TOP 5 mẫu Cảm hứng trong hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm (2024) SIÊU HAY

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm lớp 12 gồm dàn ý và 5 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 3339 lượt xem
Tải về


Cảm hứng trong hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm – Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Đất Nước

Dàn ý Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm.

- Giới thiệu vấn đề nghị luận: Hình tượng đất nước trong hai bài thơ.

2. Thân bài

- Làm rõ đối tượng thứ nhất: Hình tượng đất nước trong bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi.

- Làm rõ đối tượng thứ 2: Hình tượng đất nước trong bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.

- So sánh: Nét tương đồng và khác biệt giữa hai đối tượng trên cả hai bình diện nội dung và hình thức nghệ thuật

- Những đặc điểm giống nhau về hình tượng đất nước của 2 bài thơ

- Nguyễn Đình Thi khởi đầu bài thơ bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp mùa thu.

- Đây là một quyết định khéo léo bởi vì trước kia mùa thu bao giờ cũng là thu thảm thu sầu còn từ sau cách mạng tháng 8 năm 1945 trở đi thì mùa thu vui - mùa thu cách mạng, mùa thu khai sinh ra đất nước.

- Khởi đầu bằng những cảm xúc trước vẻ đẹp mùa thu giúp cho Nguyễn Đình Thi có được những suy tư về đất nước một cách tự nhiên và thoải mái hơn.

- Nguyễn Khoa Điềm khắc họa hình tượng đất nước mình bằng cách đặt hình tượng này trong mối liên hệ với thời gian và không gian cụ thể còn về sau là thời gian không gian trừu tượng.

- Đất nước được nhìn qua chiều dài của thời gian và mặt khác đất nước được xác định bởi những không gian có thể là những không gian nhỏ, không gian cụ thể và cũng có thể là những không gian mênh mông không gian trừu tượng trong lòng người.

Hình tượng đất nước sẽ rất hoàn thiện khi nó được đặt trong 2 mối liên hệ này.

* Còn khi xét về phương diện con nghệ thuật thì hình tượng đất nước trong 2 bài thơ của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm có khá nhiều nét tương đồng.

- Vì đây là hình tượng đất nước được khắc họa trong thơ ca mà hình tượng thơ lại là hình tượng cảm xúc, cho nên cả 2 tác giả đều viết về đất nước bằng niềm tự hào sâu sắc, bằng những nhận thức thấm thía về lịch sử về truyền thống dân tộc.

- Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước của mình với 2 đặc điểm rất lớn, vừa trái ngược nhau lại vừa rất hài hòa với nhau.

- Đấy là một đất nước vất vả đau thương với những cảnh đồng quê chảy máu dây thép gai đâm nát trời chiều, với cái cảnh “bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Tuy nhiên đất nước chúng ta còn là một đất nước anh hùng quật khởi và một cái đất nước quật cường đã khiến cho kẻ thù bất lực.

“Xiềng xích chúng bay

Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

- Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm còn miêu tả những hình ảnh dân tộc bằng cách nối liền hiện tại với quá khứ và tương lai. Từ điểm nhìn hiện tại, Nguyễn Đình Thi lắng nghe những tiếng rì rầm trong lòng đất của quá khứ vọng về.

- Đấy là tiếng nói hình ảnh của đất nước chưa bao giờ khuất. Đồng thời cảm hứng thơ còn đưa Nguyễn Đình Thi hướng tới tương lai. Ông như nhìn trước một nước Việt Nam từ trong máu lửa rũ bùn đứng dậy sáng lòa.

- Còn ở trong bài thơ đất nước của mình, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc của ông về những hình ảnh văn hóa lâu đời.

- Để viết nên bài thơ đất nước của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng với một mật độ rất cao các chất liệu văn hóa dân gian. Dựa trên rất nhiều câu ca dao tục ngữ, để viết nên những câu thơ của mình.

- Ông còn đưa vào bài thơ rất nhiều truyền thuyết, những sinh hoạt phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Nguyễn Khoa Điềm còn ý thức một cách rất sâu sắc về những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước.

- Đó là những đóng góp từ nhỏ nhặt cho đến lớn lao, những đóng góp được ghi lại trong sử sách và cả những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai biết. Đó còn là những đóng góp kiên nhẫn, bền bỉ truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Những điểm khác nhau của hình tượng đất nước ở 2 tác phẩm

- Đây là 2 bài thơ được ra đời ở 2 thời điểm rất khác nhau và chính điều đó đã khiến cho hình tượng đất nước ở 2 bài thơ này có nhiều chỗ khác biệt.

- Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước với 2 đặc điểm và đặt hình tượng đất nước trong mối quan hệ với quá khứ và tương lai.

- Trong khi ấy Nguyễn Khoa Điềm lại viết bài thơ này theo một định hướng tư tưởng nhằm chứng minh: “đất nước này là đất nước của người dân”, mà tư tưởng cơ bản này đã chi phối toàn bộ bài thơ và nó quy định bút pháp, nó buộc Nguyễn Khoa Điềm phải chọn cái giải pháp đi từ cụ thể đến khái quát. Điều này là rất dễ giải thích bởi vì bản thân tư tưởng đất nước của người dân vốn đã là trừu tượng. Để cho sáng tỏ nó chỉ có 1 cách là đi từ rất nhiều những hình ảnh cụ thể, những đóng góp của người dân cho đất nước, những chất liệu văn hóa dân gian… để rồi từ rất nhiều hình ảnh cụ thể ấy tư tưởng đất nước của người dân mới được làm sáng tỏ.

Lí giải sự khác biệt:

* Thực hiện thao tác này cần dựa vào các bình diện

- Bối cảnh xã hội, văn hóa mà từng đối tượng tồn tại; phong cách nhà văn; đặc trưng thi pháp của thời kì văn học.

* Do sự khác biệt về phong cách

- Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính có chất hội họa và điều đặc sắc nhất là có cả những suy tư sâu sắc của một tư duy triết học. Còn thơ Nguyễn Khoa Điềm thường viết về cuộc đấu tranh cách mạng.

- Ông hay đề cao phẩm chất của những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường. Đặc biệt ông có những cảm nhận rất phong phú và sâu sắc về đất nước trong những năm chống Mĩ.

* Về phương diện bố cục:

- Chúng ta rất dễ dàng nhận thấy ở 2 bài thơ đất nước đều chia làm 2 phần nhưng sự liên kết 2 phần ở mỗi bài lại rất khác nhau.

- Bài đất nước của Nguyễn Đình Thi được bắt đầu bằng những xúc cảm trước vẻ đẹp của mùa thu, mùa thu Hà Nội trong hồi tưởng và mùa thu Việt Bắc trong hiện tại. Để rồi sau đó mới chuyển sang quá khứ 2 thời điểm để diễn tả những suy tư cả tác giả đối với đất nước.

- Trong khi ấy thì bố cục 2 phần của bài thơ đất nước của Nguyễn Khoa Điềm lại theo một cách hoàn toàn khác. Phần 1 dành cho việc khắc họa hình tượng đất nước trong mối liên hệ với thời gian. Để rồi toàn bộ phần 2 nhằm chứng minh cho tư tưởng với đất nước của người dân.

3. Kết bài

- Khái quát những nét giống nhau và khác nhau tiêu biểu.

- Có thể nêu những cảm nghĩ của bản thân.

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 1)

“Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm !

Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ ….
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó.

Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quỵên vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp.

Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ csai nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏng sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:
Sau lăng thềm nắng lá rơi đầy
Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha.

Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:
Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ
Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo
Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cò lả
Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo
(Chế Lan Viên)

Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm ngát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi găm stình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp nhữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:
Nước chúng ta
Nước của những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hưúng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát.
Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chíên tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:
Những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Từ xúc cảm không chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.
Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:
Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.
Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
…Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình
Phải biết gắn bó và san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…

Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rông lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại.

Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta
Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:
Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững
Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa
Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng
Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà
(Huy Cận)
Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:
“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”
Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung xlà một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:
Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại
Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”
“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.

Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùôn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…”

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 2)

Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm là hai nhà thơ nổi tiếng ở hai thời điểm khác nhau. Một người ở thời kháng chiến chống Pháp còn người kia nổi tiếng ở thời kháng chiến chống Mỹ. Thế nhưng chính hoàn cảnh đất nước là xảy ra những cuộc đấu tranh chống quân xâm lược ấy mà hai nhà thơ này lại cùng có chung cảm hứng về đất nước. Chính vì thế họ cùng sáng tác ra một thi phẩm với tựa đề là đất nước. tuy nhiên cách khám phá về đất nước của hai người có những điểm chung và khác nhau. Vậy những điểm chung và điểm riêng biệt đó là gì?

Trước hết là điểm chung thì họ đều chọn cho mình cảm hứng về quê hương đất nước. Đề tài về đất nước là một đề tài không mới nhưng cũng không bao giờ cũ bởi nó mang đến những tình cảm cá nhân của từng nhà thơ với đất nước của mình. Hai nhà thơ này cũng không nằm ngoài những nhà thơ viết về đất nước. Cả hai người đều là người có tài và yêu quê hương đất nước.

Điểm chung thứ hai là tư tưởng đất nước của nhân dân. Chính nhân dân là người làm ra đất nước. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã viết về sự đứng lên của nhân dân ta trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những người nông dân ấy căm hờn tội ác của thực dân Pháp vì thế cho nên họ đứng lên để bảo vệ tổ quốc của mình:

“Khói nhà máy cuộn trong sương sớm

Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng”

Còn nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân qua hàng loạt các hình ảnh đất nước trong những hình ảnh thân thuộc, đồng thời chính những người nhân dân không biết mặt đặt tên lại chính là những người chiến đấu và làm nên đất nước. Bởi chính sự hi sinh của họ đã làm nên đất nước hôm nay. Không chỉ trong tranh đấu mà họ còn là người giữ gin giọng nói, dáng điệu, hạt lúa, ngọn lửa để truyền lại cho con cháu mai sau làm nên bản sắc riêng của con người Việt. Vậy chính họ đã tạo nên lịch sử của một đất nước, tạo nên văn hóa của đất nước:

“họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm nên đất nước”

“Họ truyền cho ta hạt lúa ta trồng

…….

Để đất nước là đất nước nhân dân

Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao huyền thoại”

Điểm chung thứ ba mà cả hai nhà thơ đều tìm thấy trong cảm hứng đất nước đó là hình ảnh đất nước đều hiện lên trong những hình ảnh thân thuộc của quê hương. Nhà thơ Nguyễn Đình Thi viết:

“Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Nguyền Khoa Điềm lại viết về những điều rất đỗi thân quen bình di:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”

Điểm chung thứ tư là thể thơ. Cả hai nhà thơ đều chọn thể thơ tự do để thể hiện cảm xúc của mình. Có thể nói thể thơ ấy là điểm thuận lợi để cho cảm xúc tuôn chảy một cách thoải mái nhất.

Tuy có những điểm chung những cả hai bài thơ đều có những nét riêng biệt mà bài kia không giống.

Nguyễn Đình Thi khám phá đất nước từ buổi sang mát trong của mùa thu nhớ ngày ra đi không ngoảnh lại buồn xao xác hơi may. Và đến ngày nay thì mùa thu đã vui tươi trở lai.

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ về những ngày thu đã xa

…..

Trong biếc tiếng nói cười thiết tha”.

Thế rồi từ chỗ nói về cảm xúc của mình mùa thu năm xưa và hiện tại nhà thơ khẳng định chủ quyền dân tộc qua những hình ảnh hữu hình vô hình của đất nước. Sau đó là hình ảnh đất nước của nhân dân qua việc chính nhân dân chịu những đau thương mất mát rồi từ đó bật lên những tiếng căm hờn đứng lên thành những anh hùng giữ nền độc lập tự do của đất nước:

“Bát cơm chan đầy nước mắt

Bay còn giằng khỏi miệng ta”

Để rồi:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt nam từ máu lửa

Đứng dậy rũ bùn sáng lòa”

Đó chính là cách khám phá đất nước và cách thể hiện tư tưởng đất nước của nhân dân của nguyễn Đình Thi. Đất Nước đối với nhà thơ mà nói là đất nước từ những năm đau thương đến những giây phút đứng lên quật khởi chống lại bọn đế quốc. Có thể nói rằng nhân dân ta vốn hiền lành và ưa chuộng hòa bình thế nhưng nếu như chúng không biết điều và cố tình xâm chiếm đất nước ta thì nhân dân ta chắc chắn sẽ đứng lên đấu tranh. Mặc cho chúng có nhiều súng đạn đến đâu cũng không thể nào bắn chết được người Việt Nam yêu nước.

Còn Nguyễn Khoa Điềm lại có cách khám phá riêng. Nhà thơ đi từ cội nguồn đất nước có từ bao giờ:

“Đất nước có từ cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương sau bằng gừng cay muối mặn…”

Và nhà thơ tiếp tục đi vào giải thích định nghĩa đất nước là gì trên bà phương diện không gian thời gian. Đất nước được tách ra thành hai khái niệm đất và nước sau đó lại được hợp lại thành đất nước. Không gian đất nước tồn tại trong chính cả tình yêu đôi lứa thầm kín, trong không gian sinh tồn của nhân dân ta. Đất nước còn là thời gian đằng đẵng từ thời mẹ Âu Cơ và Lạc Long Quân đến thời vua Hùng, thời của anh và em trong hiện tại và tương lai của con cái chúng ta.

Để làm rõ cho tư tưởng đất nước của nhân dân nhà thơ đi vào phân tích tư tưởng ấy trên ba phương diện: địa lý, lịch sử, văn hóa. Ở phương diện nào thì người dân vẫn là người làm nên những di tích của đất nước.

Ở phương diện nghệ thuật chúng ta cũng thấy được sự khác nhau. Nếu như nhà thơ Nguyễn Đình thi thể hiện với giọng thơ khi buồn nhớ khi vui vẻ phơi phới khi lại hào hùng kể chuyện đứng lên của nhân dân thì Nguyễn Khoa Điềm lại góp vào chủ đề đất nước một giọng thơ trầm lắng suy tư, nhẹ nhàng thủ thỉ. Nó mang hơi thở của ca dao thần thoại.

Như vậy qua đây ta thấy được sự giống nhau và khác biệt của hai nhà thơ khác nhau ở hai thời kì khác nhau nhưng chung cảm hứng về đất nước. Mỗi bài thơ đều có một cách khám phá riêng song cả hai bài thơ đều chất chứa tình cảm của hai tác giả dành cho quê hương đất nước mình.

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 3)

Nguyễn Đình Thi (1924-2003), ông là một nghệ sĩ đa tài trưởng thành từ cuộc kháng chiến chống Pháp của dân tộc, ông làm văn, viết thơ, viết kịch, ngoài ra còn soạn nhạc. Trong suốt cuộc đời nghệ sĩ và cuộc đời cách mạng của mình, Nguyễn Đình Thi sáng tác thơ không nhiều, thế nhưng thơ ông có một giọng điệu riêng, vừa phóng khoáng tự do, vừa hàm xúc suy tư, đặc biệt nhà thơ luôn hướng tới những hình ảnh, nhạc điệu có tính hiện đại, đổi mới. Trong tổng số các tác phẩm thơ của mình Nguyễn Đình dành khá nhiều để viết về quê hương, đất nước với những tình cảm thiết tha, đằm thắm, viết về một Việt Nam của những con người áo vải, dẫu chịu nhiều gian khổ, đau thương nhưng vẫn đứng lên hiên ngang, một lòng chiến đấu và giành chiến thắng vẻ vang lịch sử. Đất nước là một thi phẩm xuất sắc và tiêu biểu nhất trong sự nghiệp thi ca của Nguyễn Đình Thi, bên cảnh hình ảnh đất nước thanh bình, tươi đẹp, giữa trời thu hương cốm mới thì đất nước còn hiện lên với hình tượng đau thương và anh dũng vô cùng.

Đất nước từ lâu đã trở thành cảm hứng thi ca của nhiều nghệ sĩ, ta thấy một đất nước có nguồn gốc, có quá trình trưởng thành và tồn tại trong những vần thơ bình dị của Nguyễn Khoa Điềm, ta cũng thấy một đất nước với âm điệu của “thon thả giọt đàn bầu” của Tạ Hữu Yên, rồi một Trần Mạnh Hảo với đất nước hình tia chớp mạnh mẽ, kiêu hùng,… Nhưng đến Nguyễn Đình Thi ta lại thấy hình tượng đất nước hiện lên nhiều hơn ở sự đau thương và anh dũng, đặc biệt là trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Nếu trong 17 câu thơ đầu của Đất nước Nguyễn Đình Thi đang chìm đắm trong hương cốm mùa thu, trong cảm giác hạnh phúc, sung sướng của độc lập tự do mới giành lại được, thì những dòng thơ tiếp theo tác giả lại bỗng quay về xúc cảm trầm tư với những suy tưởng, về những trang lịch sử còn mới của đất nước.

“Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về”

Đó chính là tấm lòng của Nguyễn Đình Thi, không bao giờ lãng quên quá khứ, càng nhìn về thuở xa xưa đớn đau thi nhân mới lại càng thêm quý trọng những ngày tháng an lành hôm nay. Trong câu thơ “Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/Những buổi ngày xưa vọng nói về”, đem lại cho người đọc những cảm xúc mới lạ, tiếng “rì rầm” ấy là gì? Phải chăng là anh linh của biết bao con người đã nằm xuống, là biết bao quá khứ đau thương đã được mảnh đất đau thương này ghi lại trong lòng, đêm đêm vẫn âm thầm nhắc nhở con cháu bằng tiếng “vọng nói về” thiêng liêng, gần gũi của “những người chưa bao giờ khuất” . Hình tượng đất nước trong cảm nhận của nhà thơ là hình tượng bất tử, trường tồn cộng hưởng với âm thanh “rì rầm” ấy đã trở thành sự thôi thúc mạnh mẽ trong trái tim nhà thơ, khiến mạch cảm xúc của Nguyễn Đình Thi nhanh chóng hòa vào những năm tháng đau thương trong lịch sử bằng tấm lòng thành kính nhất, không quá ồn ào, triết lý mà lặng lẽ, sâu sắc. Nỗi đau trong Đất nước những năm tháng chiến tranh được Nguyễn Đình Thi thể hiện bằng những hình ảnh ẩn dụ có tính hiện thực sâu sắc, khái quát hóa đất nước Việt Nam, làng quê Việt Nam bằng hình ảnh cánh đồng, trời xanh.

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu”

Một từ “ôi” như tiếng than đầy đau xót của thi nhân trước cảnh đất nước tan hoang, còn đâu những cánh đồng thẳng cánh cò bay, mà nay là “cánh đồng quê chảy máu” đầy đau thương, còn đâu một mảnh trời thanh bình, hiu hiu gió heo may thổi, nay lại bị “dây thép gai đâm nát” tan hoang. Tất cả đều lên án, tố cáo mạnh mẽ tội ác man rợ của thực dân Pháp, những kẻ “Lấy máu đỏ tưới lên đồng vàng”, khiến nhân dân ta phải khốn khổ, lầm than biết bao năm trời. Nguyễn Đình Thi sáng tạo những hình ảnh mang đậm chất điện ảnh như vậy lại càng khắc sâu thực cảnh khốc liệt của chiến tranh và lòng căm thù giặc đến tận cùng. Từ những cảm xúc căm hờn ấy ông chuyển sang hồi ức về những năm tháng hành quân kiêu hùng của bộ đội ta, những người con rời xa quê hương, rời xa gia đình để hòa mình vào cuộc chiến, với trái tim ngập tràn máu nóng của tình yêu Tổ quốc, lòng căm thù giặc sâu sắc. Trong hình tượng bi tráng, anh hùng ấy của người lính Nguyễn Đình Thi thêm vào một nét vẽ lãng mạn và sâu lắng “bồn chồn nhớ mắt người yêu”, phản ánh đúng với tâm trạng người lính chiến, đặc biệt là thế hệ thanh niên rời bỏ ghế nhà trường ra đi vì lý tưởng độc lập tự do. Tình cảm cá nhân cũng trở thành cảm hứng của tình yêu đất nước nước, với Nguyễn Đình Thi trong tình cảm chung lớn, lúc nào cũng tồn tại những cái riêng là một phần tử nhỏ giúp xây dựng nên tình cảm lớn lao và vĩ đại, tư tưởng hiện thực và lãng mạn luôn song hành, điều này khá tương đồng với nhà thơ Tố Hữu.

“Từ những năm đau thương chiến đấu
Đã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Đã bật lên những tiếng căm hờn”.

Sự lý giải sâu sắc về vẻ đẹp, sức sống, lòng căm hờn của con người Việt Nam ta trong chiến đấu, được Nguyễn Đình Thi thể hiện bằng những vần thơ giàu hình ảnh, phong cách ẩn dụ độc đáo, cách dùng từ linh hoạt, sáng tạo. “Từ những năm đau thương chiến đấu” trở thành nguyên nhân, là cơ sở khiến quê hương hương Việt Nam, con người Việt Nam bộc lộ được sức sống mãnh liệt, tinh thần chiến đấu mạnh mẽ, chỉ một từ “ngời”, dường như ta thấy “quê hương” như bừng sáng một vẻ đẹp thiêng liêng và kiêu hùng. Mà lồng trong vẻ đẹp ấy là tấm lòng căm ghét giặc ngoại xâm sâu sắc, thấm đẫm cả “gốc lúa bờ tre hồn hậu” vốn vô tri, chân chất như nông dân Việt Nam ta, nhưng gặp cảnh hoang tàn cũng phải “bật lên những tiếng căm hờn”. Điều này mang nhiều ý nghĩa, trước là tố cáo và nhấn mạnh tội ác thiên thu của kẻ thù, đến mức dù là loài cây cỏ cũng phải bật dậy oán than, sau là ẩn dụ cho hình ảnh dân tộc Việt Nam mộc mạc, chân chất nhưng tấm lòng với quê hương với đất nước vĩnh viễn sâu sắc và rộng lớn không gì sánh bằng. Hiện thực một cuộc sống đầy ải dưới bóng quân thù càng trở nên sâu sắc trong các vần thơ tiếp.

“Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây thằng chúa đất
Đứa đe cổ, đứa lột da”

Tội ác man rợ của quân thù được Nguyễn Đình Thi lột tả sâu sắc, bằng giọng điệu căm hờn, nỗi khổ nhục với “bát cơm chan đầy nước mắt” cũng bị giành lấy, cơn đói khát, lầm than vẫn còn in hằn trong trái tim, nỗi đau xác thịt của những năm tháng khổ sai dưới roi da, gậy gộc của bọn giặc Tây, bọn chúa đất vẫn còn rõ mồn một. Lấy gì mà không căm, không ghét, lấy gì mà không đứng lên chiến đấu để bảo vệ cuộc sống, bảo vệ quê hương, đất nước, giành lại tự do, giành lại cánh đồng xanh thẳng cánh cò, giành lại bầu trời tươi đẹp? Đó chính là cơ sở cho hình ảnh hiên ngang, bi tráng của dân tộc ta được bộc lộ một cách mạnh mẽ.

“Xiềng xích chúng bay không khóa được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

Chẳng xiềng xích nào khóa được một bầu trời Việt Nam tươi đẹp rộn ràng tiếng chim, một mảnh đất anh hùng mọc đầy những bông hoa đất, đã tắm bao nước mắt, mồ hôi và xương máu của dân tộc từ bao đời nay. Có thể nói rằng “trời đầy chim” là biểu tượng cho lòng yêu tự do, “đất đầu hoa” là biểu tượng cho tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu sống khát khao hạnh phúc từ trong bom đạn của nhân dân ta. Chúng mãi trường tồn và mạnh mẽ tựa như “lòng dân ta yêu nước thương nhà” chẳng súng đạn nào có thể hủy diệt, xuyên thấu, một người ngã xuống liền sẽ trở thành sức mạnh đau thương cho thế hệ tiếp theo nối bước anh hùng, bi tráng kiêu hùng, nhưng không bao giờ bi lụy.

Từ ý chí và tinh thần cao đẹp của những con người áo vải kiêu hùng, cuộc chiến trong thơ của Nguyễn Đình Thi được tái hiện một cách sinh động, với niềm tin, niềm hy vọng chiến thắng ngập tràn, trở thành nền tảng cho chiến thắng vẻ vang của dân tộc.

“Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh”

Giọng thơ rộn ràng như tiếng bước chân hành quân trùng trùng, mang âm hưởng hào hùng, như giục giã từng con người Việt Nam rũ bỏ hết vướng bận, khoác vào tấm chinh y lên đường ra chiến tuyến, đứng dậy đấu tranh vì một ngày mai tươi sáng hơn. Nguyễn Đình Thi bước ra từ cảm xúc đau thương, bi tráng, tiến vào mạch cảm xúc mới, ấy là sự vui tươi, hào hứng, tràn đầy nhiệt huyết của những người lính ra trận, trong mắt tràn ngập niềm hy vọng,nhìn thấy ngày đất nước được độc lập, tự do. Niềm hy vọng, niềm tin chiến thắng mạnh mẽ trong trái tim mỗi người lính đã trở thành động lực, sức mạnh để quân dân ta vượt qua tất thảy những khó khăn, gian khổ “Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội” của cuộc kháng chiến trường kỳ, vượt qua những mất mát “Mỗi bước đường mỗi bước hi sinh”, nén đau thương để “Trán cháy rực nghĩ trời đất mới/Lòng ta bát ngát ánh bình minh”.

“Súng nổ rung trời giận giữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Cao trào cuộc chiến được tái hiện một cách mạnh mẽ, ác liệt, rầm rộ và hào hùng, bao nhiêu những căm hờn gói cả vào tiếng “Súng nổ rung trời giận giữ”, trở thành sức mạnh to lớn rung chuyển trời đất, tựa như cơn nước lớn vỡ bờ, ào ạt cuốn trôi lũ giặc ngoại xâm đang vấy bẩn mảnh đất thiêng liêng 4000 năm lịch sử. Một lần nữa hình ảnh đất nước hiện lên, rũ bỏ hết những tàn bụi chiến tranh, như một người anh hùng bước ra từ trong máu và lửa, anh dũng và hùng tráng, tựa như đóa sen trắng vươn lên từ đầm nước sâu, đầy bùn đất, rong rêu, bung những cánh trắng tỏa ngát hương thơm. Đó chính là ẩn dụ về con người Việt Nam, những con người áo vải, máu đỏ da vàng, quật cường vươn lên từ biết bao khó khăn, có nước mắt có mồ hôi và cả xương máu, bao nhiêu những hi sinh ấy đã tô đậm vẻ đẹp tinh thần của nhân dân ta, trở thành sức mạnh khiến nhân dân ta bật dậy và tỏa sáng những trang sử vẻ vang của dân tộc.

Hình tượng đất nước đau thương và anh hùng trong thơ Nguyễn Đình Thi được tái hiện một cách xuất sắc bằng những hình ảnh ẩn dụ đặc sắc, có ý nghĩa khái quát nhưng sâu xa, giọng thơ lúc suy tư, trầm lặng, lúc căm hờn, oán giận, lúc hào hùng sôi nổi khí thế thời đại. Tất cả đã làm nên một đất nước chân thật, và nghệ thuật bằng chính tấm lòng tha thiết, những tình cảm đằm thắm chân thành với quê hương và lịch sử dân tộc của tác giả.TOP 5 mẫu Cảm hứng trong hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 4)

Bài thơ cùng tên của hai nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi – Đất nước là những bài thơ hay, xuất sắc, để lại ấn tượng sâu đậm cho người đọc, về cách mà các nhà thơ khái quát hình tượng đất nước. Bằng tài năng và sự nghiêm cứu, chiêm nghiệm của mình mỗi nhà thơ có những phát hiện riêng, để hoàn chỉnh hình tượng đất nước.

Trong bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, hình tượng đất nước được tác giả tìm tòi, khám phá trên nhiều phương diện, trải qua nhiều thời gian lịch sử khác nhau. Để nói về sự hình thành của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đi tìm về mạch nguồn văn hóa, trong chín câu thơ đầu, ông tập trung đi tìm câu trả lời cho câu hỏi “đất nước có từ bao giờ?”. Cách lí giải của ông rất lạ và độc đáo, đất nước có từ miếng trầu bà ăn, chỉ bằng một miếng trầu nhỏ bé, bình dị nhưng lại là minh chứng rõ ràng cho nền văn hóa lâu đời, đậm đà bản sắc của dân tộc. Bằng sự lí giải riêng đậm chất văn hóa, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định, đất nước chỉ thực sự hình thành khi có một nền văn hóa riêng. Tiếp tục mạch nguồn đó, ông đi tìm quá trình đất nước lớn lên:

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sáng

Đất Nước có từ ngày đó

Tác giả đã điểm rất nhanh những nét đặc sắc trong văn hóa Việt Nam, quá trình đấu tranh bền bỉ của cha anh, đã khái quát lại chính xác và đầy tự hào về sự hình thành của đất nước. Ẩn đằng sau câu thơ là niềm tự tôn, tự hào dân tộc sâu sắc.

Để tiếp tục làm rõ khái niệm, hình tượng về đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khái quát diện mạo đất nước trên phương diện địa lí. Đất nước là nơi hết sức thân thuộc, là nơi anh đến trường, là nơi em tắm, nó chính là nơi mà chúng ta sinh sống hàng ngày, là không gian sinh hoạt gần gũi, quen thuộc của con người. Không dừng lại ở đó, đất nước của là nơi: “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”“con cá ngư ông móng nước biển khơi” câu thơ cho ta thấy, đất nước còn là không gian rừng vàng bể bạc, giàu có. Nhìn sâu vào chiều dài lịch sử, đất nước còn là nơi “chim về” nơi “rồng ở” gắn với truyền thuyết về sự ra đời của con người Việt Nam. Câu thơ đã khẳng định, đất nước còn là không gian sinh tồn của một dân tộc có nguồn gốc cao quý.

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Khoa Điềm còn phát hiện ra chất keo kết dính để tạo nên một đất nước hoàn chỉnh, đó chính là tình yêu. Tình yêu trước hết là tình yêu nam nữ, tình yêu nhỏ bé. Nhưng lớn hơn chính là tình yêu cộng đồng, tập thể, sự gắn bó keo sơn, đoàn kết của con người tạo nên một khối thống nhất vững vàng, không gì có thể lay chuyển được. Như vậy, hình tượng đất nước trong tác phẩm của Nguyễn Khoa Điềm là một thực thể thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cái cá nhân với cộng đồng. Chỉ khi có sự hòa quyện thực thụ này thì đất nước mới có thể tồn tại vững bền.

Trong phần thơ thứ hai, Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục khắc rõ hơn nữa hình tượng đất nước:

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dần nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Đoạn thơ đã liệt kê hàng loạt địa danh, trải dài từ Bắc đến Nam, những địa danh này có cái là danh lam thắng cảnh có cái lại chỉ là tên làng bình dị, mộc mạc. Ông đã trở thành người thợ vẽ bản đồ - một tấm bản đồ bằng thơ để cho thấy sự thống nhất, toàn vẹn của đất nước. Đồng thời những địa danh này còn gắn với những cảnh ngộ, số phận của người dân, những con người bình dị, vô danh. Điệp từ “góp nên” là lời khẳng định sâu sắc nhất đất nước chính là do nhân dân tạo ra, đất nước là sự hóa thân thiêng liêng của nhân dân. Ở đoạn thơ tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm nhìn đất nước trên phương diện lịch sử, để thấy được những con người vô danh đã làm nên đất nước: “Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi/…/Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”. Chính họ những con người bình dị, vô danh đã ngã xuống đem hòa bình cho dân tộc; lại cũng chính những con người ấy đã gây dựng, lưu giữ và truyền lại phong tục tập quán cho thế hệ sau.

Như vậy, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự tổng hòa của bề dày lịch sử, không gian địa lí và quan trọng nhất đất nước được kết tinh từ văn hóa, phong tục tập quán lâu đời. Đây là những phát hiện mới mẻ, và đã làm nổi bật được tư tưởng đất nước nhân dân trong thơ ông.

Nếu như Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm mang đậm màu sắc dân gian, thì Đất Nước của Nguyễn Đình Thi lại giàu chất hiện đại. Bài thơ mở đầu mùa thu trong sáng, mùa thu gắn liền với sự thành công của cách mạng, với hình ảnh đặc trưng của đất nước:

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng song đỏ nặng phù sa

Và đất nước còn hiện lên với truyền thống anh hùng, bất khuất của dân tộc, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng, tinh thần quật khởi ấy lại trở nên sôi nổi, mạnh mẽ, “nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước” (Hồ Chí Minh): “Nước chúng ta/ Nước những người chưa bao giờ khuất/ Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất/ Những buổi ngày xưa vọng về”.

Ở phần thơ tiếp theo, đất nước được Nguyễn Đình Thi tái hiện trên hai phương diện tưởng chừng là đối lập nhưng thực chất lại rất hài hòa với nhau: đó là một đất nước đầy đau thương, mất mát, với một đất nước kiên cường, quật khởi.

Trong những năm kháng chiến, đất nước hiện lên với những đau thương mất mát, biết bao người đã ngã xuống: “Ôi những cánh đồng quê chảy máu/ Dây thép gai đêm nát trời chiều” đã tố cáo đầy đủ tội ác của giặc. Nhưng đồng thời đất nước đó cũng hết sức anh dũng, kiên cường: “Xiềng xích chúng bay không khoa được/…/ Lòng dân yêu nước thương nhà”. Tinh thần quật khởi, và lòng yêu nước nồng nàn là động lực to lớn để họ đứng dậy đấu tranh giành lấy tự do, độc lập cho dân tộc. Đặc biệt trong hình ảnh: “Súng nổ rung trời giận dữ/…/ Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” là đỉnh cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Một bức tranh dữ dội, vừa hoành tráng đã khái quát đầy đủ nhất chiến công vang dội của dân tộc, là bước ngoặt chuyển mình của đất nước, từ thân phận nô lệ, đau thương trở nên mạnh mẽ, tỏa sáng, làm chủ vận mệnh của mình.

Hai hình tượng đất nước đều được xây dựng trên cơ sở tình cảm, cảm xúc chân thành, mãnh liệt của hai tác giả. Bài thơ thể hiện niềm tự hào sâu sắc của hai ông, cùng với đó là những nhận thức thấm thía về quá trình đấu tranh của dân tộc. Bên cạnh những điểm tương đồng, hình tượng đất nước trong hai bài vẫn mang những nét khác biệt. Nếu như đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đi sâu vào chất dân gian, chiều sâu văn hóa và trên phương diện địa lí, lịch sử; thì đất nước của Nguyễn Đình Thi lại đậm đà chất hiện đại. Nguyễn Đình Thi khắc họa đất nước với hai nét nổi bật vừa trái ngược, vừa hài hòa với nhau; còn Nguyễn Khoa điềm lại đi sâu vào những hình ảnh dân tộc với việc nối liền quá khứ và tương lai. Cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Khoa Điềm là niềm tin vào bản sắc văn hóa dân tộc, còn Nguyễn Đình Thi niềm tin hướng đến tương lai.

Có sự khác biệt giữa cách xây dựng hình tượng đất nước là do, hai tác phẩm được sáng tác ở hai thời điểm khác nhau. Hơn nữa do đặc trưng phong cách của mỗi nhà thơ là sự khác nhau. Đồng thời sáng tạo nghệ thuật là một hành trình đổi mới, sáng tạo, không lặp lại chính mình và người khác. Bởi vậy, cùng với một chất liệu nhưng mỗi nhà thơ lại có những sáng tạo riêng.

Bằng tài năng và phong cách thơ độc đáo, không hòa lẫn, cả hai nhà thơ đã xây dựng lên hình tượng đất nước xuất sắc. Ở mỗi tác phẩm đem đến cho người đọc những phát hiện, những vẻ đẹp đa diện, đa chiều của đất nước, để từ đó hoàn chỉnh hơn chân dung, hình tượng đất nước. Qua hai tác phẩm này ta cũng thấy được tài năng nghệ thuất xuất sắc của hai tác giả.

Cảm hứng trong bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi và "Đất nước" của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 5)

Đất nước” là một trong những bài thơ hay nói về khát vọng yêu nước trong mỗi một con người Việt Nam. Dưới đây là bài phân tích về các trích đoạn trong bài thơ “Đất Nước” (trích trường ca “Mặt đường khát vọng”) của Nguyễn Khoa Điềm.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

(…) Đất Nước có từ ngày đó”.

Nguyễn Khoa Điềm thuộc lớp thi sĩ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ. Những năm 1970, 1971,… ông sống và hoạt động tại chiến trường Trị - Thiên; trường ca “Mặt đường khát vọng” được ông sáng tác vào thời gian ấy. Chương V “Đất Nước” trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”.

Phần đầu 42 câu tác giả nhận diện Đất Nước có nguồn gốc lâu đời. Tục ăn trầu, cổ tích Trầu - Cau, truyền thuyết Thánh Gióng dùng gốc tre đánh đuổi giặc Ân mà “mẹ thường hay kể”:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Nhà thơ cảm nhận Đất Nước trong dòng chảy thời gian “đằng đẵng”, trên không gian địa lí “mênh mông”, qua sự tích “Trăm trứng” và giỗ Tổ Hương Vương. Nhà thơ bằng giọng tâm tình đã dẫn hồn ta ngược thời gian bốn nghìn năm trở về cội nguồn Đất Nước:

“Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và u Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng

(…) Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”.

Tục “bới tóc xăm mình” của người Lạc Việt, câu ca dao “gừng cay muối mặn” nói về đạo vợ chồng, ngôn ngữ dân tộc hình thành, phát triển, nên “cái kèo, cái cột thành tên”, công việc cấy cày làm ăn “xay, giã, giần, sàng” được chỉ rõ. Cội nguồn “Đất Nước có từ ngày đó”. Đất Nước trong quá khứ mang vẻ đẹp kì diệu, huyền thoại:

“Đất là nơi “con chim Phượng Hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá Ngư Ông móng nước biển khơi”.

Đất Nước hiện tại gắn bó yêu thương với mọi người, “trong anh và em hôm nay - Đều có một phần Đất Nước”. Mai này Đất Nước nhiều “mơ mộng”. Yêu nước là nghĩa vụ thiêng liêng:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời”.

Phần thứ hai có 68 câu (Văn 12 chỉ trích học 47 câu) nói về tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”. Nhân Dân sáng tạo ra Đất Nước. Các danh lam thắng cảnh đều biểu tượng cho phẩm chất cao đẹp, “lối sống” của ông cha như tình nghĩa vợ chồng thủy chung, tình yêu lứa đôi thắm thiết, sức mạnh quật khởi, tinh thần đại đoàn kết của dân tộc, truyền thống hiếu học của Nhân Dân ta:

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

99 con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương”.

Núi Bút non Nghiên, vịnh Hạ Long, ông Đốc Ông Trang… đều do Nhân Dân ta “góp cho”, “cùng góp cho”, “góp tên” - mà Đất Nước đẹp tươi, hùng vĩ. “Bốn nghìn lớp người” đã đem mồ hôi, xương máu ra xây dựng và bảo vệ Đất Nước: “Khi có giặc người con trai ra trận - Người con gái trở về nuôi cái cùng con - Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”. Nhân Dân đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Họ là những con người vô danh mà vĩ đại:

“Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”.

Nhân Dân là người sản xuất “giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng”. Nhân Dân đã sáng tạo ra ngôn ngữ “truyền giọng điệu của mình cho con tập nói”. Nhân Dân đã diệt thù trong giặc ngoài để giữ gìn Đất Nước, làm cho Đất Nước ngày thêm giàu đẹp:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại

Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân Dân

Đất Nước của Nhân Dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”.

Tóm lại, Nguyễn Khoa Điềm đã vận dụng sáng tạo tục ngữ, ca dao, dân ca, truyện cổ, phong tục, ngôn ngữ để cảm nhận về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước, khẳng định Nhân Dân vĩ đại đã sáng tạo ra Đất Nước và làm chủ Đất Nước. Chương “Đất Nước” chứa chan tình yêu và niềm tự hào dân tộc.

Đoạn thơ 9 câu dưới đây trích trong phần đầu chương “Đất Nước” thuộc trường ca “Mặt đường khát vọng” (1971) của Nguyễn Khoa Điềm:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
………………………………………..
Đất Nước có từ ngày đó”.

Đoạn thơ đã nói lên một cách dung dị mà thấm thía về cội nguồn sâu xa của Đất Nước. Giọng điệu thủ thỉ tâm tình, nhà thơ gợi lên một không khí trầm lắng như kể chuyện cổ tích, như dẫn hồn ta ngược thời gian trở về cội nguồn Đất Nước và dân tộc. Bốn chữ “ngày xửa ngày xưa” dùng rất khéo:

“Khi ta lớn lớn Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể”.

Chữ “có” trong “đã có rồi”, “Đất Nước có trong những cái…” đã làm cho ý thơ khẳng định, tỏa sáng niềm tin. Tục ăn trầu, truyện cổ tích Trầu - Cau gợi lên hình ảnh Đất Nước. Nước xa xưa, “Đất Nước bắt đầu”… Truyền thuyết Thánh Gióng cho biết sự vươn mình của dân tộc, đánh dấu sức mạnh quật khởi “Đất Nước lớn lên”. Câu thơ mở rộng đến 12, 13 chữ, với cách gieo vần lưng (đầu - trầu, ăn - dân) nên vẫn thanh thoát, giàu âm điệu:

“Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Hai chữ “lớn lên” liên tưởng đến hình ảnh chú bé làng Gióng lên ba vươn vai thành một tráng sĩ oai phong lẫm liệt khi Đất Nước bị giặc Ân xâm lược. Rồi nhà thơ nói đến phong tục và đạo lí tốt đẹp lâu đời của nhân dân ta. Phong tục “búi tóc” của người Lạc Việt. Câu ca dao nói về đạo vợ chồng: “Tay bưng chén muối đĩa gừng - Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau” đã nhập hồn vào câu thơ Nguyễn Khoa Điềm:

“Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”.

Chuyện “ngày xửa ngày xưa” nhưng vẫn hiện diện trên “tóc mẹ”, trong tình thương của “cha mẹ” bây giờ. “Đất Nước đã có rồi”, “Đất Nước có…”, “Đất Nước bắt đầu”, “Đất Nước lớn lên” và Đất Nước đang hiện diện quanh ta, gần gũi ta. Tiếp theo, nhà thơ lấy sự hình thành và phát triển ngôn ngữ dân tộc để nói về nguồn gốc lâu đời của Đất Nước. Mỗi vật dụng đều có một cái tên riêng: “Cái cột, cái kèo thành tên”.

Nhân Dân ta có nghề trồng lúa nước lâu đời. Nghề trồng lúa nước tạo nên nền văn minh sông Hồng. Khi hạt gạo được sáng tạo nên bằng công sức “một nắng hai sương”, thì ngôn từ “xay, giã, giần, sàng” cũng xuất hiện. Tiếng Việt là của quý lâu đời của Đất Nước ta, Nhân Dân ta. Cách nói của Nguyễn Khoa Điềm thật ý vị:

“Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó”.

Lấp lánh trong đoạn thơ là hình ảnh Đất Nước thân yêu. Quá khứ của Đất Nước “ngày xửa ngày xưa” đồng hiện trong “miếng trầu bây giờ bà ăn”. Có Đất Nước anh hùng “biết trồng tre mà đánh giặc”. Có Đất Nước cần cù trong lao động sản xuất: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Có nền văn hóa giàu bản sắc, nền văn hiến rực rỡ hội tụ qua thuần phong mĩ tục (tục ăn trầu, tục bới tóc), qua tục ngữ ca dao “gừng cay muối mặn”, qua cổ tích thần thoại, truyền thuyết.

Đoạn thơ 9 câu, 85 chữ mà không hề có một từ Hán Việt nào. Ngôn từ bình dị, cách nói biểu cảm thân mật. Hiện diện trong đoạn thơ là: ta, dân mình, bà, cha, mẹ. Có miếng trầu, cây tre, tóc mẹ,… Có “gừng cay muối mặn”, cái kèo, cái cột, hạt gạo, v.v… Thật là thân thuộc và gần gũi, sâu xa và thấm thía, rung động. Tưởng tượng thì phong phú, liên tưởng thì bao la.

Đoạn thơ đã “nhịp mãi lên một tấm lòng sứ điệp” để ta yêu thêm Đất Nước và tự hào về Đất Nước. Cấu trúc đoạn thơ: “tổng - phân - hợp”; mở đầu là câu “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”, khép lại đoạn thơ là câu “Đất Nước có từ ngày đó”. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ kết hợp hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ mang vẻ đẹp độc đáo nói về cội nguồn Đất Nước thân yêu.TOP 5 mẫu Cảm hứng trong hai bài thơ Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Phân tích hình tượng "đất nước" trong hai bài thơ cùng tên của Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi

Phân tích bài thơ "Đất nước" của Nguyễn Đình Thi

"Đất Nước" qua dòng suy tưởng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm

Trong đoạn trích "Đất Nước", Nguyễn Khoa Điềm đã dùng một "đất nước của ca dao thần thoại" để thể hiện tư tưởng "Đất Nước của nhân dân". Hãy chứng minh và phân tích

Phân tích đoạn đầu trong ""Đất Nước"" của Nguyễn Khoa Điềm: "Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi.......Làm nên đất nước muôn đời"

1 3339 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: