Sợ con tổn thương mà chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, niềm vui của chị thật giản đơn khi “vui nhất là lúc được ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó đã ăn no”. Những đứa con là ngọn nguồn sức mạnh để chị sống và tồn tại. Ý chí quật cường của chị được bồi đắp nhờ tình thương con, chị chấp nhận hy sinh cuộc đời chị để mong cho con mình có được cuộc sống an nhiên hơn. Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà làng chài là những đức tính của biết bao người phụ nữ Việt Nam luôn yêu chồng thương con, giàu đức hi sinh và lòng vị tha.

Qua tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, chỉ qua một nhân vật người đàn bà trong truyện mà người đọc như được nhìn thấy cuộc đời của biết bao nhiêu người phụ nữ Việt Nam trong mọi thời đại. Tấm lưng bạc phếch, ánh mắt cam chịu hay nụ cười hạnh phúc khi nhìn những đứa con có lẽ sẽ còn ám ảnh rất lâu trong tâm trí độc giả. Tác giả đã gửi gắm không chỉ niềm cảm thương, xót xa cho số phận con người bị đánh đập, đói nghèo mà còn thể hiện niềm tự hào, trân trọng vì những vẻ đẹp tâm hồn không gì có thể làm lấm bùn, thui chột.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 11)

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là "người mở đường tinh anh và tài năng" (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Ni Culin nhận xét: "Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí vô trùng". Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong "Trăng sáng". Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lí nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là "gắng đi tìm các hạt ngọc còn ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người" thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn "Chiếc thuyền ngoài xa" chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và cuộc đời.

Đọc tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" ta thấy nhân vật người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài 40. Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: "mụ", "người đàn bà hàng chài"… Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ "khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ. Có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã ấy đi tất cả của chị: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhếch nhác, thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ: "sợ sệt, lúng túng" khi ở tòa án, "tìm đến một góc tường để ngồi". Thậm chí khi Đẩu phải mời đến lần thứ hai chị mới "rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghé và cố thu người lại". Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lí, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước lúc đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại "ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt nhìn xuống chân". Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình, không né tránh.

Người đàn bà hàng chài không chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải "chấp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phảm phải một tội ác trái luân thường đạo lí". Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước năm 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc chấm muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn nhưng nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.

Từ thân phận người đàn bà hàng chài, Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của từng con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo u tối.

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố "thiên nữ tính" lại thăng hoa tuyệt vời như ở người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước hết ở người đàn bà hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và Phùng: "Lòng các chú đâu phải là người làm ăn… cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ khó nhọc". Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man dợ, tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa. Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu sót xa cho nỗi khổ của người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi cho rằng "giá tôi đẻ ít đi" hoặc "chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn". Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ "đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình". Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con. Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đánh, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy," tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài". Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, người đàn bà "mếu máo" gọi con rồi "chắp tay vái lấy vái để" ôm chầm nó, bởi chị sợ tình yêu thương, sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình. Khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền "khuôn mặt xám xịt chợt ửng sáng lên như một nụ cười". Đó là ánh sáng, là vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều xuất phát từ "vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon". Thấp thoáng trong hình ảnh người đàn bà hàng chài là bóng dáng người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha và đức hi sinh "biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời" – Tố Hữu.

Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại "bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa" bây giờ nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh… hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà là vì những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ đến cử chỉ, lời nói, hành động,…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo, khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng những phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, vị tha.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 12)

Ai đó đã từng nói “Tác phẩm nghệ thuật chân chính bao giờ cũng là sự tôn vinh con người qua những hình thức nghệ thuật độc đáo”. Phải chăng vì vậy mà ta có thể bắt gặp nhiều nghệ sĩ có phong cách hoàn toàn khác nhau trên cùng một giao lộ của hành trình kiếm tìm và khám phá vẻ đẹp tâm hồn con người. Kim Lân với truyện ngắn “Vợ nhặt” và Nguyễn Minh Châu với tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trường hợp như vậy. Nếu như với khả năng viết rất hay về nông thôn và cuộc sống của người dân quê, Kim Lân xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt qua tình huống truyện độc đáo thì với phong cách truyện đậm chất tự sự, triết lí, Nguyễn Minh Châu đã khám phá ra những nghịch lí trong cuộc sống của người đàn bà hàng chài. Qua cả hai tác phẩm, các tác giả đều cho ta thấy được vẻ đẹp khuất lấp của người phụ nữ Việt Nam trong những hoàn cảnh khó khăn.

Có thể nói, trong truyện ngắn "Vợ nhặt", nhân vật người vợ nhặt tuy không phải là nhân vật chính nhưng vẫn là một trong ba nhân vật quan trọng của tác phẩm. Tuy là một con người vô danh nhưng nhà văn đã xây dựng cho nhân vật của mình một cá tính đậm nét. Được khắc họa sống động theo lối đối lập giữa bên trong và bên ngoài, ban đầu và về sau, người vợ nhặt hiện lên với đầy đủ những phẩm chất của con người bình dị trong nạn đói thê thảm Từ một cô con gái “ngồi vêu ra ở cửa nhà kho” chao chát, chỏng lỏn đến một nàng dâu hiền hậu, đảm đang, đúng mực là một hành trình đầy bất ngờ với bao biến động trong cuộc đời nhân vật. Nhà văn đã chọn được tình huống truyện thật độc đáo để nhân vật tự bộc lộ giá trị của mình.

Ở đầu tác phẩm, những vẻ đẹp của người vợ nhặt bị che khuất bởi những con số không tròn trĩnh: không quê quán, không nghề nghiệp, không cả một cái tên, không nhan sắc, không lòng tự trọng. Cuộc sống đói khổ càng tô đậm sự xấu xí của thị: “áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người “gầy sọp”, “trên cái khuôn mặt xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Khi nghe tiếng hò của Tràng, thị “lon ton chạy theo” đẩy xe thóc cùng, hôm sau lại “sầm sập chạy đến”, “cong cớn” đứng trước mặt anh ta để đòi “nợ” rồi “cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc”. Giữa sự lựa chọn nghiệt ngã: hoặc chết đói để giữ sĩ diện hoặc bỏ lòng tự trọng sang một bên để bám víu lấy sự sống, thị đã chọn cách thứ hai.

Song, qua tiến trình của câu chuyện, con người thực sự của nhân vật người vợ nhặt dần hiện ra dưới ngòi bút truyện tài hoa của Kim Lân. Thị “rón rén, e thẹn, đầu cúi xuống, chân bước díu vào nhau” khi đi qua xóm ngụ cư, trên đường về nhà Tràng. Ở đây, ta chỉ thấy một cô gái hiền hậu, biết ý tứ và ngượng ngùng một cách thật dễ thương chứ không còn cái “cong cớn” vô duyên lúc trước. Buổi sáng sau khi về làm vợ Tràng, thị dậy sớm, quét tước, dọn dẹp, nấu cơm và cư xử, nói năng đúng mực khiến ngay cả Tràng cũng ngạc nhiên vì sự thay đổi ấy. Thị đã trở thành người vợ đảm, người con dâu đảm đang biết lo toan việc nhà. Phải chăng đây mới chính là bản chất tốt đẹp của con người vợ nhặt? Ngay cả trong chi tiết theo không Tràng về làm vợ của thị, nếu xét kĩ, ta sẽ thấy hành động ấy thực chất xuất phát từ khao khát tình yêu, hạnh phúc và tổ ấm gia đình cháy bỏng của những người nông dân bình dị. Tóm lại, với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế, Kim Lân đã xây dựng thành công nhân vật người vợ nhặt với những vẻ đẹp tâm hồn đáng được trân trọng và ngợi ca.

Bên cạnh người “vợ nhặt”, nhân vật người đàn bà hàng chài trong “CTNX” cũng để lại ấn tượng sâu sắc. Là nhân vật chính, nhân vật này có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc thể hiện giá trị tư tưởng của tác phẩm. Nguyễn Minh Châu đã khắc họa nhân vật khá sắc nét bằng bút pháp hiện thực theo lối tương phản giữa bên ngoài và bên trong, giữa thân phận và phẩm chất. Xuất hiện trong tình huống đầy nghịch lí dưới khám phá của nhân vật Phùng, nhân vật người đàn bà hàng chài hiện lên với những vẻ đẹp khuất lấp khiến ta xót xa, lo âu và không khỏi trăn trở.

Xuất hiện trước mắt độc giả, người đàn bà hàng chài hiện lên với ngoại hình xấu xí, thô kệch: than hình cao lớn, “khuôn mặt mệt mỏi”, “tái ngắt”, “tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới”. Cuộc sống của chị là một chuỗi những tháng ngày vừa lao động vất vả, vừa phải chịu đòn roi của chồng: “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Độc giả có thể thông cảm với hoàn cảnh bất hạnh nhưng rất dễ bất bình với sự nhẫn nhục, cam chịu quá đáng của nhân vật khi im lặng chấp nhận trở thành nạn nhân của bạo lực gia đình.

Nhưng phía sau ngoại hình xấu xí và sự nhẫn nhục ấy là cả một tấm lòng vị tha, độ lượng, đức hi sinh cao cả và sự cứng cỏi, can đảm hiếm có của người phụ nữ. Chị chấp nhận cuộc sống ấy bởi lẽ chị yêu thương các con, sẵn sàng hi sinh tất cả để bảo vệ tổ ấm gia đình. Đối với chị thì “đàn bà ở thuyền phải sống cho con chứ không thể sống cho mình”. Và dù bị đánh đập, hành hạ bao nhiêu thì người đàn bà ấy vẫn cảm thông với những khó khăn của chồng, vẫn cứ chắt chiu từng giây phút hạnh phúc trong cuộc sống. Phía sau sự thất học, quê mùa, người đàn bà hàng chài vẫn là người phụ nữ sâu sắc và thấu hiểu lẽ đời. Lí lẽ của chị là lí lẽ của con người từng trải bao sóng gió, khó khăn, không chỉ khiến chánh án Đẩu, nhiếp ảnh gia Phùng mà còn khiến tất cả chúng ta phải ngạc nhiên, cảm phục.

Có thể thấy, cả hai nhân vật đều là những thân phận nhỏ bé, là nạn nhân của hoàn cảnh nhưng vẫn giữ được những phẩm chất tốt đẹp, lương thiện. Vẻ đẹp ấy, trong những lam lũ của đời thường, trong những khoảnh khắc khó khăn của cuộc sống có thể bị che lấp đi nhưng không bao giờ biến mất. Cả Kim Lân và Nguyễn Minh Châu đều thành công ở điểm này, khi miêu tả nhân vật bằng những chi tiết chân thực vô cùng, vừa làm toát lên số phận đau khổ, cảnh sống khốn cùng của họ, vừa khám phá ra vẻ đẹp khuất lấp bên trong những con người ấy.

Tuy nhiên, giữa hai nhân vật cũng có nhiều điểm khác biệt. Vẻ đẹp của người vợ nhặt được khắc họa qua những phẩm chất của một nàng dâu mới, hiện lên qua các chi tiết đầy dư vị hóm hỉnh trong nạn đói thê thảm. Thị như một luồng gió mới "lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối" của những người dân xóm ngụ cư cũng như gia đình Tràng. Trong khi đó, vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài dưới ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại là phẩm chất của người mẹ nặng gánh mưu sinh, hiện lên qua các chi tiết đầy kịch tính trong tình trạng bạo lực gia đình. Nhân vật này không khỏi khiến ta băn khoăn, trăn trở về cách nhìn nhận con người cũng như mối quan hệ giữa nghệ thuật và hiện thực cuộc sống. Sở dĩ có sự khác biệt ấy là do phong cách nghệ thuật và thời điểm sáng tác của hai nhà văn. Vẻ đẹp khuất lấp của người vợ nhặt được đặt trong quá trình phát triển biến đổi từ thấp đến cao, mang cảm hứng lãng mạn, tiêu biểu cho văn học thời kì kháng chiến. Trong khi đó nhân vật người đàn bà hàng chài lại tĩnh tại, bất biến như một hiện thực nhức nhối đang tồn tại. Nhân vật này thể hiện rõ cảm hứng thế sự - đời tư trong ngòi bút truyện của Nguyễn Minh Châu sau 1975.

Tóm lại, người vợ nhặt và người đàn bà hàng chài là hai nhân vật được xây dựng rất thành công của Kim Lân và Nguyễn Minh Châu. Tuy có nhiều điểm khác nhau trong phong cách nhưng với tinh thần nhân đạo cao cả, hai nhà văn đều khám phá và nâng niu trân trọng những vẻ đẹp truyền thống của người phụ nữ Việt Nam. Qua hai tác phẩm, các tác giả còn cho chúng ta thêm tin tưởng vào sự bất diệt của những phẩm chất tốt đẹp trong con người dù ở bất cứ hoàn cảnh nào. Với tất cả giá trị về nội dung và nghệ thuật ấy, chắc chắn cả hai nhân vật cũng như tên tuổi của Kim Lân và Nguyễn Minh châu sẽ có sức sống lâu dài trong kho tàng văn học dân tộc.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 13)

Nguyễn Minh Châu là một là ngòi bút sử thi có thiên hướng trữ tình lãng mạn. Từ sau 1975, ông chuyển hẳn sang cảm hứng thế sự với những vấn đề đạo đức và triết lí nhân sinh. Ông được coi là một trong những cây bút tiên phong của văn học Việt Nam thời kì đổi mới. "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của thi sĩ. Hình ảnh người đàn bà làng chài là hình ảnh để lại trong lòng người nhiều ám ảnh, trăn trở về cuộc sống của con người trong thời kì đổi mới.

Truyện được kể lại qua lời kể của nhân vật Phùng, một người lính vừa bước ra từ cuộc chiến tranh nhiều đau thương mất mát. Theo lời đề nghị của trưởng phòng, Phùng trở về chiến trường xưa để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh để chụp một tấm hình cảnh thuyền biển cho bộ lịch Tết. Tại đây, anh đã phát hiện ra một bức tranh thuyền biển lúc bình minh đẹp như tranh mực Tàu của một danh họa thời cổ. Nhưng éo le thay, đang ngây ngất với cảm giác hạnh phúc thì Phùng phải chứng kiến một cảnh tượng phũ phàng. Đó là cảnh người chồng đánh vợ một cách thô bạo, còn người vợ thì nhẫn nhục chịu đựng một cách khó hiểu. Phùng từ ngất ngây sung sướng đến kinh ngạc, sững sờ. Có thể nói, nhà văn đã ra tình huống truyện độc đáo và từ tình huống này mà nhân vật người đàn bà dần hé lộ số phận và tính cách.

Tác giả chỉ gọi nhân vật của mình là người đàn bà một cách phiếm định. Phải chăng ông muốn nói hộ bao nhiêu người đàn bà vô danh ở vùng biển này? Người đàn bà trong truyện trạc ngoài bốn mươi, cùng chồng đánh cá bằng thuyền lưới vó ở một vùng biển miền trung.

Người đàn bà có thân hình "cao lớn với những nét thô kệch", "rỗ mặt", lúc nào cũng xuất hiện với khuôn mặt "mệt mỏi", "tái ngắt và dường như đang buồn ngủ". Cái vẻ ấy gợi ấn tượng về một cuộc đời nhọc nhằn, lam lũ, quanh năm phải chống chọi với cái nghèo, cái đói, với thiên tai khắc nghiệp. Ngay từ hình thức bên ngoài của nhân vật, tác giả đã dự báo về một số phận lắm éo le, nghịch cảnh. Khắc họa về hình ảnh người đàn bà, Nguyễn Minh Châu tập trung ở khuôn mặt và đôi mắt - nơi ẩn giấu những bí ẩn của cuộc đời. Ở người đàn bà xấu xí, rỗ mặt ấy có một đôi mắt thật lạ. Đôi mắt chính là cuộc đời chị. Đôi mắt của một cuộc đời không bình lặng. Đôi mắt "ngước nhìn ra ngoài mặt phá nước chỗ chiếc thuyền đậu một thoáng rồi… đưa cặp mắt nhìn xuống chân' đầy vẻ cam chịu. Đôi mắt đã từng "nhìn thấy vào chúng tôi, lần lượt từng người một", nói những lời đâu phải dễ nghe sau những giây phút "sợ sệt, lúng túng, rón rén đến ngồi ghé vào chiếc ghế và cố thu người lại". người đàn bà xuất hiện với khuôn mặt mệt mỏi, tái ngắt vì thiếu ngủ, vì lao lực, khuôn mặt chứa đầy những giọt nước mắt trong những vết rổ chằng chịt, khuôn mặt cúi xuống nhẫn nhục khi nói về đời mình, khuôn mặt ấy còn ám ảnh Phùng mãi sau này.

Nguyễn Minh Châu khắc họa đậm nét những chi tiết ngoại hình nhằm giúp người đọc hình dung được cuộc sống khổ đau, bất hạnh của nhân vật. Bà phải chịu đựng về cả nỗi đau thể xác lẫn tinh thần. Thường xuyên bị chồng đánh nhưng người đàn bà ấy vẫn quyết gắn bó với người chồng vũ phu. Trong tâm thức bà luôn lo sợ các con sẽ bị tổn thương, luôn phải che giấu những nỗi đau của mình nhưng các con vẫn khiến bà thực sự đau lòng vì "bà cảm thấy đau đớn - vừa đau đớn vừa vô cùng xấu hổ, nhục nhã". Bà đau vì không tránh được cho con khỏi bị tổn thương do bạo hành gia đình. Bà làm như vậy như là để tạ tội với các con vì không thể cho nó một mái ấm hạnh phúc. Bà hiểu được nguyên nhân sự nghèo khổ của gia đình là do đông con, chồng phải trốn lính, thuyền chật, cuộc sống bấp bênh. Bà hiểu sâu sắc thiên chức làm mẹ, hiểu được bản chất của chồng. Theo bà, ông ta trở nên thô bạo như vậy là do hoàn cảnh quá nghèo, quá khổ. Người chồng vũ phu kia chỉ là nạ nhân của hoàn cảnh sống khắc nghiệt.

Tóm lại, nhân vật người đàn bà hàng chài là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình, chồng con. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về cuộc đời, về nghệ thuật. "Chiếc thuyền ngoài xa" mang đến một bài học đúng đắn về cách nhìn nhận cuộc sống con người. Đó là cái nhìn đa chiều, ở các cự li khác nhau, để phát hiện ra bản chất sau vẻ ngoài của cuộc sống và con người. Phải chăng sau câu chuyện rất buồn này, trái tim nhân hậu của Nguyễn Minh Châu vẫn ấm áp niềm tin yêu cuốc ông, trân trọng vẻ đẹp của tuổi thơ, của tình mẫu tử, sự can đảm và tấm lòng bao dung của người phụ nữ? Đó không phải là vẻ đẹp chói chang, hào hùng mà là những hạt ngọc khuất lấp, lẫn trong cái lấm láp, lam lũ của đời thường.

Cảm nhận của em về người đàn bà làng chài trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa - Bài mẫu 6

Nếu các nhân vật trong những tác phẩm của Nguyễn Minh Châu thời kì trước năm 1975 được nhìn nhận từ khía cạnh tiêu chuẩn đạo đức cách mạng, sự cống hiến đối với đất nước thì sau năm 1975, ông nhìn nhận nhân vật của mình ở phương diện đời tư, thế sự. Nổi bật trong số đó là nhân vật người đàn bà hàng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” được Nguyễn Minh Châu sáng tác năm 1987.

Người đàn bà ấy là nhân vật chính trong khung cảnh bình minh ở nơi đầm phá miền Trung - chiến trường cũ của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng thời kháng chiến chống Mĩ. Nếu không vì Phùng muốn “thu vào tờ lịch tháng bảy năm sau cảnh thuyền đánh cá thu lưới vào lúc bình minh” thì có lẽ anh sẽ không bắt gặp được người phụ nữ này và cũng sẽ không có cơ hội để vỡ lẽ ra nhiều điều từ thực tế cuộc sống và nghệ thuật. Người đàn bà không được Nguyễn Minh Châu gọi bằng một tên riêng nào cả, ông chỉ gọi người phụ nữ lam lũ ấy bằng những đại từ phiếm chỉ như “người đàn bà”, “mụ”. Phải chăng đây là dụng ý của tác giả vì chị chỉ là một trong vô số những người đàn bà làng chài ở các vùng biển khác cũng vô danh, nhỏ bé và có một cuộc đời bình thường giống như họ? Phải chăng cũng vì không có một tên gọi cụ thể mà hình tượng nhân vật lại có sức khái quát lớn?

Chị là người phụ nữ “trạc ngoài bốn mươi, một thân hình quen thuộc của người đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch”. Chị bị rỗ mặt, “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”. Tấm lưng áo của chị đã “bạc phếch và rách rưới”. Với những chi tiết miêu tả ngoại hình như vậy, Nguyễn Minh Châu đã khiến bạn đọc hình dung ra một người đàn bà lam lũ, vất vả, chật vật để đối mặt với cuộc sống mưu sinh trên biển đầy hiểm nguy.

Dường như số phận đã đẩy hết bất hạnh lên con người chị nhưng chị lại cam tâm chịu đựng mà không hề có một lời trách móc. Ngoại hình chị xấu xí, vì thế mà đàn ông trong phố không ai lấy chị rồi chị “có mang với một anh con trai một nhà hàng chài giữa phá hay đến nhà tôi mua bả về đan lưới”. Người đàn ông chị lấy khi ấy là một người “cục tính nhưng hiền lành” và không bao giờ đánh đập vợ. Nhưng có lẽ vì sự khắc nghiệt của cuộc sống mưu sinh mà anh ta trở nên vũ phu khiến chị thường xuyên phải chịu những trận đòn roi tàn nhẫn: “Ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Hành động của người chồng khiến vị chánh án Đẩu phải gay gắt thốt lên rằng: “Cả nước không có một người chồng nào như hắn. Tôi chưa hỏi tội của hắn mà tôi chỉ muốn bảo ngay với chị: Chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”. Chị đã phải chịu đựng bao nhiêu cơn thịnh nộ từ người chồng, chịu đựng bao sự khổ cực, bấp bênh của cuộc sống hàng chài mà không bao giờ phản kháng. Chị cam chịu số phận bởi chị là một người vị tha, bao dung và hiểu chuyện.

Người đàn bà hàng chài là người thấu hiểu chồng mình hơn ai hết. Chị hiểu tại sao người đàn ông hiền lành trước đây lại trở nên nóng tính, bạo lực đến như vậy. Nguyên nhân cũng là do sự đói khổ, bấp bênh của cuộc sống thường ngày. Cuộc sống ấy khổ cực nhường nào khi “vào các vụ bắc, ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Là một trụ cột vững chắc cho gia đình, là một người chồng, người cha nên có người đàn ông nào lại dửng dưng vô cảm trước sự đói khổ của vợ con mình. Anh ta đánh vợ không phải vì thù ghét vợ mà là vì anh ta bế tắc, cùng quẫn trước cuộc đời khi không thể lo cho gia đình một cuộc sống sung túc. Vì không có cách nào khác để giải tỏa những tâm trạng tiêu cực đó nên “bất kể khi nào thấy khổ quá” là anh xách vợ ra đánh. Khi chánh án Đẩu và Phùng khuyên người đàn bà nên bỏ chồng thì chị đã “chắp tay lại vái lia lịa”: “Con lạy quý tòa… Quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Rồi chị đã bào chữa cho chồng bằng các lí lẽ xác đáng và tự nhận hết lỗi lầm về mình: “Giá tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng hơn”; “nhưng cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá, mà thuyền lại chật”. Phải chịu những trận đòn roi và sự đánh đập của chồng có người phụ nữ nào không đau đớn nhưng người đàn bà hàng chài ý thức được nguyên nhân dẫn đến hành động bạo lực của người chồng nên chị không hề oán trách, căm giận mà còn hết lòng bao dung, vị tha: “Người đàn bà với một vẻ cam chịu đầy nhẫn nhục, không hề kêu một tiếng, không chống trả, cũng không tìm cách chạy trốn”.

Không chỉ vậy, người đàn bà hàng chài còn là một người mẹ hết lòng thương con và giàu đức hi sinh. Chị muốn các con của chị được đón nhận tình yêu thương của cả bố và mẹ. Chị muốn các con được lớn lên trong không khí hòa thuận, vui vẻ của gia đình nên chị đã xin chồng lên bờ đánh để các con không phải chứng kiến cảnh bạo lực gia đình từ chính người bố của mình. Các con còn nhỏ, chúng chưa thể hiểu được nguyên nhân dẫn tới sự bạo lực của bố nên có thể sẽ căm thù, oán giận bố. Chị xin lên bờ đánh là để tránh cho các con những sự tổn thương về mặt tinh thần. Khi thằng Phác trông thấy bố đang dùng chiếc thắt lưng “quật tới tấp” vào lưng mẹ thì nó đã “như một viên đạn trên đường lao tới đích đã nhắm”, “nhảy xổ vào người đàn ông” giằng lấy chiếc thắt lưng rồi “lảo đảo ngã dúi xuống cát” vì hai cái tát của bố. Người đàn bà đã “ôm chầm lấy nó rồi lại buông ra, chắp tay vái lấy vái để, rồi lại ôm chầm lấy”. Chị không muốn Phác căm thù bố và cũng không muốn nó trở nên bạo lực như bố. Đó là đứa con mà chị yêu nhất nhưng người đàn bà phải gửi nó lên rừng với ông ngoại chỉ vì “sợ thằng bé có thể làm điều gì dại dột đối với bố nó”.

Người đàn bà ấy nhất quyết không bỏ chồng vì “đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa”. Chị sống vì con nhiều hơn là sống cho mình. Vì con mà chị có thể nhẫn nhục, cam chịu, vì con mà chị tiếp tục sống với người đàn ông vũ phu ấy chứ không tìm cách giải thoát cho mình. Các con chính là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chị bởi đối với chị: “Vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no”. Đối với một người mẹ, dù bản thân có phải chịu đựng bao nhiêu sự khốn khổ thì họ vẫn luôn muốn các con có một cuộc sống no đủ.

Tuy là người phụ nữ quê mùa nhưng chị lại rất hiểu chuyện. Chị hiểu được lòng tốt của Phùng và Đẩu nhưng đã từ chối lòng tốt ấy: “Lòng các chú tốt nhưng các chú đâu có phải là người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc…”; “Là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Những lời giãi bày của chị đã khiến vị chánh án và người nhiếp ảnh hiểu ra nhiều điều. Cuộc sống vốn không hề đơn giản như cách mà chúng ta vẫn nghĩ và có những lí thuyết sách vở không thể nào giải quyết một cách thấu đáo ở trong thực tế. Phùng và Đẩu khuyên người đàn bà li hôn nhưng họ lại không hiểu được những nỗi khổ tâm của chị, không hiểu được tình nghĩa vợ chồng chung sống với nhau bao lâu nay của chị.

Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà hàng chài với sự đối lập về ngoại hình và tính cách, giữa sự bất hạnh chị phải gánh chịu với tấm lòng vị tha, bao dung và đức hi sinh của chị. Người đàn bà ấy đã mang đến cho tất cả bạn đọc chúng ta một cách nhìn nhận thực tế và bao quát hơn về con người và cuộc đời. Vẻ đẹp của của chị được ẩn sâu bên trong vẻ bề ngoài rách rưới, cam chịu. Và tác giả đã “đi tìm hạt ngọc ẩn sâu trong tâm hồn con người” để phát hiện và trân trọng vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách trong những nhân vật của mình.

Nguyễn Minh Châu đã khắc họa thành công nhân vật người đàn bà hàng chài. Nhân vật này đã giúp bạn đọc cảm nhận được sự thấu hiểu, sự đồng cảm và tình thương mà tác giả dành cho nhân vật của mình. Qua đó, Nguyễn Minh Châu cũng phần nào khẳng định mình xứng đáng với vị trí là một trong những “người mở đường đầy tài hoa và tinh anh” (Nguyên Ngọc) trong công cuộc đổi mới nền văn học Việt Nam.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 14)

Nguyễn Minh Châu - nhà văn tiêu biểu của nền văn học hiện đại, là người “mở đường tinh anh và tài hoa” văn học Việt Nam giai đoạn đổi mới. Truyện Chiếc thuyền ngoài xa của ông được viết sau chiến tranh, khi ấy ông đã đem văn học về gần với cuộc sống, ngòi bút của nhà văn bám sát vào hiện thực để làm nổi bật những vấn đề thế sự trong cuộc sống con người thời hậu chiến. Nhân vật người đàn bà hàng chài được tác giả khắc họa rất rõ nét và chân thực trong tác phẩm, một mặt để cho người đọc cảm nhận rõ sự thật cuộc đời, mặt khác lại thấy được những hạt ngọc đang ẩn giấu trong tâm hồn con người Việt Nam.

Giữa cảnh biển đẹp đẽ, hoàn mĩ như bức tranh mực tàu, người đàn bà hàng chài hiện lên vẻ ngoài lam lũ, tội nghiệp. Người đàn bà tuổi trạc ngoài bốn mươi, thân hình “cao lớn với những đường nét thô kệch”. Mụ rỗ mặt và khuôn mặt hiện rõ vẻ mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và đang buồn ngủ. Ngoại hình lam lũ, tội nghiệp là vậy, khi nhìn vào cảnh ngộ của người đàn bà này ta càng thêm xót xa, thương cảm. Chị ta phải chịu nhiều bất hạnh ngay từ khi còn trẻ. Thời còn con gái chị ta đã bị rỗ mặt do một trận đậu mùa khiến cho khuôn mặt trở nên xấu xí, khó lấy được chồng. Chị ta lỡ có thai với người con trai của một nhà hàng chài, từ đó theo chồng và gắn bó với nghề chài lưới, quanh năm suốt tháng lênh đênh trên biển.

Từ khi có gia đình, chị ta phải lăn lộn với cuộc sống nghèo khổ, thiếu thốn về vật chất và tủi nhục về tinh thần. Vì sinh đẻ nhiều, gia đình đông con mà thuyền lại chật, có những khi biển động gió lớn cả nhà chỉ đành ăn cây xương rồng luộc chấm muối. Không chỉ thiếu thốn về vật chất, chị ta còn là nạn nhân của bạo lực gia đình, thường xuyên hứng chịu những trận đòn roi vô lí của người chồng “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng”. Chánh án Đẩu từng thốt lên rừng “cả nước không có một người chồng nào như hắn… chị không sống nổi với cái lão đàn ông vũ phu ấy đâu”.

Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài để làm nổi bật vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật này

Trong hoàn cảnh khốn cùng, nghiệt ngã như vậy nhưng người đàn bà hàng chài vẫn giữ cho mình những phẩm chất quý giá. Đó là một người mẹ với tình yêu thương con vô bờ. Trong đám con đông đúc của mình, chị ta thương thằng Phác nhất, không muốn nó chịu khổ nên phải gửi nhờ ông ngoại nuôi dưỡng. Điều đầu tiên mà chị ta mong mỏi cho các con là có cuộc sống ổn định, không phải lênh đênh, chịu bấp bênh và khổ cực trên biển. Dù cuộc sống có cơ cực chị vẫn cố gắng để các con của chị không chỉ được no đủ mà còn bảo vệ đời sống tinh thần của các con không bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh bố đánh mẹ. Khi các con lớn, chị đã “xin chồng lên bờ mà đánh” vì chị không muốn các con phải chứng kiến cảnh đau lòng đó.

Chị đã cố gắng hết sức để bảo vệ các con, thế nên khi thằng Phác lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ, người đàn bà ấy như chết lặng. Chị ta cảm thấy tủi nhục và đau đớn, nhát quất của chồng trên da thịt không đau bằng sự xuất hiện của thằng con trai “như một viên đạn xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rơi xuống những dòng nước mắt. Chị ta đau vì cách hành xử của bố với mẹ đã làm tổn thương đến tâm hồn và nhân cách con trẻ, thằng bé dám thực hiện hành động độc ác ngay cả với cha đẻ ra nó là phản ứng tiêu cực.

Người đàn bà ấy còn có một tình yêu dành cho chồng sâu sắc. Vốn chị ta thương thằng Phác nhất cũng chính vì nó giống như lột cái lão đàn ông đã hành hạ chị, giống từ tính khí đến mặt mũi. Phải thừa nhận rằng cách hành xử thô bạo của chồng không làm cho chị ta thay đổi tình cảm của mình dành cho anh ta mà ngược lại vẫn nâng niu hình ảnh của người đàn ông ấy trong tình yêu của mình. Chị hiểu cho người đàn ông vì cuộc sống cơ cực nhiều bế tắc cần có cách để giải tỏa, nhưng chồng chị lại không biết uống rượu như những đàn ông khác. Dường như cách đánh vợ là cách duy nhất để giải tỏa những uất ức, chính vì thế khi con đã lớn, chị không yêu cầu chồng chấm dứt đánh những trận đòn mà chỉ xin chồng lên bờ mà đánh. Chị chấp nhận, cam chịu, nhẫn nhục để chồng có thể giải tỏa uất ức.

Ta nhìn thấy được một người đàn bà hàng chài giàu đức hy sinh vì con, vì chồng, vì gia đình. Trong cuộc sống cơ cực triền miên, chị ta luôn nhận lỗi về mình “phụ nữ trên thuyền đẻ nhiều quá”, điều đó còn bởi sự lạc hậu mà chị ta luôn miệng mong các chú cách mạng thông cảm cho. Niềm vui lớn nhất của chị là những lúc vợ chồng hòa thuận, đàn con được ăn no, đó là điều hiếm hoi nhưng người đàn bà luôn mong mỏi và trân trọng. Người đàn bà ấy đã xác định lẽ sống vì chồng, vì con, vì gia đình chứ không phải vì bản thân, quên hẳn những nhu cầu và đòi hỏi của cá nhân. Dù bị chồng đánh và đày đọa nhưng chị ta vẫn van xin không bỏ chồng, chấp nhận bị bắt tội, bị phạt tù. Nghĩa là dù người đàn ông ấy có độc ác, tàn bạo đến mấy chị vẫn cần để có người cùng chèo chống khi phong ba và hơn nữa là chị muốn giữ gìn cho các con một mái ấm gia đình trọn vẹn, đủ đầy.

Có thể nói, nhân vật để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa chính là người đàn bà hàng chài. Câu chuyện của người đàn bà hàng chài dẫn dắt chúng ta đến với những góc tối tăm nhất của cuộc đời để nhìn nhận những sự thật gần ngay trước mắt. Trong nơi tối tăm ấy thứ ánh sáng duy nhất và đẹp đẽ nhất chính là phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn con người, tiêu biểu ở đây là phẩm chất cao đẹp của người đàn bà hàng chài.

Cảm nhận về người đàn bà hàng chài – (Mẫu 15)

Nguyễn Minh Châu là một trong những cây bút có tầm ảnh hưởng của văn học Việt Nam trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ và những năm đầu đổi mới. Bằng chính những trải nghiệm trong quá trình chiến đấu, cũng như được sống trong những năm đất nước vừa đi qua chiến tranh, nên nhà văn có những cái nhìn thực tế, mới mẻ, để đưa vào từng tác phẩm của mình những câu chuyện chân thực, nhiều sức hút, bởi tính triết lý, những quan niệm thẩm mỹ, nghệ thuật tiến bộ, có chiều sâu. Đặc biệt là khi viết về vấn đề số phận con người, những mảnh đời nhỏ bé trong xã hội, suy nghĩ về đạo đức thế sự, dường như ngòi bút của Nguyễn Minh Châu lại càng tỏa sáng mạnh mẽ, với nhiều tác phẩm ấn tượng như Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Khách ở quê ra, Bến quê,… Mỗi một câu chuyện là một nhân vật với những hoàn cảnh, số phận khác nhau, và điểm chung là đều mang đến cho người đọc những trăn trở suy tư về ý nghĩa của cuộc sống, về những nghịch lý vẫn thường xảy ra trong cuộc đời. Chiếc thuyền ngoài xa là một trong số những tác phẩm xuất sắc và sáng giá nhất của Nguyễn Minh Châu, với nhân vật trung tâm là người đàn bà làng chài có số phận bất hạnh, vẻ ngoài xấu xí, tuy nhiên lại có “hạt ngọc tâm hồn” đẹp đẽ, khai mở cho độc giả những trường suy tư mới về mỗi số phận con người.

Người đàn bà làng chài xuất hiện trong một hoàn cảnh vô cùng éo le, ấy là trong một cuộc bạo lực gia đình, mà chị là nạn nhân, một nạn nhân im lặng chịu đựng, nhẫn nhục hứng cơn mưa đòn roi từ gã chồng vũ phu. Nguyễn Minh Châu đã phác họa nên một hình tượng nhân vật tiêu biểu cho nhiều số phận phụ nữ sống tại miền biển nhiều nắng và gió, chị không có một cái tên cụ thể, tuổi trạc tầm 40 mươi, đã đi quá phân nửa cuộc đời, thân hình cao lớn, thô kệch, tấm áo bạc phếch và rách rưới, “khuôn mặt mệt mỏi vì thức trắng sau một đêm thức kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ”.

Đi sâu vào cuộc đời người phụ nữ này ta mới thấy chị đã có một chặng đường đầy khó khăn và vất vả, những bước chân nặng nề, mệt nhọc lội qua bãi phá, đi thật xa khỏi con thuyền để cho người chồng xả giận, tất cả đều có những nguyên nhân thật xa xôi. Ngày còn trẻ chị cũng là con gái nhà khá giả, có cuộc sống êm đềm, nhưng thật bất hạnh thay một cơn đậu mùa đã để trên khuôn mặt chị những nốt rỗ xấu xí, cùng với vóc dáng cao lớn thô kệch, mà đối với người phụ nữ sinh ra với ngoại hình không mấy xinh đẹp là một trong những thiệt thòi, cũng là khởi nguồn của nhiều đau khổ. Chính vì lẽ đó khi lớn lên chị đã phải chịu cảnh quá lứa lỡ thì vì không lấy được chồng, mãi về sau mới nên duyên với anh thợ kéo lưới, chính là người chồng hiện tại. Thế nhưng vì chiến tranh, cuộc sống của hai vợ chồng lại càng trở nên khó khăn, đến khi hòa bình lập lại, thì gia đình người đàn bà làng chài vẫn chưa thoát khỏi cái cảnh nghèo đói chỉ vì nhà đông con quá, mà thuyền lại chật, có những tháng ròng biển động cả gia đình phải ăn cả xương rồng chấm muối.

Bài văn Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài trong chiếc thuyền ngoài xa hay nhất

Sự bất hạnh của người đàn bà hàng chài ngoài sự thiếu thốn về vật chất, lam lũ suốt mấy chục năm dài còn nằm ở những nỗi thống khổ trong tâm hồn. Chị phải liên tục gánh chịu sự dày vò, bạo hành của người chồng vũ phu cùng với những lời nói cay nghiệt, độc ác thốt ra từ người đàn ông đã đi cùng chị hơn nửa cuộc đời, đã có với nhau hàng chục mặt con. Có thể nói rằng cuộc đời người đàn bà làng chài là chất chứa đến hàng vạn nỗi đau, sự bất hạnh chồng chất, thế nhưng bên trong cái vỏ xấu xí, khắc nghiệt và nhiều khổ đau ấy, ta mới lại thấy được những vẻ đẹp phẩm chất đáng quý, đáng ngưỡng mộ, mà không ngỡ được rằng một con người bị dày vò cả về thể xác lẫn tâm hồn kia vẫn còn gìn giữ được vẹn nguyên và trong sáng đến thế.

Vẻ đẹp đầu tiên và sáng rõ nhất của người đàn bà làng chài ấy là tình mẫu tử thiêng liêng, sâu đậm với những đứa con của mình. Cả Phùng và Đẩu dường như tức điên vì sự vô lý rành rành khi người đàn bà làng chài van xin để không phải ly hôn với người chồng vũ phu. Thế nhưng chỉ đến khi chị rũ bỏ vẻ rụt rè, ngại ngùng để tâm sự về cuộc đời mình, người ta mới hiểu được, có những thứ không phải cứ muốn là được và trên cuộc đời này không phải lúc nào công lý và pháp luật cũng có thể giải quyết hết bất hạnh cho con người. Người đàn bà làng chài không sống vì mình, chị sống vì những đứa con mà chị đã mang nặng đẻ đau chín tháng mười ngày, chúng nó đều đang tuổi ăn, tuổi lớn, đang trông chờ bàn tay lao động của cha mẹ, mang về cho chúng miếng cơm manh áo để trưởng thành. Chị mở lòng bằng câu nói khiến cả hai người đàn ông đang hùng hổ muốn đòi công bằng cho chị phải nín lặng “các chú đâu phải người làm ăn…cho nên các chú đâu có hiểu được cái việc của các người làm ăn lam lũ, khó nhọc”.

Gia đình chị dựa vào việc đánh bắt để kiếm sống thế nhưng một mình chị là phận đàn bà làm sao chèo chống nổi, chính vậy chị cần một người đàn ông làm trụ cột để gồng gánh những ngày biển động bão bùng. Dù rằng cái kẻ vũ phu ấy có làm tổn thương chị, thế nhưng hắn vẫn ra sức lao động, cùng chị nuôi các con, nếu không có chồng rồi chị biết làm sao để nuôi hơn chục đứa con lớn, nhỏ của mình. Không chỉ thế, chị chấp nhận cay đắng để sống với người chồng vũ phu là vì muốn các con của mình có một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ, dù rằng sâu trong bản chất nó đã trở nên méo mó sứt sẹo từ lâu. Chị không muốn những đứa con của chị lớn trong ám ảnh việc cha mẹ ly hôn vì bạo lực gia đình, và trong thâm tâm của chị “cũng có những lúc gia đình vợ chồng con cái chúng tôi chung sống hòa thuận vui vẻ”. Chính lẽ đó, chị chấp nhận hy sinh, chịu đựng những trận đòn tàn nhẫn để bảo vệ cho cái tổ ấm bé nhỏ, cùng những đứa con của mình.

Tình mẫu tử của người đàn bà làng chài còn thể hiện ở nỗi lo lắng cho đứa con trai là thằng Phác, chị đã khóc khi nghe Phùng và Đẩu nhắc đến thằng bé, chị sợ nó sẽ làm ra điều dại dột với bố nó, nên đành cho nó lên ở với ông ngoại. Chị thương con, vì chính nó đã đứng ra chống lại bố để bảo vệ mẹ, một đứa trẻ bé nhỏ nhưng vì tình yêu thương mẹ sâu sắc đã sẵn sàng tổn thương người cha vũ phu để cứu mẹ khỏi những trận đòn roi tàn nhẫn. Điều đó đã để lại trong tim người đàn bà làng chài những nỗi đau, nỗi bất lực, khi mà chị đã cố gắng giấu giếm các con việc mình bị đánh bằng cách cầu xin gã chồng đem mình lên bờ mà đánh, mà trút giận, nhưng cuối cùng vẫn để cảnh tượng hãi hùng, xấu xí ấy lọt vào tầm mắt của những đứa con mà chị yêu thương hết mực. Tấm lòng yêu thương con tha thiết ấy của người phụ nữ, cũng như lời tâm sự rất mực thấu hiểu và đầy lý lẽ của chị đã khiến Phùng và Đẩu phải có cái nhìn khác, đối với độc giả sự hi sinh của người đàn bà làng chài trở thành một ấn tượng sâu sắc, khiến người ta không khỏi trăn trở suy nghĩ về trách nhiệm làm cha, làm mẹ của mỗi con người trên cuộc đời.

Không dừng lại ở đó, vẻ đẹp của người đàn bà làng chài còn hiện lên với tấm lòng bao dung, nhân hậu, thấu hiểu lý lẽ. Đối với việc bị bạo lực gia đình “năm ngày một trận nặng, ba ngày một trận nhẹ” từ người chồng đầu ấp tay gối, chị chỉ thuật lại bằng chất giọng bình thản, đượm buồn, chất chứa trong đó là sự cam chịu, nhẫn nhục. Chị không hề tỏ ra căm hận, giận dữ trước sự tàn nhẫn của gã chồng vũ phu, như những gì hắn đã làm với chị. Thậm chí chị đã bao dung đến độ, bào chữa cho gã chồng rằng chỉ bởi lẽ vì nghèo khổ quá, phải gánh gồng áp lực mưu sinh quá lớn, khiến cho chồng chị trở nên cục cằn, vũ phu, thành ra hắn lấy chị ra làm chỗ trút giận, bộc lộ những nỗi căm phẫn, bất lực vì quẩn quanh mãi trong cái vòng tròn nghèo đói. Rồi dù đã từng bị đánh, bị hành hạ biết bao nhiêu năm tháng, thế nhưng trong tấm lòng bao dung, nhân hậu của chị vẫn luôn nhớ mãi dáng vẻ khi trẻ của người chồng dù “cục tính nhưng hiền lành không bao giờ đánh đập tôi”, lấy nó làm nền tảng để thông cảm, giải thích cho những sự biết đổi của chồng mình, tất cả chỉ vì cái nghèo đói gây ra. Không dừng lại ở đó, người ta còn thấy tấm lòng người đàn bà làng chài thật bao la, khi sẵn sàng tự nhận hết lỗi về mình, nghĩ rằng giá mà có được chiếc thuyền rộng hơn, “giá mà tôi đẻ ít đi” thì có lẽ cuộc sống đã dễ thở hơn, và chồng chị cũng không trở nên đổ đốn, vũ phu như thế. Mặc dù những cái chị nói chẳng phải và cũng chẳng bao giờ là lỗi lầm của chị cả, thế nhưng để biện minh cho gã chồng vũ phu, chị vẫn hi sinh, tự nguyện ôm hết trách nhiệm về mình. Không chỉ vậy, một phần chị bênh vực cho chồng mình, cũng có lẽ là xuất phát từ tấm lòng ghi nhớ cái ơn nghĩa cứu vớt cuộc đời chị khi xưa của người chồng. Người đã cho chị một cuộc sống gia đình, một chỗ dựa và những đứa con mà chị yêu thương, là niềm tin là động lực để chị tiếp tục sống, tiếp tục mạnh mẽ đối diện với cuộc đời nhiều bất hạnh này.

Vẻ đẹp đáng quý của người đàn bà làng chài còn bởi sự thấu hiểu lý lẽ, tâm hồn sâu sắc dù ít học, cuộc sống quanh năm vất vả, cực nhọc. Chị hiểu tấm lòng của Phùng và Đẩu, hiểu được rằng họ muốn giành lại công bằng cho chị, tất cả chỉ vì muốn chị thoát khỏi cảnh bị bạo hành, để chị có một cuộc sống tốt hơn, nuôi con khôn lớn. Thế nhưng cả hai người đều không hiểu những nỗi vất vả của một người làm ăn trên biển, cái khó của người đàn bà trên thuyền khi không có đàn ông, chính vì vậy chị mở lòng giải thích, tâm sự bằng những lý lẽ giản đơn, mộc mạc, để tháo gỡ hết những khúc mắc trong lòng Phùng và Đẩu, để họ hiểu được vì sao chị lại nhất quyết không muốn ly hôn chồng, để tự giải thoát cho bản thân. Bên cạnh đó, chị còn là một người phụ nữ có lòng tự trọng sâu sắc, dù bị đánh những đòn roi đau đớn, nhưng chị không kêu lấy một tiếng, thấy xấu hổ, nhục nhã khi bị con trai chứng kiến cảnh mình bị đánh. Có thể thấy rằng dù sống một cuộc đời khó nhọc thế nhưng người đàn bà làng chài vẫn luôn giữ cho mình được những cốt cách, phẩm chất đáng quý, đặc biệt là sự từng trải, nhìn rõ những lý lẽ ở đời. Cũng từ đó mở ra cho người đọc những suy nghĩ về cách nhìn nhận cuộc sống, thay vì chỉ nhìn một chiều hạn hẹp, thì cần có cái nhìn đa diện nhiều chiều hơn, để có thể thấu hiểu và thông cảm cho nhiều số phận con người, thấu tỏ được những cái có lý trong hoàn cảnh nghịch lý .

Chiếc thuyền ngoài xa là một trong những tác phẩm xuất sắc, khi phản ánh cuộc sống con người những năm tháng đất nước đang đổi mới, ở đó Nguyễn Minh Châu đã xây dựng nhân vật người đàn bà làng chài, với những miêu tả trần trụi, đầy tính hiện thực về một cuộc sống khó khăn, nghèo đói và cuộc hôn nhân bất hạnh, đau khổ, đầy tăm tối, sứt sẹo của người phụ nữ tội nghiệp. Nhưng càng đi sâu, người ta mới phát hiện ra được hạt ngọc tâm hồn đang ẩn chứa trong cái vỏ bọc lam lũ, xấu xí, cam chịu của người đàn bà làng chài, đó là “những nét đẹp đẽ kỳ diệu đến nỗi cả một đời người cũng chưa đủ để nhận thức khám phá tất cả…”. Truyện ngắn còn mang đến cho người đọc những triết lý nhân sinh sâu sắc, những quan niệm mới mẻ về cách làm nghệ thuật của người nghệ sĩ, cũng như những trăn trở suy tư về việc giải phóng con người khỏi cuộc sống nghèo đói, đầy bất hạnh bằng những cách thức khác, mà chỉ dựa vào pháp luật và công lý là chưa đủ.

1 1,526 20/12/2023
Tải về