TOP 30 mẫu Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (2024) SIÊU HAY

Kết thúc bản "Tuyên ngôn Độc lập", Chủ tích Hồ Chí Minh đã trịnh trọng tuyên bố rằng: "Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, …tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy". Dựa vào những hiểu biết về tác phẩm "Tuyên ngôn Độc lập", anh (chị) hãy phân tích đoạn văn trên để làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người lớp 12 gồm dàn ý và 30 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 1683 lượt xem
Tải về


Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập – Ngữ văn 9

Bài giảng Ngữ văn 12 Tuyên ngôn độc lập

Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (mẫu 1)

Hỡi đồng bào cả nước,

"Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Thế mà hơn tám mươi năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa.

Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào.

Chúng thi hành những luật pháp dã man. Chúng lập ba chế độ khác nhau ở trung, nam, bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà của ta, để ngăn cản dân tộc ta đoàn kết.

Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu.

Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân.

Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn để làm cho nòi giống ta suy nhược.

Về kinh tế, chúng bóc lột dân ta đến tận xương tủy, khiến cho dân ta nghèo nàn, thiếu thốn, nước ta xơ xác, tiêu điều.

Chúng cướp không ruộng đất, hầm mỏ, nguyên liệu.

Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý, làm cho dân ta, nhất là dân cày và dân buôn, trở nên bần cùng.

Chúng không cho các nhà tư sản ta ngóc đầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn.

Mùa thu năm 1940, phát-xít Nhật đến xâm lăng Đông - dương để mở thêm căn cứ đánh đồng minh, thì bọn thực dân Pháp quỳ gối đầu hàng, mở cửa nước ta rước Nhật. Từ đó dân ta chịu hai tầng xiềng xích: Pháp và Nhật. Từ đó dân ta càng cực khổ, nghèo nàn. kết quả là cuối năm ngoái sang đầu năm nay, từ Quảng trị đến Bắc kỳ hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói.

Ngày 9 tháng 3 năm nay, Nhật tước khí giới của quân đội Pháp. Bọn thực dân Pháp hoặc bỏ chạy hoặc đầu hàng. Thế là chẳng những chúng không "bảo hộ" được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng dã man bán nước ta hai lần cho Nhật.

Trước ngày mồng 9 tháng 3, biết bao lần Việt minh đã kêu gọi người Pháp liên minh để chống Nhật. Bọn thực dân Pháp đã không đáp ứng, lại thẳng tay khủng bố Việt minh hơn nữa.

Thậm chí đến khi thua chạy, chúng còn nhẫn tâm giết nốt số đông tù chính trị ở Yên bái và Cao bằng.

Tuy vậy, đối với nước Pháp, đồng bào ta vẫn giữ một thái độ khoan hồng và nhân đạo. Sau cuộc biến động ngày mồng 9 tháng 3, Việt minh đã giúp cho nhiều người Pháp chạy qua biên thùy, lại cứu cho nhiều người Pháp ra khỏi nhà giam Nhật, và bảo vệ tính mạng và tài sản cho họ.

Sự thật là từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa. Khi Nhật hàng Đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Sự thật là dân ta đã lấy lại nước Việt Nam từ tay Nhật, chứ không phải từ tay Pháp.

Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần một trăm năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ dân chủ cộng hòa.

Bởi thế cho nên, chúng tôi, lâm thời chính phủ của nước Việt Nam mới, đại biểu cho toàn dân Việt Nam, tuyên bố thoát ly hẳn quan hệ thực dân với Pháp, xóa bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam.

Toàn dân Việt Nam, trên dưới một lòng, kiên quyết chống lại âm mưu của bọn thực dân Pháp.

Chúng tôi tin rằng các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các hội nghị Tê-hê-răng và Cựu-kim-sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam.

Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn tám mươi năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe đồng minh chống phát-xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! dân tộc đó phải được độc lập!

Vì những lẽ trên, chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng:

Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy.

Tuyên ngôn độc lập, đọc tại lễ Quốc khánh 2-9-1945 tại Quảng trường Ba Đình

Hồ Chí Minh toàn tập.

Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (mẫu 2)

Mỗi khi đất trời vào Thu, mọi người dân Việt Nam lại trào dâng những xúc cảm vừa mãnh liệt, vừa tha thiết. Hình ảnh Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập tại Quảng trường Ba Đình lịch sử cách nay 76 năm như vừa mới đó – gần gũi, thân thương mà thiêng liêng, ấm áp lạ kỳ! Như tình cảm dạt dào mà nhạc sỹ Vũ Thanh đã gửi gắm vào bài ca “Hà Nội mùa thu” đi cùng năm tháng:

“Như bâng khuâng

Nghe gió đưa vang vọng giữa Ba Đình

Lời Người thu năm ấy

Màu cờ thu năm ấy

Vẫn đây xanh trời mây...”(1)

Từ Chiến khu cách mạng Tân Trào, ngày 22/8/1945, Bác Hồ về Hà Nội. Tối 25/8, Người vào nội thành, ở nhà ông Trịnh Văn Bô, tầng 2 nhà 48 Hàng Ngang (nay thuộc phường Hàng Đào, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội). Tại đây, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á. Sáng 26/8, Bác triệu tập và chủ trì cuộc họp Thường vụ Trung ương Đảng, bàn các chủ trương đối nội, đối ngoại trong tình hình mới, thông qua danh sách Chính phủ lâm thời, chuẩn bị ra Tuyên ngôn Độc lập, tổ chức mít tinh lớn ở Hà Nội để công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa để Chính phủ ra mắt quốc dân đồng bào.

Ngày 27/8, Bác Hồ triệu tập cuộc họp Ủy ban Dân tộc giải phóng, đề nghị thi hành chính sách đoàn kết dân tộc rộng rãi, thành lập Chính phủ thống nhất quốc gia. Người được bầu làm Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Cũng trong ngày hôm đó, Người tiếp các bộ trưởng mới tham gia Chính phủ và đề nghị đầu tháng 9, Chính phủ ra mắt quốc dân và đọc Tuyên ngôn Độc lập mà Người chuẩn bị. Người đưa bản thảo để các thành viên Chính phủ xét duyệt, đề nghị duyệt kỹ, vì ta sẽ đọc không phải chỉ để đồng bào cả nước ta nghe, mà còn cho cả Chính phủ Pháp và nhân dân Pháp, cho cả các nước đồng minh nghe.

Trong các ngày 28 và 29/8, vào ban ngày, Bác đến trụ sở của Chính phủ lâm thời tại 12 Ngô Quyền làm việc. Tại đây, Người dành phần lớn thì giờ soạn thảo bản “Tuyên ngôn Độc lập”. Buổi tối, Người trở về tại 48 Hàng Ngang, một căn buồng vừa là phòng ăn, vừa là phòng tiếp khách, vừa là nơi làm việc và tự đánh máy “Tuyên ngôn Độc lập”. Ngày 30/8/1945, Bác mời một số cán bộ đến trao đổi, góp ý cho bản thảo “Tuyên ngôn Độc lập”. Người đọc cho mọi người nghe và hỏi ý kiến. Hôm sau, Người bổ sung hoàn chỉnh.

Vào lúc 14 giờ ngày 2/9/1945, trong cuộc mít tinh tại vườn hoa Ba Đình, trước hàng chục vạn đồng bào, trên lễ đài trang nghiêm, thay mặt Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Bản Tuyên ngôn Độc lập có 1.120 chữ, được sắp xếp trong 49 câu. Đây là một văn kiện lịch sử, văn bản pháp lý ngắn gọn, chặt chẽ, sắc bén, gồm 3 phần chính: (1) Cơ sở pháp lý của bản Tuyên ngôn; (2) Cơ sở thực tiễn của bản Tuyên ngôn và (3) Lời tuyên bố độc lập. Đây là một văn kiện lịch sử chặt chẽ, sắc bén, chứa đựng những nội dung cốt lõi, có cơ sở pháp lý vững chắc để không chỉ khẳng định chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước thế giới mà còn mở ra một thời kỳ mới của dân tộc ta, nhân dân ta trên con đường xây dựng và phát triển, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.

Về cơ sở pháp lý: Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thể hiện tầm tư duy sâu sắc, vượt gộp khi trích dẫn Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 rằng: “Tất cả mọi người đều sinh ra bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”(2). Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại đã giành được. Với vốn tiếng Anh cùng với thiên tài trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế, tinh thần ấy đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lý luận và thực tiễn về quyền con người, đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại. Với lập luận này, Người đi đến khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” và “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”(3)…

Về cơ sở thực tiễn: Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tố cáo thực dân Pháp: “Thế mà hơn 80 năm nay, bọn thực dân Pháp lợi dụng lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái, đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta. Hành động của chúng trái hẳn với nhân đạo và chính nghĩa. Về chính trị, chúng tuyệt đối không cho nhân dân ta một chút tự do dân chủ nào… Chúng lập ba chế độ khác nhau ở Trung, Nam, Bắc để ngăn cản việc thống nhất nước nhà, để ngăn cản dân ta đoàn kết. Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi... Chúng ràng buộc dư luận, thi hành chính sách ngu dân. Chúng dùng thuốc phiện, rượu cồn, đề làm cho nòi giống ta suy nhược... Chúng bóc lột dân ta đến xương tủy... Chúng đặt ra hàng trăm thứ thuế vô lý... Chúng không cho các nhà tư sản ta được giầu lên. Chúng bóc lột công nhân ta một cách vô cùng tàn nhẫn”(4). Không chỉ dừng ở đó, mùa thu năm 1940, khi phát xít Nhật đến Đông Dương, thực dân Pháp lại quỳ gối đầu hàng và “thế là chẳng những chúng không “bảo hộ” được ta, trái lại, trong 5 năm, chúng đã bán nước ta hai lần cho Nhật”, khiến cho nhân dân ta càng thêm cực khổ, khiến cho “hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói”…

Về lời tuyên bố độc lập: Kiên cường đấu tranh cho độc lập và tự do, sự thật là: 1) “Từ mùa thu năm 1940, nước ta đã thành thuộc địa của Nhật, chứ không phải thuộc địa của Pháp nữa”; 2) “Khi Nhật hàng đồng minh thì nhân dân cả nước ta đã nổi dậy giành chính quyền, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”; 3)“Dân ta lấy lại nước Việt Nam tự tay Nhật, chứ không phải tự tay Pháp”; 4) “Pháp chạy, Nhật hàng, vua Bảo Đại thoái vị. Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(5) và Việt Nam đã là một quốc gia độc lập.

Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam”(6); đồng thời nhấn mạnh, “các nước đồng minh đã công nhận những nguyên tắc dân tộc bình đẳng ở các Hội nghị Têhêrăng và Cựu Kim Sơn, quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”(6). Vì, “Một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm nay, một dân tộc đã gan góc đứng về phe Đồng Minh chống phát xít mấy năm nay, dân tộc đó phải được tự do! Dân tộc đó phải được độc lập!”(7), nên “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”(8). Lời thề độc lập - Lời thề giữ nước thiêng liêng và tinh thần bất diệt của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã vang vọng khắp non sông, đất nước, cho đến mãi muôn đời sau.

Lời tuyên bố của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập về quyền độc lập, tự do tất yếu của dân tộc Việt Nam trong hành trình đấu tranh cho độc lập, tự do đã không chỉ là đòn phủ đầu vào âm mưu tái chiếm Đông Dương của thực dân Pháp và ý đồ can thiệp của các nước đế quốc đối với Việt Nam mà còn khẳng định trước công luận: Mọi hành vi xâm phạm độc lập, chủ quyền của nước Việt Nam độc lập là đều vi phạm luật pháp quốc tế, đi ngược với xu hướng phát triển của nhân loại tiến bộ, những vấn đề này cũng xuất phát điểm từ cơ sở pháp lý, cơ sở thực tiễn và sự khẳng định độc lập của dân tộc Việt Nam trong bản Tuyên ngôn. Đây là tầm nhìn chiến lược và tư duy nhạy bén đầy sáng tạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Nói như Giáo sư Singô Sibata người Nhật Bản khi nghiên cứu về Tuyên ngôn Độc lập, ông cho rằng: “Cống hiến nổi tiếng của cụ Hồ Chí Minh là ở chỗ Người đã phát triển quyền lợi của con người thành quyền lợi của dân tộc. Như vậy tất cả mọi dân tộc đều có quyền tự quyết định lấy vận mệnh của mình”(9), với một cách lập luận khôn khéo làm mọi người tâm phục, khẩu phục, Người đưa quyền con người thống nhất biện chứng với quyền dân tộc, vì “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ kết tinh các giá trị truyền thống dân tộc, khẳng định cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới; đồng thời khích lệ nhân dân các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên chống chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc; là mục tiêu, kết quả của hành trình tìm đường cứu nước của Người, mở ra thời đại của con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Ngoài ra, Tuyên ngôn Độc lập cũng khẳng định rõ vai trò, sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do và xây dựng cuộc sống mới; có giá trị thực tiễn là lấy lại tên Việt Nam trên bản đồ thế giới.

Tuyên ngôn Độc lập - một văn kiện lịch sử có ý nghĩa vô cùng trọng đại đối với vận mệnh của dân tộc. Tuyên ngôn Độc lập là sự tiếp nối truyền thống anh hùng bất khuất của cha ông thuở trước. Thời thế đã đổi thay, song chí khí hào hùng của nhân dân ta trong thơ Lý Thường Kiệt “Nam quốc sơn hà Nam đế cư..”, trong “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi vẫn thắm đượm trong từng lời, từng chữ của Tuyên ngôn.

Với Tuyên ngôn Độc lập, một nước Việt Nam hồi sinh sau bao mất mát, hy sinh. 76 năm qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã kiên trì đấu tranh bảo vệ thành quả Cách mạng Tháng Tám, tiến hành thắng lợi vẻ vang trong các cuộc kháng chiến giành độc lập dân tộc, bảo vệ Tổ quốc và kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền chủ nghĩa xã hội. Trong suốt 35 năm đổi mới, Việt Nam đã và đang ngày càng chủ động, tích cực hội nhập và hợp tác quốc tế gắn với xu thế toàn cầu hóa của thời đại. Hiện nay, toàn Đảng, toàn dân ta đã và đang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới toàn diện trong bối cảnh tình hình thế giới và khu vực sẽ còn nhiều diễn biến rất phức tạp, tác động trực tiếp đến nước ta, tạo ra cả thời cơ và thách thức. Để tận dụng, phát huy tốt nhất thời cơ, thuận lợi, vượt qua khó khăn, thách thức, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta cần đoàn kết một lòng với quyết tâm cao, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; nâng cao đời sống của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Quyền con người của Việt Nam ngày càng được bảo đảm, được hiến định. Đặc biệt trong Hiến pháp 2013, quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân đã được quy định ở 36 điều, trên tổng số 120 điều của bản Hiến pháp. Tất cả vì mục tiêu thiêng liêng xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” chính là quá trình hiện thực hóa quyền con người gắn liền với quyền dân tộc. Vì thế, Tuyên ngôn Độc lập không chỉ là một mốc son chói lọi, góp phần làm rạng rỡ lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta mà còn làm cho nền văn hiến Việt Nam:

“Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững,

Lưng đeo gươm, tay mềm mại bút hoa;

Trong và thật, sáng hai bờ suy tưởng,

Sống hiên ngang mà nhân ái, chan hòa”

Điều đó đã được khẳng định và lan tỏa cùng thời đại suốt 76 mùa xuân. Sau ngày Chủ tịch Hồ Chí Minh viết và đọc Tuyên ngôn Độc lập - bản hùng ca viết tiếp những trang sử huy hoàng của ngàn năm về trước, mỗi người dân Việt Nam càng thấy thấm thía hơn giá trị của độc lập, tự do; ý nghĩa lớn lao và sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người và quyền của mỗi dân tộc. Giá trị ấy làm bản “thiên cổ hùng văn” Tuyên ngôn Độc lập có giá trị trường tồn mãi mãi với thời gian, với dân tộc. Tổ quốc Việt Nam ta được độc lập, Nhân dân ta đời đời được tự do, tinh thần bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập mãi mãi khắc sâu vào trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam.

Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (mẫu 3)

“Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.

Đây là lời khẳng định và cũng chính là lời kết trong bản Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc vào chiều 2-9-1945, tại quảng trường Ba Đình (Hà Nội), khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa XHCN Việt Nam).

Lời khẳng định thể hiện sâu sắc ý chí mạnh mẽ và quyết tâm sắt đá của nhân dân ta, quyết tâm bảo vệ nền độc lập mới giành được, thể hiện lập trường kiên định về độc lập, tự do của dân tộc, phản ánh niềm tin vững chắc vào sức mạnh của dân tộc Việt Nam, dù phải hy sinh gian khổ, song quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập. Lời của Người vang vọng núi sông, có sức cổ vũ mạnh mẽ nhân dân ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách, kiên quyết chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. Ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc trong Tuyên ngôn Độc lập có giá trị sâu sắc, tiếp tục soi sáng sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Hiện nay và trong thời gian tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn nguy cơ dễ gây mất ổn định đối với khu vực và đất nước. Trong nước, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hòa bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ để chống phá cách mạng nước ta trên các mặt: Kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Các mối đe dọa an ninh phi truyền thống, như: Khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, các thảm họa thiên tai, môi trường… có chiều hướng gia tăng. Để thực hiện trọn vẹn lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn Độc lập bất hủ năm xưa, LLVT nhân dân phải được quan tâm xây dựng vững mạnh toàn diện, nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh và khả năng SSCĐ ngày càng cao; chú trọng đổi mới, nâng cao hơn nữa chất lượng huấn luyện theo phương châm "cơ bản, thiết thực, vững chắc", coi trọng huấn luyện đồng bộ và chuyên sâu, sát thực tế chiến đấu, yêu cầu nhiệm vụ, địa bàn hoạt động và trong từng lực lượng, đơn vị; phù hợp với tổ chức biên chế, trang bị, sự phát triển của nghệ thuật quân sự Việt Nam và yêu cầu tác chiến trong điều kiện địch có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Tập trung xây dựng Quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, làm nòng cốt cho toàn dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, xứng đáng là quân đội cách mạng, lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu tuyệt đối trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân.

Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (mẫu 4)

Trong bài thơ Theo chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại thời khắc lịch sử của dân tộc một cách thật xúc động:

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”

Đoạn thơ đã ghi lại khoảnh khắc lịch sử của dân tộc cách đây 76 năm - ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mở ra một kỉ nguyên mới, kỷ nguyên của Độc lập, Tự do và CNXH. Bản Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lý quan trọng bậc nhất của nước ta. Khẳng định ý chí sắt đá không gì lay chuyển nổi và đồng thời là triết lý nhân sinh vĩnh hằng của dân tộc Việt Nam được Chủ tịch Hồ Chí Minh phát hiện, khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. Bản tuyên ngôn ấy thể hiện tinh thần và ý chí của một dân tộc dù bị áp bức, bóc lột đến cùng cực, đã gan góc, kiên cường đấu tranh để quyết giành bằng được quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc cho mình. Trong những lời văn bất hủ đã đi vào lịch sử dân tộc đó, Bản tuyên ngôn đã thể hiện cho cả thế giới biết quyết tâm sắt đá của toàn thể dân tộc Việt Nam quyết bảo vệ thành quả cách mạng là “nền tự do và độc lập”. Đó chính là một nguyên lý, một triết luận khách quan về tính tất yếu của việc kết hợp giữa xây dựng với bảo vệ, giữa đấu tranh với sứ mệnh giữ gìn thành quả quý báu của công cuộc cách mạng. Bằng tầm nhìn thời đại, Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”. Với sự mẫn cảm chính trị và sự tinh anh đặc biệt của một con người đã lăn lộn hơn 30 năm tìm đường cứu nước, cứu dân Người đã dự báo và khẳng định: “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tinh thần đó trong bản Tuyên ngôn độc lập luôn có giá trị lịch sử và thời sự sâu sắc. Giá trị đó đã trở thành phương châm sống và nguyên tắc hành động của dân tộc Việt Nam. Dù trong bất cứ hoàn cảnh nào vẫn thường trực ý chí “đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập” mà biết bao thế hệ cha anh đã chiến đấu, hy sinh để giành được từ cuộc cách mạng mùa Thu 76 năm trước.

Bản Tuyên ngôn Độc lập ngắn gọn nhưng chứa đựng những nội dung bất hủ, không chỉ có giá trị lịch sử đối với dân tộc Việt Nam, mà còn có ý nghĩa thời đại sâu sắc. Từ bản Tuyên ngôn Ðộc lập năm 1776 của nước Mỹ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791, bản Tuyên ngôn 2/9 đã nêu ra một chân lý lịch sử: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”,“đó là lẽ phải không ai chối cãi được”. Và vì thế, mỗi người dân Việt Nam và dân tộc Việt Nam đều có những quyền chính đáng ấy; không ai có thể tước đoạt được; và nếu bị tước đoạt, cả dân tộc sẽ kiên cường, đoàn kết, kiên trì chiến đấu để giành lại và quyết tâm bảo vệ.

Tiếng hô vang “Việt Nam độc lập muôn năm!” của hàng vạn con người ở Quảng trường Ba Đình lịch sử thay mặt cho hơn 20 triệu đồng bào cả nước vang dội núi sông, khi Hồ Chủ tịch vừa kết thúc bản Tuyên ngôn bằng những nhận định và quyết tâm sắt đá: “Nước Việt Nam có quyền được hưởng tự do và độc lập và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ quyền tự do và độc lập ấy”. Nhận định và quyết tâm ấy cũng là lời thề của toàn dân tộc Việt Nam quyết tâm bảo vệ, gìn giữ độc lập cho dân tộc- bảo vệ những thành quả cách mạng và xây dựng một Việt Nam hùng cường, hiên ngang sánh vai cùng các cường quốc năm châu.

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng non trẻ đối mặt với muôn vàn khó khăn, cùng lúc phải giải quyết nạn đói, nạn mù chữ và chống giặc ngoại xâm... Đứng trước tình thế “ngàn cân treo sợi tóc”, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm các biện pháp đấu tranh linh hoạt, mềm dẻo nhằm duy trì hòa bình, giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc. Từ việc hòa hoãn với quân đội Tưởng ở miền Bắc để tập trung đánh thực dân Pháp ở miền Nam, rồi lại hòa hoãn với thực dân Pháp với mục đích củng cố đất nước, xây dựng lực lượng và giữ gìn độc lập dân tộc. Để bảo vệ cho được nền độc lập ấy, chúng ta đã thực hiện nhiều chủ trương, chính sách nhân nhượng với thực dân Pháp, nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Bất chấp những thiện chí hòa bình của ta, ngày 15 và 16/12/1946, quân Pháp nổ súng gây hấn nhiều nơi ở Hà Nội. Hành động điên cuồng, trắng trợn của thực dân Pháp đã đặt nền độc lập dân tộc của toàn dân Việt Nam trước thách thức mất còn. Trước tình thế đó, nêu cao tinh thần yêu nước và trách nhiệm trước Tổ quốc, trước nhân dân, trong hai ngày 18 và 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp tại làng Vạn Phúc (Hà Đông, Hà Nội) đã quyết định phát động cuộc kháng chiến toàn quốc, kêu gọi đồng bào, chiến sỹ cả nước đứng lên chống thực dân Pháp. Đêm 19/12/1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Trung ương Đảng và Chính phủ ra lời kêu gọi đồng bào cả nước kháng chiến. Để giữ vững nền độc lập dân tộc cả dân tộc Việt Nam đứng lên kiên quyết kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Để giữ vững nền độc lập dân tộc mới giành được, nhân dân ta đã phát huy cao độ với quyết tâm “Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”. Với thắng lợi vang dội năm 1954 đã khẳng định cho sự quyết tâm đó của cả một dân tộc.

Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký với những điều khoản được quy định. Tuy nhiên, với âm mưu đen tối của mình, đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai đã từng bước phá hoại Hiệp định với mục đích không gì khác là chia cắt và thôn tính nước ta. Một lần nữa vấn đề “độc lập dân tộc” của chúng ta đứng trước một thách thức vô cùng lớn - đó là Chủ nghĩa Đế quốc mà đứng đầu và trực tiếp can thiệp là Đế quốc Mỹ. Nhân dân ta một lần nữa lại buộc phải đứng lên chống quân xâm lược Mỹ và tay sai, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Một lần nữa Chủ tịch Hồ Chí Minh lại đứng lên kêu gọi đồng bào, chiến sĩ cả nước, thể hiện ý chí sắt đá, quyết tâm kháng chiến đến cùng vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Ngày 17-7-1966, khi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc ta bước vào giai đoạn ác liệt nhất, đế quốc Mỹ mở rộng chiến tranh bằng không quân đánh phá miền Bắc, trên Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam, lời kêu gọi nhân dân cả nước quyết tâm đánh thắng giặc Mỹ xâm lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vang lên: “Chiến tranh có thể kéo dài 5 năm, 10 năm, 20 năm hoặc lâu hơn nữa. Hà Nội, Hải Phòng và một số thành phố, xí nghiệp có thể bị tàn phá, song nhân dân Việt Nam quyết không sợ!Không có gì quý hơn độc lập, tự do.Đến ngày thắng lợi, nhân dân ta sẽ xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn!”. Lời kêu gọi như một lời hịch hiệu triệu toàn dân tộc đồng tâm, nhất trí, vượt qua mọi khó khăn, thách thức tiến lên giành chiến thắng. Lời kêu gọi là một cuộc vận động lớn để toàn Đảng, toàn quân và toàn dân tộc đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động, củng cố niềm tin, xiết chặt đội ngũ để đi vào giai đoạn quyết liệt nhất của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại không chỉ của dân tộc Việt Nam mà của cả nhân loại tiến bộ trong thế kỷ XX.

Với tinh thần “Không có gì quý hơn độc lập, tự do!”, lớp lớp các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Quân đội, quần chúng nhân dân không quản hy sinh, khó khăn, gian khổ, nêu cao tinh thần quyết tâm “đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” trong kháng chiến chống thực dân Pháp lúc này lại tiếp tục được phát huy cao độ giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Tinh thần ấy được nhà thơ Chế Lan Viên khái quát trong bài thơ Sao chiến thắng:

“Ôi Tổ quốc ta, ta yêu như máu thịt,

Như mẹ cha ta, như vợ như chồng

Ôi Tổ quốc, nếu cần, ta chết

Cho mỗi ngôi nhà, ngọn núi, con sông...”

Ở miền Bắc, Quân đội ta đã cùng toàn dân đánh bại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc xã hội chủ nghĩa, chi viện đắc lực sức người, sức của cho cách mạng miền Nam với những khẩu hiểu “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược”, “vì Miền Nam ruột thịt”, với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”…

Ở miền Nam, Đảng đã lãnh đạo quân và dân đứng lên đánh giặc. Nhân dân miền Nam cùng với sự chi viện của miền Bắc đã làm nên thắng lợi vĩ đại mùa xuân năm 1975 giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên của độc lập và thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ.

Thắng lợi trong kháng chiến chống Mỹ thể hiện ý chí, tinh thần quyết tâm bảo vệ cho được nền độc lập của dân tộc Việt Nam. Và ý chí đó, quyết tâm đó lại được thể hiện trong cuộc chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Bắc và biên giới Tây Nam để giữ vững toàn vẹn lãnh thổ.

Có thể thấy, ở mọi thời kỳ lịch sử, khát vọng ngàn đời của dân tộc ta là độc lập, tự do. Trong lịch sử, hết thực dân Pháp lại đến đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược đất nước ta. Chúng ta đã hi sinh hàng triệu người, lượng bom đạn đổ xuống đất nước với diện tích chỉ hơn ba mươi vạn cây số vuông mà bằng mấy lần chiến tranh thế giới cộng lại. Khát vọng của chúng ta khi đó luôn là khát vọng hòa bình, được sống trong tự do và thống nhất đất nước. Chúng ta cũng đã phải mất 30 năm mới thực hiện được khát vọng này.

Gần một thế kỷ có được chính quyền độc lập, mất 30 năm nữa mới thống nhất được đất nước, mới được sống trong hòa bình thực sự. Thế nhưng ngay lập tức, đất nước lại gặp sự chống phá điên cuồng của các thế lực thù địch. Bị bao vây cấm vận, thù trong giặc ngoài khiến cho kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái. Đất nước rơi vào cuộc khủng hoảng trầm trọng về kinh tế - xã hội. Nhân dân rơi vào cảnh đói khổ, thiếu thốn, li tán, tha hương. Khát vọng trong thời kỳ này một cuộc sống ấm no, xã hội yên bình. Năm 1986 đến những năm đầu tiên của thế kỷ XXI, với đường lối Đổi mới đúng đắn của Đảng, Việt Nam từ một nước khủng hoảng, trì trệ, lưu thông phân phối ách tắc, rối ren, hàng hóa, vật phẩm tiêu dùng khan hiếm, đời sống các tầng lớp nhân dân gặp nhiều khó khăn chúng ta đã thực hiện được khát vọng đưa Việt Nam thành một nước năng động, phát triển, chuyển đổi thành công sang mô hình và cơ chế quản lý kinh tế mới, có mức tăng trưởng kinh tế cao, liên tục trong nhiều năm, vị thế, uy tín, quan hệ ngoại giao ngày càng rộng mở và nâng cao, được đánh giá là quốc gia có môi trường chính trị ổn định, an ninh và an toàn, là địa chỉ tin cậy cho các nhà đầu tư quốc tế.

Từ một quốc gia kém phát triển, ảnh hưởng nặng nề bởi nhiều năm chiến tranh và bị bao vây cấm vận, Việt Nam đã từng bước khẳng định uy thế, vai trò, vị thế của mình trên trường quốc tế. Từ một nước nghèo và lạc hậu, Việt Nam đã tích cực hội nhập quốc tế, vươn lên trở thành hình mẫu phát triển kinh tế - xã hội, được thế giới ghi nhận và đánh giá cao.

Trải qua chiến tranh ác liệt, nhân dân ta càng thêm trân trọng những giá trị của độc lập và tự do. Một lần nữa câu nói “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” của Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mang ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Bởi lẽ, có độc lập tự do thì sẽ có tất cả. Đất nước không thể phồn vinh, dân tộc không thể phát triển, nhân dân không thể có cơm ăn, áo mặc và cuộc sống hạnh phúc nếu không có độc lập tự do. Và để có một nền Độc lập - Tự Do đầy đủ, bền vững, không có gì khác là chúng ta phải phát huy mạnh mẽ nhất, cao nhất tinh thần đấu tranh vừa quyết tâm xây dựng đất nước giàu mạnh, vừa bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN với quyết tâm "Thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ". Về phương diện đối ngoại, càng không thể thụ động, chờ đợi mà phải năng động, linh hoạt, sáng tạo để đẩy mạnh hội nhập toàn diện, tìm kiếm thêm nhiều cơ hội phát triển. Đồng thời, phải hết sức nhạy cảm trong nhận diện, đánh giá, dự báo tình hình, không để bị động bất ngờ, không đề bị lôi kéo, kích động và ảo tưởng vào những liên minh quyền lực bên ngoài

Ngày nay, nước ta đang đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa, xây dựng đất nước vững bước đi lên CNXH. Các thế lực thù địch vẫn không một ngày ngừng nghỉ, chúng đẩy mạnh chống phá nước ta trên nhiều lĩnh vực, với nhiều âm mưu và thủ đoạn khác nhau. Đặc biệt là chiến lược "diễn biến hòa bình", gây "bạo loạn lật đổ" được chúng ráo riết thực hiện, tình hình tranh chấp chủ quyền trên Biển Đông còn diễn biến phức tạp. Đối diện với nhữn thách thức đó, ý chí quyết tâm bảo vệ nền độc lập tự do của dân tộc được Đảng chú trọng quan tâm hơn bao giờ hết. Đảng và nhà nước ta đã và đang thực hiện nhất quán nguyên tắc đặt lợi quốc gia, dân tộc lên trên hết, giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chế độ chính trị xã hội chủ nghĩa, tạo dựng môi trường quốc tế thuận lợi nhất cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".Đây được coi là cột mốc mở đầu đưa đất nước bước vào thời kỳ phát triển mới với khí thế mới, sức bật mới và một lộ trình rõ ràng để “cất cánh”. Khát vọng thịnh vượng đã được khơi dậy, truyền cảm hứng và như một lời hiệu triệu với non sông, với đất nước, với một trăm triệu người dân Việt Nam mà ở đó mục tiêu rõ nhất là làm cho đất nước độc lập vững bền, mọi người dân được hạnh phúc, ấm no như sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kỳ vọng và Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII đã khẳng định quyết tâm thực hiện.

Phân tích làm sáng tỏ những tư tưởng lớn của Người qua kết thúc bản Tuyên ngôn độc lập (mẫu 5)

Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Không chỉ khẳng định quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc của mỗi con người là sự tất yếu của tạo hóa, không ai có thể xâm phạm được, Tuyên ngôn độc lập còn phát triển sáng tạo để đi đến một chân lý hiển nhiên không thể bác bỏ về quyền của các dân tộc: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”(1).

Tuy nhiên, những quyền đó của dân tộc Việt Nam đã bị tước bỏ, chà đạp dưới ách áp bức, đô hộ của thực dân Pháp hơn 80 năm. Để giành lại độc lập, tự do cho đất nước, giành lại quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc cho mỗi con người, toàn thể dân tộc Việt Nam đã nhất tề đứng lên dưới ngọn cờ của Đảng để đánh đuổi thực dân, phong kiến. Kết quả của cuộc đấu tranh đó là “Dân ta đã đánh đổ các xiềng xích thực dân gần 100 năm nay để gây dựng nên nước Việt Nam độc lập. Dân ta lại đánh đổ chế độ quân chủ mấy mươi thế kỷ mà lập nên chế độ Dân chủ Cộng hòa”(2). Trên cơ sở đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố dứt khoát “thoát ly hẳn quan hệ với Pháp, xoá bỏ hết những hiệp ước mà Pháp đã ký về nước Việt Nam, xoá bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam” để xác lập nền độc lập, tự chủ cho nước nhà và khẳng định các nước đồng minh “quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân Việt Nam”. Người trịnh trọng tuyên bố với thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập”(3).

Vậy là, kể từ thời khắc này, kỷ nguyên độc lập, tự do được mở ra với dân tộc Việt Nam với đầy đủ quyền độc lập về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Kỷ nguyên ấy được nối tiếp từ truyền thống hào hùng, bất khuất của dân tộc ta khi luôn đoàn kết, chiến đấu để bảo vệ nền độc lập, chủ quyền đất nước qua bao cuộc trường chinh suốt mấy ngàn năm lịch sử. Và khi đã giành được nền độc lập, tự do, “Toàn thể dân Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(4). Đó chính là phẩm cách, ý chí của dân tộc xuyên suốt chiều dài lịch sử đấu tranh bảo vệ Tổ quốc; là lời khẳng định mạnh mẽ nền độc lập, tự chủ của đất nước Việt Nam, được cộng đồng quốc tế công nhận.

Tuyên ngôn độc lập với sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh hiện nay

Hiện nay, tình hình chính trị - an ninh thế giới thay đổi nhanh chóng, diễn biến rất phức tạp, khó lường; cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn ngày một quyết liệt; tranh chấp về chủ quyền biển, đảo diễn ra gay gắt, tiềm ẩn nguy cơ xung đột cao…

Trong bối cảnh đó, những tư tưởng của Tuyên ngôn độc lập đã được Đảng ta vận dụng vào công cuộc bảo vệ Tổ quốc một cách toàn diện, thấu đáo. Điều này thể hiện trước hết trong nhận thức của Đảng khi xác định đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ là mục tiêu chủ yếu, xuyên suốt của cách mạng Việt Nam. Đại hội XII của Đảng đã khẳng định: “bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững hòa bình, ổn định chính trị, bảo đảm an ninh quốc gia và trật tự, an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm thất bại âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch đối với sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta”(5).

Sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc là của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân tộc, đặt dưới sự lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối của Đảng nhằm mục đích xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công chủ nghĩa xã hội và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Nhận thức đúng đắn bảo vệ Tổ quốc là tiền đề quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước trong bối cảnh hiện nay, Đảng, Nhà nước đã xây dựng Chiến lược bảo vệ Tổ quốc, Chiến lược quốc phòng, Chiến lược quân sự nhằm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa, từ khi nước chưa nguy. Trên cơ sở đó góp phần tăng cường tiềm lực quốc phòng, nâng cao khả năng phòng thủ đất nước, sẵn sàng đánh thắng mọi hình thái chiến tranh xâm lược, bảo vệ vững chắc Tổ quốc trong mọi tình huống.

Trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng như hiện nay, độc lập dân tộc còn thể hiện sâu sắc qua vai trò, vị thế, uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế cũng như mối quan hệ với các nước lớn. Vận dụng những tư tưởng về độc lập, tự do, bình đẳng dân tộc trong Tuyên ngôn độc lập, Đảng ta thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại với phương châm “độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia -dân tộc trên cơ ở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi”(6). Đồng thời, chủ động, linh hoạt, sáng tạo trong hợp tác và đấu tranh. Nhờ vậy, quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng; vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam tiếp tục được nâng cao, tạo nên thế và lực cho đất nước trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc ngày nay.

Thấm nhuần bài học về sức mạnh tổng hợp của dân tộc trong đấu tranh bảo vệ nền độc lập, tự do của nước nhà, Đảng ta luôn xác định phát huy sức mạnh toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại tạo nên sức mạnh tổng hợp trong cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, trong đó sức mạnh nội sinh của dân tộc là nhân tố quyết định. Bởi vậy, Đảng luôn chăm lo mục tiêu “kinh tế phải vững, quốc phòng phải mạnh, thực lực phải cường, lòng dân phải yên, chính trị - xã hội ổn định, cả dân tộc là một khối thống nhất”(7). Đồng thời, “Xây dựng thế trận lòng dân, phát huy sức mạnh đoàn kết, đồng thuận của nhân dân trong và ngoài nước để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(8) trên cơ sở khơi dậy tinh thần yêu nước, ý chí tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vào sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc.

Tuyên ngôn Độc lập không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam với đầy đủ quyền độc lập, tự do mà còn là kim chỉ nam soi sáng con đường bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc ta. Năm tháng trôi qua nhưng những tư tưởng mang tính thời đại trong bản Tuyên ngôn về quyền dân tộc, về khát vọng và ý chí đấu tranh giữ vững nền độc lập, tự do đã được xác lập vẫn vẹn nguyên giá trị để chúng ta vận dụng vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa ngày nay.

Xem thêm các bài tóm tắt Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Vẻ đẹp hung bạo của con sông Đà

Vẻ đẹp trữ tình của con sông Đà

So sánh vẻ đẹp của con sông Đà (Người lái đò sông Đà) và vẻ đẹp của con sông Hương (Ai đã đặt tên cho dòng sông?)

Phân tích ai đã đặt tên cho dòng sông

Cảm nhận vẻ đẹp sông Hương khi chảy vào thành phố Huế

1 1683 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: