TOP 17 mẫu Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (2024) SIÊU HAY

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà lớp 12 gồm 17 dàn ý mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 2305 lượt xem


Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Người lái đò sông Đà

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 1)

1. Mở bài

- Tác giả Nguyễn Tuân: có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, một nhà văn tài hoa uyên bác, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.

- Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, với nội dung ngợi ca vẻ đẹp của con người và thiên nhiên Tây Bắc.

2. Thân bài

2.1. Lời đề từ

- Lời đề từ “Đẹp vậy thay ...”: thể hiện xúc cảm mãnh liệt trước vẻ đẹp của dòng sông và con người gắn bó với dòng sông, thấy được cảm hứng chủ đạo là ngợi ca.

- Lời đề từ tiếp: “Chúng thủy ...”: thể hiện cá tính độc đáo của của con sông Đà.

2.2 Hình tượng dòng sông Đà

a. Dòng sông “hung bạo”

- “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá ... như một cái yết hầu”.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đó.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”,

- Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

+ Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu ... cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).

+ Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “”hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”

+ Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

- Nhận xét: sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, “dòng thác hùm beo”, thứ kẻ thù số một của con người

b. Sông Đà trữ tình

- Từ trên cao nhìn xuống như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”, mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, ...

- Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, ...

2.3 Hình tượng người lái đò sông Đà

- Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao – người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang hình tượng ông lái đò.

- Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu ... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

- Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.

- Tài năng và tâm hồn:

+ Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hưn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ ... những luồng nước”, ...

+ Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo ...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác ...”

+ Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

- Khái quát về phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

3. Kết bài

- Tổng kết nghệ thuật đặc sắc: ngôn ngữ điêu luyện, tưởng tượng độc đáo, vận dụng tri thức nhiều ngành nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng sông Đà và ông lái đò.

- Khái quát nội dung: tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của con người lao động, vẻ đẹp thiên nhiên đất nước.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 2)

I. Mở bài:

Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.

Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài:

30 bài Phân tích Người lái đò sông đà  (ảnh 1)

* Khái quát chung

- Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

* Vẻ đẹp hung bạo của dòng sông

+ Bờ sông

“dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.

Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.

“Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.

Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

→ hiện ra trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

+ Ghềnh

ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.

Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.

Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ

→ Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

+ Hút nước

Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.

Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.

“Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.

→ Ngòi bút sắc sảo của Nguyễn Tuân khiến người đọc cảm giác như đang được xem một bộ phim hành động hấp dẫn nhưng cũng vô cùng đáng sợ.

+ Thác nước

Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.

“Thế rồi nó rống lên”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

→ sự giữ dội của nước sông.

+ Đá

“cả một chân trời đá” → đá sông Đà nhiều vô kể.

từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.

Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

→ sông Đà giống như kẻ thù số một của con người

* Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà

Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.

Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.

Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.

So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

→ Những câu văn miêu tả vẻ trữ tình, thơ mộng của sông Đà đã tạo nên một đoạn văn giàu chất thơ.

* Đánh giá

- Bằng vốn hiểu biết sâu rộng cùng tài năng miêu tả sắc sảo → đưa người đọc đi hết từ sợ hãi này đến bất ngờ khác khi miêu tả hai vẻ đẹp hung bạo và trữ tình của sông Đà.

III. Kết bài:

- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 3)

I. Mở bài

- Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỉ XX. Nền văn xuôi luôn in hằn những dấu vết nghiêm túc và đầy sáng tạo trong lao động nghệ thuật của ông.

- Tác phẩm Người lái đò sông Đà là thi phẩm tiêu biểu, thành công đánh dấu hướng đi, suy nghĩ của ông sau cách mạng tháng tám.

II, Thân bài

1. Hình ảnh con sông Đà

Theo Nguyễn Tuân con sông Đà như nhân vật có hình thù, cá tính với hai tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình.

*Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà

  • “Ở khoảng sông hẹp, bờ sông chẹt lại như một cái yết hầu, hai bờ đá đứng thành vách, mặt sông đoạn ấy rất sâu, tối, đúng ngọ mới thấy mặt trời…” “đi giữa thuyền hè vẫn thấy lạnh, nhìn lên chỉ thấy một ô sáng như cửa sổ có đèn…”
  • Ngôn ngữ được sử dụng rất giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh để miêu tả từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ nên nhà văn mới tạo dựng nên cảnh bờ sông một cách động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở, nhiều cảm giác.
  • “Những cái hút nước ở Tà Mường Vát như những cái giếng bê tông khổng lồ đang xoáy tít đáy mà mặt giếng, thành giếng xây toàn nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dày…” “Nước sôi lên ằng ặc… Nếu ngồi trong thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”
  • Ngôn ngữ vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, đầy nguy hiểm được miêu tả rõ nét, chân thật, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông, hiện lên khuôn mặt dữ dằn của dòng sông.
  • Đoạn ghềnh sông “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” tiếp đến là những thác nước, từ xa nghe tiếng như là oán trách, rồi lại van xin, sau đó lại rống lên như một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn mắc kẹt giữa rừng tre nổi lửa… mặt sông rung lên tung bọt trắng xóa…
  • Vốn từ phong phú, ngôn ngữ giàu sức tạo hình, câu văn phóng túng, nghệ thuật vừa nhân hóa vừa so sánh làm hình ảnh con sông hiện lên có hình thù và tâm tính rõ nét. Âm thanh phát ra cuồng nộ, cơn giận dữ cho thấy bản tính hung hãn.
  • Trận thủy chiến trên sông với bày trí thạch trận, nhiều vòng vây với lực lượng phối hợp của đá tảng, con sóng ngầm hò la vang động núi trời…
  • Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, sử dụng từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả, tác giả đã làm hiện lên hình ảnh sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình đau đớn qua những tảng đá. Qua đó cho thấy sự uyên bác trong trang văn, sự hóm hỉnh, linh hoạt trong sáng tạo của tác giả.

*Tính cách trữ tình

  • Chảy qua vùng bình nguyên hoặc khi đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà trở nên hiền hòa đến lạ, tưởng như một người bạn của con người.
  • Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: qua cái nhìn say đắm, chìm sâu của tác giả sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dạng, lấp lánh
  • Hình ảnh thơ mộng, phép so sánh giàu giá trị biểu cảm, ngôn từ linh hoạt, mềm mại làm nổi bật sông Đà có vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ.
  • “Từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh như đứa trẻ nghịch chiếu gương… sáng lên một màu nắng tháng ba Đường Thi”
  • Một phép so sánh độc đáo, mới lạ, giọng văn nhẹ nhàng cho thấy vẻ hồn nhiên, thanh bình của sông “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân…”
  • Tác giả nhìn ra khía cạnh chiều sâu của sông, một vẻ đẹp thân thiện, dễ mến, hơi ấm của tình người trong dòng sông. Hơn nữa, dòng sông trở thành người bạn hiền dịu, cởi mở, niềm nở chờ đợi người phương xa trở về.
  • Dưới thuyền nhìn lên thấy “bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa..”
  • Một phép so sánh độc lạ, từ không gian liên tưởng về thời gian, có sự mở rộng biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ xưa nhưng thuần khiết
  • Trên đồi cỏ non “con hươu thơ ngộ ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương ngơ ngác…” như đang hỏi thăm ông khách sang sông. Tiếng cá đập nước, con lững lờ trôi nhớ thương…
  • Biện pháp nhân hóa giàu chất thơ khiến dòng sông trở nên hồn nhiên, hoang sơ, tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn. Vẻ đẹp hiền hòa, yên bình của sông góp phần tô điểm cho cảnh quang non sông đất nước.
  • Miêu tả sông Đà như một kí sự bằng ngôn từ linh hoạt, phong phú, giàu sức gợi, như thế mới thấy Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê miêu tả dòng sông còn là tình yêu tổ quốc, nâng niu tiếng mẹ đẻ…

2. Hình ảnh ông lái đò

*Ngoại hình, giọng nói

  • “Tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, đầu bạc quắc thước, thân hình cao to và gọn quánh như chất sừng mun, đôi cánh tay trẻ tráng quá…”
  • “giọng ông ào ào như tiếng nước trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó…”
  • Ngôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp so sánh tác giả đã khắc họa thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi. Cách liên miêu tả của Nguyễn Tuân liên tưởng ngoại hình của ông lái đò có dấu ấn nghề nghiệp

*Niềm say mê lao động

  • Ông lái đò là một người anh hùng vô danh, bình dị thầm lặng mà quang vinh. Ông luôn tâm huyết với nghề, mãi không thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng tự hào.
  • Hình ảnh người lao động mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, chinh phục thiên nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.

*Tính cách

  • Qua cách ông chiến đấu với con sông có thể thấy ông là một người có tri thức, năng lực.
  • Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, thuộc làu dòng sông…
  • Nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá…
  • Có tài chỉ huy.
  • Ông là người mưu trí, tài ba, có mưu lược và làm chủ cuộc đời, phong thái ung dung.
  • Khi ra trận ông bộc lộ vẻ đẹp anh hùng vàn nghệ sĩ
  • Ông bình tĩnh đưa con thuyền vào trận chiến thiên la địa võng, sẵn sàng vật lộn với con thủy quái. Lao vào trận địa như viên tướng tả xung hữu đột,,,
  • Ông lái đò là người vẻ đẹp tiêu biểu yêu nghề, có tinh thần làm chủ, vừa mang dấu ấn phong cách Nguyễn Tuân

III. Kết bài

Người lái đò sông Đà không chỉ miêu tả con sông Đà mà còn khắc họa vẻ đẹp của người lao động. Qua đó cho thấy sự tri thức, hiểu biết của tác giả mang lại một tác phẩm văn học uyên bác.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 4)

I. Mở bài

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm Người lái đò sông Đà. (Nguyễn Tuân là một tác giả lớn có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học của Việt Nam).

II. Thân bài

1. Hình tượng con sông Đà

a. Con sông Đà hung bạo

- Cảnh vách đá hai bên sông dựng đứng như vách thành và ở quãng sông hẹp:

  • Có vách đá chẹt dòng sông Đà như một cái yết hầu.
  • Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.
  • Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời.

→ Tác giả sử dụng nhiều giác quan (thị giác, xúc giác) để cảm nhận.

- Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

  • Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà...
  • Quãng này mà khinh suất tay lái thì cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra.

→ Sử dụng nhiều câu văn ngắn, điệp từ, điệp cấu trúc gợi lên nhịp chuyển động gấp gáp của sóng gió đang phối hợp với nhau, tạo thêm nét hung bạo của sông Đà.

- Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

  • Trên sông bỗng có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông thả xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu.
  • Nước ở đây thở và kêu như cái cửa cống bị sặc... những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào.
  • Nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống.

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo gợi lên cảm giác về những mối nguy hiểm của sông Đà.

- Cuộc thủy chiến giữa con sông Đà và người lái đò:

  • Một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số một.
  • Tiếng nước nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo...rống lên như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng.
  • Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn, nó bày thạch trận trên sông: Đám tảng đám hòn, chia làm ba hàng chặng ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá trông như là sơ hở, nhưng chính hai đứa giữ vai trò dụ cái thuyền đối phương đi vào sâu nữa,....
  • Phối hợp với đá, nước thác reo hò làm thanh viện cho đá, những hòn đá bệ vệ oai phong, lẫm liệt, thách thức chiếc thuyền.
  • Nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông lái đò lật ngửa mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt.
  • Dòng thác hùm beo đang hồng hộc tế mạnh trên sông đá...

→ Sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, đầy sáng tạo để khắc họa sự hung bạo, dữ dằn trong trận thủy chiến gay go, quyết liệt.

Sông Đà hiện lên qua ngòi bút của Nguyễn Tuân không phải là con sông vô tri, vô giác mà là một sinh thể có hoạt động, có tính cách, cá tính, có tâm trạng, không chỉ hung hãn mà nó còn rất xảo huyệt, mưu ma để lừa người lá đò vào thế trận đã bày sẵn và hướng người ta vào cửa tử.

Hình tượng con sông Đà hiện lên thật kì vĩ, hiểm trở, dữ dội và rất hung bạo… Sông Đà biểu tượng cho sức mạnh dữ dội và vẻ đẹp hùng vĩ của thiên nhiên núi rừng Tây Bắc.

b. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình

Từ trên tàu bay nhìn xuống "con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban, hoa gạo"

"Mùa xuân xanh màu ngọc bích", khác với sông Gâm, sông Lô "màu xanh canh hến". Mùa thu nước sông "lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa"

→ Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kì gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, những con hươu "ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương" Dòng sông Đà như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt: Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say mê miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có.

2. Hình ảnh người lái đò

- Về lai lịch: một ông lão gần 70 tuổi, làm nghề lái đò nhiều năm.

- Ngoại hình: “tay lêu nghêu... chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

-Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo..

-Tài năng và tâm hồn:

  • Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”...
  • Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
  • Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 5)

I. Mở bài

  • Giới thiệu tác giả: Nguyễn Tuân là nhà văn suốt đời đi tìm cái đẹp.
  • Giới thiệu tác phẩm: “Người lái đò sông Đà” trích từ tập tùy bút “Sông Đà” là một trong những sáng tác tiêu biểu của Nguyễn Tuân sau cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài

1. Hoàn cảnh sáng tác

Tác phẩm là kết quả của chuyến đi Tây Bắc của Nguyễn Tuân để kiếm tìm “chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây Bắc” và “chất vàng mười đã qua thử lửa” của con người nơi đây.

2. Vẻ đẹp của con sông Đà

a. Vẻ đẹp hung bạo:

- Bờ sông:

  • “dựng vách thành”, cao vút, dựng đứng.
  • Quãng sông thì hẹp đến nỗi “con nai, con hổ có lần vọt từ bờ sông này sang bờ kia”.
  • “Mặt sông chỗ ấy chỉ đúng ngọ mới có mặt trời”, “đang mùa hè đi đò qua quãng ấy cũng cảm thấy lạnh”.
  • Khi đi qua quãng này, người ta cảm tưởng như mình “đang đứng ở một cái ngõ nào mà ngóng vọng lên cái cửa sổ trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”.

=> Trước mắt là một khúc sông Đà vừa sâu, vừa hẹp, vừa tối, vừa lạnh đủ để bất kỳ ai đến đây cũng phải rùng mình sợ hãi.

- Ghềnh:

  • ghềnh Hát Loóng “dài hàng cây số, nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”.
  • Các từ láy “cuồn cuộn”, “gùn ghè” vừa hợi âm thanh ghê rợn vừa gợi những hình ảnh khủng khiếp của nơi đây.
  • Được miêu tả như những kẻ sẵn sàng đòi nợ

=> Nó có thể gây ra rất nhiều nguy hiểm mà con người không thể nào lường trước được.

- Hút nước:

  • Nhìn từ xa những cái xoáy nước trên sông giống như cái lúm đồng tiền trên má cô gái, có thể lôi tuột một cái thuyền xuống đáy sông và đánh cho tan xác.
  • Những cái hút nước như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu.
  • “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”.

- Thác nước:

  • Tiếng thác nghe như là “oán trách”, nghe như là “van xin”, “khiêu khích”, giọng gằn mà “chế nhạo”.
  • “Thế rồi nó rống lên… ”,so sánh tiếng thác sông Đà giống như tiếng của một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn để phá tuông sự bủa vây của rừng lửa.

- Đá sông Đà:

  • “cả một chân trời đá”
  • từng tảng đá mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó”.
  • Rồi chúng còn vây thành một thạch trận giống như một trận đồ bát quái trên sông Đà.

b. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà:

  • Sông Đà “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
  • Không chỉ đẹp ở dáng hình mà còn đẹp ở màu nước: mùa xuân dòng xanh ngọc bích, thu sang nước sông chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa.
  • Bờ bãi sông Đà thì mênh mang, trải dài “bờ sông Đà, bãi sông Đà, chuồn chuồn bươm bướm sông Đà”.
  • So sánh vô cùng gợi cảm khi miêu tả dòng sông “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”, “bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”.

2. Ông lái đò sông Đà

a. Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động

- Ông lái đò sinh ra đã gắn bó với dòng sông Đà. Tuổi ngoài bảy mươi nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường. Có thể nói ông lái đò là con người của sông nước.

- Ông là người hiểu biết sâu rộng về dòng sông:

  • Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
  • Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần... Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.”
  • Ông có trình độ lái đò hết sức điêu luyện và là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Giờ đây khi đã rời xa nghề chèo đò nhưng ông vẫn hoài niệm về những ngày tháng gian nan mà vui vẻ đó.

b. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

- Trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ, ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

- Trùng vây thứ hai: Tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh bị bố trí lệch đi, ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

- Trùng vây thứ ba: Bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ, ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

=> Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò, vượt thác. Ông đại diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.

III. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 6)

I. Mở bài

Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò sông Đà: Người lái đò sông Đà là một trong những tùy bút xuất sắc nhất của nền văn học Việt Nam. Bài tuỳ bút có chất văn độc đáo, mới lạ được sáng tạo nên từ ngòi bút tài hoa và uyên bác của nhà văn Nguyễn Tuân.

II. Thân bài

1. Hình tượng người lái đò sông Đà

a. Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động

- Ngoại hình: Tuổi ngoài bảy mươi nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường.

- Nghề nghiệp: Làm nghề lái đò trên sông Đà đã nhiều năm: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần...”. Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần... Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.

b. Vẻ đẹp tài hoa, nghệ sĩ

Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

- Trùng vây thứ nhất: Ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.

- Trùng vây thứ hai: Ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.

- Trùng vây thứ ba: Ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

=> Ông lái đò chính là “chất vàng mười đã qua thử lửa” của vùng cao Tây Bắc.

2. Hình tượng con sông Đà

a. Vẻ đẹp hung bạo

- Hùng vĩ của sông Đà không chỉ có thác đá mà còn có “đá bờ sông, dựng vách thành”, có “vách đá thành chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu”.

- Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

- Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”, thuyền qua đoạn hút nước “y như ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực”.

- Thác nước sông Đà: “Tiếng nước thác nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo…”

- Thạch trận sông Đà: đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “méo mó”, “”hất hàm”, “oai phong”, “bệ vệ”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “canh”, “đánh tan”, “tiêu diệt”, sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”... Sự biến hóa linh hoạt của trùng vi thạch trận.

=> Sông Đà mang diện mạo và tâm địa của một con thủy quái, kẻ thù số một của con người.

b. Vẻ đẹp trữ tình

- Khi từ tàu bay nhìn xuống:

  • “Sông Đà tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi mèo đốt nương xuân”.
  • Nước sông Đà đổi màu theo từng mùa một cách độc đáo: mùa xuân xanh ngọc bích, mùa thu đỏ.

- Khi đi rừng lâu ngày bất ngờ gặp lại con sông:

  • Niềm vui khi bắt gặp dòng sông: “như thấy nắng giòn tan sau kì mưa dầm”, “nối lại chiêm bao đứt quãng”, “như gặp lại cố nhân”.
  • Sông Đà gợi cảm như một cố nhân, có vẻ đẹp như trò chơi trẻ con tinh nghịch, có vẻ đẹp Đường thi.

- Khi đi thuyền trên sông phía hạ lưu:

  • Cảnh thiên nhiên thi vị, mơn mởn: trôi qua một nương ngô “nhú lá non”, con hươu thơ ngộ, “bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử”.
  • Sông Đà như một “người tình nhân chưa quen biết”

=> Sông Đà mang vẻ đẹp lãng mạn, thơ mộng.

III. Kết bài

  • Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
  • Cảm nhận về tác phẩm Người lái đò sông Đà.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 7)

1. Mở bài

- Giới thiệu về tác giả Nguyễn Tuân (tiểu sử, sáng tác chính, phong cách nghệ thuật…)

- Giới thiệu khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà

2. Thân bài

a. Lời đề từ

Nguyễn Tuân chọn đề từ bằng hai câu thơ:

- Đẹp vậy sao tiếng hát con tàu: ca ngợi vẻ đẹp độc đáo, riêng biệt của sông Đà

- Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc Bắc lưu: ca ngợi vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của sông Đà

→ Nguyễn Tuân kể chuyện về một dòng sông, về một vùng đất và cuộc sống con người Tây Bắc. Nguyễn Tuân cung cấp cho người đọc hiểu biết phong phú,tình yêu tha thiết với thiên nhiên, đất nước con người Việt Nam. Thiên tùy bút vừa là một công trình khảo cứu công phu, vừa là một áng văn trữ tình giàu tính thẩm mĩ về con Sông Đà.

b. Hình tượng sông Đà

* Giới thiệu khái quát về sông Đà

- Sông Đà biểu tượng cho vẻ đẹp thiên nhiên Tây Bắc – một dòng chảy vĩ đại giữa núi rừng Tây Bắc

- Về địa lí: dòng sông bắt nguồn từ Trung Quốc chảy qua vùng núi cao hiểm trở, tốc độ dòng sông chảy xiết mạnh mẽ.

* Vẻ đẹp hung bạo, hùng vĩ của sông Đà (phần 1)

- Diện mạo:

  • “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá... như một cái yết hầu”.
  • Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.
  • Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”

- Tâm địa của sông Đà được miêu tả qua “thạch trận”:

  • Thạch trận : " Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vỗ lấy thuyền"
  • Thủy trận :"Đá tảng đám hòn chia làm ba hàng ngang chắn ngang trên sông đòi ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không biết lùi đi đâu để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn sẵn trận địa.
  • Ba trùng vi giăng bẫy trên con sông:" Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông", "vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào", "còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.

→ Với vốn từ cực kì phong phú cùng bút pháp lãng mạn tô đậm để gây ấn tượng mãnh liệt, cảm giác rùng rợn, dựng lên một con sông hung bạo đầy đe dọa với con người.

* Vẻ đẹp trữ tình, thơ mộng của sông Đà

- Trữ tình ở dáng sông kiều diễm với điểm nhìn từ trên cao xuống, từ tầm xa, bao quát để ngắm một dòng sông thơ mộng, có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như" một dải dây thừng", như "một mái tóc mun…áng tóc trữ tình".

- Trữ tình ở màu sắc sông nước: Nguyễn Tuân nhìn Sông Đà từ nhiều góc độ, lần này từ điểm nhìn thấp hơn và góc nhìn thật đẹp:khi nhìn bằng ánh mắt họa sĩ, khi thì nhìn bằng cảm xúc nhà thi sĩ để say sưa, quan sát tưởng tượng sắc nước Sông Đà, sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng

- Khung cảnh bờ bãi ven sông với điểm nhìn đậu hẳn xuống mặt sông, là 1 du khách trên sông "Thuyền tôi trôi trên Sông Đà…dòng trên".

→ Sông Đà dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ

c. Hình ảnh người lái đò sông Đà

- Giới thiệu chung: ông lái đò Sông Đà làm nghề chở đò dọc trên Sông Đà- nghề vận tải đường nước, ông mang chân dung người lao động sông nước đẹp vạm vỡ khỏe mạnh. Cuộc sống hằng ngày của ông là chiến đầu với con Sông Đà, vật lộn với thiên nhiên để giành giật sự sống, để tồn tại

- Cuộc chiến đấu trên sông Đà – con sông hung dữ và nham hiểm:

  • Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ... những luồng nước”,...
  • Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo...”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác...”
  • Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường

- Trở về với cuộc sống đời thường, sau cuộc chiến "đêm ấy nhà ông đốt lửa trong hang đá, nướng ống cơm lam..cá ứa ra tràn đầy đồng ruộng". Đó là cuộc sống thường nhật của người lái đò ngày nào cũng chiến đấu với thiên nhiên

→ Cuộc sống bình dị, khiêm nhường nhưng rất đáng khâm phục

3. Kết bài

- Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của văn bản

  • Nội dung: Người lái đò sông Đà ca ngợi vẻ đẹp vừa kì vĩ, hào hùng vừa trữ tình thơ mộng của thiên nhiên và nhất là của con người lao động bình dị ở miền Tây Bắc
  • Nghệ thuật: cách sử dụng từ ngữ độc đáo, đắc địa, tài ba, sử dụng vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực, kết hợp hài hòa giữa bút pháp lãng mạn và hiện thực

- Cảm nhận về văn bản: Người lái đò sông Đà là một áng tùy bút xuất sắc, cho thấy tài năng và tấm lòng của người nghệ sĩ suốt đời đi tìm cái Đẹp – Nguyễn Tuân

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 8)

I. Mở Bài

- Nguyễn Tuân là cây bút tài hoa, uyên bác, cả đời say mê tìm kiếm vẻ đẹp của cuộc sống.

- Ông có sở trường về thể loại tuỳ bút. Một trong những sáng tác tiêu biểu của ông là tùy bút “ Người lái đò sông Đà”.

- Tác phẩm đã khắc hoạ vẻ đẹp đa dạng vừa hung bạo vừa trữ tình của con sông Đà và ca ngợi người lái đò giản dị mà kì vĩ trên dòng sông.

II. Thân Bài

1. Giới thiệu chung.

- Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” được in trong tập tuỳ bút “Sông Đà” (1960), gồm 15 bài tuỳ bút và một bài thơ ở dạng phác thảo. Tác phẩm được viết trong thời kì xây dựng CNXH ở miền Bắc.

- Đó là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn đến Tây Bắc trong kháng chiến chống Pháp,đặc biệt là chuyến đi thực tế năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo.

- Ngoài phong cảnh Tây Bắc uy nghiêm, hùng vỹ và tuyệt vời thơ mộng, NT còn phát hiện những điểm quý báu trong tâm hồn con người mà ông gọi là “thứ vàng mười đã được thử lửa, là chất vàng mười của tâm hồn Tây Bắc.”

- Qua “Người lái đò sông Đà”, Nguyễn Tuân với lòng tự hào của mình đã khắc hoạ những nét thơ mộng, hùng vỹ nhưng khắc nghiệt của thiên nhiên đất nước qua hình ảnh con sông Đà hung bạo và trữ tình.

- Đồng thời, nhà văn cũng phát hiện và ca ngợi chất nghệ sĩ, sự tài ba trí dũng của con người lao động mới : chất vàng mười của đất nước trong xây dựng CNXH qua hình ảnh người lái đò sông Đà.Từ đó nhà văn ca ngợi sông Đà, núi rừng Tây Bắc vừa hùng vĩ vừa thơ mộng, đồng bào Tây Bắc cần cù, dũng cảm, rất tài tử, tài hoa.

2. Phân tích hình tượng dòng sông Đà.

- Trước hết, con sông đà được Nguyễn Tuân miêu tả là dòng sông hung bạo, dữ dội. Khi hung bạo, sông Đà là kẻ thù số một sẵn sàng cướp đi mạng sống con người, có tâm địa độc ác như người dì ghẻ. Để khắc họa tính cách của sông Đà, tác giả đã dựng lại khúc sông nguy hiểm. Đó là đoạn cảnh đá bờ sông dựng đứng vách thành: chẹt lòng sông Đà như một cái yết hầu. Đó là quãng Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đây. Lại một đoạn sông khác, sông Đà là cái hút nước xoáy tít. Có những thuyền đã bị nó hút tụt xuống, thuyền trồng cây chuối ngược rồi vụt biến đi đến mười phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới..Nhưng dữ dội nhất là ở những thác đá. Nguyễn Tuân đã buộc sự dữ dội, nham hiểm của sông Đà phải hiện lên thành hình và gào thét bằng trăm ngàn âm thanh. Chưa thấy sông nhưng người ta đã bị đe dọa bởi tiếng thác nước nghe như oán trách gì, rồi lại như van xin, rồi lại như khiêu khích, giọng nghe gằn mà chế nhạo. Tác giả đã dựng lại cuộc thuỷ chiến giữa sông Đà và người lái đò để lột tả cho được tính hung bạo của nó và tài nghệ của người lái đò. Thác đá được xếp thành từng tuyến mà nhà văn gọi là thạch trận, nhằm ăn chết cái thuyền đơn độc. Ở tuyến một, thác đá mở ra năm cửa trận, bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn. Ở tuyến hai, tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cửa sinh lại nằm bên phía hữu ngạn. Ở tuyến ba, bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống nằm ở giữa. Người lái đò phải nhắm đúng luồng sinh để vượt qua.

Bên cạnh tính cách hung bạo, dưới ngòi bút Nguyễn Tuân con sông Đà lại rất trữ tình, gợi bao cảm xúc làm mê say lòng người. Khi trữ tình, sông Đà hiền hoà, mềm mại, huyền ảo như mái tóc của một phụ nữ kiều diễm: con sông tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban hoa gạo tháng hai và cuồn cuộn mây mù khói núi Mèo nương xuân.

Không chỉ đẹp ở hình dáng, sông Đà còn gợi cảm ở màu sắc, mà tác giả đã bao lần dày công quan sát mới nói hết được vẻ độc đáo ấy: Mùa xuân dòng sông xanh ngọc bích (nghĩa là một màu xanh trong và sáng); mùa thu nước sông Đà lừ lừ chín đổ như mặt người bầm đi vì rượu bữa. Đặc biệt là không khí hoang dại, tĩnh lặng : Bờ sông hoang dại như bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa. Đề lột tả không khí đầy thơ ấy.Nguyễn Tuân đã tả đàn hươu ngẩng đầu ngơ ngác mơ một tiếng còi sương, và cái nắng tháng ba Đường thi Yên hoa tam nguyệt há Dương Châu, gợi tâm sự của người tình nhân chưa quen biết ! Lúc này, không thấy đâu con sông Đà diện mạo và tâm địa độc ác, mà chỉ thấy tình cảm của dòng sông đối với con người như một cố nhân, xa thì thấy nhớ thương, gặp lại thì thấy mừng vui như nối lại chiêm bao đứt quãng. Còn con sông lại mang bao rung động yêu thương như nhớ những hòn đá xa xôi để lại nơi thượng nguồn. Khi tả con sông Đà trữ tình, Nguyễn Tuân đã sử dụng những câu văn nhẹ nhàng, êm ái. Câu ngắn, vị ngữ diễn tả trạng thái bình lặng, để lại trong lòng người âm hưởng mênh mang, thơ mộng.

III. Kết bài

Trong tùy bút “ Người lái đò sông Đà”, nhà văn Nguyễn Tuân đã rất thành công trong việc sử dụng nhiều thuật ngữ của các ngành nghề khác nhau nhằm miêu tả vẻ hùng vĩ, thơ mộng của con sông Đà và mở ra bao liên tưởng độc đáo, bất ngờ trong tâm trí người đọc. Qua đó, ta thấy được tài hoa, vốn văn hoá uyên thâm và phong cách nghệ thuật độc đáo của Nguyễn Tuân. Đồng thời ta còn thấy được cảm hứng ngợi ca, tự hào về chất vàng thiên nhiên, về giang sơn gấm vóc Việt Nam của tác giả.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 9)

1.1. Mở bài:

– Nguyễn Tuân là nhà văn lớn của thế kỷ XX. Nền văn xuôi Việt Nam luôn in hằn dấu vết của sự nghiêm túc và sáng tạo trong tác phẩm nghệ thuật của ông.

– Người lái đò sông Đà là tác phẩm tiêu biểu và là một trong những thành công thể hiện chí hướng và tư duy của ông sau Cách mạng tháng Tám.

1.2. Thân bài:

1.2.1. Hình ảnh sông Đà:

a. Tính cách hung bạo và nét hùng vĩ của sông Đà:

– Dòng sông Đà bị một hòn đá chặn ngang giống như một cái yết hầu.

– Đứng bờ bên này cẩn thận ném hòn đá sang bờ bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

– Chỉ lúc đúng ngọ thì mặt sông mới có mặt trời.

– Nguyễn Tuân sử dụng ngôn ngữ đặc biệt giàu chất tạo hình, kĩ thuật điện ảnh nhằm khắc họa từng đường nét, ánh sáng, quan sát ở nhiều góc độ từ đó tạo dựng nên cảnh bờ sông một cách sống động, toát lên vẻ hùng vĩ, dữ dội mà hiểm trở.

– Những cái hút nước ở Tà Mường Vát giống như những cái giếng bê tông khổng lồ đang xoáy tít. Toàn nước sông xanh ve như một áng thủy tinh khối đúc dài. Nước sông như bị nghẹt thở. Nếu ngồi trong thuyền thúng dưới đáy cái hút nước ấy mà lia ống kính ngược lên thì sẽ truyền cho người xem trong rạp một cảm giác quay cuồng…”

– Ngôn ngữ được sử dụng ở đây vô cùng sắc cạnh, hình ảnh lạ, vô cùng nguy hiểm được miêu tả một cách rõ nét, chân thật, làm toát lên vẻ dữ dội, ghê gớm của máy hút nước trên sông

– Dòng sông dài hàng cây số. Cảnh tượng sông dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm giống như lúc nào cũng đòi nợ người lái đò sông Đà

– Quãng này mà chủ quan, khinh suất tay lái thì dù tay lái có điêu luyện đến đâu cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra

→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, điệp ngữ và các điệp cấu trúc gợi lên sự chuyển động dồn dập của sóng và gió phối hợp với nhau tạo nên những đường nét dữ dội cho sông Đà.

– Qua ngòi bút của Nguyễn Tuân, Trận thủy chiến trên sông với sự bố trí đan trận nhiều vòng vây cùng lực lượng phối hợp của các tảng đá, các con sóng ngầm hò la vang động núi trời…

– Qua việc miêu tả cận cảnh, chi tiết, từ ngữ giàu sức tạo hình, gợi tả được sử dụng, tác giả khơi gợi lên hình ảnh con sông Đà hung bạo, cuồng nộ khi vặn mình đau đớn qua những tảng đá. Từ đó người đọc cảm nhận được sự uyên bác trong trang văn, sự hóm hỉnh, linh hoạt trong sáng tạo của tác giả.

b. Hình ảnh nên thơ, trữ tình:

– Hình ảnh con sông Đà chảy ngang qua vùng bình nguyên hoặc khi tác giả đứng từ trên nhìn xuống, sông Đà giống như một người bạn hiền hòa đến lạ của con người.

– Từ trên máy bay nhìn xuống, “sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình… ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung hoa ban hoa gạo”: sông Đà trở nên quyến rũ, màu sắc đa dạng, lấp lánh qua cái nhìn say đắm, chìm sâu của tác giả

– Khi tác giả từ trên dốc nhìn xuống thấy mặt sông lấp lánh tựa như có một đứa trẻ nào đó đang nghịch chiếu gương… sáng lên như một màu nắng tháng ba.

→ Hình ảnh thơ mộng kết hợp với phép so sánh giàu giá trị biểu cảm, cộng thêm ngôn từ linh hoạt, mềm mại làm nổi bật vẻ đẹp dịu dàng, hiền hòa, mộng mơ của sông Đà.

– Phép so sánh “sông vui như nối lại chiêm bao ngắt quãng… đằm thắm ấm ấm như gặp lại cố nhân…” độc đáo, mới lạ cùng với giọng văn nhẹ nhàng cho người đọc cảm nhận về vẻ hồn nhiên, thanh bình của dòng sông.

– Với góc nhìn đa chiều, tác giả còn nhìn một vẻ đẹp thân thiện, dễ mến, hơi ấm của tình người trong dòng sông mà không dễ gì nhận thấy. Dòng sông trở nên người bạn hiền dịu, cởi mở chờ đợi người phương xa trở về.

– Dưới thuyền nhìn lên tác giả thấy hình ảnh bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, không chỉ vậy mà còn hồn nhiên như nỗi niềm cổ tích tuổi xưa

→ Phép so sánh độc lạ, từ không gian Nguyễn Tuân liên tưởng về thời gian, mở rộng biên độ làm cho con sông mang nét hoang dã, cổ kính nhưng thuần khiết, đậm màu sắc cổ tích

– Có mấy con hươu ăn cỏ ướt nước sương trên đồi cỏ non. Tiếng cá đập nước,…

– Dòng sông trở nên hồn nhiên, hoang sơ, tinh khiết hiện ra đẹp như tranh vẽ ở mọi góc nhìn nhờ có biện pháp nhân hóa giàu chất thơ. Vẻ đẹp thơ mộng, trữ tình của dòng sông đã góp phần tô điểm cho cảnh quang của non sông đất nước.

– Ngôn từ linh hoạt, phong phú, giàu sức gợi cho thấy một Nguyễn Tuân tài năng, đằng sau sự say mê văn chương là tình yêu tổ quốc, nâng niu tiếng mẹ đẻ…

1.2.2. Hình ảnh ông lái đò:

a. Ngoại hình, giọng nói:

– Tay chân ông lêu nghêu như cái sào chân khuỳnh khùng kẹp lại như đang giữ một cái sào tưởng tượng, đầu tóc bạc, thân hình ông cao to và đặc quánh như sừng mun, cánh tay rắn chắc..

– Giọng ông áo ào như tiếng sóng nước

– Thể lực cường tráng, khỏe mạnh, rắn rỏi được thể hiện qua gôn từ giàu chất tạo hình, từ láy cùng các biện pháp so sánh. Cách liên miêu tả của Nguyễn Tuân làm chúng ta liên tưởng đến ngoại hình của ông lái đò thật đặc biệt

b. Niềm say mê lao động:

– Ẩn sau hình ảnh bình dị của người lái đò là một người anh hùng vô danh, thầm lặng mà đầy vinh quang. Ông lúc nào cũng tâm huyết với nghề, không hề thay lòng, ngày ngày chèo lái, chế ngự con thuyền vượt qua sự hung hãn của sông một cách đáng tự hào.

– Hình ảnh người lao động trong thời kỳ mới yêu nghề, tự tin, tự do làm chủ cuộc đời, có bản lĩnh, dũng cảm chinh phục thiên nhiên, sẵn lòng cống hiến, xây dựng quê hương.

c. Tính cách:

– Qua cách chiến đấu với con sông Đà, người đọc có thể rõ rành nhận thấy ông là một người có tri thức, năng lực.

– Ông đóng đanh tất cả dòng nước, những con thác hiểm trở, ông thuộc làu địa hình dòng sông vì đã làm nghề lâu năm

– Ông như người chỉ huy quân sự tài ba nắm chắc binh pháp thần sông, thần đá…

– Là người mưu trí, tài ba, khôn ngoan, có phong thái ung dung.

– Khi ra trận ông giống như một người anh hùng và nghệ sĩ

– Ông bình tĩnh lái đưa con thuyền vào bày binh bố trận của dòng sông, sẵn sàng vật lộn với con thủy quái. Ông lao vào trận địa như viên tả tướng đầy dũng mãnh

– Hình ảnh người lái đò mang đậm dấu ấn phong cách của nhà văn Nguyễn Tuân

1.3. Kết bài:

Người lái đò trên sông Đà không chỉ là tác phẩm tiêu biểu cho vẻ đẹp sông Đà, mà còn tiêu biểu cho vẻ đẹp của người lao động. Qua đó thể hiện tri thức và sự hiểu biết của tác giả để tạo nên một tác phẩm văn học uyên bác.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 10)

1. Mở bài:

Giới thiệu tác giả Nguyễn Tuân và tác phẩm “Người lái đò sông Đà” (Nguyễn Tuân là nhà văn xuất sắc có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học Việt Nam.)

2. Thân bài:

2.1. Vẻ đẹp trữ tình của sông Đà:

– Từ trên máy nhìn xuống, dòng sông Đà chảy dài như mái tóc trữ tình, chân tóc thoắt ẩn thoắt hiện trong mây trời Tây Bắc, hoa bạn, hoa gạo đua nhau khoe sắc.

– Sông Gâm vào mùa xuân có xanh màu ngọc bích khác với màu xanh canh hến vủa sông Lô. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người bầm đi vì rượu bữa”

→ Mỗi mùa Sông Đà có vẻ đẹp riêng, quyến rũ và tình tứ.

– Nguyễn Tuân nhìn sông Đà như một cố nhân, hai bên bờ là những cảnh vật vô cùng đáng nhớ: bãi ngô nhú lá non, con nai “ngẩng đầu nhung nhớ cỏ sương”. Con sông Đà như gợi bao cảm xúc, đậm chất lịch sử Việt Nam: bãi sông hoang sơ như bãi tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một câu chuyện cổ tích xưa.

→ Nguyễn Tuân say sưa miêu tả dòng sông trong tất cả cảm xúc phức tạp và tình yêu nồng nàn của nó. Ngưỡng mộ, trân trọng và tự hào về non sông đã tạo nên những chiếc lá đẹp hiếm có.

2.2. Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà:

a. Cảnh núi đá hai bên sông dựng đứng như bức tường thành, ở giữa là khúc sông hẹp:

– Dòng sông Đà bị một hòn đá chặn ngang giống như một cái yết hầu.

– Đứng bờ bên này cẩn thận ném hòn đá sang bờ bên kia. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bên bờ này sang bên kia.

– Chỉ lúc đúng ngọ thì mặt sông mới có mặt trời.

→ Người viết sử dụng nhiều giác quan để cảm nhận (thị giác, xúc giác).

b. Cảnh ở quãng mặt ghềnh Hát Loóng:

– Dòng sông dài hàng cây số. Cảnh tượng sông dữ dội nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm giống như lúc nào cũng đòi nợ người lái đò sông Đà

– Quãng này mà chủ quan, khinh suất tay lái thì dù tay lái có điêu luyện đến đâu cũng dễ lật ngửa bụng thuyền ra

→ Sử dụng nhiều câu rút gọn, điệp ngữ và các điệp cấu trúc gợi lên sự chuyển động dồn dập của sóng và gió phối hợp với nhau tạo nên những đường nét dữ dội cho sông Đà.

c. Cảnh ở quãng Tà Mường Vát:

– Dòng sông có những cửa hút nước giống như ai đó thả cái giếng bê tông xuống dòng sông để chuẩn bị làm móng cầu

– Nước ở đây rít và kêu lên như cái cửa cống bị sặc, những cái giếng sâu nước cứ ặc ặc lên như dầu sôi vừa được rót vào

– Những cái giếng hút nước ấy nó lôi tụt xuống nhiều thuyền bè gỗ đi nghênh ngang vô ý

→ Việc sử dụng biện pháp so sánh, liên tưởng, nhân hóa độc đáo tạo cảm giác về sự nguy hiểm của sông Đà.

2.3. Hình ảnh người lái đò sông Đà:

‐ Ông là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò bởi ông đã xuôi ngược hơn một trăm lần trên sông Đà

‐ Ông là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: bình tĩnh đối đầu với con thác dữ, dù đau nhưng vẫn nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo, không chỉ vậy ông còn nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi cách bày binh bố trận của sông Đà, động tác điêu luyện cưỡi trên ngọn thác

‐ Người lái đò thực sự là người nghệ sĩ tài hoa và là vị chỉ huy tài ba: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

3. Kết bài:

‐ Nội dung: Tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của người lao động và vẻ đẹp thiên nhiên của đất nước.

‐ Nghệ thuật: ngôn ngữ điêu luyện, trí tưởng tượng độc đáo, vận dụng hiểu biết về nhiều môn nghệ thuật, xây dựng thành công hình tượng con sông Đà và người lái đò.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 11)

1.Mở bài phân tích Người lái đò sông Đà:

  • Giới thiệu khái quát về Nguyễn Tuân.
  • Giới thiệu chung về đối tượng cần phân tích – văn bản “Người lái đò sông Đà”.

2.Thân bài phân tích Người lái đò sông Đà:

a. Phân tích hình tượng con sông Đà trong “Người lái đò sông Đà:

  • “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”
  • Lời đề từ: Khẳng định vẻ đẹp và sự độc đáo của sông Đà: Mọi dòng sông đều chảy về hướng Đông – Chỉ có sông Đà chảy theo hướng Bắc. Trên trang văn Nguyễn Tuân, sông Đà đại diện cho thiên nhiên Tây Bắc và là một sinh thể có hồn, sống động, có tính cách, có tâm hồn, vừa hùng vĩ hung bạo vừa thơ mộng, trữ tình.

*Sông Đà hùng vĩ, dữ dội với tính cách hung bạo:

  • Vách đá dựng đứng, kì vĩ: cảnh đá bờ sông dựng vách thành… sang bờ kia.
  • Ghềnh Hát Loóng hung dữ: nước xô đá, đá xô sóng… dễ lật ngửa bụng thuyền ra.
  • Hút nước vừa tráng lệ vừa dữ dội: như cái giếng bê tông… ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi.
  • Thác đá: nghe như là oán trách… cháy bùng bùng, đá thác từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông… ngỗ ngược, bệ vệ oai phong, hất hàm hiếu chiến.
  • Sông Đà bố trí ba thạch trận trùng trùng điệp điệp, đòi tóm lấy mọi con thuyền qua sông.

*Vẻ đẹp thơ mộng và tính cách trữ tình:

  • Hình dáng dòng sông mềm mại: như cái dây thừng, như mái tóc tuôn dài…
  • Màu nước thay đổi theo mùa: xanh ngọc bích, lừ lừ chín đỏ.
  • Sông Đà gợi cảm, mang vẻ đẹp đa chiều: như cố nhân, như Đường thi,…
  • Vẻ đẹp đôi bờ: êm ả, nguyên sơ, tràn đầy sức sống (cỏ cây, những con vật lành, đàn cá…)

-Nghệ thuật xây dựng hình tượng sông Đà: ngôn ngữ điêu luyện, giàu chất tạo hình; so sánh, liên tưởng độc đáo, táo bạo; tiếp cận con sông dưới phương diện cái đẹp, cái tôi trữ tình dạt dào cảm xúc; vận dụng tri thức của nhiều lĩnh vực; giọng điệu phóng khoáng.

-Ý nghĩa của hình tượng sông Đà: đại diện cho vẻ đẹp của thiên nhiên Tây Bắc, đóng vai trò như bức phông nền kì vĩ, làm nổi bật tài nghệ chèo đò, vượt thác của ông đò.

b. Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà.

*Vẻ đẹp bình dị của người dân lao động:

-Ông lái đò sinh ra đã gắn bó với dòng sông Đà. Tuổi ngoài 70 nhưng thân hình vạm vỡ như chất sừng mun, giọng nói vẫn khỏe, cặp mắt vẫn tinh tường. Có thể nói ông lái đò là con người của sông nước.

-Ông là người hiểu biết sâu rộng về dòng sông:

  • Đó là một người lái đò lão luyện: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
  • Ông hiểu biết sâu rộng và rất thành thạo, thành thạo đến mức sông Đà “đối với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả cái chấm than, chấm câu và những đoạn xuống dòng. Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi, chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần… Cho nên ông có thể bằng cách lấy mắt mà nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở.”
  • Ông có trình độ lái đò hết sức điêu luyện và là vị chỉ huy dày dạn kinh nghiệm. Giờ đây khi đã rời xa nghề chèo đò nhưng ông vẫn hoài niệm về những ngày tháng gian nan mà vui vẻ đó.

*Là một người nghệ sĩ tài hoa:

-Thủy quái sông Đà: có diện mạo và tâm địa một thứ kẻ thù số 1, nguy hiểm và hung bạo, đầy cạm bẫy với những ghềnh, thác, hút nước, sóng nước, với thạch trận trùng điệp, đầy luồng chết chầu chực nuốt chửng, đập tan con thuyền.

-Người lái đò bước vào cuộc vượt thác giống như vị chỉ huy bước vào trận đánh. Phải đặt nhân vật vào trong môi trường chiến trận mới có thể bộc lộ hết phẩm chất của người lái đò:

  • Ông đò vượt trùng vây thứ nhất: Đá thác hiếu chiến (bệ vệ oai phong, hất hàm), nước thác làm thanh viện ùa vào đòi bẻ cán chèo, đội thuyền, túm lấy thắt lưng, bóp chặt hạ bộ, ông cố nén vết thương, kẹp chặt cuống lái, tiếng chỉ huy vẫn ngắn gọn tỉnh táo.
  • Ông đò vượt trùng vây thứ hai: trùng vây thứ 2 tăng thêm cửa tử để đánh lừa con thuyền, cửa sinh bị bố trí lệch đi, ông đò thay đổi chiến thuật, cưỡi lên thác sông Đà, lái miết một đường chéo, rảo bơi chèo lên… sấn lên chặt đôi ra để mở đường vào cửa sinh.
  • Ông đò vượt qua trùng vây thứ ba: vòng 3 bên phải, bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa bọn đá hậu vệ, ông đò phóng thẳng thuyền, chọc thủng cửa giữa.. lượn được.

-Ông đò là người anh hùng, người nghệ sĩ trong công việc chèo đò, vượt thác. Ông đại diện cho con người Tây Bắc và là chất vàng mười của đất nước ta.

3.Kết bài phân tích Người lái đò sông Đà: Nêu cảm nhận về tác phẩm.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 12)

I. Mở bài:

-Tác giả:

  • Nguyễn Tuân là một người tri thức giàu lòng yêu nước và tinh thần dân tộc.
  • Nguyễn Tuân là một nhà văn uyên bác tài hoa.
  • Nguyễn Tuân là người có cá tính mạnh mẽ và phóng khoáng, ông không thích những cái gì bằng phẳng nhợt nhạt, nhà văn luôn hứng thú với những biểu hiện mạnh mẽ phi thường của tạo vật và con người.

-Tác phẩm:

  • Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tùy bút sông Đà (1960)
  • Tác phẩm là thành quả của nhà văn trong chuyến ông đi tới Tây Bắc tìm kiếm chất vàng thử lửa của thiên nhiên Tây bắc đặc biệt là chất vàng mười đã qua thử lửa ở tâm hồn con người lao động chiến đấu trên miền sông núi Tây Bắc hùng vĩ và thơ mộng.
  • Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của nhà văn sau cách mạng tháng Tám.

II. Thân bài:

a. Hình tượng con sông Đà:

-Con sông Đà được nhân hóa như con người và mang hai nét tính cách cơ bản: hung bạo và trữ tình\

+Hung bạo:

  • Cảnh đá ở bờ sông: đá dựng vách thành lòng sông hẹp, có quãng con hươi con nai còn nhảy vọt từ bờ bên này sang bờ bên kia, nhìn từ dưới lên như nhìn lên cái tòa nhà cao vừa tắt phụt đèn điện.
  • Mặt ghềnh Hát loong: dài hàng ngàn cây số, “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió cuồn cuộn, luồng gió gùn ghè suốt năm như đòi nợ suýt bất cứ ai đi qua quãng ấy.
  • Cái hút nước giống như cái giếng bê tông, nước thở và kêu như cái cống cái bị sặc, tưởng tượng một anh quay phim táo bạo ngồi thuyền thúng mà cầm máy quay cùng chìm xuống cái xoáy ấy.
  • Thác nước: tiếng nước gần mãi réo lên, lúc thì gầm réo oán trách van xin, khiêu khích, lúc thì nghe như đàn trâu mộng “…nổ lửa” → nghệ thuật lấy lửa tả nước.
  • Đá ở lòng sông: như bày thạch trận

+Thơ mộng:

  • Đi hết thượng nguồn đến hạ nguồn ta bắt gặp cảnh đẹp này.
  • Hình dáng: “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời tây Bắc… xuân” → đẹp như một người thiếu nữ.
  • Màu nước sông Đà: thay đổi theo mùa: mùa xuân màu xanh ngọc bích, mùa thu lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, chưa bao giờ nước sông Đà màu đen cả → đẹp độc đáo.
  • Sông Đà gợi cảm:
  • cố nhân
  • con sông còn gợi lên những niềm thơ
  • Cảnh hai bờ sông giống như một bờ tiền sử, cổ tích thơ mộng trữ tình và thanh vắng.

-Tóm lại bằng tài năng uyên bác của mình Nguyễn tuân đã đưa người đọc đến với sông Đà cảm nhận được hai nét tính cách hung bạo và trữ tình của dòng sông. Hai nét tính cách đối lập nhưng lại thống nhất bổ sung cho nhau vì thế con sông Đà dưới trang viết của Nguyễn Tuân được xem như là một công trình nghệ thuật, một kì công của tạo hóa đã ban cho Tây Bắc.

b. Hình tượng người lái đò

  • Nguyễn Tuân nói về người lái đò là một tay lái ra hoa
  • Ngoại hình: có ngoại hình độc đáo “tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh khuỳnh”
  • Vẻ đẹp được thể hiện qua những lần vượt thác.
  • Ông phải vượt qua 3 vòng thạch trận với vòng một có 5 cửa thì 4 cửa tử một cửa sinh lập lờ bên tả ngạn. Ông phải dùng hai chân kẹp chặt cuống lái, mặt méo bệch đi nhưng vẫn tỉnh táo chỉ huy để con thuyền vào cửa sinh.
  • Vòng 2: tăng thêm nhiều cửa tử, 1 cửa sinh ở hữu ngạn -> ông nắm chặt bờm sóng ghì cương lái, bám chắc lấy luồng nước phóng vào cửa sinh. Ông phải thay đổi chiến thuật, chứng tỏ ông lái đò rất am hiểu về quân sự.
  • Vòng 3: bên phải bên trái đều là cửa tử, cửa sinh ở giữa nhưng xung quanh lại có bọn đá hậu về. Ông lái đò cứ phóng thuyền chọc thẳng cửa giữa thuyền vút qua cổng mở cổng khép giống như một mũi tên tre xuyên qua hơi nước.
  • Qua đây ta thấy ông lái đò quả là một người rất dũng cảm am hiểu binh pháp của thần sông thần đá, ông dám đương đầu với những khắc nghiệt của thiên nhiên. Và nhân vật ông lái đò tiêu biểu cho nhân vật mà Nguyễn Tuân chọn cho các tác phẩm của mình sau cách mạng tháng Tám. Chúng ta không chỉ thấy nét tài hoa uyên bác với những người trí thức nữa mà ta còn thấy uyên bác tài hoa trong những con người lao động bình thường.

III. Kết bài:

Nhà văn Nguyễn Tuân đã xây dựng thành công hai hình tượng lớn trong tác phẩm. Đó là thiên nhiên Tây Bắc mà cụ thể là hình tượng con sông Đà mang vẻ đẹp hùng vĩ mà thơ mộng, và hình ảnh con người lao động Tây Bắc dũng cảm và tài hoa trong lao động. Có thể nói đấy chính là chất vàng thử lửa mà Nguyễn Tuân đã tìm thấy ở Tây Bắc.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 13)

1.Mở Bài:

Giới thiệu tuỳ bút “Người lái đò sông Đà”: “Người lái đò sông Đà” là một thành công tiêu biểu cho phong cách văn học của Nguyễn Tuân sau 1945.

2.Thân Bài

a. Sông Đà vừa hùng vĩ, dữ dội nhưng cũng đầy trữ tình, thơ mộng:

-Dòng sông dữ dội, hiểm ác:

  • Được xem như là ” kẻ thù số một của con người”
  • Những con thác lớn dữ dội, những gạn nước mênh mang
  • Hai bờ sông dựng đá thành những vách hiểm trở
  • Từ trên cao xuống là vô vàn những hút nước như những trụ bê tông
  • Dòng nước kêu lên thành những tiếng ghê rợn
  • Sông Đà với tư thế hùng dũng và có phần bạo ngược của mình sẵn sàng nhấn chìm bất kể ai không vững vàng tay lái

-Sông Đà dịu dàng, thơ mộng:

  • Con sông Đà tuôn dài, tuôn dài như một áng tóc trữ tình
  • Sắc nước đổi thay theo mùa
  • Bờ sông Đà cũng thật đẹp, thật ngọt ngào bởi hương vị của cảnh vật
  • Sông Đà như một ” người cố nhân” gợi nhớ, gợi thương

b. Người lái đò sông Đà- nghệ sĩ tài hoa

  • Ông già đã gần bảy mươi tuổi nhưng vẫn khỏe mạnh
  • Ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay giữ lái độ sáu chục lần -> trở nên thuần thục, bản lĩnh và kiên trường
  • Trên ngực ông là những “củ khoai nâu” in dấu những trận chiến vật vã với con sông Đà dữ dội→ Những tấm huân chương lao động cao quý.
  • Một mình một thuyền ông đã giao chiến như một vị dũng sĩ đầy tài ba
  • Vẻ đẹp trong lao động của người dân miền núi

3.Kết Bài:

Khái quát giá trị tuỳ bút: Nguyễn Tuân đã mang đến cho nền văn học nước nhà một kiệt tác vô cùng độc đáo, một phong cách nghệ thuật riêng biệt, uyên bác, tài hoa.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 14)

I.Mở bài:

  • Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Tuân: Nguyễn Tuân (1910 – 1987) là một nhà văn tài hoa uyên bác, có phong cách nghệ thuật độc đáo, cái tôi đầy cá tính, luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa thẩm mĩ.
  • Khái quát về tác phẩm Người lái đò sông Đà: Người lái đò sông Đà là một áng văn trong tập tùy bút Sông Đà (1960) – thành quả nghệ thuật đẹp đẽ của Nguyễn Tuân trong chuyến đi gian khổ và hào hùng tới miền Tây Bắc.

II.Thân bài:

1. Khái quát về hoàn cảnh sáng tác

  • Tác phẩm được sáng tác trong gian đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng đất khác nhau, sống với bộ đội, công nhân và đồng bào các dân tộc.
  • Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới ở vùng cao đã đem đến cho ông nguồn cảm hứng sáng tạo trong công cuộc tìm kiếm chất vàng của thiên nhiên Tây Bắc và nhất là “chất vàng mười”.

2. Ý nghĩa lời đề từ

  • “Đẹp vậy thay tiếng hát trên dòng sông”: thể hiện cảm xúc trào dâng mãnh liệt trước tiếng hát, vẻ đẹp của dòng sông.
  • “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”: gợi cho người đọc cảm nhận ấn tượng về sự độc đáo, của một cá tính mạnh mẽ, của một cá tính riêng biệt của dòng sông Đà, đó là con sông hung bạo.

3. Hình tượng dòng sông Đà

a. Dòng sông “hung bạo”:

– “Cảnh đá bờ sông dựng vách thành”: lòng sông hẹp, “bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, chỗ “vách đá … như một cái yết hầu”.

– Ở mặt ghềnh Hát Loóng: “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” một cách hỗn độn, lúc nào cũng như “đòi nợ suýt” những người lái đò.

– Ở Tà Mường Vát: “có những cái hút nước giống như cái giếng bê tông”, chúng “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc nước”.

– Trận địa thác đá được miêu tả từ xa đến gần:

  • Xa: từ xa âm thanh thác nước hiện lên với nhiều trạng thái: “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích”, “chế nhạo”; “rống lên như một ngàn con trâu … cháy bùng bùng” (lấy lửa tả nước).
  • Gần: Đá cũng đầy mưu mẹo: “nhăn nhúm”, “hất hàm”, “oai phong”, có những hành động như “mai phục”, “chặn ngang”, “tiêu diệt”; sóng: “đánh khuýp quật vu hồi”, “đánh giáp lá cà”, “đòn tỉa”.

-Sự biến hóa linh hoạt của 3 trùng vi thạch trận:

  • “Vòng đầu vừa rồi, nó mở ra năm cửa trận, có bốn cửa tử một cửa sinh nằm lập lờ phía tả ngạn sông”
  • “Vòng thứ hai này tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào”
  • “còn một trùng vây thứ ba nữa. Ít cửa hơn, bên trái bên phải đều là luồng chết cả.”

b. Sông Đà trữ tình

  • Từ trên cao nhìn xuống dòng chảy uốn lượn của con sông như mái tóc của người thiếu nữ diễm kiều
  • Từ tầm xa bao quát có khi nhà văn nhìn thấy nó bình dị như “dây thừng ngoằn ngoèo”, “áng tóc trữ tình”
  • Màu sắc sông nước: mùa xuân có màu xanh ngọc bích, thu lừ lừ chín đỏ → Sự thay đổi màu sắc qua các mùa mà mùa nào cũng đẹp, một cách nhìn thật nhiều chiều và đa dạng.
  • Khi đi rừng lâu ngày gặp lại con sông: sông Đà như một “cố nhân”, có ánh sáng “loang loáng như trẻ con chiếu gương vào mắt”, như “nắng tháng ba Đường thi”, …
  • Cái chất “đằm đằm ấm ấm” thân quen của con sông và cái chất thơ như ngấm vào trong từng cảnh sắc thiên nhiên sông Đà.
  • Khi đi thả thuyền trên sông: “bờ sông như một bờ tiền sử”, “hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa”, thiên nhiên mơn mởn: lá ngô non, “con hươu thơ ngộ”, …
  • Từ điểm nhìn của một khách hải hồ trên dòng sông, nhà văn đã quan sát và khắc họa những vẻ đẹp hết sức đa dạng và nên thơ của cảnh vật ven sông.
  • Dưới ánh mắt của Nguyễn Tuân, sông Đà hiện lên như một dải lụa hiền hòa giữa vùng núi rừng Tây Bắc hoang sơ, hùng vĩ.

4. Hình tượng người lái đò sông Đà

– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân, tập trung miêu tả ngoại hình: “tay lêu nghêu… chất mun” để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến.

– Công việc: lái đò trên sông Đà, hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.

– Tài năng và tâm hồn:

  • Là người từng trải, hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ… những luồng nước”,…
  • Là người mưu trí dũng cảm, bản lĩnh và tài ba: ung dung đối đầu với thác dữ “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo…”, “nắm chắc binh pháp của thần sông thần núi”, động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, phóng thẳng thuyền vào giữa thác…”
  • Là người nghệ sĩ tài hoa: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường.

e. Khái quát phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân

  • Phong cách của Nguyễn Tuân có thể thâu tóm trong một chữ “ngông”, trong mỗi trang viết của mình, Nguyễn Tuân luôn muốn thể hiện sự tài hoa, uyên bác của bản thân.
  • Chất tài hoa uyên bác của Nguyễn Tuân được thể hiện ở: Khám phá, phát hiện sự vật ở phương diện thẩm mĩ. Nhìn con người ở phương diện tài hoa, nghệ sĩ. Vận dụng tri thức, vốn hiểu biết trên nhiều lĩnh vực khác nhau để tạo dựng hình tượng
  • Là nhà văn của những tính cách độc đáo, của những tình cảm, cảm giác mãnh liệt, của những phong cách tuyệt mĩ…
  • Kho từ vựng phong phú, tổ chức câu văn xuôi đầy giá trị tạo hình, có nhạc điệu trầm bổng, có phối âm, phối thanh linh hoạt, tài ba…

f. Giá trị nghệ thuật của đoạn trích

  • Tùy bút pha bút kí, kết cấu linh hoạt
  • Vận dụng nhiều tri thức văn hóa và nghệ thuật
  • Nhân vật mang phong thái đời thường, giản dị
  • Bút pháp: kết hợp hài hòa giữa hiện thực và lãng mạn
  • Ngôn ngữ hiện đại kết hợp với ngôn ngữ cổ xưa.

III.Kết bài:

  • Khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm
  • Cảm nhận của em về đoạn trích.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 15)

I.Mở bài:

  • Sơ lược về tác giả Nguyễn Tuân.
  • Tác phẩm Người lái đò sông Đà.

II.Thân bài:

1. Lời đề từ:

  • “Chúng thủy giai đông tẩu/Đà giang độc bắc lưu”: Thế chảy ngược của dòng sông và cảm xúc đồng điệu của Nguyễn Tuân với con sông này.
  • “Đẹp vậy thay, tiếng hát trên dòng sông”: Khơi gợi vẻ đẹp trữ tình của sông Đà.

2. Hình tượng con sông Đà:

a. Vẻ hùng vĩ, hung bạo, dữ dội:

-Hình ảnh rất hấp dẫn “cảnh đá bờ sông dựng vách thành”, “đúng ngọ mới có mặt trời”, “chẹt lòng sông như yết hầu”, “con nai con hổ đã có lần vọt qua bờ bên kia”, tạo cảm giác ”đang màu hè mà cũng cảm thấy lạnh”. Dòng sông tựa như một nhân vật bí hiểm, lạnh lùng, mang đến áp lực vô hình và khó lường.

-Âm thanh:

  • “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò sông Đà nào tóm được qua đấy”,
  • “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc, nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, “nghe như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, giọng gằn mà chế nhạo”,
  • “rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa rừng vầu rừng tre nứa như nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng…”.
  • Gợi liên tưởng cảnh một con thủy quái đang quẫy mình sôi nổi, giận dữ, hoặc là đói mồi hoặc là kẻ nào đã lỡ tay chọc vào chiếc vảy ngược mới khiến lồng lộn cả lên như thế, làm nổi bật hẳn lên cái vẻ hầm hố, khó chịu của con sông khúc thượng nguồn này.

-Hút nước:

  • Hình ảnh rất độc lạ “giống như cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”
  • “mặt giếng xây toàn bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, khối pha lê xanh”, “Cốc pha lê nước khổng lồ”, r
  • “Từ đáy hút nước nhìn ngược lên vách thành hút mặt sông chênh nhau tới một cột nước cao đến vài sải”,…
  • Qua những hình ảnh gợi cảm ấy người ta thấy sông Đà có những cái xoáy nước rất mỹ lệ, rất đẹp trong trẻo, xanh ngắt thế nhưng cũng ẩn chứa hàng vạn mối nguy hiểm cho kẻ nào lỡ may sảy chân rơi vào đấy.

-Đá và “trùng vi thạch trận”:

  • Mai phục ở đây hàng nghìn năm, trực chờ tên liều mạng nào đi qua với bộ dạng sốt sắng “nhổm cả dậy” để vồ lấy thuyền, rồi thì dáng vẻ “ngỗ ngược”, diện mạo “nhăn nhúm”, “méo mó”, tư thế đứng, ngồi, nằm, nghiêng,… đều đủ cả, khiến người ta phải kiêng dè trước cái khí thế mà chúng tỏa ra.
  • Chọn cho mình riêng một nhiệm vụ, dứa thì dàn hàng ngang, đứa thì đòi đánh giáp lá cà, lại có cả đứa giả bộ lộ sơ sở, để những đứa còn lại phục kích đánh úp cho thuyền bè không kịp trở tay.
  • Bày cả “trùng vi thạch trận” có tới 3 lớp, lớp sau càng nhiều cửa tử, ít cửa sinh, luồng sống hẹp, luồng chết dày, dường như là không để cho kẻ địch một cơ hội sống còn nào cả.

b. Vẻ thơ mộng, trữ tình:

  • Dòng sông hiện lên với dáng vẻ hiền hòa, dòng chảy như một sợi dây thừng ngoằn ngoèo, mềm mại trải khắp vùng Tây Bắc.
  • Mang dáng vẻ của một mỹ nhân xinh đẹp, yêu kiều với dòng chảy “tuôn dài tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa Ban, hoa Gạo tháng hai và cuồn cuộn mù khói núi Mèo đốt nương xuân”
  • Những gam màu nổi bật, lãng mạn theo mùa, ví như “Mùa xuân dòng xanh ngọc bích chứ Sông Đà không xanh màu xanh canh hến của Sông Gâm Sông Lô”, còn “Mùa thu nước Sông Đà lừ lừ chín đỏ như da mặt người bầm đi vì rượu bữa, lừ lừ cái màu đỏ giận dữ ở một người bất mãn bực bội gì mỗi độ thu về”.
  • Như là một “cố nhân” để liên tưởng đến “màu nắng tháng ba Đường thi” trong thơ Lý Bạch .
  • Như là “người tình chưa quen biết” trong cái cảnh nương ngô, đàn hươu, bờ sông hoang dại với nỗi niềm cổ tích thuở xa xưa,… khiến lữ khách xuôi dòng xúc động.

2. Người lái đò sông Đà:

a. Diện mạo, tâm hồn:

-Diện mạo:

  • Tuổi thất thập cổ lai hy, nhưng vẫn miệt mài với công cuộc lao động, “không ai nhớ mặt đặt tên”, sống và đóng góp cho đất nước từng ngày.
  • Dáng vẻ đậm mùi sông nước mênh mông, vẻ khắc khổ,“tay lêu nghêu như cái sào, chân khuỳnh ra như kẹp lấy một cái bánh lái tưởng tượng, giọng nói ào ào như thác lũ sông Đà, nhãn giới vòi vọi như nhìn về một bến xa nào đó,…”.
  • Hai vẻ đẹp nổi bật: Một chiến binh dũng cảm trên chiến trường sông nước, ngày ngày chiến đấu giành giật miếng cơm manh áo.Vẻ đẹp của một người nghệ sĩ tài hoa hăng say trong lao động, là bậc thầy trong nghệ thuật chèo đò ngày ngày viết nên những bản trường ca bất tận về công cuộc lao động không ngừng nghỉ.

-Tâm hồn:

  • Lòng hăng say, niềm đam mê trong công việc lao động, đam mê mạo hiểm, thích cảm giác mạnh.
  • Nhiệt thành, dũng cảm, có tâm hồn tươi trẻ, sôi động, bản tính hiếu chiến, đam mê khám phá, chinh phục gian nan thử thách, chẳng bao giờ lùi bước.

b. Công cuộc chèo đò vượt thác:

  • Một trận chiến không khoan nhượng,“cuộc sống của người lái đò sông Đà quả là một cuộc chiến đấu hằng ngày với thiên nhiên, một thứ thiên nhiên Tây Bắc có nhiều lúc trông nó thành ra diện mạo và tâm địa của một kẻ thù số một”.
  • Chất nghệ sĩ trong tâm hồn của ông lão chèo đò hiện lên một cách rõ rệt, hết sức nghiêm túc, tỉ mẩn, miệt mài và kiên nhẫn với công việc.
  • Nằm lòng “từng dấu chấm câu, dấu chấm than, cả những đoạn xuống dòng”, khắc sâu vào tâm khảm như “đóng đanh vào lòng” từng nhịp từng pháp, không thiếu đến nửa dấu.
  • Dòng sông cũng lại trở thành một chiến trường quen thuộc với vị tướng đã dành cả cuộc đời để chinh phạt, nơi đó ông được phép thi triển hết bao tài năng, tâm huyết, cả thứ binh pháp ông vẫn hằng tâm niệm.
  • Ông lão xông pha chiến trường với tinh thần mạnh mẽ, hiên ngang, mái chèo thay đao, chiếc đò duy nhất thay cho chiến mã, dẫu đơn độc thế nhưng khí thế oai hùng của người lái đò không kém cạnh gì so với sự ghê gớm, dữ dội của con sông Đà.
  • Đối mặt với những “trùng vi thạch trận” giăng mắc, ông lão cũng chẳng ngại ngần mà nắm chặt mái chèo vượt qua sự thách thức, uy hiếp của lũ đá khó nhằn.
  • Ông lão hiện lên với bản chất dũng mãnh, lòng kiên cường đã tôi luyện cả cuộc đời của một người lính chiến, và lòng hăng say lao động, chinh phục thiên nhiên của một người nghệ sĩ điêu luyện có “bàn tay lái ra hoa”.

III.Kết bài: Nêu cảm nhận.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 16)

1.Mở bài phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà:

Giới thiệu đối tượng cần phân tích – tác giả Nguyễn Tuân, tác phẩm Người lái đò Sông Đà và hình tượng nhân vật người lái đò với những vẻ đẹp tráng lệ: người anh hùng sông nước, người nghệ sĩ tài ba và người lao động bình dị.

2.Thân bài phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà:

* Nhận xét khái quát về phong cách sáng tác của tác giả Nguyễn Tuân:

  • Từ nhan đề, tác giả đã đưa hình tượng con người vào trung tâm, cốt để miêu tả con người
  • Phong cách nghệ thuật vốn có của tác giả là hướng tới cái đẹp, cái hoàn mỹ. Ở đây, con người là chủ thể trữ tình và là nhân vật trung tâm, tác phẩm xoay quanh cái đẹp của con người

* Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà được xây dựng với những nét đẹp điển hình:

-Phân tích hình tượng ông lái đò là một người anh hùng trên dòng sông Đà:

  • Vượt thạch trận sông Đà đã chứng minh sự dũng cảm, kiên cường của nhân vật: Ông nắm chắc từng luồng nước, từng con sóng, binh pháp của thần sông thần đá.
  • Ông thuộc lòng từng cửa sinh, cửa tử, từng đá hòn đá tảng, từng cái hút nước trên thạch trận.
  • Hình dung ra bộ mặt dữ tợn của nước, đá, sóng, gió, cảm nhận được thái độ giận dữ, tâm trạng cáu kỉnh của nó để rồi có những sách lược chiến thắng từng con thác, từng tảng đá.

-Phân tích hình tượng người lái đò sông Đà là một người nghệ sĩ: Những hành động đều nhanh gọn, dứt khoát và điêu luyện. “Thuyền vút qua cổng đá cánh mở cánh khép, vút, vút… Cửa ngoài rồi cửa trong cùng. Thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được, lượn được.”

-Phân tích hình tượng ông lái đò sông Đà là một người lao động bình dị đã cống hiến thầm lặng mà cao cả:

  • Biểu tượng cho những con người say mê với công việc, tình yêu với nghề nghiệp mà bất chấp hiểm nguy, vất vả.
  • Nguyễn Tuân không gọi nhân vật với cái tên cụ thể, chỉ đơn giản là “ông lái đò”, tên gọi gắn liền với nghề nghiệp để khắc họa hình ảnh người lao động bình dị giống bao người khác.

3.Kết bài phân tích hình tượng Người lái đò sông Đà:

  • Khẳng định tài năng nghệ thuật của Nguyễn Tuân nói chung và khả năng xây dựng hình tượng nhân vật điển hình của tác giả.

Dàn ý phân tích Người lái đò sông Đà (mẫu 17)

1.Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.

2.Thân bài:

a. Nơi vách đá dựng bờ sông:

  • Là nơi đầu tiên chứng kiến sự hung bạo của sông Đà.
  • Nhà văn so sánh hai vách đá chẹt lấy dòng sông như một cái “yết hầu”.
  • Mặt sông hẹp đến độ, đến giờ mặt trời đứng bóng mới có thể nhìn thấy đáy
  • Nhà văn so sánh độ dài của 2 vách đá: “Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách” miêu tả độ rộng hẹp của hai vách đá.

b. Nơi mặt ghềnh Hát Loóng:

  • Ghềnh là nơi đáy sông đột ngột dâng lên giữa dòng và dòng sông Đà có vô số ghềnh như thế.
  • “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè”: 3 thế lực trên dòng sông đang gầm ghè, gào thét với nhau.
  • Gió cũng không vô hình mà “cuồn cuộn từng luồng” đe doạ
  • Dòng sông Đà hoang sơ, hùng vĩ và hung bạo vô cùng.

c. Cái hút xoáy Tà Mường:

  • Đây là nơi chứng kiến sự hung bạo khủng khiếp của dòng sông Đà.
  • Cái xoáy nước như “cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu”, “biết thở biết kêu”, nhân hoá như quái vật.
  • Nhà văn còn sử dụng biện pháp cường điệu để miêu tả sự hung bạo của cái hút xoáy nước.
  • Khi bè gỗ “nghênh ngang đi qua” lập tức bị “lôi tuột xuống”, cái thuyền nhỏ đi men qua xoáy nước cũng bị hút xuống đánh cho tan tành.
  • Sự hung bạo của sông Đà đến trong từng đoạn, từng mùa. Mùa xuân, cái xoáy nước đẹp vô cung, khiến cho người nghệ sĩ không thể chối từ.

d. Thác đá sông Đà:

  • Được miêu tả từ xa tới gần, từ âm thanh đến hình ảnh.
  • Từ xa, nghe như tiếng người giận dữ “giọng gằn”, lại gần nghe tiếng thác gầm như tiếng “rống” của hàng ngàn con trâu mộng đang trong cơn tuyệt vọng.
  • Thác đá hiện ra với vẻ đẹp hùng vĩ nhưng không kém phần hung hiểm.
  • Những viên đá trên sông như một thực thể sống, biết dàn trận, biết lập cửa sinh cửa tử.
  • Dòng thác như một con quái vật khổng lồ, là “kẻ thù số một của con người”

3.Kết bài: Kết luận chung

1 2305 lượt xem


Xem thêm các chương trình khác: