TOP 31 mẫu Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (2024) SIÊU HAY

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm lớp 12 gồm dàn ý và 31 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 39,207 20/12/2023
Tải về


Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm - Ngữ văn 12

Dàn ý Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm

1. Mở bài

- Sông Đuống được nhắc đến ngay từ nhan đề bài thơ "Bên kia sông Đuống" của Hoàng Cầm. Con sông ở đây không chỉ là một địa danh mà tác giả muốn nhắc tới mà ở đây con sông là một hình tượng nghệ thuật đặc sắc trong tác phẩm.

2. Thân bài

30 bài Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm  (ảnh 1)

- Con sông Đuống như một nhân vật chứng kiến tất cả mọi sự đổi thay.

- Con sông Đuống làm ranh giới, nhấn mạnh sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại: Quá khứ truyền thống, đẹp đẽ - hiện tại tan tác, đau thương.

- Sông Đuống gợi sự hoài niệm, buồn bã, tấm lòng của tác giả với thực tại.
- Sông Đuống mang cả những khát khao, ước vọng của nhà thơ về tương lai tươi đẹp.
- Sông Đuống hiện lên như một con sông rất chân thực, trữ tình: Nằm nghiêng nghiêng lay động một miền quê.

- Sự gắn bó sâu sắc của dòng sông với cuộc kháng chiến:sông cùng người chiến đấu.
- Dòng sông là minh chứng mạnh mẽ cho tội ác của lũ giặc ngạo mạn.

3. Kết bài

- Với sự đối lập ấy, con sông Đuống đã trở thành một hình tượng nghệ thuật đầy độc đáo và thành công.

Dàn ý Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm

A, Mở bài

-Giới thiệu tác giả Hoàng Cầm và tác phẩm “Bên kia sông Đuống”

+Hồn thơ Hoàng Cầm gắn chặt đến mức máu thịt với quê hương Kinh Bắc đã làm nên sắc điệu riêng cho cảm hứng về quê hương đất nước trong bài thơ Bên kia sông Đuống.

B, Thân bài

30 bài Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm  (ảnh 1)

- Hai câu thơ mở đầu với tiếng “em”độc đáo như thật mà như ảo, tiếng ‘Em” như không được xác định. Khiến cho chúng ta có thể hiể là người thương trong nỗi nhớ đồng vọng. Nhưng cũng có thể là một nhân vật trữ tình xuất hiện mơ hồ trong tâm tưởng thi nhân? Cũng có thể là sự phân thân của tác giả? “Em” đã xuất hiện, gợi nhớ gợi thương, để vỗ về an ủi và chia xẻ nỗi đau buồn, thương nhớ. Cũng là để thi sĩ khơi nguồn cảm xúc đang dào dạt trong lòng.

- Với thi sĩ Hoàng Cầm thì sông Đuống là dòng sông thơ ấu với bao thương nhớ. Con sông đã gắn bó với tâm hồn nhà thơ. Nhớ không nguôi “cát trắng phẳng lì”, nhớ nao nao lòng “Sông Đuống trôi đi

- Một dòng sông đẹp như đang lấp lánh”; lấp lánh ánh bình minh, lấp lánh trăng sao soi vào gương sông trong xanh. Nhớ về dáng hình, về thế đứng của nó trong lịch sử: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”. Câu thơ hàm chứa ý nghĩa thế đứng hiên ngang của quê hương trong kháng chiến.

Dường như đôi bờ dòng sông quê hương là một màu “xanh xanh” bát ngát, là sắc “biêng biếc” của bãi mía, bờ dâu, của ngô khoai. Bức tranh quê trù phú, giàu đẹp thật “nhớ tiếc” và “xót xa” vô cùng:

“Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”.

Còn đâu nữa một dòng sông Đuống lấp lánh trôi giữa hai bờ cát trắng phẳng lì, còn đâu màu xanh mượt mà, biêng biếc của dâu mía ngô khoai? Chỉ còn lại nỗi đau của một con người đứng bên này sông sao nhớ tiếc – một nỗi đau thật cụ thể, như là có thể cảm giác được:

Sao xót xa như rụng bàn tay

Ắt hẳn là người trong cuộc, phải là chính quê hương thân yêu của mình bị giặc chiếm đóng thì mới có nỗi đau như vậy. Hoàng Cầm đã thức trắng đêm để viết nên bài thơ này khi ông nghe tin quê hương bị giặc tàn phá và nỗi đau đã trào ngay trong những dòng thơ đầu bằng một hình ảnh đầy ấn tượng.

- Quê hương tươi đẹo có một nền văn hóa lâu đời đang bị quân thù giày xéo tàn phá. Nhà thơ sử dụng nghệ thuật tương phản đối lập để làm nổi bật nỗi nhớ tiếc, nỗi xót xa, nỗi đau đớn căm hờn… Sự tương phản đối lập giữa xưa và nay, thuở bình yên với từ ngày khủng khiếp, đối lập giữa cảnh tưng bừng rộn rã với bây giờ tan tác về đâu…

+ Một cái nhìn toàn cảnh “Bên kia sông Đuống” từ “Bên này”

Sao lại nằm nghiêng nghiêng như vậy? Điều này thật khó giải thích. Nhưng có lẽ phải có cái dáng nằm nghiêng nghiêng lạ lung đó con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn. Hình ảnh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc, hình ảnh nằm nép mình nghiêng nghiêng của con sông Đuống dường như gợi không khí lo âu, vắng lặng hơn chăng, vì giặc đã về.

- Nỗi đau ấy như đã khép lại đoạn mở đầu để mở ra những nỗi đau cụ thể khác liên tiếp trong suốt bài thơ. Nó là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ Bên kia sông Đuống của ông.

- Quê hương còn hiện lên và thật đẹp ở những làng nghề lâu đời

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp “ Điệp khúc “ Bên kia sông Đuống “ xoáy mãi vào tâm tư người đọc. “Bên kia” gợi hình ảnh của không gian gần gũi. Chính vì vậy mà lại càng xót xa.

+ Chỉ cần một khoảng cách ngắn ngủi thôi mà bên này là tự do với cuộc sống yên lành mà “ bên kia “ là vùng tạm chiếm với khói lửa chiến tranh, với biết bao đau thương. Trong nỗi thương nhớ, nhà thơ hồi tưởng lại hình ảnh của quê hương trù phú, tươi đẹp.

+ "Quê hương ta lúa nếp thơm nồng" gợi hương vị đậm đà thanh khiết của miền quê. Nhà thơ gợi bằng khứu giác khiến chúng ta cảm thấy như chính nhà thơ đang sống trên quê hương của mình, như đang đi trên những cánh đồng lúa chín với mùi hương lúa mới.

- Tác giả còn gợi đến truyền thống văn hoá nghệ thuật độc đáo của vùng Kinh Bắc. “ Tranh Đông Hồ “ còn gọi là tranh làng Hồ là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc.

- Quê hương gắn với vẻ đẹp của con người

+ Cười như mùa thu toả nắng” Khuôn mặt “ vàng “ của thiếu nữ là khuôn mặt “ trái xoan “ (trái sầu đông). Hoàng Cầm lại phát hiện ra “ khuôn mặt búp sen “, ít thiên về hình hoạ mà thiên về tinh thần như có hương có sắc, có tấm lòng trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiếu nữ Kinh Bắc.

+ Những mẹ già bên kia sông Đuống, qua cái nhìn và nét bút của Hoàng Cầm làm động lòng hết thảy chúng ta: “Bên kia sông Đuống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong Dăm miếng cau khô Mấy lọ phẩm hồng Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

C, Kết bài

Bài thơ được xem như là một bức tranh đẹp được khúc xạ qua tâm trạng đau xót của nhà thơ khi quê hương Kinh Bắc thân yêu đã bị giặc chiếm đóng. Bài thơ như in đậm chất Kinh Bắc và giọng điệu thơ Hoàng Cầm.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 1)

Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:

"Tôi người Quan họ

Quê mẹ bên này sông

Cách quê cha một dòng

Nước trắng…"

Dòng sông "nước trắng" ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm "lá diêu bông" một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái "mệnh yểu":

"Sực nhớ cha vò võ tuyết sương

Con hóa thành tia sao Thương

Cắt ngang đường sao băng".

(Men đá vàng)

Nếu tính từ năm 1937 khi viết "Hận Nam Quan" đến năm 1995, tập thơ "Men Đá Vàng" xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. "Bên kia sông Đuống", "Lá diêu bông", "Mưa Thuận Thành", kịch thơ "Trương Chi",… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.

Hoàng Cầm viết bài thơ "Bên kia sông Đuống" vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. "Bên kia sông Đuống" là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về "Bên kia sông Đuống": "Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại". Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:

"Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì".

Con sông tuổi thơ "cát trắng phẳng lì" là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay "người tình chung" từng "để thương, để nhớ để sầu cho ai…". Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong "ngày hội non sông": "Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh". "Em" đến đúng lúc để "anh" giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.

Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm "Ngày xưa cát trắng phẳng lì" trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ, với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:

"Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì".

Hai tiếng "trôi đi…" gợi lên cái êm đềm, cái man mác "nước chảy lơ thơ…". "Một dòng sông lấp lánh" vì cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông "làng ta" (Ca dao) mà lại "Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì". Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.

Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu "xanh xanh" của bãi mía bờ dâu, màu "biêng biếc" của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương "đứng bên này sông" nhìn về "bên kia sông Đuống", từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi "tâm hồn ta thấm đất", nỗi nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:

"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay".

"Sao nhớ tiếc… sao xót xa…" vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm "chết đi " từng phần cơ thể. Câu thơ "Sao xót xa như rụng bàn tay" đã cụ thể hóa nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi "chợt nghe" tin bạn chí thân qua đời: "Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời". Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm mới có nỗi đâu "nhớ tiếc" và "xót xa như rụng bàn tay" ấy.

Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương "Bên kia sông Đuống" là một cái nhìn đăm đắm "nhớ tiếc", là nỗi đau tê tái "xót xa", là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: "biêng biếc… nhớ tiếc … như rụng bàn tay".

Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng, tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội "bên sông trở về".

Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ "Bên kia sông Đuống" và "Ai về bên kia sông Đuống" nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:

"Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp".

"Bên kia sông Đuống" là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hóa, văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà. Ba tiếng "quê hương ta" vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn "anh" và "em" tự thuở nào. Nhớ "quê hương ta" là nhớ mùi "thơm nồng" của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp "nét tươi trong", nhớ "màu dân tộc", nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp "sáng bừng trên giấy điệp" óng ánh, mượt mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ "sáng bừng" đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu "sáng bừng" màu sắc dân tộc.

Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn". "Ngày khủng khiếp" kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. "Những cánh đồng quê chảy máu", những đường làng "xương máu tơi bời", … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo tới quê hương ta là: "Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu". Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:

"Mẹ con đàn lợn âm dương,

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu".

Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của "quê hương ta" bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị "ngọn lửa hung tàn" hủy diệt! Những câu thơ ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng người đang bùng lên dữ dội.

Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: "Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta gửi tấm the đen… - Gửi về may áo cho ai…" – Vẫn chỉ là phiếm chỉ "Ai về…" "cho ai…", gợi lên một nỗi nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là "thấp thoáng mộng bình yên", là nỗi nhớ chùa xưa tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:

"Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu".

Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn "văng vẳng" từ "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.

Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều… Chữ "những" điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:

"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu".

"Ai về… có nhớ" – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ lắm. Nhớ "từng khuôn mặt búp sen", nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người cần mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:

"Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén rang đen,

Cười như mùa thu tỏa nắng

Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,

Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa màu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu về đâu".

Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: "Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền". Qua đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.

Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót. "Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong" xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi "lũ quỷ mắt xanh" kéo đến cướp bóc: "Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông". Bờ tre thì "hun hút", trời thì "mưa lạnh" con đường thì "trơn",… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng… Trên trời, cánh cò xao xác "bay vùn vụt", … "về đâu…". Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi "bước cao thấp" với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:

"Có con cò trắng bay vùn vụt,

Lướt qua dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ".

Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết "chui gầm giường tránh đạn", đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: "Ú ớ cơn mê – Thon thót giật mình"… Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ, những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:

"Đã có đất này chép tội,

Chúng ta không biết nguôi hờn".

Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa "mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên" với "Quê hương ta từ ngày khủng khiếp", Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: "Bây giờ tan tác về đâu… Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu… Bây giờ đi đâu về đâu…" – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.

Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi "bộ đội bên sông đã trở về". Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh "bừng lên" sau lũy tre điêu tàn một thời "khủng khiếp":

"Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng".

Có biến động "Trại giặc bắt đầu run trong sương". Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng :

"Gió đưa tiếng hát về gần,

Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa".

Có niềm vui "mở hội… " và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp :

"Vì nắng sắp lên rồi

Chân trời đã tỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi … ".

Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu tố "kể" lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng "bao nhiêu đồn giặc tơi bời", và mới có "chim múa hoa cười" trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng ín nhiều dễ dãi, sơ lược.

Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước "bao giờ về bên kia sông Đuống" trong ngày hội non sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ :

"Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".

Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui ngân nga mãi trong lòng người.

"Quê hương nghĩa nặng tình sâu… ", có ai đã nói như vậy ? Tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống "Trôi đi một dòng lấp lánh", nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ "Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp". Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.

Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái "cười như mùa thu tỏa nắng"… là của riêng Hoàng Cầm.

Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác "Bên kia sông Đuống". Thơ hay mới cho ta "Sự đồng cảm nhiệm màu" ấy.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (5 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 2)

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạn. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội

Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 3)

Quê hương - hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ "Bên kia sông Đuống".

Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy "Bên kia sông Đuống" đặt làm nhan đề cho tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:

"Em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc"

Tiếng gọi "Em ơi" và cách xưng hô anh - em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ "em" gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.

Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ "cát trắng phẳng lì" trải dài, đầy phù sa. Các từ láy "lấp lánh", "xanh xanh", "biêng biếc" đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng", có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam. Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ "ngày xưa" khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.

Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế "nằm nghiêng nghiêng". Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó "trôi đi" cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.

Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:

"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay"

Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ "sao nhớ tiếc", "sao xót xa" vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?

Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:

"Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"

Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, ... Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. "Màu dân tộc" trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:

"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa trăm ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu"?

Từ láy "ngùn ngụt" không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh "đám cưới chuột, đàn lợn" đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam.... giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.

Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:

"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu"

Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,... Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:

"Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu toả nắng"

"Khuôn mặt búp sen" xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.

Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:

"Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm"

Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có "dăm miếng cau khô", "mấy lọ phẩm hồng", "vài thếp giấy đầm". Vậy mà "lũ quỷ mắt xanh" cũng cướp bóc, đánh đập làm "vết máu loang chiều mùa đông", làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ "đạp", "khua", "trừng trợn", "xì xồ" diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:

"Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông"

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính. Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng "thon thót giật mình" vì "tiếng súng dồn tựa sấm", vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:

"Đã có đất này chép tội,

Chúng ta không biết nguôi hờn"

"Bộ đội bên sông đã trở về" cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết "những giờ thảm thương" mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:

"Mà cánh đồng ta càng chan chứa

Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân

Gió đưa tiếng hát về gần

Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa"

Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:

"Trại giặc bắt đầu run trong sương

Dao loé giữa chợ

Gậy lùa cuối thôn

Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn

Ăn không ngon

Ngủ không yên

Đứng không vững

Chúng mày phát điên

Quay cuồng như xéo lên đống lửa"

Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc "mất hồn", "phát điên". Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.

Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:

"Bao giờ về bên kia sông Đuống

Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".

Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong "hội non sông". Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.

"Bên kia sông Đuống" đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi " Bây giờ tan tác về đâu", "Bây giờ đi đâu về đâu" cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả. Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 4)

Quê hương - hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ "Bên kia sông Đuống".

Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy "Bên kia sông Đuống" đặt làm nhan đề cho tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:

"Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc"

Tiếng gọi "Em ơi" và cách xưng hô anh - em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ "em" gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.

Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ "cát trắng phẳng lì" trải dài, đầy phù sa. Các từ láy "lấp lánh", "xanh xanh", "biêng biếc" đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng", có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam. Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ "ngày xưa" khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.

Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế "nằm nghiêng nghiêng". Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó "trôi đi" cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.

Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:

"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay"

Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ "sao nhớ tiếc", "sao xót xa" vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?

Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:

"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"

Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, ... Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. "Màu dân tộc" trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:

"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu"?

Từ láy "ngùn ngụt" không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh "đám cưới chuột, đàn lợn" đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam.... giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.

Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:

"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu"

Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,... Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:

"Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng"

"Khuôn mặt búp sen" xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.

Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:

"Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm"

Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có "dăm miếng cau khô", "mấy lọ phẩm hồng", "vài thếp giấy đầm". Vậy mà "lũ quỷ mắt xanh" cũng cướp bóc, đánh đập làm "vết máu loang chiều mùa đông", làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ "đạp", "khua", "trừng trợn", "xì xồ" diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:

"Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông"

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính. Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng "thon thót giật mình" vì "tiếng súng dồn tựa sấm", vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:

"Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn"

"Bộ đội bên sông đã trở về" cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết "những giờ thảm thương" mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:

"Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa"

Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:

"Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa"

Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc "mất hồn", "phát điên". Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.

Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:

"Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".

Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong "hội non sông". Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.

"Bên kia sông Đuống" đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi " Bây giờ tan tác về đâu", "Bây giờ đi đâu về đâu" cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả. Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 5)

Trong cuộc đời của mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và đối với nhà thơ Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông và cũng là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Khi Hoàng Cầm nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất, là đẹp đẽ nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông Đuống.

Bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời khi quê hương yêu thương Kinh Bắc của ông đã bị rơi vào tay giặc Pháp. Và đó chính là những nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh nó cú như cắt cứ cứ như trĩu nặng tâm hồn ông. Và khi đứng bên này sông Đuống đó chính là một mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia sông Đuống đó chính là một mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng của tác giả. Và đó cũng chính là một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Ta như thấy được dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm như gợi ra đó chính là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ. Hơn nữa nó cũng đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Nhân vật “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ được sử dụng đặc sắc. Tuy nhiên, ta cũng đã có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Ta cũng thật dễ bắt gặp trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, và đó cũng chỉ bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và đó như là lời an ủi đưa em về sông Đuống nhưng nó lại thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Ta cũng như đã thấy được chính trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương trong mát kia cùng với bờ cát trắng phẳng lì cứ như là chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ mãi không nguôi và còn đó chính là trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn như bất tận của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Ta không thể nào không ấn tượng với cái dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống, đây cũng được xem là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Và dường như chính cái cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú như đã cũng giúp cho nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng và nó cũng như đã làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Khi mà đứng từ bên này, nhà thơ lại cũng như thật đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Và có lẽ đoạn thơ như đã khéo léo kết thúc bằng một hình ảnh diễn tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”.Tác giả Hoàng Cầm dường như cũng đã mượn nỗi đau của thể xác để diễn tả, nó như là để thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Và có lẽ rằng phải là người coi quê hương là máu thịt của mình thì tác giả mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Và tâm trạng của nhân vật trữ tình hay tác giả đã đạt được đến mức độ điển hình. Có lẽ rằng chính cái cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, đó như lại còn cả sự nuối tiếc, xót xa, như lai thêm lòng căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình và người dân thuận hoà vui tươi, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Chính từ những cảm xúc về nỗi đau đó, ta như có thể thấy được cảnh quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Và có lẽ rằng chính vùng quê Kinh Bắc nó như cũng đã có trong hoài niệm, được gợi lên bằng chính hương lúa nếp thơm nồng, hương lúa nếp như cũng là biểu tượng của cuộc sống ấm no, và cả những bức tranh Đông Hồ nó như là biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Ta dường như cũng đã thấy được chính những vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Hoàng Cầm như thật tinh tế khi ông đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác như cả chia lìa của quê hương khi quân giặc tới qua các từ như “ngùn ngụt lửa hung tàn”, “ruộng khô”, “nhà cháy”, con người chia li”,... Và còn cả những loài vật cũng bị chia ly trong hoàn cảnh đó.

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây, dường như là chính những cái ảo đã hoà nhập cùng cái thực. Tác giả thật tài tình khi đã mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời vậy. Và đây dường như nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm sâu sắc, gắn bó của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá đẹp đẽ đã có tự hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy thôi đâu mà dường như chính những hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, vẫn còn đó những nét sinh hoạt xa xưa của cha ông đó là những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà chính giấc mộng bình yên như đã được diễn ra mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Và ta như nhận thấy được những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy ngay giờ đây cũng như đã trở nên bơ vơ, tan tác. Có thể nói cũng không còn nữa những hội hè đông vui, hay cả nhộn nhịp nữa. Xoá nhoà cái cảnh nhộn nhịp vui tươi đó mà thay vào đó chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về dường như đã càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Và cái vùng quê yên bình vùng quê Kinh Bắc nó như đã còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp đó chính là nơi được biết đến để buôn bán đông vui, sầm uất. Người đọc như có thể thấy được trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, và cả buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Nhưng giờ đây cảnh êm ấm thế mà dường như cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Và có thể nói trong niềm tiếc thương không nguôi những người, và cả những cảnh vật của quê hương, tác giả Hoàng Cầm đã dành tình cảm thật sâu sắc, sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Và cả vùng Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hoá thành đất dữ. Chẳng như những con người không sống được yên ổn mà dường như tất cả những cánh cò cũng táo tác, như thật hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Ta như thấy được chính những hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò trong những câu ca dao là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà thay vào đó chính là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, như đã bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Ta như có thể thấy chính những số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm dường như cũng đã gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe doạ của đạn bom. Có lẽ là cả ban ngày lẫn ban đêm, và dường như là cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, và luôn luôn đe doạ chúng. Và cũng chính vì lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ của tác giả Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Có thể thấy được phần còn lại của bài thơ Bên kia sông Đuống dường như cũng đã diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên như là để đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Ta như thấy được cả giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, nó như chính là những niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Ta như thấy được đó chính là một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng tươi mới như đã lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Và đó chính là cô gái Kinh Bắc, cô đã hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội vậy.

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Thi phẩm đặc sắc Bên kia sông Đuống chính là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, và đó cũng chính là sự chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình. Đồng thời cũng đã thông qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó dường như cũng chính là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và nó cũng như đã gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 6)

Cùng với Tây Tiến của Quang Dũng, Đồng chí của Chính Hữu và Bên kia sông Đuống là những thành tựu quan trọng trong thời ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm này thể hiện một phẩm chất mới trong ca ca trữ tình cách mạng. nó kết hợp hài, nhuần thấm giữa tình cảm riêng tư và hiện thực lớn của cách mạng. Bài thơ Bên kia sông Đuống kết tinh những nghệ thuật của thơ của ông.

Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Mở đầu bài thơ bằng tiếng gọi, một lời an ủi “em ơi buồn làm chi”, câu mở đầu bài thơ đến với nhà thơ như sự vô thức, tiềm thức, nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đột nhà thơ như nghe được trong chính bản thân mình từ thôn xóm nào xa nghe vọng bài hát như than thở, như ru em, một giọng nữ trong trẻo nghe rõ mồn một nhưng lại nghe như lúc thời còn thơ dại, và nhà thơ đã cất lời an ủi “em ơi, buồn làm chi”.

“Em” trong thơ Hoàng Cầm thường gắn với những em Kinh Bắc xinh tươi, duyên dáng của ngày lễ hội và ở đoạn cuối của bài thơ thì em Kinh Bắc đó hiện ra rõ nét hơn. Bao giờ về bên kia sông Đuống, anh lại tìm em, em mặc áo yếm, em thắt lụa hồng, êm đi trẩy hội. “Em” ở trong bài thơ chính là hiện thân, hoá thân của quê hương, tác giả mượn em quê hương như một đối tượng trữ tình để bày tỏ tâm tình của mình với quê hương xứ sở. bài thơ thể hiện tình yêu quê hương nhưng nó tha thiết và trìu mến như chính người yêu của tác giả.
“Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ,... mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu đôi lứa, tôi còn dành cái tình yêu ấy cho nơi mình sinh ra” nhà thơ Hoàng Cầm từng chia sẻ như vậy.
“Anh đưa em về sông Đuống” chỉ là hành trình trong hoài niệm, trong không gian tâm tưởng dòng sông quê hương đã hiện ra với vẻ đẹp bình yên “bờ cát trắng phẳng lì” nhưng đó chỉ là vẻ đẹp của “ngày xưa” thôi còn bây giờ bị tàn phá đi nhiều rồi.

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Tác giả miêu tả con sông thật sống động và như có tâm hồn vậy “cái dòng sông Đuống nghiêng nghiêng đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên 8, 9 tuổi và khi tôi xa Kinh Bắc chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ trăn trở, suy nghĩ về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng ấy cũng là dáng vẻ suy tư số phận dân tộc”. Sông Đuống giống như một sinh thể có hồn, ôm ấp lấy quê hương.

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Từ láy “xanh xanh” “biêng biếc”, các điệp từ để nhấn mạnh sự trù phú, tươi đẹp của quê hương, nhưng ở câu cuối của khổ thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đê nói lên sự đau đớn, chia lìa.
Mỗi khổ thơ là những hoài niệm về cái gì thân thương nhất của quê hương đồng thời cũng là dòng “chép tội” của giặc mai mãi “không nguôi hờn”. Quê hương Kinh Bắc vói lúa nếp Làng Vân, tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống tươi đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần, tranh dân gian là đề tài quen thuộc, lấy những gì thân thuộc nhất để vẽ.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm đồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Hoàng Cầm nhà thơ của đất Kinh Bắc, nhà thơ đã phất cánh diều thơ của mình từ cánh diều thơ văn học, văn hoá Kinh Bắc, Bên kia sông Đuống là một hình tượng tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phần mở đầu là cái nhìn toàn cảnh và cảm xúc khái quát về bên kia sông Đuống.
Còn độn hai của bài thơ thể hiện cảnh quê hương bị tàn phá do bom đạn, do chiến tranh, không còn cái yên bình, thơ mộng như ngày nào mà thay vào đó là cảnh quê hương bị bọn giặc phá hoại, chỉ nhìn thôi người ta cũng đủ đau xót.

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?

Hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ thanh bình, gợi lên tình cảm yêu thương tiếc nuối bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù man rợ lại làm sục sôi căm giận bấy nhiêu. Những câu thơ trên lột tả những hành động thú tính, tàn bạo. Ta đã thấy được sự tương phản ở phần đầu của bài thơ, đó là quê hương với nếp vàng thơm, với tranh đồng hồ đặc trưng, thì giơ đây lại nhuốm màu tang tóc, màu của mất mát và đau thương, một đồng quê, một làng quê yên bình, nên thơ giờ đây lại trở thành đồng cháy. Từ một bức tranh đời sống chân thực, sinh động, có bà lam lũ vất vả, có con thơ ham trò chơi, vẫn tung tăng với những trò nghịch phá thì giờ đây lại trở thành một vùng đất “tâm linh” giữa cái thực và ảo.
“Vùng tâm linh đó không phải cái gì xa với mà là những kỉ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc và thân quen với mình trong những năm tháng thơ ấu và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực”.

Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng
mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Quê hương Kinh Bắc với những chùa cổ kính và trang nghiêm cùng với những lễ hội đình làng có từ bao nhiêu đời. tác giả đã vẽ nên một bức tranh hội hè đông vui, có nam phụ lão ấu, sắc môi đỏ tươi, tóc trắng phơi phới, màu nâu tươi mới, nét duyên dáng, đằm thắm, vẻ thanh thản, an nhiên với dáng xúng xắng, tung tăng.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen
Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa mầu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu? Về đâu?

Kinh Bắc hiện lên với người con yêu dấu của quê hương. Những người con gái thì tảo tần, vén khéo như hiện thân của quê hương những nét chấm phá khi nói về những người con gái thì có tài hoa, xinh đẹp, khéo léo, một vẻ đẹp vừa mộc mạc, thanh cao, vừa duyên dáng vùa dịu dàng. Cuộc sống làm ăn, buôn bán diễn ra một cách sôi nổi, sầm uất và nhộn nhịp “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen”.

Bên kia sông Đuống
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Hình ảnh những người mẹ Kinh Bắc hiện lên thật đáng trân trọng, người mẹ ấy đã tảo tần, lam lũ, dựa vào gánh hàng rong để mưu sinh, lo cho từng bữa ăn hàng ngày. Vì thế những vần thơ mà nhà thơ viết về mẹ thật trĩu nặng và thương cảm. những cảnh ấy dường như đã quá quen với tác giả với mọi người, dù vất vả thế nhưng cuộc sống vẫn diễn ra một cách êm đềm và bình yên trong tình yêu thương của mẹ và của gia đình, của quê hương.
Rồi đột nhiên trong cái cảnh đấy, con người như thế, cảnh vật như thế mà sao bọn giặc tàn ác nó lại khiến quê hương thật xơ xác, thật thương cảm bao nhiêu, dường như sự chết chóc diễn ra hàng ngay, hàng giờ trên chia cái mảnh đất gắn bó cả tuổi thơ của tác giả vào đây. Qua đây để ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, một cuộc chiến phi nghĩa mà bọn thực dân pháp đang tiến hành trên đất nước ta.

Bên kia sông Đuống
Ta có đàn con thơ
Ngày tranh nhau một bát cháo ngô
Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn
Lấy mẹt quây tròn
Tưởng làm tổ ấm
Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc dày vò những nét môi xinh

Những hình ảnh của em bé thật tội nghiệp, “ngày tranh nhau bát cháo ngô, đêm đen thì phải chui vào gầm giường để tránh đạn”.
Đứng trước hoàn cảnh đó thì tác giả đã vẽ nên, hình dung về một cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. Và rồi chúng ta đã dành chiến thắng và chiến thắng đó thật lộng lẫy.
Bài thơ thể hiện một cách chân thành, xúc động cái tình cảm và niềm xót thương của tác giả đối với quê hương. Nhà thơ đã gắn bó thiết tha với cái mảnh đất ông cha, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gắn bó mật thiết với những con người nơi đây.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 7)

Trong cuộc đời của mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và đối với nhà thơ Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông và cũng là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Khi Hoàng Cầm nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất, là đẹp đẽ nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông Đuống.
Bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời khi quê hương yêu thương Kinh Bắc của ông đã bị rơi vào tay giặc Pháp. Và đó chính là những nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh nó cú như cắt cứ cứ như trĩu nặng tâm hồn ông. Và khi đứng bên này sông Đuống đó chính là một mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia sông Đuống đó chính là một mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng của tác giả. Và đó cũng chính là một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.
Ta như thấy được dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm như gợi ra đó chính là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ. Hơn nữa nó cũng đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Nhân vật “Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ được sử dụng đặc sắc. Tuy nhiên, ta cũng đã có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Ta cũng thật dễ bắt gặp trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, và đó cũng chỉ bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.
Và đó như là lời an ủi đưa em về sông Đuống nhưng nó lại thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Ta cũng như đã thấy được chính trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương trong mát kia cùng với bờ cát trắng phẳng lì cứ như là chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ mãi không nguôi và còn đó chính là trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn như bất tận của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Ta không thể nào không ấn tượng với cái dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống, đây cũng được xem là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Và dường như chính cái cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú như đã cũng giúp cho nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng và nó cũng như đã làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.
Khi mà đứng từ bên này, nhà thơ lại cũng như thật đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Và có lẽ đoạn thơ như đã khéo léo kết thúc bằng một hình ảnh diễn tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”.Tác giả Hoàng Cầm dường như cũng đã mượn nỗi đau của thể xác để diễn tả, nó như là để thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Và có lẽ rằng phải là người coi quê hương là máu thịt của mình thì tác giả mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Và tâm trạng của nhân vật trữ tình hay tác giả đã đạt được đến mức độ điển hình. Có lẽ rằng chính cái cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, đó như lại còn cả sự nuối tiếc, xót xa, như lai thêm lòng căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình và người dân thuận hoà vui tươi, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Chính từ những cảm xúc về nỗi đau đó, ta như có thể thấy được cảnh quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Và có lẽ rằng chính vùng quê Kinh Bắc nó như cũng đã có trong hoài niệm, được gợi lên bằng chính hương lúa nếp thơm nồng, hương lúa nếp như cũng là biểu tượng của cuộc sống ấm no, và cả những bức tranh Đông Hồ nó như là biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Ta dường như cũng đã thấy được chính những vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ Hoàng Cầm như thật tinh tế khi ông đã miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác như cả chia lìa của quê hương khi quân giặc tới qua các từ như “ngùn ngụt lửa hung tàn”, “ruộng khô”, “nhà cháy”, con người chia li”,... Và còn cả những loài vật cũng bị chia ly trong hoàn cảnh đó.

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây, dường như là chính những cái ảo đã hoà nhập cùng cái thực. Tác giả thật tài tình khi đã mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời vậy. Và đây dường như nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm sâu sắc, gắn bó của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá đẹp đẽ đã có tự hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.
Không chỉ có vậy thôi đâu mà dường như chính những hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, vẫn còn đó những nét sinh hoạt xa xưa của cha ông đó là những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà chính giấc mộng bình yên như đã được diễn ra mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Và ta như nhận thấy được những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy ngay giờ đây cũng như đã trở nên bơ vơ, tan tác. Có thể nói cũng không còn nữa những hội hè đông vui, hay cả nhộn nhịp nữa. Xoá nhoà cái cảnh nhộn nhịp vui tươi đó mà thay vào đó chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về dường như đã càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
Và cái vùng quê yên bình vùng quê Kinh Bắc nó như đã còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp đó chính là nơi được biết đến để buôn bán đông vui, sầm uất. Người đọc như có thể thấy được trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, và cả buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Nhưng giờ đây cảnh êm ấm thế mà dường như cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.
Và có thể nói trong niềm tiếc thương không nguôi những người, và cả những cảnh vật của quê hương, tác giả Hoàng Cầm đã dành tình cảm thật sâu sắc, sâu nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Và cả vùng Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hoá thành đất dữ. Chẳng như những con người không sống được yên ổn mà dường như tất cả những cánh cò cũng táo tác, như thật hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Ta như thấy được chính những hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò trong những câu ca dao là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà thay vào đó chính là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, như đã bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.
Ta như có thể thấy chính những số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm dường như cũng đã gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe doạ của đạn bom. Có lẽ là cả ban ngày lẫn ban đêm, và dường như là cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, và luôn luôn đe doạ chúng. Và cũng chính vì lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ của tác giả Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Có thể thấy được phần còn lại của bài thơ Bên kia sông Đuống dường như cũng đã diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên như là để đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Ta như thấy được cả giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, nó như chính là những niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Ta như thấy được đó chính là một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng tươi mới như đã lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Và đó chính là cô gái Kinh Bắc, cô đã hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội vậy.

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Thi phẩm đặc sắc Bên kia sông Đuống chính là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, và đó cũng chính là sự chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình. Đồng thời cũng đã thông qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó dường như cũng chính là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và nó cũng như đã gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 8)

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người
Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời Bên kia sông Đuống.
Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạn. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.
Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.
Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diễn ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.
Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.
Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.
Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu
Ở đây cái ảo đã hoà nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hoá hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.
Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ.
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu
Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.
Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.
Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hoá thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ
Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.
Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe doạ của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe doạ chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:
Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết nguôi hờn
Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.
Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 9)

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông. Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống văn hoá lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên kia sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.

Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hoá, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên này” nhìn về bên kia sông Đuống:

Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống

Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng Cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.
Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh của dòng sông này:

Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” – chỉ cần gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở đây, hình ảnh sông Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dòng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái hay của câu thơ là ở từ “nghiêng nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc

Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là ngô khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”, “biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như vỡ oà nước mắt:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hoá như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Bằng những câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hoá tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen... chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng Cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hoá của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng Cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:

Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là “trên”, “trong”, “giữa”. Nhà thơ Hoàng Cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của “mộng bình yên” đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thể:

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu

Chỉ bằng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng Cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng

Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng Cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo

Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm của kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:

Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông

Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa dông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gọi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quân xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh tuý của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng Cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 10)

Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:

Tôi người Quan họ
Quê mẹ bên này sông
Cách quê cha một dòng
Nước trắng...

Dòng sông “nước trắng” ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm “lá diêu bông” một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình... rồi khóc con gái “mệnh yểu”:

Sực nhớ cha vò võ tuyết sương
Con hoá thành tia sao Thương
Cắt ngang đường sao băng.
(Men đá vàng)

Nếu tính từ năm 1937 khi viết Hận Nam Quan đến năm 1995, tập thơ Men đá vàng xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. Bên kia sông Đuống, Lá diêu bông, Mưa Thuận Thành, kịch thơ Trương Chi,... là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.
Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. Bên kia sông Đuống là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng ầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc... quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn... hoà quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về Bên kia sông Đuống: “Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại”. Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.
Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì.

Con sông tuổi thơ “cát trắng phẳng lì” là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay “người tình chung” từng “để thương, để nhớ để sầu cho ai...”. Em đến để tâm tình, để thổ lộ... và hẹ em trong “ngày hội non sông”: “Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. “Em” đến đúng lúc để “anh” giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.
Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm “Ngày xưa cát trắng phẳng lì” trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ, với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.

Hai tiếng “trôi đi...” gợi lên cái êm đềm, cái man mác “nước chảy lơ thơ...”. “Một dòng sông lấp lánh” vì cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông “làng ta” (Ca dao) mà lại “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.
Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu “xanh xanh” của bãi mía bờ dâu, màu “biêng biếc” của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy sức sống... Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương “đứng bên này sông” nhìn về “bên kia sông Đuống”, từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi “tâm hồn ta thấm đất”, nỗi nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.

“Sao nhớ tiếc... sao xót xa...” vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm “chết đi” từng phần cơ thể. Câu thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đã cụ thể hoá nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi “chợt nghe” tin bạn chí thân qua đời: “Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời”. Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thuỷ chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm mới có nỗi đâu “nhớ tiếc” và “xót xa như rụng bàn tay” ấy.
Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương “Bên kia sông Đuống” là một cái nhìn đăm đắm “nhớ tiếc”, là nỗi đau tê tái “xót xa”, là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: “biêng biếc... nhớ tiếc... như rụng bàn tay”.
Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình... bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng, tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội “bên sông trở về”.
Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ “Bên kia sông Đuống” và “Ai về bên kia sông Đuống” nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.

Bên kia sông Đuống là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hoá, văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà. Ba tiếng “quê hương ta” vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh... trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn “anh” và “em” tự thuở nào. Nhớ “quê hương ta” là nhớ mùi “thơm nồng” của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp “nét tươi trong”, nhớ “màu dân tộc”, nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp “sáng bừng trên giấy điệp” óng ánh, mượt mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp...), qua các tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ “sáng bừng” đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu “sáng bừng” màu sắc dân tộc.
Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”. “Ngày khủng khiếp” kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. “Những cánh đồng quê chảy máu”, những đường làng “xương máu tơi bời”,... cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo tới quê hương ta là: “Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu”. Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:

Mẹ con đàn lợn âm dương,
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.

Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của “quê hương ta” bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn hoá trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị “ngọn lửa hung tàn” huỷ diệt! Những câu thơ ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng người đang bùng lên dữ dội.
Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: “Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta gửi tấm the đen... - Gửi về may áo cho ai...” – Vẫn chỉ là phiếm chỉ “Ai về...” “cho ai...”, gợi lên một nỗi nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là “thấp thoáng mộng bình yên”, là nỗi nhớ chùa xưa tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những thắng cảnh... đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu.

Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn... chỉ còn “văng vẳng” từ “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.
Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều... Chữ “những” điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu.

“Ai về... có nhớ” – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ lắm. Nhớ “từng khuôn mặt búp sen”, nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm,... những con người cần mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén rang đen,
Cười như mùa thu toả nắng
Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,
Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối
Những nàng dệt sợi
Đi bán lụa màu
Những người thợ nhuộm
Đồng Tỉnh, Huê Cầu
Bây giờ đi đâu về đâu.

Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: “Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền”. Qua đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.
Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ... Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót. “Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong” xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi “lũ quỷ mắt xanh” kéo đến cướp bóc: “Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”. Bờ tre thì “hun hút”, trời thì “mưa lạnh” con đường thì “trơn”,... cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng... Trên trời, cánh cò xao xác “bay vùn vụt”,... “về đâu...”. Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi “bước cao thấp” với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:

Có con cò trắng bay vùn vụt,
Lướt qua dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.

Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết “chui gầm giường tránh đạn”, đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: “Ú ớ cơn mê – Thon thót giật mình”... Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ, những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:

Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn.

Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” với “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp”, Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: “Bây giờ tan tác về đâu... Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu... Bây giờ đi đâu về đâu...” – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.
Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi “bộ đội bên sông đã trở về”. Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh “bừng lên” sau luỹ tre điêu tàn một thời “khủng khiếp”:

Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,
Khuôn mặt bừng lên như dựng giăng.

Có biến động “Trại giặc bắt đầu run trong sương”. Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng:

Gió đưa tiếng hát về gần,
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa.

Có niềm vui “mở hội...” và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp:

Vì nắng sắp lên rồi
Chân trời đã tỏ
Sông Đuống cuồn cuộn trôi...

Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu tố “kể” lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng “bao nhiêu đồn giặc tơi bời”, và mới có “chim múa hoa cười” trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng ín nhiều dễ dãi, sơ lược.
Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước “bao giờ về bên kia sông Đuống” trong ngày hội non sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ:

Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui ngân nga mãi trong lòng người.
“Quê hương nghĩa nặng tình sâu...”, có ai đã nói như vậy? Tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống “Trôi đi một dòng lấp lánh”, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ... Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ “Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.
Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái “cười như mùa thu toả nắng”... là của riêng Hoàng Cầm.
Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác Bên kia sông Đuống. Thơ hay mới cho ta “Sự đồng cảm nhiệm màu” ấy.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 11)

Quê hương - hai tiếng gọi thiêng liêng mà bất cứ ai đi xa cũng đều muốn trở về. Quê hương đã trở thành máu thịt của ta, là hình ảnh đi vào thơ văn của biết bao nghệ sĩ. Bằng tình yêu quê hương da diết, nhà thơ Hoàng Cầm đã thể hiện sự đau xót của mình khi nghe tin Kinh Bắc bị giặc Pháp xâm lược qua bài thơ "Bên kia sông Đuống".

Bài thơ được sáng tác năm 1948, đây là khoảng thời gian cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp diễn ra hết sức ác liệt. Khi Hoàng Cầm đang công tác ở chiến khu Việt Bắc thì nghe tin quê nhà bị giặc chiếm đóng. Ngay trong đêm ấy, ông đã viết liên tục với những dòng cảm xúc đau đớn đầy căm hờn đối với quân cướp nước. Sông Đuống là dòng sông chảy qua tỉnh Bắc Ninh. Quê hương của nhà thơ ở huyện Thuận Thành thuộc phần đất phía Nam bên kia sông Đuống. Vì vậy mà ông đã lấy "Bên kia sông Đuống" đặt làm nhan đề cho tác phẩm.

Mở đầu bài thơ là hình ảnh quê hương Kinh Bắc trù phú, sầm uất trước khi bị giặc xâm lược:

"Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc"

Tiếng gọi "Em ơi" và cách xưng hô anh - em thật nhẹ nhàng mà thắm thiết. Đại từ phiếm chỉ "em" gợi cho bạn đọc nhiều cách hiểu. Đây có thể là một người nào đó có quan hệ thân thiết với tác giả. Cũng có thể tác giả đang phân thân để trò chuyện với chính mình hoặc là tiếng gọi tất cả những người con yêu nước, những người đang chịu sự áp bức của quân xâm lược. Câu thơ đầu tiên vừa như một lời an ủi vừa như một lời giãi bày nỗi lòng của tác giả.

Sông Đuống đẹp một cách bình dị với những bờ "cát trắng phẳng lì" trải dài, đầy phù sa. Các từ láy "lấp lánh", "xanh xanh", "biêng biếc" đã thể hiện một vẻ đẹp êm đềm, thanh bình của vùng đất Kinh Bắc. Nơi ấy có dòng sông Đuống "nằm nghiêng nghiêng", có những bãi mía, bờ dâu, những bãi ngô, bãi khoai ngút ngàn. Đó là những đặc trưng nổi bật của làng quê Việt Nam. Có làng quê nào lại không có bãi mía, bờ dâu, thửa ruộng ngô, khoai nối tiếp? Chỉ bằng vài nét gợi tả nhưng Hoàng Cầm đã giúp chúng ta nhận thấy cuộc sống của nhân dân ở đây khá no ấm. Nhưng những điều đó đã thuộc về thời gian quá khứ. Từ "ngày xưa" khiến chúng ta nhớ đến các câu chuyện cổ tích, những hoài niệm về một thời đã xa nay không còn nữa.

Dòng sông yêu thương không chỉ mang vẻ đẹp lấp lánh, hiền hòa mà nó còn là chứng nhân lịch sử. Sông Đuống được nhân hóa với tư thế "nằm nghiêng nghiêng". Đây là tư thế nép mình khiêm tốn. Phải chăng dòng sông ấy đã chứng kiến và trải qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc nên giờ đây trầm lắng hơn? Sông Đuống trở nên có hồn, có hình dáng uốn lượn nhịp nhàng. Dòng sông không ở trạng thái lặng yên mà nó "trôi đi" cùng vẻ đẹp mĩ lệ, sáng lấp lánh.

Khi giặc Pháp đến xâm chiếm đất nước ta thì tất cả những gì tươi đẹp đã lùi vào dĩ vãng, để lại một bầu trời nhớ thương, nuối tiếc những tháng ngày quê hương êm ấm, yên bình:

"Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay"

Đó không chỉ là nỗi đau về thể xác mà còn là nỗi đau về mặt tinh thần. Mảnh đất quê hương bị giày xéo khiến trái tim tác giả không khỏi đau xót. Phải là một người yêu quê hương, gắn bó với quê hương sâu sắc thì nhà thơ mới thấu hiểu được nỗi đau ấy. Những bãi mía, bờ dâu chỉ còn trong kí ức, trong nỗi nhớ tiếc của Hoàng Cầm khi đứng ở bên này sông nhìn về quê hương. Biện pháp tu từ so sánh cùng cụm từ "sao nhớ tiếc", "sao xót xa" vang lên như một điệp khúc đã khắc họa sâu hơn nỗi đau mất mát. Quê hương như một phần của cơ thể con người, mất đi quê hương làm sao con người có thể không xót xa, đau đớn?

Càng nhớ tiếc về Kinh Bắc bao nhiêu thì mảnh đất ấy lại hiện rõ trong trí nhớ nhà thơ bấy nhiêu:

"Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp"

Tranh Đông Hồ là loại tranh dân gian được vẽ trên giấy điệp hay còn gọi là giấy gió. Nó thể hiện nét văn hóa truyền thống của đất nước. Nội dung của những bức tranh thường là các phong tục tập quán của làng quê hay là những nét vẽ về con người, con vật, về đám cưới chuột, ... Màu sắc trong tranh tươi tắn khiến bức tranh trở nên sinh động, có hồn. "Màu dân tộc" trên tranh Đông Hồ chính là linh hồn, là cốt cách dân tộc Việt Nam. Quê hương ấy còn có hương thơm nồng của lúa nếp mùa bội thu.

Nhưng chiến tranh đã cướp đi tất cả:

"Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu"?

Từ láy "ngùn ngụt" không chỉ miêu tả ngọn lửa hung tàn của địch mà nó còn biểu hiện ý chí căm thù ngùn ngụt, sục sôi trong mỗi người con yêu nước. Quân ngoại xâm đã thiêu cháy hết những mái nhà êm ấm khiến vạn vật tan tác, chia lìa. Những hình ảnh "đám cưới chuột, đàn lợn" đều là những hình ảnh đặc trưng, tiêu biểu của dòng tranh Đông Hồ, thể hiện cuộc sống bình dị, yên ấm của con người, thể hiện nét đẹp văn hóa Việt Nam.... giờ đây bị hủy diệt trước thảm họa xâm lăng.

Vẻ đẹp của con người cũng được nhà thơ khắc họa bằng một nỗi nhớ khôn nguôi:

"Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu"

Cuộc sống của người dân nơi đây khá đủ đầy về đời sống vật chất. Bên cạnh đó, đời sống tinh thần của họ cũng phong phú với các phong tục nhuộm răng, ăn trầu,... Những điều ấy đã tạo nên nét riêng của con người Kinh Bắc. Người con gái Kinh Bắc vô cùng duyên dáng:

"Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng"

"Khuôn mặt búp sen" xinh xắn, thanh tú, nụ cười như nắng mùa thu dịu nhẹ mà lan tỏa đã để lại ấn tượng khó phai mờ trong lòng bạn đọc. Sự liên tưởng của nhà thơ khiến câu thơ trở nên thật mềm mại, uyển chuyển. Vẻ đẹp của con người đã hòa cùng vẻ đẹp của thiên nhiên để tạo nên một vẻ đẹp hài hòa, quyến rũ.

Đồng thời, nhà thơ cũng miêu tả sự tần tảo, một nắng hai sương của những người mẹ:

"Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm"

Những bà mẹ hàng ngày đã phải vất vả sớm hôm, lam lũ, hi sinh rất nhiều cho gia đình. Gánh hàng của mẹ nào có gì nhiều, mẹ chỉ có "dăm miếng cau khô", "mấy lọ phẩm hồng", "vài thếp giấy đầm". Vậy mà "lũ quỷ mắt xanh" cũng cướp bóc, đánh đập làm "vết máu loang chiều mùa đông", làm tan tác cả buổi họp chợ vốn yên bình. Những động từ "đạp", "khua", "trừng trợn", "xì xồ" diễn tả hành động tàn bạo, dã man của quân giặc. Chúng đã gây ra bao đau thương cho quê hương, dân tộc ta. Chiến tranh thật khốc liệt, chiến tranh khiến khung cảnh quê hương trở nên quạnh hiu, hoang vắng:

"Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông"

Nhịp điệu câu thơ chậm rãi, nỗi buồn thương như thấm vào từng cảnh vật. Vài chiếc lá đa lác đác, thưa thớt cùng màu đỏ của máu đã loang dần, loang dần ra theo chiều đông quạnh vắng. Còn gì đau xót hơn như thế? Máu và nước mắt như đã hòa trộn vào nhau để cất lên lời tố cáo chiến tranh phi nghĩa, tố cáo quân xâm lược vô nhân tính. Chiến tranh đã trở thành nỗi ám ảnh đối với những đứa trẻ ngây thơ, vô tội. Những đứa trẻ ngay cả trong cơn mơ cũng "thon thót giật mình" vì "tiếng súng dồn tựa sấm", vì bóng giặc không buông tha cho bất cứ một ai dù là trẻ nhỏ. Tội ác của chúng đã in hằn vào mảnh đất quê hương, nhưng càng bị chà đạp thì nhân dân ta càng quyết tâm chiến đấu không nhụt ý chí:

"Đã có đất này chép tội,
Chúng ta không biết nguôi hờn"

"Bộ đội bên sông đã trở về" cùng nhân dân đứng lên chống giặc, mang lại bình yên cho quê hương, xoá hết "những giờ thảm thương" mà nhân dân phải gánh chịu. Cả quân và dân ta đã đoàn kết một lòng để quê hương sạch bóng dáng quân thù:

"Mà cánh đồng ta càng chan chứa
Bao nhiêu nắng đẹp mùa xuân
Gió đưa tiếng hát về gần
Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa"

Mảnh đất Kinh Bắc sẽ trở lại trù phú, yên bình như vốn có và sự nổi dậy của quân ta đã khiến:

"Trại giặc bắt đầu run trong sương
Dao loé giữa chợ
Gậy lùa cuối thôn
Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn
Ăn không ngon
Ngủ không yên
Đứng không vững
Chúng mày phát điên
Quay cuồng như xéo lên đống lửa"

Những câu thơ dài ngắn khác nhau khiến cho Nhịp thơ cũng trở nên dồn dập, hối hả diễn tả khí thế sục sôi chiến đấu của quê hương Kinh Bắc anh hùng. Trước hoàn cảnh đó, giặc "mất hồn", "phát điên". Chúng không thể ngờ rằng những con người nhỏ bé lại mang sức mạnh phi thường đến như vậy.

Những câu thơ cuối bài đã thể hiện một niềm mong ước thiết tha về một cuộc sống thanh bình, no ấm:

"Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh".

Hình ảnh cô gái xuất hiện với bộ yếm thắm thắt lụa hồng hiện lên thật đẹp. Người con gái Kinh Bắc đẹp một vẻ quyến rũ, thu hút trong "hội non sông". Nhịp thơ nhanh bộc lộ sự hối hả, mong chờ ngày hòa bình để tác giả được thấy vẻ đẹp trong sáng, tươi tắn đó.

"Bên kia sông Đuống" đã thể hiện tình yêu quê hương mãnh liệt đồng thời cũng thể hiện lòng căm thù giặc sâu sắc của ông. Hoàng Cầm đã tái hiện những bi thương, mất mát của quê hương trong chiến tranh, qua đó cũng lên tiếng tố cáo tội ác của giặc. Câu hỏi " Bây giờ tan tác về đâu", "Bây giờ đi đâu về đâu" cùng sự thay đổi của nhịp thơ và các hình ảnh ẩn dụ, so sánh đã khắc sâu thêm nỗi đau, nỗi căm hờn của tác giả. Có thể nói, bài thơ không chỉ là tiếng lòng riêng của Hoàng Cầm mà còn là tiếng lòng chung của những người con đất Kinh Bắc, những người con yêu nước.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 12)

Hoàng Cầm, nhà thơ của miền quê Kinh Bắc. Ông sinh năm 1922. Ông nói về quê Mẹ đất Cha:

“Tôi người Quan họ

Quê mẹ bên này sông

Cách quê cha một dòng

Nước trắng…”

Dòng sông “nước trắng” ấy chính là dòng sông Đuống yêu thương. Hoàng Cầm là một trong những thi sĩ đương đại cực kì tài hoa. Tâm hồn ông đã chơi vơi với những mối tình thơ mộng như đi tìm “lá diêu bông” một chiều thu tím nào. Cuộc đời ông đã từng nếm nhiều nỗi đau. Ông khóc mình… rồi khóc con gái “mệnh yểu”:

“Sực nhớ cha vò võ tuyết sương

Con hóa thành tia sao Thương

Cắt ngang đường sao băng”.

(Men đá vàng)

Nếu tính từ năm 1937 khi viết “Hận Nam Quan” đến năm 1995, tập thơ “Men Đá Vàng” xuất bản, Hoàng Cầm đã có ngót 60 năm làm thơ. “Bên kia sông Đuống”, “Lá diêu bông”, “Mưa Thuận Thành”, kịch thơ “Trương Chi”,… là những tiếng thơ, tiếng hát để thương, để nhớ cho đời.

Hoàng Cầm viết bài thơ “Bên kia sông Đuống” vào một đêm tháng 4 năm 1948 tại chiến khu Việt Bắc. Xúc động trào dâng sau khi được nghe những tin tức quê nhà bị giặc chiếm đóng, tàn phá, dưới ngọn đèn dầu sử, trong tiếng vọng của tiếng súng, ông viết thâu canh, cho đến lúc gà gáy sáng thì hoàn thành bài thơ. “Bên kia sông Đuống” là một trong những bài thơ hay nhất viết về đề tài quê hương của thơ ca kháng chiến chống Pháp; thi phẩm này đã làm vẻ vang cho nhà thơ Hoàng Cầm. Tràn ngập bài thơ là cái tình quê, hồn quê dạt dào. Nỗi nhớ thương, tự hào quê Mẹ đất Cha, nỗi xót xa, căm giận, nuối tiếc… quê hương đang bị quân thù giày xéo, là cảm xúc chủ đạo của áng thơ này. Với 134 dòng thơ sâu lắng, thiết tha, bồn chồn… hòa quyện vào nhau, bài thơ cứ ngân nga rung động hoài trong tâm trí người đọc. Hoàng Cầm đã có lần tâm sự về “Bên kia sông Đuống”: “Hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo của những câu ca Quan họ đã thấm đẫm trong hồn tôi từ những ngày nhỏ dại”. Chính hương vị ấy, chất tình tứ, hư ảo ấy đã diệt nên sắc điệu trữ tình của bài ca quê hương này.

Mở đầu bài thơ là một tiếng gọi mơ hồ, xa xăm vọng lên từ tâm tưởng, trong hoài niệm, nhiều bồi hồi, xao xuyến. Như an ủi, như vỗ về, như thương nhớ, tủi sầu:

“Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì”.

Con sông tuổi thơ “cát trắng phẳng lì” là cội nguồn của nỗi buồn, nỗi nhớ của anh và em, của ngày xưa, của năm tháng. Em là sự phân thân của nhà thơ, hay “người tình chung” từng “để thương, để nhớ để sầu cho ai…”. Em đến để tâm tình, để thổ lộ… và hẹ em trong “ngày hội non sông”: “Em mặc yếm thắm – Em thắt lụa hồng – Em đi trẩy hội non sông – Cười mêm ánh sáng muôn lòng xuân xanh”. “Em” đến đúng lúc để “anh” giãi bày, để khơi gợi nguồn thơ. Đó là chất tình tứ hư ảo trong thơ Hoàng Cầm mà ta cảm nhận được.

Cùng với em là hình ảnh con sông Đuống thương yêu xuất hiện. Dòng sông thơ ấu từ hoài niệm “Ngày xưa cát trắng phẳng lì” trôi theo dòng lịch sử, theo thời gian và lòng người mà hiện về trong thương nhớ, với màu sắc, với dáng hình thân thuộc:

“Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”.

Hai tiếng “trôi đi…” gợi lên cái êm đềm, cái man mác “nước chảy lơ thơ…”. “Một dòng sông lấp lánh” vì cát trắng, vì gương sông chở ánh hồng bình minh, chở trăng sao những đêm thu đẹp. Đó là dòng sông thơ mộng. Dáng sông Đuống trong hiện tại chẳng uốn lượn như hình con long của sông “làng ta” (Ca dao) mà lại “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Một câu thơ hay để ta cảm xúc, đọc lên nhận vào hồn mình với báo nhiêu nhã thú, thi vị. Tưởng như tác giả viết bằng bút pháp siêu thực? Tưởng như câu thơ được cấu tạo nên bằng kĩ thuật điện ảnh tân kì? Đó là một sáng tạo thi ca độc đáo của thi sĩ tài hoa Hoàng Cầm.

Sông Đuống là sông của tuổi thơ, sông của hoài niệm. Màu “xanh xanh” của bãi mía bờ dâu, màu “biêng biếc” của ngô khoai là màu xanh của miền thơ ấu, là hình bóng quê hương. Bức tranh quê tươi tắn, đầy sức sống… Nhớ quê hương nơi chôn nhau cắt rốn của mình, đứa con li hương “đứng bên này sông” nhìn về “bên kia sông Đuống”, từ vùng tự do tả ngạn nhìn về hữu ngạn, nơi “tâm hồn ta thấm đất”, nỗi nhớ, nỗi đâu không thể nào kể xiết:

“Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”.

“Sao nhớ tiếc… sao xót xa…” vì quê hương đang chìm trong máu lửa. Nỗi nhớ, nỗi đâu đến cực độ, làm tê tái cả hồn người, làm “chết đi ” từng phần cơ thể. Câu thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đã cụ thể hóa nỗi đau đớn xót xa cả về thể xác lẫn tinh thần. Đầu thế kỉ XX, Nguyễn Khuyến đau đớn khi “chợt nghe” tin bạn chí thân qua đời: “Làm sao bác vội về ngay – Chợt nghe tôi bỗng chân tay rụng rời”. Một đằng khóc bạn, một đằng khóc quê. Hai nhà thơ đều mượn cách nói dân gian để diễn tả một tâm trạng, một nỗi lòng tan nát. Có yêu quê hương tha thiết, gắn bó thủy chung với quê Mẹ đất Cha thì Hoàng Cầm mới có nỗi đâu “nhớ tiếc” và “xót xa như rụng bàn tay” ấy.

Có thể nói, mười dòng thơ trong phần tiền tấu của khúc ca quê hương “Bên kia sông Đuống” là một cái nhìn đăm đắm “nhớ tiếc”, là nỗi đau tê tái “xót xa”, là nỗi nhớ thương khôn nguôi.. của đứa con li hương. Vần thơ như những tiếng khóc thầm, rồi bật lên như một tiếng nghẹn nấc: “biêng biếc… nhớ tiếc … như rụng bàn tay”.

Phần thứ hai gồm có 118 dòng thơ, chia làm hai đoạn. Đoạn thứ nhất dài 69 dòng thơ nói lên nỗi đau, nỗi nhớ tiếc xót xa về quê hương tươi đẹp, yên vui trong thanh bình… bỗng bị quân thù kéo tới chiếm đóng, tàn phá. Đoạn thứ hai là 49 dòng nói về quê hương chiến đấu, xóm thôn vùng lên khi bộ đội “bên sông trở về”.

Đoạn thứ nhất cấu trúc tương phản giữa xa xưa thanh bình với hiện tại tang tóc, điêu tàn. Các câu thơ “Bên kia sông Đuống” và “Ai về bên kia sông Đuống” nối tiếp nhau xuất hiện, diễn tả hình bóng quê hương hiện lên như những đợt sóng vỗ vào lòng đứa con xa quê bao nỗi nhớ thương và căm giận. Một tình quê vơi đầy trong nỗi nhớ:

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

“Bên kia sông Đuống” là huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, một miền quê trù phú và có nền văn hóa, văn hiến ngàn năm thuộc vùng Kinh Bắc. Chỉ bằng hai nét vẽ mà nhà thơ đã gợi lên hương sắc quê nhà. Ba tiếng “quê hương ta” vang lên tự hào, lay động tha thiết. Hương lúa nếp thơm nồng của cốm mới, của cánh đồng màu xanh lúa trỗ, hương xôi, hương bánh… trên mâm cỗ tết, trong ngày giỗ trên bàn thờ gia tiên. Hương lúa nếp thơm nồng đã quyện lấy tâm hồn “anh” và “em” tự thuở nào. Nhớ “quê hương ta” là nhớ mùi “thơm nồng” của lúa nếp, là nhớ tranh làng Hồ, tranh gà lợn, nhớ nét vẽ tài hoa xinh đẹp “nét tươi trong”, nhớ “màu dân tộc”, nhớ sắc màu rực rỡ, tươi đẹp “sáng bừng trên giấy điệp” óng ánh, mượt mà. Tình yêu quê được gửi gắm, được thể hiện qua các thanh âm (nồng, trong, bừng, điệp…), qua các tính từ phẩm chất đã làm dậy sắc hương của lúa nếp, của tranh gà lợn: thơm nồng, tươi trong, sáng bừng, điệp. Đặc biệt hai chữ “sáng bừng” đã thể hiện cái hồn quê nồng nàn say đắm, đã làm sáng lên cả vần thơ và hoài niệm, đã thổi vào bức tranh quê cả sức sống và tình yêu mặn nồng. Cũng như dân ca Quan họ, mảng tranh dân gian Đông Hồ được tác giả nói đến với bao yêu mến, tự hào, từ đề tài đến chất liệu, từ tư tưởng đến phong cách nghệ thuật đều mang vẻ đẹp bình dị, dân dã, mến yêu “sáng bừng” màu sắc dân tộc.

Nhưng giờ đây còn đâu nữa? – “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp – Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”. “Ngày khủng khiếp” kể từ 19 – 12 – 1946, ngày toàn quốc kháng chiến, những miền quê rộng lớn bình yên đã bị giặc Pháp biến thành đống tro tàn. “Những cánh đồng quê chảy máu”, những đường làng “xương máu tơi bời”, … cả một không gian bao la chìm trong máu lửa, chết chóc. Quân cướp nước kéo tới quê hương ta là: “Chó ngộ một đàn – Lưỡi dài lê sắc máu”. Chúng điên cuồng đốt phá, bắn giết: ruộng khô, nhà cháy, ngõ thẳm bờ hoang kiệt cùng. Sự sống bị tiêu diệt, cả một miền quê tan tác, đau thương:

“Mẹ con đàn lợn âm dương,

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu”.

Ước mơ ấm no, yên vui, hạnh phúc của “quê hương ta” bao đời nay bị quân xâm lược làm cho tan nát chia lìa. Từ nỗi đau vật chất đến nỗi đau tinh thần là vô cùng ghê sợ! Lấy hình ảnh trong hai bức tranh làng Hồ, bức tranh lợn và bức tranh đám cưới chuột để cực tả cảnh đau thương chia lìa, tan tác trên quê hương. Nhà thơ đã lay động hồn quê, tình quê ứa máu, thấm lệ trong lòng người bấy nay. Vẻ đẹp văn hóa trong lòng người, trong nếp sống, trong cảnh vật đã bị “ngọn lửa hung tàn” hủy diệt! Những câu thơ ngắn đan xen với những câu thơ dài đã góp phần tô đậm nỗi căm uất, nghẹn ngào chứa chất trong lòng người đang bùng lên dữ dội.

Nhớ da diết bồi hồi quê hương, Hoàng Cầm lại tha thiết nhắn gọi: “Ai về bên kia sông Đuống – Cho ta gửi tấm the đen… – Gửi về may áo cho ai…” – Vẫn chỉ là phiếm chỉ “Ai về…” “cho ai…”, gợi lên một nỗi nhớ bồi hồi, mênh mông. Tình quê trong hoài niệm là “thấp thoáng mộng bình yên”, là nỗi nhớ chùa xưa tháp cũ, nhớ hội hè, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ huyện Lang Tài, nhớ tiếng chuông chùa sớm sớm chiều chiều ngân buông. Nhớ cuộc sống yên vui thanh bình, nhớ những địa danh, những thắng cảnh… đã in dấu đậm đà, đã gắn bó với tân hồn đứa con li hương:

“Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”.

Tiếng chuông chùa Dâu, chùa Bút Tháp, chùa Bách Môn… chỉ còn “văng vẳng” từ “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” vọng về trong hồn người đã làm cho nỗi nhớ, nỗi đau thêm nhức nhối, gợi lên sự hoang vắng, điêu tàn của quê hương, nói lên mơ ước ngàn đời được sống ấm no, yên vui trong thanh bình.

Nhớ cảnh rồi nhớ người. Nỗi nhớ tràn ngập, nhớ từng dáng hình, nhớ từng nét mặt nhớ làn môi, nhớ mái tóc, nhớ quần nâu, nhớ cụ thể, nhớ nhiều… Chữ “những” điệp lại nhiều lần diễn tả nỗi nhớ mênh mang, xao xuyến, bồi hồi:

“Những nàng môi cắn chỉ quết trầu,

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu”.

“Ai về… có nhớ” – về bên kia sông Đuống, quê hương ta, của anh và của em. Ai có nhớ, riêng ta nhớ lắm. Nhớ “từng khuôn mặt búp sen”, nhớ nụ cười ấm áp, tươi vui, rạng rỡ của những cô gái xinh đẹp, tình tứ, dịu dàng. Nhớ người dăng tơ, nhớ nàng dệt sợi, nhớ người thợ nhuộm, … những con người cần mẫn, siêng năng, khéo tay hay làm, rất đáng yêu, đáng tự hào. Cuộc sống và con người quê hương hiện hình qua nỗi nhớ lần lượt nối tiếp xuất hiện trong kí ức đầy ám ảnh, khôn khuây:

“Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén rang đen,

Cười như mùa thu tỏa nắng

Chợ Hồ chợ Sủi người đua chen,

Bãi Trầm Chỉ người dăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa màu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu về đâu”.

Nỗi nhớ ấy vừa thực, vừa mộng ảo, gắn bó nhịp sống đời thường nhộn nhịp với cái vẻ tình tứ đáng yêu gợi ra trong lòng chúng ta một trời bâng khuâng thương nhớ: “Ai lên Đồng Tỉnh, Huê Cầu – Đồng Tỉnh bán thuốc, Huê Cầu nhuộm thâm – Nào ai đi chợ Thanh Lâm – Mua anh một áo vải thâm hạt dền”. Qua đó, ta cảm nhận hương vị dân tộc, chất tình tứ, hư ảo đã làm nên vẻ đẹp trữ tình trong thơ Hoàng Cầm.

Sau hình ảnh những cô gái xinh đẹp, tình tứ… Hoàng Cầm nói về bà mẹ và đàn con thơ với nhiều thương nhớ, đau xót. “Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong” xuất hiện giữa phiên chợ nghèo, khi “lũ quỷ mắt xanh” kéo đến cướp bóc: “Lá đa lác đác trước lều – Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”. Bờ tre thì “hun hút”, trời thì “mưa lạnh” con đường thì “trơn”,… cả một không gian tăm tối, lạnh lẽo, hãi hùng… Trên trời, cánh cò xao xác “bay vùn vụt”, … “về đâu…”. Trên đường trơn, mẹ già mái tóc bạc phơ lầm lũi “bước cao thấp” với bao nỗi kinh hoàng. Hình tượng thơ đầy ám ảnh, nhức nhối đau thương:

“Có con cò trắng bay vùn vụt,

Lướt qua dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ”.

Đàn con thơ đang sống trong cảnh đói rét sợ hãi. Chỉ có bát cháo ngô cầm hơi, chỉ biết “chui gầm giường tránh đạn”, đêm đêm sống trong nỗi kinh hoàng giữa tiếng súng giặc: “Ú ớ cơn mê – Thon thót giật mình”… Hình ảnh bà mẹ và em thơ trong đoạn thơ này tiêu biểu cho nỗi đau thương của những bà mẹ, những em bé, những nạn nhân trong chiến tranh. Câu thơ khép lại phần hai là tiếng thét căm hờn. Hoàng Cầm diễn tả lòng căm thù giặc bằng một cách nói độc đáo, mạnh mẽ:

“Đã có đất này chép tội,

Chúng ta không biết nguôi hờn”.

Ngoài biện pháp tương phản đối lập giữa “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” với “Quê hương ta từ ngày khủng khiếp”, Hoàng Cầm lặp đi lặp lại các câu thơ: “Bây giờ tan tác về đâu… Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu… Bây giờ đi đâu về đâu…” – điệp cú, điệp khúc ấy không chỉ gợi tả âm điệu xót xa và bao nỗi ngơ ngác, kinh hoàng về đau thương, tang tóc trong lửa đạn quân thù, mà còn tạo ra ám ảnh khôn nguôi về sự tiếc nuối những năm tháng thanh bình êm đẹp và thơ mộng của quê hương.

Giọng thơ thay đổi ở đoạn hai 49 câu tiếp theo. Có niềm vui gặp gỡ thắm tình quân dân khi “bộ đội bên sông đã trở về”. Hình ảnh bà mẹ quê hương tượng trưng cho niềm vui hồi sinh “bừng lên” sau lũy tre điêu tàn một thời “khủng khiếp”:

“Lửa đèn leo lét soi tình mẹ,

Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng”.

Có biến động “Trại giặc bắt đầu run trong sương”. Cả một vùng quê bao la vùng lên đánh giặc, đem lại màu xanh cho ruộng đồng :

“Gió đưa tiếng hát về gần,

Thợ cấy đánh giặc, dân quân cày bừa”.

Có niềm vui “mở hội… ” và niềm vui chiến thắng. Câu thơ ngắn, nhịp thơ hối hả, rộng ràng. Sông Đuống hiện ra giữa một rạng đông tuyệt đẹp :

“Vì nắng sắp lên rồi

Chân trời đã tỏ

Sông Đuống cuồn cuộn trôi … “.

Đoạn hai tuy có một số câu thơ cảm động, một số hình ảnh gợi cảm, nhưng ngôn ngữ thơ dàn trải, yếu tố “kể” lấn át yếu tố trữ tình. Bài thơ được tác giả viết vào mùa xuân 1948, phải sáu năm sau (1954), trải qua những chặng đường gian khổ, hi sinh vô cùng to lớn, mới có cảnh tượng “bao nhiêu đồn giặc tơi bời”, và mới có “chim múa hoa cười” trong lòng đứa con xa quê thời khói lửa. Do đó, cảm hứng lãng mạn khi nói về quê hương chiến đấu và chiến thắng ín nhiều dễ dãi, sơ lược.

Phần thứ ba với sáu dòng thơ nói lên niềm mơ ước “bao giờ về bên kia sông Đuống” trong ngày hội non sông, trong niềm vui tái hợp. Một lần nữa, hình ảnh cô gái Kinh Bắc hiện lên trong vẻ đẹp kì diệu và tình tứ :

“Anh lại tìm em

Em mặc yếm thắm

Em thắt lụa hồng

Em đi trẩy hội non sông

Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.

Sau một chuỗi câu thơ ngắn bốn tiếng, bài thơ khép lại bằng hai câu thơ lục bát có giá trị gợi tả niềm vui ngân nga mãi trong lòng người.

“Quê hương nghĩa nặng tình sâu… “, có ai đã nói như vậy ? Tình yêu quê hương là một trong những tình cảm sâu sắc nhất, mãnh liệt nhất của con người Việt Nam chúng ta. Tình quê hương với Hoàng Cầm là nỗi nhớ và niềm tự hào ; nhớ cảnh vật, nhớ con người, nhớ dòng sông Đuống “Trôi đi một dòng lấp lánh”, nhớ núi Thiên Thai, nhớ chùa Bút Tháp, nhớ khuôn mặt búp sen thiếu nữ, nhớ mùa xuân tưng bừng lễ hội, nhớ mẹ, nhớ đàn con thơ… Nhớ và tự hào về một miền quê giàu đẹp, có màu xanh lúa ngô khoai, nương dâu bãi mía, có tranh Đông Hồ “Gà lợn nét tươi trong – Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Tự hào về quê hương bất khuất hiên ngang. Tin tưởng về ngày hội non sông, và ngày vui tái hợp. Bài thơ còn chất chứa bao nỗi căm hờn đối với quân xâm lược.

Thơ của Hoàng Cầm giàu nhạc điệu và âm điệu lôi cuốn. Có vang vọng của ca dao, dân ca. Bài thơ thấm một tình yêu và hồn quê lai láng. Con sông Đuống, cô gái “cười như mùa thu tỏa nắng”… là của riêng Hoàng Cầm.

Nhưng lạ thay, kì diệu thay, người đọc gần xa trong hơn nửa thế kỉ nay đã tìm thấy một phần bóng hình quê hương mình và nỗi lòng, tình thương, nỗi nhớ của mình trong bài thơ tuyệt tác “Bên kia sông Đuống”. Thơ hay mới cho ta “Sự đồng cảm nhiệm màu” ấy.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 13)

Quê hương mỗi người chỉ một
Như là chỉ một mẹ thôi
Quê hương nếu ai không nhớ
Sẽ không lớn nổi thành người

Mỗi một con người ai cũng có một quê hương. Và Hoàng Cầm cũng vậy, mảnh đất ăn sâu vào máu thịt ông là miền đất Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Nhớ về quê hương là nhớ về những gì sâu nặng nhất trong tâm hồn và trong đáy sâu của cảm xúc đó nhà thơ cho ra đời “Bên kia sông Đuống”.

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp. Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông. Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống, mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạn. Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt.

Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì

“Em” ở đây là một nhân vật phiếm chỉ. Tuy nhiên, có phần chắc chắn đó là một cô gái cùng quê bên kia sông Đuống với nhà thơ. Trong thơ Hoàng Cầm ta thường gặp một nhân vật em như vậy, bởi đó là cái cớ để nhà thơ bộc lộ xúc cảm của mình một cách chân thành nhất.

Và lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diến ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những mầu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Từ bên này, nhà thơ đau đáu hướng cặp mắt về bên kia sông Đuống. Đoạn thơ kết thúc bằng một hình ảnh diến tả nỗi đau “Sao xót xa như rụng bàn tay”. Hoàng Cầm đã mượn nỗi đau của thể xác để diến tả, thể hiện một cách một cách cụ thể nỗi đau về tinh thần. Phải là người coi quê hương là máu thịt của mình mới có tình cảm mãnh liệt đến như vậy. Có thể nói, tâm trạng ở đây đã đạt đến độ điển hình.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Từ cảm xúc về nỗi đau đó, quê hương Kinh Bắc dần dần hiện lên trong kí ức nhà thơ.

Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng – biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ – biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Ở đây cái ảo đã hòa nhập cùng cái thực. Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc.

Không chỉ có vậy, hình ảnh quê hương Kinh Bắc còn được gợi lên với những đền chùa cổ kính, những hội hè đình đám thể hiện khát vọng một cuộc sống hạnh phúc, bình yên của nhân dân. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt quần nâu
Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Cũng không còn nữa những hội hè đông vui, nhôn nhịp. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Vùng quê Kinh Bắc còn được gợi lên bằng cảnh lao động nhộn nhịp, buôn bán đông vui, sầm uất. Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Nhưng giờ đây cũng tan tác chia lìa, không biết đi đâu, về đâu.

Trong niềm tiếc thương không nguôi những người, những cảnh vật của quê hương, Hoàng Cầm đã dành tình cảm sau nặng nhất cho người mẹ già và em nhỏ. Người mẹ già nua, còm cõi vốn đã vất vả trong thời bình lại càng khốn khổ hơn khi quân giặc tới. Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Mẹ ta lòng đói dạ sầu
Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Số phận tội nghiệp của những đứa trẻ trong chiến tranh được Hoàng Cầm gợi lên trong cảnh đói khát cùng với sự đe dọa của đạn bom. Cả ban ngày lẫn ban đêm, cả khi thức lẫn khi ngủ, cái chết luôn rình rập, đe dọa chúng. Lòng uất hận, căm thù của nhà thơ bùng lên dữ dội. Câu thơ Hoàng Cầm đến đây thét lên phẫn nộ:

Đã có đất này chép tội
Chúng ta không biết ngươi hờn

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù.

Lời cảm thán, niềm hoài niệm ở đầu bài thơ đã trở thành lời hứa hẹn, niềm hi vọng ở đoạn kết. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc. Cô gái Kinh Bắc lại hiện ra với nụ cười tươi tắn giữa không khí tưng bừng của ngày hội.

Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Bên kia sông Đuống là những dòng tình cảm mãnh liệt nhất, chân thành và trong sáng nhất mà Hoàng Cầm đã dành cho quê hương yêu dấu của mình, và qua đó đánh thức trong mỗi chúng ta tình yêu quê hương đất nước. Đó là thứ tình cảm thiêng liêng cao cả và gắn bó như chính lời bài hát của nhạc sĩ Giáp Văn Thạch.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 14)

Bên kia sông Đuống in trong tập thơ cùng tên của Hoàng cầm. Một đêm tháng tư năm 1948, đang công tác văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc, tác giả nghe tin quê hương bị giặc đánh phá nên xúc động viết ra bài thơ này. Đây là một trong những bài thơ hay nhất về tình quê hương đất nước trong thơ ca Việt Nam hiện đại.

Bằng cách trình bày khung cảnh thanh bình của quê hương sống Đuống, mảnh đất có bề dày truyền thống lịch sử và văn hóa với những nét tài hoa về hội họa dân gian, những hội hè mùa xuân đông vui, những sinh hoạt chợ búa, các nghề thủ công nổi tiếng… và tụ lại ở gánh hàng rong của mẹ già một đời tần tảo, hình ảnh những đứa em thơ… tất cả đều bị lũ giặc hung tàn tràn đến đốt phá tan tành, tác giả bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim gắn chặt với quê hương và qua đó nói lên tình yêu đất nước thiết tha, sâu đậm.

Mở đầu bài thơ, tác giả nhắc tới nét đẹp của con sống Đuống : cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc… gợi lên hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Nhưng giờ đây, tất cả đều tan tác dưới gót giày quân xâm lược. Đứng bên này sống, nhìn sang quê hương bên kia sống bị giặc chiếm, cảm xúc đau đớn của nhà thơ lên đến cực điểm: Xót xa như rụng bàn tay.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô

Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa trăm ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?”
Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là một vùng đất mỡ màu, trù phú và có một bề dày lịch sử, văn hóa vô cùng quý báu. Nhớ tới quê hương, nhà thơ như cảm thấy hương vị đậm đà, thanh khiết của lúa nếp thơm nồng sau mùa gặt mới. Hương cốm ngọt ngào trong đêm trăng sáng Trung thu, mùi xôi nếp cái hoa vàng thơm lừng ngày giỗ, ngày Tết… để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người xa quê. Đất Kinh Bắc là đất của thơ ca, nhạc họa và những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm. Thánh Gióng nhổ tre quật tan tác giặc Ân. Hai Bà Trưng phất cờ khởi nghĩa đánh quân Nam Hán. Lí Thường Kiệt đuổi quân Tống ở sông cầu. Chiến dịch Xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi giết hàng vạn giặc Minh cũng diễn ra ở đấy. Bao thần thoại, truyền thuyết, cổ tích đẹp đẽ cũng ra đời từ miền đất ấy. Đặc biệt, con người Kinh Bắc tài hoa đã sáng tạo ra một loại tranh dân gian nổi tiếng là tranh Đông Hồ với nội dung vui tươi, nét vẽ đậm đà, chân chất, màu sắc tươi tắn. Tranh nào tranh nấy như một lời chúc mừng năm mới tốt lành. Từ con người đến vạn vật đều vui với mùa xuân, nẩy nở, sinh sôi, tràn đầy sức sống :
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Tranh Đông Hồ đến với mọi nhà, đem niềm vui và niềm tin vào năm mới làm ăn sẽ may mắn, phát đạt. Tranh mang vẻ đẹp dân dã mà thanh tao, ý nghĩa ấm áp bao nhiêu !
Vậy mà bỗng dưng lũ giặc kia ầm ầm kéo tới, ngùn ngụt như đám cháy, hung tàn chẳng khác chi chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu. Chúng tàn phá không chừa một nơi nào:
Ruộng ta khô.
Nhà ta cháy…
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang.
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu.
Nào chỉ có tang thương, đau đớn về vật chất?! Chúng nó đốt phá, cướp bóc, giết chóc… nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt, nhìn thấy rõ. Còn điều sâu xa hơn, có ai ngờ? Đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột (tên hai bức tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng) tượng trưng cho quan niệm về nguồn gốc sự sống của cha ông nay cũng bị giặc tàn phá, hủy diệt. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa?!
Lời thơ, ý thơ là vậy và âm điệu đoạn thơ cũng là một âm điệu xót xa kéo dài: Bây giờ tan tác về đâu? Giặc kéo tới cùng với đau thương, chết chóc, kinh hoàng. Bây giờ không biết mọi cái đã tan tác về đâu ? Cả thời gian lẫn không gian đều trở nên mờ mịt, xa xôi không biết đến nơi nào, đến bao giờ, khiến nỗi xót xa không còn giới hạn. Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng kêu xé lòng vút lên giữa thinh không, chẳng có lời đáp lại.
Đoạn thơ ngắn với hai mảng đối lập nhau : quá khứ tươi đẹp và hiện tại đau thương có tác dụng như một lời kết tội đanh thép quân xâm lược. Câu thơ cuối chứa chất xót xa, đau đớn và căm hận. Quân cướp nước sẽ phải trả nợ máu cho những tội ác của chúng đã gây ra trên quê hương, đất nước này.
Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 15)
Nhắc đến Kinh Bắc là nhắc đến vùng đất cổ của người Việt với nhiều giá trị văn hóa truyền thống quí báu. Sinh ra, lớn lên trên quê hương đó, hồn thơ Hoàng cầm đã gắn bó máu thịt với từng cảnh vật, con người, từng nét văn hoá tinh thần ông cha để lại. Để rồi bao yêu thương, nâng niu, say mê đã kết đọng nên một Bên kia sông Đuống mà “mỗi vần thơ dòng dòng cảm xúc” (Trần Đăng Suyền).Sinh ra và lớn lên giữa vùng Bấc Ninh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, nhà thơ Hoàng Cầm gắn bó và yêu thương vùng đất ấy vô cùng. Thế nên khi hay tin giặc Pháp chiếm phía nam Bắc Ninh, Hoàng cầm không khỏi xúc động, đau đớn. Chính trong nguồn cẩm hứng ấy, chỉ trong một đêm, bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời, chứa đựng bao nhiêu tình cảm của nhà thơ. Mở đầu bài thơ, Hoàng Cầm viết:
Em ơi buồn làm chiSao xót xa như rụng bàn tay.
Những câu thơ đã mở ra một vùng không gian đẫm đầy nỗi thương tha thiết, đủ sức lôi cuốn, thúc giục người đọc. Theo lời kể của tác giả, 3 câu đầu của bài thơ Bên kia sông Đuống được ra đời một cách kỳ lạ trong đêm nhà thơ nghe kể về tình hình quê hương: Tâm trí tôi dần tĩnh lại trong cái im ăng đến nghe rõ cả tiếng một con muỗi vo ve đâu đó. Đột nhiên, như từ xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo nghe mồn một, nhưng lại nghe tự lúc tôi còn thơ đại.
(Sông Đuống bắt nguồn từ đâu? trong Hoàng cầm - thơ văn và cuộc đời, Nxb. Văn hóa thống tin, 1997)
Bài thơ được bắt đầu như thế với ba dòng như rót từ cõi xa xăm nào xuống. Quả thực, đó là những câu thơ rất lạ, vừa thoảng chút ai oán, vừa thoảng chút yên ủi, vỗ về:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Hình ảnh đầu tiên xuất hiện với gọi tha thiết là nhân vật trữ tình em. Em là ai? Có lẽ chỉ nên xem là một nhân vật phiếm chỉ mà nhà thơ cần đến để giãi bày tâm sự, tìm sự đồng cảm, hoặc cũng có thể nhân vật phân thân của chính tác giả. Hình ảnh cát trắng phẳng lì chợt hiện ra làm nhẹ lòng người, gợi nỗi tiếc nhớ cái ngày xưa êm ả, thanh bình, khơi đúng nguồn mạch trữ tình để người viết nhập vào quá khứ.Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ nhà thơ vẫn là con sóng Đuống:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì
Sông Đuống dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên rất mực trữ tình. Mỗi câu thơ như muốn ghi lại sắc thái của nó trôi đi, lấp lánh, nghiêng nghiêng. Những từ này trong trạng thái hoạt động, đặc biệt nét nghiêng nghiêng khiến dòng sông như một sinh.thể có hồn, thân thiết, đáng yêu. Dòng sông như một sinh linh của Kinh Bắc để chia sẻ mọi vui buồn của người đời. Còn với nhà thơ, chủ thể trữ tình trong tác phẩm, sông Đuống là dòng ký ức. Tuy có lúc phải xa con sông quê, nhưng dòng ký ức ấy vẫn chảy mãi trong tâm hồn.Trong quá khứ, là những hình ảnh đẹp gợi lên từ một làng quê trù phú, giàu sức sống:
Xanh xanh bãi mía nương dâu
Ngô khoai biêng biếc
Hai dòng thơ nhưng cấu trúc đảo ngược nhau. Sự đảo ngược ấy có thể là ngẫu nhiên theo dòng cảm xúc của tác giả song lại tạo ra hiệu quả nghệ thuật bất ngờ: hình ảnh đầu tiên mà người ta bắt gặp là cái màu xanh xanh đến ngút ngàn của bãi mía nương dâu, rồi sự đọng lại của vẻ biêng biếc ngô khoai. Một đằng tác động vào thị giác, một đằng vào cảm giác. Còn hiện tại lại là nỗi xót xa:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay
Hai dòng thơ, hai câu hỏi nhưng là một tâm trạng. Nỗi lòng ấy đang điệp trùng bao nỗi, từ nhớ tiếc lẫn xót xa. Nhà thơ không nói nhớ tiếc hay xót xa điều gì, có bãi mía, nương dâu, có ngô khoai biêng biếc, nhưng có tất cả những gì của quê hương, là quê hương.
Điệp từ sao (sao nhớ tiếc, sao xót xa) như những câu hỏi làm nhức nhối lòng người. Nghệ thuật so sánh có sức gợi cảm, một là lấy nỗi đau tinh thần so sánh với nỗi đau thể xác khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau cụ thể. Hai là, coi quê hương như một phần cơ thể. Quê hương bị giặc giày xéo đau đớn như một phần cơ thể bị mất.
“Bên kia sông ĐuốngQuê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp
Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
Ai đó đã nói thơ là sự chín đỏ của cảm xúc. Với Hoàng cầm, ngọn lửa tình yêu Kinh Bắc âm ỉ, mãnh liệt đến nỗi chỉ một tàn tro cũng đủ làm nó bùng lên. Khai đoạn là bốn chữ “bên kia sông Đuống” vừa gợi nhắc không gian xa cách, vừa gợi nhắc thời gian quá khứ. Tự nó đứng thành một câu, buông một nỗi khắc khoải, đau đáu lạ kì. Hướng về bẽn kia sông Đuống, điều trước tiên Hoàng cầm nhớ tới là những giá trị văn hoá lâu đời - thứ làm nên diện mạo tinh thần cho xứ sở Kinh Bắc. Dòng hoài niệm của tác giả xuôi về với từng mùi hương, từng nét vẽ, từng sắc giấy... Kinh Bấc được ngòi bút nhà thơ lần lượt tái hiện bằng hương lúa nếp và những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng. Một thứ biểu trưng cho đời sống vật chất đủ đầy, một thứ biểu trưng cho đời sống tinh thần lành mạnh. Những tính từ “thơm nồng”, “tươi trong”, “sáng bừng” vừa mang lại hương sắc, vừa mang lại màu sắc cho bức tranh quê hương. Khó có thể diễn tả lại những gì được gợi nên từ chúng. Chỉ có thể cảm nhận được thần thái của bức tranh đó khi lí đặt ra câu hỏi: Sao Hoàng cầm không viết “thơm ngát” như Nguyễn Đình Thi viết “những cánh đồng thơm mát”? Sao Hoàng cầm khổng viết “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi tắn”, “Màu dân tộc sáng chói trên giấy điệp”? Đấy là chưa nói đến sự tinh tế khi tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ “màu dân tộc”. Bốn câu thơ thấm đậm chất dân gian, gợi chất liệu, đề tài, tư tưởng, phong cách nhân dân, màu sắc dân tộc (Trần Đăng Suyền). Một Kinh Bắc đẹp đến nao lòng đang hiện về bàng bạc trong kí ức nhà thơ. Đoạn thơ mang âm hưởng hồ hởi, tha thiết, diễn tả niềm say sưa của Hoàng Cầm với sắc màu, điệu sông yên ả, hồn hậu của quê hương. Ba tiếng “quê hương ta” không giấu được niềm tự hào của người con đất Kinh Bắc.Nhưng càng tự hào, càng hãnh diện về quê hương bao nhiêu, nhà thơ càng đau đớn, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương tươi đẹp đang bị giặc giày xéo bấy nhiêu. Kinh Bắc thanh bình phút chốc chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Chỉ với vài câu thơ ngòi bút thi nhân đã bao quát toàn bộ cảnh tượng quê hương bị huỷ diệt:
“Ruộng ta khôNhà ta cháy”
“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”
Cuộc sống nhân dân bị quân giặc tróc nã từ miếng ruộng mưu sinh đến nơi trú ngụ. Tác giả không ngại ngần vạch trần, lên án gay gắt sự bạo tàn của quân thù:
“Giặc kéo lèn ngùn ngụt lửa hung tàn”
“Chó ngộ một đànLưỡi dài lê sắc máu”
Trong lời tuyên cáo, Hoàng Cầm đã hơn một lần sử dụng nghệ thuật ẩn dụ. Hình ảnh “ngọn lửa hung tàn” và “chó ngộ” đặc tả sự hung bạo, dã man, điên dại của lũ cướp nước. Sắc đỏ của lửa và máu chính là sắc màu tội ác của bầy hám mồi. Nó đối lập hoàn toàn với “nét tươi trong” của bức tranh quê hương bên trên. Nhịp thơ ngăn dài đan xen như cuộn lên bao uất ức, sôi lên bao căm phẫn.Trong những đau thương, mất mát, Hoàng cầm nhấn mạnh hơn cả vào sự tan tác, chia lìa:
“Mẹ con đàn lạn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu”
Thật khó để phân định thực và ảo ở đoạn thơ này. Bóng dáng cuộc đời thực đang lồng vào trong chính những bức tranh Đông Hồ hay những bức tranh đang sống dậy để cùng chịu sự truy bức với cả dân tộc? Mượn thế giới nghệ thuật trong tranh, Hoàng Cầm đã diễn tả thành công cảnh tượng thật ngoài đời. Tranh Đông Hồ không chỉ là những bức hình mang chứa vẻ đẹp quê hương Kinh Bắc mà trong nó còn cất giữ hương hồn con người, dân tộc Việt Nam. Tranh Đông Hồ có rất nhiều nội dung, nhưng Hoàng Cầm lại cố ý lựa chọn hai bức Mẹ con đàn lợn âm dương và Đám cưới chuột để xoáy thật sâu vào bi kịch chìa lìa. Hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi bị giày xéo, chà đạp phũ phàng. Những từ láy “chìa lìa”, “tan tấc” đã khắc hoạ rõ nét cảnh tượng thương tâm này. Những câu thơ tuôn trào như tiêhg nấc nghẹn hoang mang không kìm giữ nổi. Câu thơ cuối cùng là câu hỏi, gieo lời hỏi nhưng thực chất lại bộc lộ sâu sắc nỗi xót xa đến ngẩn ngơ.
Ai về bên kia sông Đuống
Cho ta gửa tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thai
Trong cùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sầu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các từ chỉ địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là "trên", "trong", "giữa". Nhà thơ Hoàng cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của "mộng bình yên" đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thế’:
Những nàng môi chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu
Chỉ bàng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, những cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Nhưng nỗi ám ảnh trong Hoàng cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng
Chữ "Có nhớ" đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh "khuôn mặt búp sen" gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái. Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh "cô hàng xén răng đen", đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống nữa của người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bấc với ánh năng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giông với nét rạng ngời tươi tắn của năng mùa thu chứ không phải cái năng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thờ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:
Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm
Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy "còm cõi" đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ "dăm", "vài" là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ "hoen" được sử dụng rất hay, "hoen" không chỉ là sương thâm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác cúa kẻ thù:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo
Tác giả gọi kẻ thù là "lũ quỷ mắt xanh" - một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy "trừng trợn" không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm cúa kẻ thù mà còn góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ "chợt" chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao "khua", "đạp", "xì xồ", "tan", "gầy teo" diễn tá những hành động dã man liên tiép của kẻ thù, những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lại dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông
Không gian hoang sơ hiu quạnh được gợi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu "lá đa lác đác trước lều" gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ thù xâm lược. Các từ "vài ba", "loang" được sử dụng rết đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa đông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gợi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay sáng chiều nhuận đổ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quan xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đầm nỗi khóc thương nhỏ lệ.Mạch cảm xúc căm giận trào sôi trước hiện thực quê hương Kinh Bắc tươi đẹp giàu có, bình yên chìm trong máu lửa để rồi bừng lên sức mạnh chiến đấu của những đoàn quân trở về giải phóng quê hương, chuẩn bị cho Kinh Bắc ca khúc khải hoàn. Thê nên, mở đầu đoạn thơ cuối Hoàng cầm viết:
Bao giờ về bển kia sông Đuống
Chữ "bao giờ" diễn tả thời gian trong tương lai, thời gian trong tương lai, thời gian của mơ ước, của khát khao chứ không phải là thời gian của thực tại. Mặc dù được lặp lại đến lần thứ sáu với nhiều biến thể khác nhau nhưng đây, cụm từ "bên kia sông Đuống" mới thật sự hàm chứa cái giọng của sự mong ngóng đến khắc khoải. Bởi vì "bên kia sông Đuống" là trở lại mái ấm, là tìm về mảnh đất thân thương máu thịt, nơi cất giữ mảnh hồn riêng của những con người Kinh Bắc. Và thế giới kinh Bắc ấy hội tụ nơi "em". Sự xuất hiện của từ "em" trong khổ thơ này một mặt tạo ra sự hô ứng, nhất quấn chặt chẽ trong cấu tứ hình tượng của toàn bài, một mặt gắn liền với lời động viên an ủi mở đầu thi phẩm:
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Và lời hẹn ước năm nào đang trở thành một thực hay chính lời thơ chứa đựng niềm tin của nhân vật trữ tình "anh" sẽ trở lại quê hương ngay khi thi sĩ đặt bút viết những dòng đầu tiên về kinh Bắc ở cái thời điểm "giặc tràn lên đốt phá". Đó là niềm tin lãng mạn mang tính Cách mạng. Mặt khác, "em" chính là hình ảnh tiêu biểu hơn cả cho những vẻ đẹp kinh Bắc. Dõi theo lời thơ, ta thấy "em" hiện ra với "yếm thắm", "lụa hồng", trang phục rực rỡ, với nụ cười "mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh", trong không khí "trẩy hội non sông" tưng bừng của mùa xuân, mùa chiến thắng.Để tái hiện chân dung những thiếu nữ kinh Bắc, Hoàng cầm vẫn tiếp tục sử dụng chất liệu đậm đà bản sắc dân tộc. Cách mô tả như vậy có nhiều điểm gặp gỡ vổi câu thơ Nguyễn Bính trong "Chân quê", "Chiều xuân" của Anh Thơ. Vì thế con người Kinh Bắc hiện ra với những vẻ đẹp mang bản sắc văn hóa truyền thống vừa thân thuộc dung dị, vừa duyên dáng tình tứ, vừa gợi nhớ gợi thương. Giữa không khí của lễ hội mùa xuân, "em" nổi bật nơi thế giới của những sắc màu và những đặc biệt tỏa sáng cùng nụ cười. Đây là lần thứ hai Hoàng Cầm đặc tả nụ cười thôn nữ, một nụ cười xuất hiện ở qúa khứ thanh bình, một nụ cười xuất hiện trong tương lai chiến thắng. Song, cả hai đều chứa đựng vẻ đẹp của niềm hạnh phúc.
“Cười như màu thu tỏa nắng"
“Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh
Nhà thơ đã khẳng định tài năng miêu tả theo lốì chấm phá của mình, vẫn là tái hiện vẻ đẹp con người qua ánh sáng mùa thu tình tứ, lại có nét cười trong ánh sáng mùa xuân trẻ trung tươi tắn, căng tròn sức sống. Nếu không phải là một hồn thơ đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp cuộc sống, con người thì không thể nắm bắt được những vẻ đẹp ấy và miêu tả một cách tinh thế như vậy.
Ngôn ngữ thơ chưa hẳn đã mởi lạ bởi người đọc đã từng gặp "mùa xuân xanh" trong câu thơ Nguyễn Bính "mùa xuân chín" trong thơ Hàn Mặc Tử... Song sức hấp dẫn của câu thơ ở chỗ hai chữ "xuân xanh” khép lại thi phẩm gợi mở cho người đọc nhiều liên tưởng. Những ấn tượng đầu tiên thật bình yên, thanh thản và đầy tin tưởng. Bởi thế âm điệu thơ, nhịp điệu thơ không còn dồn bức, căng thẳng ngột ngạt như những đoạn thơ trước mà bỗng nhiên thư thái êm đềm, nhẹ nhàng lan tỏa. Đoạn thơ sáu dòng thì bốn dòng thơ giữa rất ngắn, gợi được cái âm điệu tưng bừng náo nức trong bước chân, trong ánh mắt, trong nét cười của con người. Dòng đầu và dòng cuối kéo dài không ngắt nhịp như cảm giác hạnh phúc ngập tràn.
Qua ”Bên kia sông Đuống", Hoàng Cầm đã thể hiện một tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước. Tình càm dạt đào ấy hóa thân vào những dòng cảm xúc và tâm trạng đan xen nhau không ngớt: khi tự hào khi về truyền thống, hình ảnh quê hương, khi uất nghẹn, căm hờn trước sự tàn phá của quân giặc. Đọc "Bên kia sông Đuống" của Hoàng cđm, cảm xúc của người đọc cũng dặt dìu đồng cảm với nhà thơ. Gấp lại trang thơ, lòng ta cũng chợt "nghiêng nghiêng" về một miền "Bên kia sông Đuống" của riêng mình.
Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 16)
Đất nước - với nhừng hàng tre xanh, những cánh đồng lúa, những con đường, nơi mà chúng ta sinh ra và lớn lên, nơi chúng ta đã bảo vệ đến hơi thở cuối cùng để giữ lấy từng tấc đất, không quản “sáng ngăn bão dông, chiều ngăn nắng lửa”, nơi đó mãi mãi là niềm tự hào vô biên, mãi mãi là nguồn thơ không bao giờ cạn.Nghĩ về đất nước, có biết bao nhà thơ đã từng xúc động nghẹn ngào, khi bình yên, họ nghe lòng rộn ràng với niềm vui xây dựng quê hương mình; khi giặc đến, họ đau đớn, xót thương quê hương bị gót giày xâm lược tàn phá, lại căm giận lũ giặc bạo tàn. Những tình cảm yêu thương, căm giận như những đợt sóng ào ào lớn lên thành một dòng cảm hứng mạnh mẽ bật lên thành thơ. Đó là bài Bên kia sông Đuống của nhà thơ Hoàng Cầm.
Bài thơ Bên kia sông Đuống đưa ta về sống với hiện thực đau thương của vùng Kinh Bắc, quê hương của thi sĩ trong những ngày mưa bom bão đạn của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Từ cổ chí kim, đã có bao nhiêu bài thơ thể hiện cảm hứng về quê hương đất nước, đó là Thăng Long thành hoài cổ với nỗi đau khắc sâu muôn kiếp:Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệtNước còn cau mặt với tang thương.Là sự khẳng định sự trường tồn của đất nước Việt Nam trong Nam quốc sơn hà của Lí Thường Kiệt là nét màu đỏ thắm của sự hi sinh cao cả vì tự do dân tộc trong Cuộc chia li màu đỏ của Nguyễn Mỹ... Tất cả những cám hứng yêu nước ấy đều xuất phát từ tấm lòng yêu quê hương đất nước cúa nhà thơ, từ truyền trống “lưng đeo gươm, tay mài bút lửa” của dân tộc: Trong từng hoàn cảnh, ở mỗi thời đại, nhà thơ lại tìm cho mình một cách biểu hiện riêng.Khác với những bậc tiền bối xa xưa, Hoàng Cầm viết Bên kia sông Đuống với một tình yêu mãnh liệt, một tình yêu đã được một sự kiện làm cho bùng cháy: khi ông nghe tin giặc đánh phá quê hương mình. Cái dồnnén của tình cảm vỡ ra thành những dòng chữ nghẹn ngào thấm máu và nước mắt, những dòng chữ như cắt ra từ trái tim nhà thơ với bao nhiêu xúc động mạnh mẽ, bao nhiêu yêu thương, bao nhiêu tình yêu, trân trọng, nâng niu, bao nhiêu nuối tiếc, nhớ nhung, bao nhiêu xót xa, cãm uất trào ra từ đầu ngọn bút. Đó phải chăng là cảm hứng lớn để ông viết lên những dòng thơ có sức lay động ghê gớm lòng người?
“Thơ chỉ tràn trong tim ta khi cuộc sống đã tràn dầy”. Thơ Hoàng Cầm đã tràn ra khi những yêu thương căm uất trong lòng nhà thơ đã lên tới đỉnh điểm.
Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về bên kia sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì.
Nỗi đau ấy bật lên khi nghe tin quê hương bị giặc tàn phá khiến cho nhà thơ nức nở bởi bao nhiêu tình cảm ngổn ngang lẫn lộn. Và khi đã tỉnh lại, nhà thơ nghe như đâu đây xa xôi trong tiềm thức giấc mơ hi vọng vì tiếng hát dân ca vùng Kinh Bắc và những câu thơ đầu tiên đã tuôn trào. Hoàng Cầm đưa ta nhớ lại “ngày xưa” - những ngày của vùng Kinh Bắc yên bình, ấm no, hạnh phúc, với tấm lòng hoài niệm xót xa, nuối tiếc với những câu thơ khắc khoải nỗi niềm. Cái cảm hứng về vẻ đẹp của quê hương là niềm tự hào ngân nga trong từng câu chữ:Sông Đuống trôi điMột dòng lấp lánhNằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì.
Bên này, bên kia - sao mà đau xót! Một dòng sông mà hai khoảng trời ngăn cách
- Bên kia sông Đuống,
“Ngô khoai biêng biếc”, “xanh xanh bãi mía bờ dâu” vậy mà chiến tranh đã nổ ra những câu thơ thật đẹp nhưng đọc lên mà đau đớn:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.
Hình ảnh “sao như rụng bàn tay” là nỗi đau được cụ thể hóa, nỗi đau của chết chóc, chia lìa. Mấy câu đầu bài thơ đã nói lên hai luồng cảm hứng chủ đạo sẽ xuyên suốt bài thơ.
Bên kia sông Đuống, đó là: yêu thương, nuối tiếc và đau đớn, căm uất. Những câu thơ nhói giữa tim ta và tan ra trong một biển tình cảm mênh mông. Mấy đoạn thơ kế tiếp nhau với một cảm hứng hoài miệm tự hào đã dựng lên trước mắt ta một vùng quê, một Kinh Bắc với những nét đẹp của truyền thống văn hóa với sự cổ kính ngàn đời, vùng quê Kinh Bắc với nỗi đau bị tàn phá lại càng nhân lên trong lòng nhà thơ những tình cảm gắn bó, yêu quê mặn mà, sâu sắc.
Nếu ở phần đầu, Hoàng Cầm hay nhắc đến những hình ảnh bình yên, thơ mộng của vùng quê trù phú vùng quan họ thì đến phần sau, ông lại hoài nhớ về những nét văn hóa của vùng quê Kinh Bắc, những nét truyền thống đặc sắc, bắt rễ sâu kín trong tâm hồn ông.
Phải chăng, khi nhớ về đất nước, đầu tiên đã nghĩ đến “giọt đàn bầu” “xoa dịu nỗi đau của mẹ” và sau đó mới nhớ đến mình là vì vậy? Nỗi nhớ đầu tiên phải là nỗi nhớ tới hương vị quê hương Việt Nam: đó là lúa nếp thơm nồng, là tranh Đông Hồ nét bút tươi trong, là tấm the đen may ác mẹ già, là hội hè đình đám, là bến chợ người dâng tơ nghẽn lối... tất cả mang màu sắc dân tộc rõ nét, rất đỗi tự hào.Rất tự nhiên, tác giả lồng hình ảnh quê hương vào trong hình ảnh những truyền thông văn hóa, những hình ảnh con người xứ Kinh Bắc duyên dáng, dễ thương, những cô hàng xén răng đen, cắn chỉ môi trầu, những cụ bà tóc trắng, những khuôn mặt búp sen, “cười như mùa thu tỏa nắng”
- Dưới ngòi bút nhớ thương, trân trọng của Hoàng Cầm, lại nhiều hình ảnh về con người và xứ sở Kinh Bắc hiện lên duyên dáng đến kì ảo, thơ mộng đến ngọt ngào và không chỉ là nét thơ mà trở thành nét họa. Ta yêu sao những khuôn mặt của thiếu nữ ngây thơ trong trắng, kiều diễm ẩn dưới những chiếc khăn trùm đầu, như những búp sen, ta yêu sao cái cười trong sáng, hồn nhiên, trẻ trung như “mùa thu tỏa nắng”! Xứ sở Kinh Bắc đẹp đến thế, say đắm lòng người đến thế! Đúng là nét họa “màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”!
Vừa nhớ về những ngày thanh bình xưa kia, đau đớn với cái hiện thực phũ phàng, tan nát lòng người, Hoàng Cầm đã đưa ta sống trong bể căm hờn ngùn ngụt của ông, ngày giặc tới. Có thể nói cảm ứng yêu thương đã đan vào cảm hứng căm uất khiến cho mỗi lời thơ có sức cuốn hút mãnh liệt; nhà thơ lặp đi lặp lại:
“bên kia sông Đuống, Ai về bên kia sông Đuông”
- những câu hỏi như có những tiếng vọng vang vào lòng người, có nỗi đau xót của đứa con xa quê hương về quê mẹ.
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tànRuộng ta khôNhà ta cháy.
Ai đã từng lớn lên từ những vùng quê “xanh xanh bãi mía bờ dâu”, “ngô khoai biêng biếc” thì mới thấy đau đớn trước màu xám xịt, toàn khói ngút trời của vùng Kinh Bắc. Đau xót biết bao khi những làn dân ca quan họ bị át đi và ruộng khoai biêng biếc cũng cháy khô với bom đạn chiến tranh - công sức, mồ hôi nước mắt người lao động cháy theo ngô khoai. Tác giả chọn nhvững hình ảnh đặc trưng của vùng quê Kinh Bắc với sự chia lìa, ngăn cách: “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới chuột”, gửi tấm the đen không biết may áo cho ai... Những điệp khúc lại được nhắc đi nhắc lại: “Bây giờ tan tác về đâu” đầy nhức nhối thương đau.
Dùng thủ pháp tương phản, tác giả đã tạo nên sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, xưa và nay để nỗi đau càng thêm giằng xé, để yêu thương càng mãnh liệt và nhờ thế, căm hận cũng ngút trời, căm hận “lũ quỷ mắt xanh trừng trợn, đạp gãy quán gầy teo” thương mẹ già “Bước cao thấp trên bờ tre hun hút”. Một hình loang trước mắt ta báo hiệu sự chết chóc, sự thảm khốc của chiến tranh:
Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vết máu loang chiều mùa đông.
Cái vết máu loang ấy đập vào mắt ta với lòng căm hờn tột độ. Vết máu ấy của ai? Đó là máu của những khuôn mặt búp sen “Nhừng em thơ sột soạt quần nâu”, những mẹ, những cụ già, những con người của xứ sở Kinh Bắc! Đau đớn bao nhiêu! Căm giận bấy nhiêu!Cả một đoạn thơ dài tuôn trào lai láng những xúc cảm mãnh liệt. Bao trùm những cung bậc tình cảm thiết tha, sâu lắng về nỗi đau quê hương bị giặc tàn phá, tàn phá những truyền thống văn hóa cổ truyền, đảo lộn tất cả những sinh hoạt bình dị của con người Kinh Bắc. Phải chăng, cái đau của “đàn lợn âm dương chia lìa đôi ngã”, của đám cưới chuột tan tác trên bức tranh Đông Hồ xưa đã thôi thúc những người con của quê hương cầm lấy súng:
Bộ đội bên sông đã trở về
Con đến giờ xuất kích
Trại giặc bắt đầu rung trong sương.
Cái khát khao muốn giữ gìn sự sum họp của đám cưới chuột, của đàn lợn âm dương, giữ gìn quê hương nghìn năm văn hiến, giữ gìn truyẻn thống nghìn đời của dân tộc phải trả lời bằng tiếng súng giết giặc ngoại xâm... Ta phải chiến đấu để giành lại cho ta tất cả.
Khi quê hương có bóng giặc thù là lúc ấy ta hiểu con người đúng nhất. Ta sẵn sàng đứng lên cầm súng đuổi giặc, mặc dù có thể đổ máu mình để được độc lập tự do, Hoàng Cầm ước mơ một ngày:
Sông Đuống cuồn cuộn trôi
Để nó cuốn phăng ra biển
Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời...Thì ta lại “về Bên kia sông Đuống”. Một ước mơ chân thành và giản dị như người Kinh Bắc nhưng đau đáu một nỗi niềm và lấp lánh niềm tin vào sự thắng lợi của dân tộc với kẻ thù hung bạo nhất. Tình yêu đất nước của Hoàng Cầm là luồng ánh sáng của niềm tin và hi vọng - ta phải chiến thắng, phải được trở về bên kia sông Đuống, tìm em, em lại thắt lụa hồng, mặc yếm thắm như những cô gái Kinh Bắc ngày xưa cùng “trẩy hội non sông”:
Bài thơ Bên kia sông Đuống khép lại trong nụ cười cô gái Kinh Bắc duyên dáng “Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh” nhưng lại mở ra bằng chân trời của mơ ước, của niềm tin yêu mãnh liệt.
Cảm hứng, đối với thơ còn mạnh hơn nhiều, đôi khi là “thần hứng” (Platôn). Cảm hứng của bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm là tình cảm bật ra từ trái tim yêu quê hương đất nước mặn nồng, tha thiết, một tình cảm lắng đọng, trào lên mãnh liệt, nó không có nét hoài cổ như trong Thăng Long thành hoài cổ, cũng không có cái đau rõ ràng trước mắt, rõ như Quê hương của Giang Nam; nó là sự đan cài, xen lẫn của quá khứ và hiện tại, của nhớ nhung và nuối tiếc, của yêu thương và căm giận, nó bàng bạc như huyền thoại, nó tuôn ra như thác lũ với những điệp từ, điệp ngữ dội vào lòng ta đau nhói... “đi đâu, về đầu”.
Đất nước luôn là thi hứng, là đề tài muôn thưở của nhà thơ. Nhưng mỗi khi có những sự kiện vĩ đại, cảm hứng ấy vụt lớn lên và nhờ thế sẽ biến tác phẩm của nhà thơ thành những kiệt tác. Ta đừng để cho thơ thành ngẫu hứng; thần hứng khởi nguồn tự đáy lòng mình, là tiếng nói bay cao, vút lên từ nhịp tim xúc động đập gấp gáp, từ con tim đã tràn đầy tình yêu.
Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 17)
Khi phân tích soạn bài Bên kia sống Đuống, chúng ta sẽ thấy từng dòng cảm xúc cứ hiện ra, vơi đầy như chính cõi lòng của thi nhân khi hướng về mảnh đất yêu dấu của mình. Lắng lòng biết bao nhiêu…
“Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống”
Đại từ phiếm chỉ “em” được nhà thơ sử dụng thật tự nhiên và tinh tế biết bao. Chỉ đôi lời thơ nhẹ nhàng mà nghe sao lắng sâu đến vậy. Phải chăng việc sử dụng đại từ “em” cũng chỉ là cái cớ để thi nhân bộc lộ nỗi lòng mình một cách chân thành nhất. Lời an ủi ấy thực chất chỉ ra hoàn niệm của Hoàng Cầm. Trong những hồi ức ấy, hình ảnh con sông Đuống hiện lên thật quen thuộcMột bờ cát dài phằng lì với cái dáng nghiêng nghiêng thật quen thuộc. Bên kia sống Đuống được khơi nguồn và mở ra bằng chính những cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú. Cái dáng nghiêng nghiêng ấy là một sáng tạo độc đáo đấy ấn tượng trong nghệ thuật thơ ca của Hoàng Cầm. Không gian và thời gian, ám ảnh mãi không thôi.
Một hành trình dài trong tâm tưởng được mở ra với biết bao hình ảnh chân thực. Con sông hiện lên trong niềm nhớ của nhà thơ thật đẹp xiết bao với đôi bờ kì ảo, với sắc sáng trắng tinh khôi “một dòng lấp lánh”. Ở bên kia sông Đuống – là bên này và bên kia – đan xen nhau trong sự hiện diện kí ức của nhà thơ về khoảng cách không thể nào vượt qua.Trong tâm trí của của người đọc bỗng hiện lên một dòng sông thơ mộng của ánh sáng. Đó cũng chính là hình ảnh thân quen về một quê hương yên bình, no ấm và trù phú. Kinh Bắc, Luy Lâu vốn là cái nôi văn hóa lâu đời của vùng đồng bằng Bắc Bộ, là quê hương của những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng, là xứ sở của trống đồng Đại Bái… Hơi thở của từng câu thơ hiện lên bằng câu hỏi âm vang đầy nhức nhối.“Sao xót xa như rụng bàn tay” hình ảnh so sánh đã cụ thể hóa nỗi đau của tác giả như chính một phần cơ thể mình bị chia cắt vậy. Sao không xót xa được khi quê hương chôn rau cắt rốn của mình đang ngập trong khói đạn. Với âm hưởng day dứt cùng với câu hỏi tu từ như một dấu ấn dai dẳng trong tâm tưởng của chủ thể trữ tình trong đoạn thơ Bên kia sông Đuống.
Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 18)
Sau những kí ức tươi đẹp về làng quê yên bình, những đau đớn căm hờn khi quê hương bị tàn phá, nhà thơ Hoàng Cầu đã vẽ lên một tương lai tươi sáng đầy hi vọng về chiến thắng qua những hình ảnh cụ thể và gợi nhiều liên tưởng
“Hé một cánh liếp
Con về đây bốn phía tường che…”
Thi nhân Hoàng Cẩm đã diễn tả cảnh bộ đội về làng, được sự bao bọc bảo vệ của người dân Kinh Bắc. Dưới sự chỉ huy của cách mạng, nhân dân quan họ đã vùng lên chiến đấu và tấn công kẻ thù. Nhịp điệu tươi vui rộn ràng bên trên bỗng chuyển sang sự uất hận căm thù lũ giặc.
“Bộ đội bên sông đã trở về…
Hờn ta cùng với đất này dài lâu”
Với những hình ảnh đắt giá “trại giặc run trong sương” “dao lóe” “gậy lùa” đã miêu tả biết bao sự dữ dội của cuộc kháng chiến, đồng thời cũng ngợi ca tình thần bất khuất can đảm của những người dân quan họ Kinh Bắc, của những em, những mẹ anh hùng… Bên kia sông Đuống đã vùng lên đấu tranh với kẻ thù xâm lược, đã đi theo con đường Cách mạng.
“À ơi…cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù…”
Đó là truyền thống cách mạng của biết bao gia đình Kinh Bắc nói riêng, của người dân Việt Nam nói chung. Sự hi sinh anh dũng của người cha, sự tiếp nối vùng lên của đứa bé từ trong câu hát à ơi đã cho thấy sự uất hận, sự mãnh liệt đối với kẻ thù. Đó không chỉ là tiếng thơ, là tiếng nói của những người dân Kinh Bắc xưa trong chiến tranh bom đạn, mà còn là những tâm tư của tác giả Hoàng Cầm, là nỗi xót xa căm phẫn quân thù của người con Kinh Bắc đang nhớ thương quê hương.
“Em ơi đừng hát nữa…Mẹ ơi đừng khóc nữa…”
Động từ “đừng” thể hiện sự đau đớn và xót xa biết bao. Bên kia sông Đuống ấy là biết bao âm thanh, là biết bao cảnh tượng đan xen trong tâm trí nhà thơ. Là những nuối tiếc nhớ nhung, là những nỗi sầu day dứt, là nỗi căm hờn lũ giặc bạo tàn đã khiến quê hương chìm trong biển lửa mưa bom. Đoạn thơ cuối chính là những hi vọng được cụ thể hóa bằng những biện pháp tu từ so sánh và ẩn dụ“Vì nắng sắp lên rồi…Bao nhiêu nỗi đời”

Chân trời của Cách mạng, của sự vùng lên quật cường gan góc, của sự trung kiên ý chí đã thổi vào từng câu thơ. Bên kia sông Đuống với hình ảnh “cuồn cuộn trôi” thể hiện sự gấp gáp, sự khẩn trương của tinh thần đấu tranh quân thù. Sông Đuống lúc này đã trở thành một người anh hùng của dân tộc “Để nó cuốn phăng ra bể…”. Bên kia sông Đuống đã chứng kiến bao nhiêu nước mắt, đã ghi lại bao nhiêu máu và mồ hôi, bao nhiêu bóng tối u buồn. Giờ đây, dưới ngòi bút nghệ thuật ẩn dụ, con sông Đuống sẽ hiện lên đấu tranh anh dũng với quân thù.Sáu câu thơ cuối là những lời tâm tình nhỏ nhẹ. Bên kia sông Đuống kết thúc với hình ảnh những cô gái quan họ tình tứ mặc yếm hồng để đi trẩy hội. Hình ảnh ấn tượng nhất đọng lại trong tâm tưởng người đọc chính là nụ cười mê ánh sáng đầy xuân xanh của niềm tin và hi vọng, của sự thành công của cuộc kháng chiến, của thắng lợi với đường lối của Cách mạng.

“Anh lại tìm em” nghe sao thân thương quá đỗi như vậy. Em ở đây không chỉ là riêng một cô gái cụ thể, mà còn là những kí ức tươi đẹp, những hồi ức yên bình về mảnh đất Kinh Bắc xưa. Mùa xuân sẽ về trong ước mơ hòa bình, với sự tưng bừng rộn rã của lễ hội. Hình tượng trữ tình “em” hiện lên mang vẻ đẹp lung linh của ánh sáng rực rỡ.Có thể thấy, bên kia sông Đuống là bài thơ ngập tràn những xúc cảm của thi nhân Hoàng Cầm, là tình yêu quê hương mãnh liệt, là nỗi nhớ thương vơi đầy ở bên này sông Đuống. Trái tim của nhà thơ đã hòa vào nhịp thở của con sông Đuống với những cảm xúc tự nhiên nhất, với những nhịp đập vui buồn, căm phẫn cùng nỗi đau của quê hương, mơ ước tin tưởng về ngày mai chiến thắng. Bên kia sông Đuống mãi là tiếng thơ âm vang của nhịp sống Kinh Bắc hôm nay và mãi về sau.Bên kia sông Đuống đã trở thành biểu tưởng của niềm tin và ước vọng. Sự thành công của tác phẩm đầu tiên phải kể đến tình cảm chân thành tha thiết của thi nhân Hoàng Cầm với xứ quan họ quê hương. Bên cạnh đó, là sự tinh tế, sâu sắc mà đầy tài hoa trong ngòi bút của tác giả với việc sử dụng hàng loạt hình ảnh chân thực cũng như tưởng tượng, các biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa và ẩn dụ.Không chỉ dừng lại ở đó, âm điệu thơ gợi cảm, lúc vui tươi rộn ràng, khi lại đầy phẫn uất cùng với việc sử dụng từ ngữ đặc sắc và sinh động, lời thơ tha thiết… Tác phẩm Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm đã được nhạc sĩ Giáp Văn Thạch phổ nhạc thành ca khúc rất quen thuộc về quê hương Kinh Bắc.BÀIHoàng Cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922, quê ở xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Đây là vùng đất có truyền thống văn hiến lâu đời, quê hương của những câu ca quan họ tình tứ mượt mà, của tranh làng Hồ độc đáo, quê hương của nhiều lễ hội, chùa chiền, của những câu truyện cổ tích, truyền thuyết quen thuộc.
Hồn thơ Hoàng Cầm gắn bó máu thịt với quê hương. Đất Kinh Bắc thu hút tâm hồn, khơi dậy nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ vơi cạn trong ông. Hoàng Cầm đã dành cho quê hương biết bao lời thơ ngọt ngào đằm thắm như quan họ bao cảnh thơ cổ kính, thơ mộng như một giấc mơ. Ngay cả những bài thơ viết về các đề tài khác, Hoàng Cầm cũng ngân lên bằng giọng điệu của quê mình.
Bài thơ Bên kia sông Đuống được Hoàng cầm viết vào một đêm tháng 4- 1948. Sau khi nghe tin quê hương mình bị giặc chiếm đóng, nhà thơ vô cùng đau xót, tâm tư chồng chất bao nhớ thương,, nuối tiếc. Tình yêu quê hương thiết tha mãnh liệt đã thôi thúc Hoàng cầm viết những lời thơ đầý xúc cảm chân thành về quê hương bên kia sông Đuống của mình.
Bài thơ mở đầu bằng một tiếng gọi thiết tha, đồng thời cũng là lời an ủi vỗ về:

Em ơi buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sức hấp dẫn của bài thơ này trước hết là giọng điệu. Giọng điệu trữ tình thiết tha đằm thắm của Hoàng cầm như cất lên từ sâu thẳm tâm hồn, nhỏ nhẹ, thân thương, vô cùng thấm thía. Hai nhân vật trữ tình “anh” và “em” được giới thiệu khéo léo qua những câu thơ mở đầu. “Anh” chính là cái tôi trữ tình của nhà thơ, “em” là một nhân vật trữ tình không hoàn toàn xác định. “Em” có thể là người thân, người thương, người cùng quê bên kia sông Đuống, môt đối tượng mà nhà thơ muốn gửi gắm tâm tình, muốn dốc bầu tâm sự. Từ chiến khu Việt Bắc, Hoàng Cầm trở về quê hương, về với dòng sông Đuống bằng tưởng tượng. Đó là cuộc trở về với những kỉ niệm êm đẹp, trở về với cảnh thanh bình của đất nước quê hương. Hình ảnh dòng sông hiện về tâm trí của nhà thơ thật đẹp, thật thơ mộng, thật êm đềm. Dòng nước trôi xuôi “lâp lánh”, đôi bờ “cát trắng phẳng lì” và tràn trề bao sự sống sinh sôi:
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc.Đối với Hoàng Cầm, dòng sông là một phần sinh thể của quê hương, nó mang hồn quê, tình quê, nó hiện lên với tư thế và tâm trạng riêng: “Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”. Phải chăng qua hình ảnh này, nhà thơ muốn nói lên tâm trạng của mình và không khí lo âu, thắc thỏm, sự vắng lặng đầy căng thẳng của quê hương trong ngày giặc tới. Càng tự hào về quê hương giàu đẹp, nhà thơ càng xót xa đau đớn khi quê hương bị quân thù giày xéo. Nỗi đau xót như chạm vào tâm hồn và thể xác của nhà thơ:
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay.Sau khi nêu cảm hứng chung của bài thơ, tác giả tập trung vào hai hệ thống hình ảnh mang màu sắc tương phản. Đó là những vẻ đẹp của quê hương và sự tàn phá của kẻ thù. Hai hệ thống hình ảnh đó làm nổi rõ sự đối lập giữa quá khứ và hiện tại, giữa cuộc sống thanh bình và khói lửa chiến tranh; giữa dựng xây và tàn phá, giữa sự sống và cái chết. Song song với hai hệ thống hình ảnh tương phản ấy là hai đợt sóng tâm trạng căm thù và yêu thương càng dâng lên mạnh mẽ trong lòng nhà thơ.
Ít có nhà thơ nào gắn bó máu thịt với quê hương như HoàngCầm. “Đất Kinh Bắc đã hút hết tâm hồn tôi và cả đời thơ của tôi”, có lần ông đã tâm sự như vậy. sống ở đâu, ông cũng hướng về Kinh Bắc, tự hào về Kinh Bắc giàu đẹp của mình:
Bên kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.
Nhớ đến quê hương là Hoàng Cầm nhớ đến mùi lúa nếp thơm nồng. Hương vị đặc biệt ấy toả ra từ những cánh đồng bát ngát, toả ra từ những bát cơm thơm trong mỗi ngôi nhà. Hương vị ấy gợi về một vùng quê trù phú có cuộc sống đầm ấm yên vui. Hoàng Cầm không những tự hào vẻ sự giàu đẹp mà còn tự hào về truyền thống văn hoá lâu đời của quê hương. Quê hương ông là quê hương của những bức tranh làng Hồ độc đáo. Vì vậy nhớ đến quê hương là
trong tâm trí nhà thơ hiện lên hình ảnh những bức tranh dân gian vơi những Mẹ con đàn lợn âm dương, Đám cưới chuột, Thầy đồ cóc, Hứng dừa, Đánh ghen. Những tác phẩm nghệ thuật ấy độc đáo từ chất liệu đến hình tượng, từ đề tài đến nội dung triết lí. Từ những bức tranh ấy thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, toát lên vẻ đẹp trong sáng, thuần phác của tâm hồn và ẩn chứa những nội dung triết lí sâu sắc. Đó chính là “màu dân tộc”, bản sắc tâm hồn dân tộc bừng sáng trên các bức tranh mà Hoàng Cầm cảm nhận được một cách sâu sắc. Từ những hoài niệm về quá khứ, nhà thơ trở về hiện tại, đối diện với nỗi đau xót lớn lao. Ngày giặc chiếm quê hương là cái mốc thời gian phân định rạch ròi giữa quá khứ và hiện tại. Đó là một sự kiện gây ấn tượng mạnh mẽ trong tâm hồn nhà thơ, một “ngày khủng khiếp”. Hình ảnh kẻ thù được nhà thơ hình tượng hoá qua hình ảnh “ngọn lửa hung tàn”. Đó là ngọn lửa thiêu đốt, huỷ diệt sự sống, ngọn lửa gieo rắc cảnh tang tóc đau thương điêu tàn. Viết về thảm cảnh ấy, lời thơ của Hoàng Cầm bỗng trở nên rắn rỏi, gân guốc, chứa đầy uất hận:
Ruộng ta khô
Nhà ta chảy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máuHình ảnh bầy chó ngộ hung hăng, khát máu, lưỡi đỏ sắc máu là hình ảnh ám chỉ bầy giặc ác hung tàn. Bọn chúng đi đến đâu là phá tan cuộc sống yên bình đến đó:
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang từng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu?Trong thơ Hoàng Cầm có những bước nhảy đột xuất từ quá khứ sang hiện tại, từ thực sang ảo. Hình tượng “Mẹ con đàn lợn âm dương”, “Đám cưới chuột” trong các bức tranh làng Hồ là hiện thực đời sống, là niềm mơ ước của nhân dân từ bao đời nay. Cuộc sống ấy, mơ ước ấy bây giờ đang bị kẻ thù tàn phá. Bọn chúng không những thiêu huỷ những giá trị vật chất mà còn thiêu huỷ cả những giá trị tinh thần mà nhân dân sáng tạo. Những cảnh thanh bình trong hiện thực và trong những bức tranh đều tan tác, chia lìa. Đoạn thơ kết thúc bằng một câu hỏi đầy xót xa nuối tiếc: “Bây giờ tan tác về đâu?”.
Viết Bên kia sông Đuống, Hoàng Cầm đã thực hiện cuộc hành trình không biết mệt mỏi đi về quá khứ. Cái thực không làm tan biến cái mộng, đau thương không làm tan biến ngọt ngào. Những lời nhắn gửi thiết tha “Ai về bên kia sông Đuống” trở thành điệp khúc của những hành trình tái ngộ. Nhà thơ trở về quê hương của những ngày tháng thanh bình để được sống trong không khí hội hè từng bừng vui vẻ, về với mảnh đất vui (Lạc Thổ) từ mấy ngàn năm. Nhà thơ về để chiêm ngưỡng những đền chùa cổ kính, những danh lam thắng cảnh của quê hương, để gặp “những cô nàng cắn chỉ môi trầu”, “những cụ già phơ phơ tóc trắng”, “những em sột soạt quần nâu”. Hình ảnh quê hương trong hoài niệm của nhà thơ hiện về như một giấc mộng.
Hình ảnh đáng yêu nhất là những người con gái quê hương Kinh Bắc xinh xắn dịu dàng mà tình tứ hào hoa. Nhà thơ dành những lời thơ mềm mại nhất để viết về những cô gái ấy:
Ai về bên kia sông Đuống
Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu toả nắng.Hình ảnh khuôn mặt búp sen gợi lên những vẻ đẹp riêng của người thiếu nữ làng quê quan họ. Đó là khuôn mặt xinh xắn, tươi tắn được điểm tô bằng chiếc khăn mỏ quạ, bằng chiếc nón quai thao lại càng thêm duyên dáng mặn mà. Nụ cười của họ cũng dịu dàng như nắng mùa thu, mang lại niềm vui, niềm hạnh phúc cho mọi người.
Hình ảnh những người con của quê hương cứ hiện lên trong tâm trí Hoàng Cầm là người mẹ già ấy. Nhớ đến mẹ là nhà thơ nhớ đến hình ảnh gánh hàng xén trĩu nặng trên đôi vai mẹ. Đã bao năm mẹ đã tần tảo sớm hôm đi khắp chợ làng, chợ huyện để kiếm tiền nuôi con ăn học. Đối với Hoàng Cầm, mẹ là hiện thân sinh động nhất, trọn vẹn nhất của quê hương. Cứ mỗi lần về Kinh Bắc, dù chỉ trong tâm tưởng nhà thơ cũng cầu khẩn: “Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc”.
Cuộc đời mẹ đã trĩu nặng bao nhọc nhằn cay đắng, khi chiến tranh xảy ra mẹ càng vất vả và khổ đau hơn. Hình ảnh “Mẹ già quảy gánh hàng rong. Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” gợi lên bao xót xa thương cảm. “Mẹ già”, “tóc bạc”, “gánh nặng”, “đường trơn”, “mưa lạnh” - hàng loạt hình ảnh xuất hiện liên tiếp, chồng chất mãi lên cuộc đời nghèo khổ của mẹ. Hình ảnh “con cò trắng bay vùn vụt” hốt hoảng mà không biết về đâu càng góp phần gợi lên thân phận của người mẹ già trong cảnh chiến tranh loạn lạc. Viết đến đây, hẳn trái tim nhà thơ thắt lại bởi đau đớn xót xa. Mẹ là nạn nhân đau khổ của chiến tranh và biết bao người mẹ Việt Nam thời ấy cùng phải chịu chung số phận như mẹ.
Chiến tranh là nỗi kinh hoàng lớn nhất đối với trẻ thơ. Những đứa trẻ, trong đó có con của Hoàng Cầm không những phải chịu đựng cảnh đói rét mà còn phải chịu đựng biết bao nỗi khổ do chiến tranh gây nên. Chiến tranh là nỗi ám ảnh ghê gớm, ám ảnh trong cả giấc mơ của trẻ nhỏ:Trong giấc mơ tiếng súng đồn tựa sấm
Ú ớ cơn mê
Thon thót giật mình
Bóng giặc giày vò những nét môi xinhNói đến vẻ đẹp hồn nhiên trong sáng của trẻ thơ là nói đến nụ cười nở trên đôi môi xinh, là nói đến những giấc mơ đẹp. Vậy mà những vẻ đẹp ấy cũng bị giặc giày vò, huỷ hoại. Càng viết Hoàng Cầm càng đau xót và căm thù. Tội ác của kẻ thù không thể nào ghi hết, người chép chưa đủ còn “có đất này chép tội” để có ngày quân thù phải đền tội.
Hoàng Cầm viết bài thơ Bên kia sông Đuống năm 1948, lúc quê hương mới bị kẻ thù chiếm đóng nhưng nhà thơ đã nghĩ đến ngày quê hương mình đứng lên đánh đuổi kẻ thù. Với năng lực tưởng tượng phong phú, nhà thơ diễn tả khá sinh động cảnh bộ đội về làng và nhân dân vùng lên giết giặc. Đây là đoạn thơ mang nhiều yếu tố tự sự, lời thơ có phần dễ dãi nhưng thẳng hoặc có những câu thơ đột xuất diễn tả sinh động tình cảm quân dân:
Lửa đèn leo lét soi tình mẹ
Khuôn mặt bừng lên như dựng trăng.Bài thơ kết thúc bằng cảnh ngày hội non sông từng bừng vui vẻ, đó là ngày mừng thắng lợi, ngày trở về, ngày đoàn tụ. Hình ảnh người con gái quê hương tươi tắn dịu dàng lại hiện lên rất đẹp trong lễ phục truyền thống:
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.Hình ảnh đó sẽ còn đọng lại mãi trong tâm trí của người đọc và cùng người đọc đi tới tương lai.
Bài thơ Bên kia sông Đuống là bài thơ trữ tình đằm thắm, là lời ca ân tình mà Hoàng Cầm viết tặng quê hương mình. Dưới ngòi bút tài hoa của Hoàng Cầm, thế giới làng quê bên kia sông Đuống từ ngàn xưa hiện về thật đẹp, thật đáng yêu và vô cùng thân thuộc. Những cảnh ấy mang đậm màu sắc địa phương mà vẫn tiêu biểu cho mọi làng quê trên đất nước Việt Nam. Hoàng Cầm viết bài thơ này trong hai đợt sóng trào dâng mãnh liệt: yêu thương và căm thù. Càng thiết tha yêu quê hương, nhà thơ càng cháy bỏng căm thù, càng trân trọng tự hào trước vẻ đẹp của quê hương nhà thơ càng khắc ghi, chép hết tội ác kẻ thù. Tình cảm mãnh liệt ấy có sức lôi cuốn mạnh mẽ trái tim của nhiều thế hệ bạn đọc để mỗi lần nhớ quê hương chúng ta lại về Bên kia sông Đuống với Hoàng Cầm.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 19)

Nhắc đến Kinh Bắc là nhắc đến vùng đất cổ của người Việt với nhiều giá trị văn hóa truyền thống quí báu. Sinh ra, lớn lên trên quê hương đó, hồn thơ Hoàng cầm đã gắn bó máu thịt với từng cảnh vật, con người, từng nét văn hoá tinh thần ông cha để lại. Để rồi bao yêu thương, nâng niu, say mê đã kết đọng nên một Bên kia sông Đuống mà “mỗi vần thơ dòng dòng cảm xúc” (Trần Đăng Suyền).

Sinh ra và lớn lên giữa vùng Bấc Ninh đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc, nhà thơ Hoàng Cầm gắn bó và yêu thương vùng đất ấy vô cùng. Thế nên khi hay tin giặc Pháp chiếm phía nam Bắc Ninh, Hoàng cầm không khỏi xúc động, đau đớn. Chính trong nguồn cẩm hứng ấy, chỉ trong một đêm, bài thơ Bên kia sông Đuống ra đời, chứa đựng bao nhiêu tình cảm của nhà thơ. Mở đầu bài thơ, Hoàng Cầm viết:

Em ơi buồn làm chi

Sao xót xa như rụng bàn tay.

Những câu thơ đã mở ra một vùng không gian đẫm đầy nỗi thương tha thiết, đủ sức lôi cuốn, thúc giục người đọc.

Theo lời kể của tác giả, 3 câu đầu của bài thơ Bên kia sông Đuống được ra đời một cách kỳ lạ trong đêm nhà thơ nghe kể về tình hình quê hương: Tâm trí tôi dần tĩnh lại trong cái im ăng đến nghe rõ cả tiếng một con muỗi vo ve đâu đó. Đột nhiên, như từ xóm nào xa, vang vọng ngay bên tai tôi một giọng như hát, như than thở, như ru em, một giọng phụ nữ trong trẻo nghe mồn một, nhưng lại nghe tự lúc tôi còn thơ đại. (Sông Đuống bắt nguồn từ đâu? trong Hoàng cầm - thơ văn và cuộc đời, Nxb. Văn hóa thống tin, 1997)

Bài thơ được bắt đầu như thế với ba dòng như rót từ cõi xa xăm nào xuống. Quả thực, đó là những câu thơ rất lạ, vừa thoảng chút ai oán, vừa thoảng chút yên ủi, vỗ về:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Hình ảnh đầu tiên xuất hiện với gọi tha thiết là nhân vật trữ tình em. Em là ai? Có lẽ chỉ nên xem là một nhân vật phiếm chỉ mà nhà thơ cần đến để giãi bày tâm sự, tìm sự đồng cảm, hoặc cũng có thể nhân vật phân thân của chính tác giả. Hình ảnh cát trắng phẳng lì chợt hiện ra làm nhẹ lòng người, gợi nỗi tiếc nhớ cái ngày xưa êm ả, thanh bình, khơi đúng nguồn mạch trữ tình để người viết nhập vào quá khứ.

Hình ảnh đầu tiên hiện ra trong nỗi nhớ nhà thơ vẫn là con sóng Đuống:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Sông Đuống dưới ngòi bút của nhà thơ hiện lên rất mực trữ tình. Mỗi câu thơ như muốn ghi lại sắc thái của nó trôi đi, lấp lánh, nghiêng nghiêng. Những từ này trong trạng thái hoạt động, đặc biệt nét nghiêng nghiêng khiến dòng sông như một sinh.thể có hồn, thân thiết, đáng yêu. Dòng sông như một sinh linh của Kinh Bắc để chia sẻ mọi vui buồn của người đời. Còn với nhà thơ, chủ thể trữ tình trong tác phẩm, sông Đuống là dòng ký ức. Tuy có lúc phải xa con sông quê, nhưng dòng ký ức ấy vẫn chảy mãi trong tâm hồn.

Trong quá khứ, là những hình ảnh đẹp gợi lên từ một làng quê trù phú, giàu sức sống:

Xanh xanh bãi mía nương dâu

Ngô khoai biêng biếc

Hai dòng thơ nhưng cấu trúc đảo ngược nhau. Sự đảo ngược ấy có thể là ngẫu nhiên theo dòng cảm xúc của tác giả song lại tạo ra hiệu quả nghệ thuật bất ngờ: hình ảnh đầu tiên mà người ta bắt gặp là cái màu xanh xanh đến ngút ngàn của bãi mía nương dâu, rồi sự đọng lại của vẻ biêng biếc ngô khoai. Một đằng tác động vào thị giác, một đằng vào cảm giác. Còn hiện tại lại là nỗi xót xa:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Hai dòng thơ, hai câu hỏi nhưng là một tâm trạng. Nỗi lòng ấy đang điệp trùng bao nỗi, từ nhớ tiếc lẫn xót xa. Nhà thơ không nói nhớ tiếc hay xót xa điều gì, có bãi mía, nương dâu, có ngô khoai biêng biếc, nhưng có tất cả những gì của quê hương, là quê hương.

Điệp từ sao (sao nhớ tiếc, sao xót xa) như những câu hỏi làm nhức nhối lòng người. Nghệ thuật so sánh có sức gợi cảm, một là lấy nỗi đau tinh thần so sánh với nỗi đau thể xác khiến người đọc cảm nhận được nỗi đau cụ thể. Hai là, coi quê hương như một phần cơ thể. Quê hương bị giặc giày xéo đau đớn như một phần cơ thể bị mất.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu”

Ai đó đã nói thơ là sự chín đỏ của cảm xúc. Với Hoàng cầm, ngọn lửa tình yêu Kinh Bắc âm ỉ, mãnh liệt đến nỗi chỉ một tàn tro cũng đủ làm nó bùng lên. Khai đoạn là bốn chữ “bên kia sông Đuống” vừa gợi nhắc không gian xa cách, vừa gợi nhắc thời gian quá khứ. Tự nó đứng thành một câu, buông một nỗi khắc khoải, đau đáu lạ kì. Hướng về bẽn kia sông Đuống, điều trước tiên Hoàng cầm nhớ tới là những giá trị văn hoá lâu đời - thứ làm nên diện mạo tinh thần cho xứ sở Kinh Bắc. Dòng hoài niệm của tác giả xuôi về với từng mùi hương, từng nét vẽ, từng sắc giấy... Kinh Bấc được ngòi bút nhà thơ lần lượt tái hiện bằng hương lúa nếp và những bức tranh Đông Hồ nổi tiếng. Một thứ biểu trưng cho đời sống vật chất đủ đầy, một thứ biểu trưng cho đời sống tinh thần lành mạnh. Những tính từ “thơm nồng”, “tươi trong”, “sáng bừng” vừa mang lại hương sắc, vừa mang lại màu sắc cho bức tranh quê hương. Khó có thể diễn tả lại những gì được gợi nên từ chúng. Chỉ có thể cảm nhận được thần thái của bức tranh đó khi lí đặt ra câu hỏi: Sao Hoàng cầm không viết “thơm ngát” như Nguyễn Đình Thi viết “những cánh đồng thơm mát”? Sao Hoàng cầm khổng viết “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi tắn”, “Màu dân tộc sáng chói trên giấy điệp”? Đấy là chưa nói đến sự tinh tế khi tác giả sử dụng biện pháp ẩn dụ “màu dân tộc”. Bốn câu thơ thấm đậm chất dân gian, gợi chất liệu, đề tài, tư tưởng, phong cách nhân dân, màu sắc dân tộc (Trần Đăng Suyền). Một Kinh Bắc đẹp đến nao lòng đang hiện về bàng bạc trong kí ức nhà thơ. Đoạn thơ mang âm hưởng hồ hởi, tha thiết, diễn tả niềm say sưa của Hoàng Cầm với sắc màu, điệu sông yên ả, hồn hậu của quê hương. Ba tiếng “quê hương ta” không giấu được niềm tự hào của người con đất Kinh Bắc.

Nhưng càng tự hào, càng hãnh diện về quê hương bao nhiêu, nhà thơ càng đau đớn, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương tươi đẹp đang bị giặc giày xéo bấy nhiêu. Kinh Bắc thanh bình phút chốc chìm ngập trong khói lửa chiến tranh. Chỉ với vài câu thơ ngòi bút thi nhân đã bao quát toàn bộ cảnh tượng quê hương bị huỷ diệt:

“Ruộng ta khô

Nhà ta cháy”

“Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”

Cuộc sống nhân dân bị quân giặc tróc nã từ miếng ruộng mưu sinh đến nơi trú ngụ. Tác giả không ngại ngần vạch trần, lên án gay gắt sự bạo tàn của quân thù:

“Giặc kéo lèn ngùn ngụt lửa hung tàn”

“Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu”

Trong lời tuyên cáo, Hoàng Cầm đã hơn một lần sử dụng nghệ thuật ẩn dụ. Hình ảnh “ngọn lửa hung tàn” và “chó ngộ” đặc tả sự hung bạo, dã man, điên dại của lũ cướp nước. Sắc đỏ của lửa và máu chính là sắc màu tội ác của bầy hám mồi. Nó đối lập hoàn toàn với “nét tươi trong” của bức tranh quê hương bên trên. Nhịp thơ ngăn dài đan xen như cuộn lên bao uất ức, sôi lên bao căm phẫn.

Trong những đau thương, mất mát, Hoàng cầm nhấn mạnh hơn cả vào sự tan tác, chia lìa:

“Mẹ con đàn lạn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu”

Thật khó để phân định thực và ảo ở đoạn thơ này. Bóng dáng cuộc đời thực đang lồng vào trong chính những bức tranh Đông Hồ hay những bức tranh đang sống dậy để cùng chịu sự truy bức với cả dân tộc? Mượn thế giới nghệ thuật trong tranh, Hoàng Cầm đã diễn tả thành công cảnh tượng thật ngoài đời. Tranh Đông Hồ không chỉ là những bức hình mang chứa vẻ đẹp quê hương Kinh Bắc mà trong nó còn cất giữ hương hồn con người, dân tộc Việt Nam. Tranh Đông Hồ có rất nhiều nội dung, nhưng Hoàng Cầm lại cố ý lựa chọn hai bức Mẹ con đàn lợn âm dương và Đám cưới chuột để xoáy thật sâu vào bi kịch chìa lìa. Hạnh phúc gia đình, hạnh phúc lứa đôi bị giày xéo, chà đạp phũ phàng. Những từ láy “chìa lìa”, “tan tấc” đã khắc hoạ rõ nét cảnh tượng thương tâm này. Những câu thơ tuôn trào như tiêhg nấc nghẹn hoang mang không kìm giữ nổi. Câu thơ cuối cùng là câu hỏi, gieo lời hỏi nhưng thực chất lại bộc lộ sâu sắc nỗi xót xa đến ngẩn ngơ.

Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửa tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong cùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sầu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các từ chỉ địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là "trên", "trong", "giữa". Nhà thơ Hoàng cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của "mộng bình yên" đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác hoạ bằng những câu thơ cụ thế’:

Những nàng môi chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt áo nâu

Chỉ bàng vài nét phác hoạ, Hoàng Cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, những cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Nhưng nỗi ám ảnh trong Hoàng cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu toả nắng

Chữ "Có nhớ" đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh "khuôn mặt búp sen" gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái. Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh "cô hàng xén răng đen", đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống nữa của người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bấc với ánh năng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hoà giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giông với nét rạng ngời tươi tắn của năng mùa thu chứ không phải cái năng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như toả trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thờ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy "còm cõi" đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ "dăm", "vài" là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hoá ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ "hoen" được sử dụng rất hay, "hoen" không chỉ là sương thâm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác cúa kẻ thù:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Tác giả gọi kẻ thù là "lũ quỷ mắt xanh" - một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy "trừng trợn" không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, doạ dẫm cúa kẻ thù mà còn góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ "chợt" chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao "khua", "đạp", "xì xồ", "tan", "gầy teo" diễn tá những hành động dã man liên tiép của kẻ thù, những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lại dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Không gian hoang sơ hiu quạnh được gợi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu "lá đa lác đác trước lều" gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ thù xâm lược. Các từ "vài ba", "loang" được sử dụng rết đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chút từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa đông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gợi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay sáng chiều nhuận đổ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quan xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đầm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Mạch cảm xúc căm giận trào sôi trước hiện thực quê hương Kinh Bắc tươi đẹp ■ giàu có, bình yên chìm trong máu lửa để rồi bừng lên sức mạnh chiến đấu của những đoàn quân trở về giải phóng quê hương, chuẩn bị cho Kinh Bắc ca khúc khải hoàn. Thê nên, mở đầu đoạn thơ cuối Hoàng cầm viết:

Bao giờ về bển kia sông Đuống

Chữ "bao giờ" diễn tả thời gian trong tương lai, thời gian trong tương lai, thời gian của mơ ước, của khát khao chứ không phải là thời gian của thực tại. Mặc dù được lặp lại đến lần thứ sáu với nhiều biến thể khác nhau nhưng đây, cụm từ "bên kia sông Đuống" mới thật sự hàm chứa cái giọng của sự mong ngóng đến khắc khoải. Bởi vì "bên kia sông Đuống" là trở lại mái ấm, là tìm về mảnh đất thân thương máu thịt, nơi cất giữ mảnh hồn riêng của những con người Kinh Bắc. Và thế giới kinh Bắc ấy hội tụ nơi "em". Sự xuất hiện của từ "em" trong khổ thơ này một mặt tạo ra sự hô ứng, nhất quấn chặt chẽ trong cấu tứ hình tượng của toàn bài, một mặt gắn liền với lời động viên an ủi mở đầu thi phẩm:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Và lời hẹn ước năm nào đang trở thành một thực hay chính lời thơ chứa đựng niềm tin của nhân vật trữ tình "anh" sẽ trở lại quê hương ngay khi thi sĩ đặt bút viết những dòng đầu tiên về kinh Bắc ở cái thời điểm "giặc tràn lên đốt phá". Đó là niềm tin lãng mạn mang tính Cách mạng. Mặt khác, "em" chính là hình ảnh tiêu biểu hơn cả cho những vẻ đẹp kinh Bắc. Dõi theo lời thơ, ta thấy "em" hiện ra với "yếm thắm", "lụa hồng", trang phục rực rỡ, với nụ cười "mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh", trong không khí "trẩy hội non sông" tưng bừng của mùa xuân, mùa chiến thắng.

Để tái hiện chân dung những thiếu nữ kinh Bắc, Hoàng cầm vẫn tiếp tục sử dụng chất liệu đậm đà bản sắc dân tộc. Cách mô tả như vậy có nhiều điểm gặp gỡ vổi câu thơ Nguyễn Bính trong "Chân quê", "Chiều xuân" của Anh Thơ. Vì thế con người Kinh Bắc hiện ra với những vẻ đẹp mang bản sắc văn hóa truyền thống vừa thân thuộc dung dị, vừa duyên dáng tình tứ, vừa gợi nhớ gợi thương. Giữa không khí của lễ hội mùa xuân, "em" nổi bật nơi thế giới của những sắc màu và những đặc biệt tỏa sáng cùng nụ cười. Đây là lần thứ hai Hoàng Cầm đặc tả nụ cười thôn nữ, một nụ cười xuất hiện ở qúa khứ thanh bình, một nụ cười xuất hiện trong tương lai chiến thắng. Song, cả hai đều chứa đựng vẻ đẹp của niềm hạnh phúc.

“Cười như màu thu tỏa nắng"

“Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh

Nhà thơ đã khẳng định tài năng miêu tả theo lốì chấm phá của mình, vẫn là tái hiện vẻ đẹp con người qua ánh sáng mùa thu tình tứ, lại có nét cười trong ánh sáng mùa xuân trẻ trung tươi tắn, căng tròn sức sống. Nếu không phải là một hồn thơ đặc biệt nhạy cảm với vẻ đẹp cuộc sống, con người thì không thể nắm bắt được những vẻ đẹp ấy và miêu tả một cách tinh thế như vậy.

Ngôn ngữ thơ chưa hẳn đã mởi lạ bởi người đọc đã từng gặp "mùa xuân xanh" trong câu thơ Nguyễn Bính "mùa xuân chín" trong thơ Hàn Mặc Tử... Song sức hấp dẫn của câu thơ ở chỗ hai chữ "xuân xanh” khép lại thi phẩm gợi mở cho người đọc nhiều liên tưởng. Những ấn tượng đầu tiên thật bình yên, thanh thản và đầy tin tưởng. Bởi thế âm điệu thơ, nhịp điệu thơ không còn dồn bức, căng thẳng ngột ngạt như những đoạn thơ trước mà bỗng nhiên thư thái êm đềm, nhẹ nhàng lan tỏa. Đoạn thơ sáu dòng thì bốn dòng thơ giữa rất ngắn, gợi được cái âm điệu tưng bừng náo nức trong bước chân, trong ánh mắt, trong nét cười của con người. Dòng đầu và dòng cuối kéo dài không ngắt nhịp như cảm giác hạnh phúc ngập tràn.

Qua ”Bên kia sông Đuống", Hoàng Cầm đã thể hiện một tấm lòng tha thiết với quê hương đất nước. Tình càm dạt đào ấy hóa thân vào những dòng cảm xúc và tâm trạng đan xen nhau không ngớt: khi tự hào khi về truyền thống, hình ảnh quê hương, khi uất nghẹn, căm hờn trước sự tàn phá của quân giặc. Đọc "Bên kia sông Đuống" của Hoàng cđm, cảm xúc của người đọc cũng dặt dìu đồng cảm với nhà thơ. Gấp lại trang thơ, lòng ta cũng chợt "nghiêng nghiêng" về một miền "Bên kia sông Đuống" của riêng mình.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 20)

Cùng với “Tây tiến” của Quang Dũng, “ đồng chí” của Chính Hữu và “bên kia sông Đuống” là những thành tựu quan trọng trong thời ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm này thể hiện một phẩm chất mới trong ca ca trữ tình cách mạng. nó kết hợp hài, nhuần thấm giữa tình cảm riêng tư và hiện thực lớn của cách mạng. Bài thơ “bên kia sông Đuống” kết tinh những nghệ thuật của thơ của ông.

“Em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm đồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Mở đầu bài thơ bằng tiếng gọi, một lời an ủi “em ơi buồn làm chi”, câu mở đầu bài thơ đến với nhà thơ như sự vô thức, tiềm thức, nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đột nhà thơ như nghe được trong chính bản thân mình từ thôn xóm nào xa nghe vọng bài hát như than thở, như ru em, một giọng nữ trong trẻo nghe rõ mồn một nhưng lại nghe như lúc thời còn thơ dại, và nhà thơ đã cất lời an ủi “em ơi, buồn làm chi”.

“Em” trong thơ Hoàng Cầm thường gắn với những em Kinh Bắc xinh tươi, duyên dáng của ngày lễ hội và ở đoạn cuối của bài thơ thì em Kinh Bắc đó hiện ra rõ nét hơn. Bao giờ về bên kia sông Đuống, anh lại tìm em, em mặc áo yếm, em thắt lụa hồng, êm đi trẩy hội. “Em” ở trong bài thơ chính là hiện thân, hóa thân của quê hương, tác giả mượn em quê hương như một đối tượng trữ tình để bày tỏ tâm tình của mình với quê hương xứ sở. bài thơ thể hiện tình yêu quê hương nhưng nó tha thiết và trìu mến như chính người yêu của tác giả.

“Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ,..mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu đôi lứa, tôi còn dành cái tình yêu ấy cho nơi mình sinh ra” nhà thơ Hoàng Cầm từng chia sẻ như vậy.

“anh đưa em về sông Đuống” chỉ là hành trình trong hoài niệm, trong không gian tâm tưởng dòng sông quê hương đã hiện ra với vẻ đẹp bình yên “bờ cát trắng phẳng lì” nhưng đó chỉ là vẻ đẹp của “ngày xưa” thôi còn bây giờ bị tàn phá đi nhiều rồi.

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”

Tác giả miêu tả con sông thật sống động và như có tâm hồn vậy “cái dòng sông Đuống nghiêng nghiêng đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên 8,9 tuổi và khi tôi xa Kinh Bắc chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ trăn trở, suy nghĩ về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng ấy cũng là dáng vẻ suy tư số phận dân tộc”. Sông Đuống giống như một sinh thể có hồn, ôm ấp lấy quê hương.

“Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”

Từ láy “xanh xanh” “biêng biếc”, các điệp từ để nhấn mạnh sự trù phú, tươi đẹp của quê hương, nhưng ở câu cuối của khổ thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đê nói lên sự đau đớn, chia lìa.

Mỗi khổ thơ là những hoài niệm về cái gì thân thương nhất của quê hương đồng thời cũng là dòng “chép tội” của giặc mai mãi “không nguôi hờn”. Quê hương Kinh Bắc vói lúa nếp Làng Vân, trạn đồng hồ, thể hiện cuộc sống tươi đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần, tranh dân gian là đề tài quen thuộc, lấy những gì thân thuộc nhất để vẽ.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm đồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Hoàng Cầm nhà thơ của đất Kinh Bắc, nhà thơ đã phất cánh diều thơ của mình từ cánh diều thơ văn học, văn hóa Kinh Bắc, “bên kia sông Đuống” là một hình tượng tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phần mở đầu là cái nhìn toàn cảnh và cảm xúc khái quát về bên kia sông Đuống.

Còn độn hai của bài thơ thể hiện cảnh quê hương bị tàn phá do bom đạn, do chiến tranh, không còn cái yên bình, thơ mộng như ngày nào mà thay vào đó là cảnh quê hương bị bọn giặc phá hoại, chỉ nhìn thôi người ta cũng đủ đau xót.

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?”

Hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ thanh bình, gợi lên tình cảm yêu thương tiếc nuối bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù man rợ lại làm sục sôi căm giân bấy nhiêu. Những câu thơ trên lột tả những hành động thú tính, tàn bạo. ta đã thấy được sự tương phản ở phần đầu của bài thơ, đó là quê hương với nếp vàng thơm, với tranh đồng hồ đặc trưng, thì giơ đây lại nhuốm màu tang tóc, màu của mất mát và đau thương, một đồng quê, một làng quê yên bình, nên thơ giờ đây lại trở thành đồng cháy. Từ một bức tranh đời sống chân thực, sinh động, có bà lam lũ vất vả, có con thơ ham trò chơi, vẫn tung tăng với những trò nghịch phá thì giờ đây lại trở thành một vùng đất “tâm linh” giữa cái thực và ảo.

“Vùng tâm linh đó không phải cái gì xa với mà là những kỉ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc và thân quen với mình trong những năm tháng thơ ấu và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực”.

“Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng

mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em xột xoạt quần nâu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Quê hương Kinh Bắc với những chùa cổ kính và trang nghiêm cùng với những lễ hội đình làng có từ bao nhiêu đời. tác giả đã vẽ nên một bức tranh hội hè đông vui, có nam phụ lão ấu, sắc môi đỏ tươi, tóc trắng phơi phới, màu nâu tươi mới, nét duyên dáng, đằm thắm, vẻ thanh thản, an nhiên với dáng xúng xắng, tung tăng.

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen

Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa mầu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Kinh Bắc hiện lên với người con yêu dấu của quê hương. Những người con gái thì tảo tần, vén khéo như hiện thân của quê hương những nét chấm phá khi nói về những người con gái thì có tài hoa, xinh đẹp, khéo léo, một vẻ đẹp vừa mộc mạc, thanh cao, vừa duyên dáng vùa dịu dàng. Cuộc sống làm ăn, buôn bán diễn ra một cách sôi nổi, sầm uất và nhộn nhịp “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen”.

“Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”

Hình ảnh những người mẹ Kinh Bắc hiện lên thật đáng trân trọng, người mẹ ấy đã tảo tần, lam lũ, dựa vào gánh hàng rong để mưu sinh, lo cho từng bữa ăn hàng ngày. Vì thế những vần thơ mà nhà thơ viết về mẹ thật trũi nặng và thương cảm. những cảnh ấy dường như đã quá quen với tác giả với mọi người, dù vất vả thế nhưng cuộc sống vẫn diễn ra một cách êm đềm và bình yên trong tình yêu thương của mẹ và của gia đình, của quê hương.

Rồi đột nhiên trong cái cảnh đấy, con người như thế, cảnh vật như thế mà sao bọn giặc tàn ác nó lại khiến quê hương thật xơ xác, thật thương cảm bao nhiêu, dường như sự chết chóc diễn ra hàng ngay, hàng giờ trên chia cái mảnh đất gắn bó cả tuổi thơ của tác giả vào đây. Qua đây để ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, một cuộc chiến phi nghĩa mà bọn thực dân pháp đang tiến hành tren đất nước ta.

“Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm

Ú ớ cơn mê

Thon thót giật mình

Bóng giặc dày vò những nét môi xinh”

Những hình ảnh của em bé thật tội nghiệp, “ngày tranh nhau bát cháo ngô, đêm đen thì phải chui vào gầm giường để tranh đạn”

Đứng trước hoàn cảnh đó thì tác giả đẫ vẽ nên, hình dung về một cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. và rồi chúng ta đã dành chiến thắng và chiến thắng đó thật lông lẫy.

Bài thơ thể hiện một cách chân thành, xúc động cái tình cảm và niềm xót thương của tác giả đối với quê hương. Nhà thơ đã gắn bó thiết tha với cái mảnh đất ông cha, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gắn bó mật thiết với những cón người nơi đây.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 20)

Hoàng cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 trong 1 gia đình nho giáo ở Bắc Ninh. Quê hương Kinh Bắc cổ kính có truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú, tiêu biểu là dân ca quan họ, chắc chắn có ảnh hưởng rất lớn tới tâm hồn giàu xúc cảm của nhà thơ.

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cộng tên xuất bản năm 1956. Tác giả nhắc về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh khi mà ông đang công việc ở chiến khu Việt Bắc. 1 đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ hết sức xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền đa dạng trong cán bộ, đội viên ta.

Mỗi một khổ thơ trong bài thơ đều được khai mạc bằng hình ảnh dòng sông Đuống. chiếc thơ trước tiên mở ra tác phẩm là 1 tiếng gọi chứa lên trong khoảng sâu thẳm trái tim đau đớn của thi sĩ, song song cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Lời yên ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diễn ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm ấy, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương sở hữu bờ cát trắng phẳng lì chảy trong khoảng quá khứ bóng gió về hiện nay, hiện lên trong tâm khảm thi sĩ như 1 cái sáng óng ánh và trù phú hai bên bờ các màu xanh ngút ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của loại sông Đuống là một phát hiện, 1 sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. xúc cảm mãnh liệt cùng trí hình dung phong phú đã giúp thi sĩ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm đảo lộn cả không gian và thời kì, khiếp sợ hoài tâm não người đọc.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nhớ tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng, tượng trưng của cuộc sống sung túc, và tranh Đông Hồ, biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. thi sĩ thể hiện thật xúc động các cảnh tan tác chia lìa của quê hương lúc quân giặc tới: ngun ngút lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng vì thế tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu

Mượn hình ảnh trong tranh để mô tả cảnh tượng thật ngoài đời, thi sĩ đã lay động sâu xa tình cảm của các con người vốn gắn bó máu giết mổ mang truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. thế mà giấc mộng bình yên ổn mấy trăm năm đó giờ đây vỡ lẽ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu

những con người mang 1 phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây phát triển thành trơ trọi, tan tác. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng trong khoảng thuở bình lặng xa xưa vọng về càng khiến cho tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng than vãn tiếc nuối một thời êm ấm.

Trong tâm trí thi sĩ, hình ảnh các cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, kinh doanh tần tảo hiện lên với các nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. không những con người không sống được yên mặc cả những cánh cò cũng tớn tác, hốt hoảng ko chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không hề là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước phải chăng bước cao trên phố suôn sẻ mưa lạnh.

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh quân nhân trở về và quần chúng vùng lên đương đầu tấn công 1 cách thức chủ động vào quân thù. Giọng thơ chuyển từ tiếc nuối, xót thương sang uất hận, căm thù. một khung cảnh mùa xuân chan chứa niềm vui và ánh sáng lại trở về sở hữu vùng quê Kinh Bắc.

Bên kia sông Đuống là tiếng lòng tri ân sâu nặng của Hoàng cầm, ông viết tác phẩm như trả 1 món nợ tình nghĩa cho quê hương, bài thơ là các nhịp cảm xúc lúc sục sôi trào dâng. Bài thơ chỉ viết về một vùng quê rất riêng, quê hương Kinh Bắc nhưng vẫn với thể khơi dậy trong trái tim hàng triệu người Việt Nam ái tình nước Việt muôn thuở.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 21)

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta. Sống Đuống là con sống nối liền sống Hồng và sống Lục Đầu tức sống Thái Bình. Bờ Nam sống là quê hương tác giả. Bờ Bắc là vùng tự do của kháng chiến.

Bài thơ khá dài, gồm hai phần lớn: Phần thứ nhất nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống đang bị giặc giày xéo; phần thứ hai kể chuyện bộ đội trở về cùng nhân dân đánh giặc giải phóng quê hương.

Bằng cách miêu tả cuộc sống thanh bình của quê hương giờ đây đang bị quân xâm lược hung tàn giày xéo tan hoang, nhà thơ bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim, sâu xa hơn là bày tỏ tình cảm yêu mến tha thiết đối với quê hương, đất nước và dân tộc. Mở đầu là vẻ đẹp thơ mộng của con sống Đuống với cái dáng nghiêng nghiêng mềm mại, với cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Đó là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Vậy mà giờ đây, tất cả đã bị xáo trộn phũ phàng. Đứng bên này sông (tức là bờ Bắc), tác giả nhớ tiếc vì không thể về bên kia được, bởi bên kia đã bị giặc chiếm rồi. Nỗi buồn thấm đẫm tâm trạng nhà thơ, người con đang xa quê hương. Nhưng cớ sao mà nhà thơ buồn đến mức xót xa như rụng bàn tay? Ở câu thơ thứ nhất: Em ơi buồn làm chi; nhân vật Em là ai? Có thể là người thương hoặc có khi là chính bản thân nhà thơ. Nó là âm thanh chủ đạo tạo ra âm hưởng tha thiết chung của toàn bài ; đau thương mà vẫn dịu nhẹ, thấm sâu. Kể cả hình ảnh so sánh khá táo bạo : xót xa như rụng bàn tay, nghe đau đớn thấu ruột gan nhưng vẫn là nỗi đau cố nén vào trong. Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là vùng đất có bề dày lịch sử rất đáng tự hào: có mộ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành; là địa bàn đánh giặc Ân của Thánh Gióng. Hai Bà Trưng cũng chiến đấu chống quân Nam Hán ở đấy. Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống ở sông Như Nguyệt tức sông cầu.
Chiến dịch xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cũng diễn ra trên mảnh đất này… Về văn học, truyện cổ Tấm Cám có nguồn gốc từ đó. Tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp nơi. Về kiến trúc và điêu khắc thì chùa Bút Tháp có pho tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay. Con người Kinh Bắc nổi tiếng là tài giỏi, thanh lịch : Trai Cầu vồng, Yên Thế; gái Nội Duệ, cầu Lim. Bắc Ninh là cái nôi của dân ca quan họ ngọt ngào làm mê đắm lòng người. Cuộc sống êm đềm đang diễn ra bình thường như quy luật ngày lên đêm xuống. Bên kia sống Đuống là quê anh, làng Lạc Thổ, làng Đông Hồ. Ai đặt cho làng cái tên hay như thế ? Lạc Thổ là đất vui, là cảnh Niết Bàn của Phật. Đông Hồ đem lại niềm vui tỉnh thần cho cả tỉnh, cả nước với nghề làm tranh Tết. Các nghệ nhân tài hoa xưa đã sáng tạo ra những bức tranh có nội dung vui tươi, màu sắc đậm đà, nét vẽ lại mộc mạc, chân chất. Tranh nào tranh nấy như những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp. Từ con người đến loài vật đều vui với xuân, đều nảy nở, sinh sôi. Gà đàn, Lợn ổ, Lợn âm dương, Đám cưới chuột, Hứng dừa, Thầy đồ Cóc… Từ làng Đông Hồ, tranh tỏa đi khắp nơi. Chợ Tết rực rỡ màu tranh xanh đỏ tím vàng loang loáng, lấp lánh trên nền giấy điệp (giấy quét một lớp bột vỏ sò gọi là điệp pha với keo), đưa tới mọi nhà niềm vui và niềm tin năm mới làm ăn phát đạt. Tranh Đông Hồ có vẻ đẹp dân dã, thanh tao mà ý nghĩa ấm áp biết bao nhiêu ! Bỗng dưng lũ xâm lăng ùn ùn kéo đến như đám cháy ngùn ngụt lừa hang tàn. Nhà thơ miêu tả chúng bằng những dòng thơ đẩy căm hận và khinh bỉ, ví chúng chẳng khác gì chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu; tàn phá đến kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang. Hỏi có cái gì còn nguyên vẹn khi ruộng khô, nhà cháy? Sông Đuống là quê hương anh, quê hương em, quê hương của chúng ta. Cuộc sống yên lành, tươi đẹp từ cỏ cây, sống nước đến tấm lòng nhân hậu của con người, vẻ đẹp phong phú ấy thể hiện ở lúa nếp thơm nồng, ở tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã… nhưng quân xâm lược dã man đã đốt phá tan hoang. Cảnh vật, con người của quê hương giờ đây tan tác, chia hai, không biết về đâu ? Nào chỉ có đau đớn về vật chất? Quân giặc đốt phá, giết chóc khiến quê hương tơi bời trong lửa đạn ; nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt. Còn điều sâu xa hơn là những bức tranh vẽ đàn lợn âm dương, đám cưới chuột kia chứa đựng ý nghĩa về nguồn gốc sự sống trong quan niệm bình dị mà sâu sắc của cha ông cũng bị giặc hủy diệt. Đó là hủy diệt sự sống. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa ?! Lời thơ, ý thơ đau đớn mà âm điệu đoạn thơ cũng xót xa kéo dài vô tận. Quê hương ta chứa đựng cuộc đời của ông bà, cha mẹ, chứa đựng cuộc đời ta. Nhưng nó lại ở bên kia sông Đuống, nằm trong vùng địch tạm chiếm nên trở thành xa xôi. Cả thời gian lẫn không gian đều mờ mịt khiến nỗi xót xa trở thành nỗi đau tột cùng : xót xa như rụng bàn tay. Giặc tràn tới, bây giờ không biết mọi cái đã về đâu ? Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng trời ơi vút lên giữa thinh không, vô vọng! Quê hương sông Đuống còn một nét văn hóa nữa cũng nổi tiếng cả nước như tranh làng Hồ ; đó là hội hè mùa xuân. Hội xuân có bao vẻ đẹp, vẻ hay. Hội hè là nơi mọi người vui chung niềm vui mùa màng tốt tươi năm trước, cầu mong năm nay càng tốt tưới hơn. Hội hè là nơi mọi người vui với sức mạnh, tài ba của Trai cầu vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, cầu Lim, vui câu hát điệu hò của liền anh liền chị, vui gặp gỡ gái trai… Núi Thiên Thái, chùa Bút Tháp và bao nhiêu nơi khác khắp miền quê sống Đuống mùa xuân đều có hội. Hội hè đã trở thành mơ ước của mọi lứa tuổi mỗi độ xuân về, đã thành nếp trong óc trong tim mọi người như một thứ mộng bình yên, trải mấy trăm năm. Nhưng nay dẫu đang là mùa xuân mà không ai còn lòng dạ nào mở hội. Có thể chuông chùa còn văng vẳng nhưng những người đi dự hội xuân năm ngoái lên núi, vào chùa, sang sống với con đò đưa các liền anh, liền chị… những cô môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu… bây giờ ở đái?! Nhà thơ băn khoăn, ao ước: Ai về bên kia sống Đuống, Cho ta gửi tấm the đen. Quê ta có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa. Ta gửi về cho mẹ, cho em tấm the đen để may áo tứ thân đi dự hội cho vời bớt lo toan suốt một năm, một đời. Nhưng bóng mẹ, bóng em nay ở đâu? Nỗi lo lắng, khắc khoải thấm đẫm trong từng câu, từng chữ. Đoạn thơ nêu lên một nét sinh hoạt văn hóa lâu đời của quê hương Kinh Bắc là hội xuân. Bắt đầu bằng âm hưởng nhớ thương da diết với ai về và cho ta – những mô típ quen thuộc trong ca dao, dân ca; cuối cùng là: Gửi về may áo cho ai cũng vẫn bằng giọng điệu thân thương. Tội nghiệp thay Tấm the đen không người nhận, phơ phất giữa cõi trống không, chẳng biết về đâu? Một biểu hiện khác nữa của cuộc sống văn hóa ở quê hương nhà thơ là những cảnh sinh hoạt dân dã với những con người quen thuộc: Những cô hàng xén răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng, những phiên chợ Hồ, chợ Sui người đua chen, Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối, Những nàng dệt sợi, Đi bán lụa màu, Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh, Huê cầu… Làm ăn vất vả, tất bật, hay lam hay làm… đều là những vẻ đẹp có từ thuở xưa. Ông cha truyền lại cho con cháu những nghề tinh khéo, truyền lại luôn cả cái phong tục mắc cửi giăng tơ ngang đường, ai đi qua phải giải cho được câu đố hay câu hát mới được qua, không thì chỉ tơ không buộc mà cứ vương. Truyền cái nghề pha màu chọn nắng, chiều người mà nhuộm cho vừa mắt vừa lòng các cô, các chị. Thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê cầu đi đâu cũng để lại những tấm áo, những thắt lưng, những chéo yếm bền màu, đẹp sắc và để luôn lại những nỗi nhớ niềm thương: Ai về Đồng Tỉnh, Huê cầu, Để thương để nhớ để sầu cho ai ?! Có ai về bên kia sống Đuống không em? Còn chăng những chị, những em tuy quanh năm phải tảo tần phụng dưỡng mẹ cha, lo cho chồng con mà vẫn góp phần làm cho cuộc đời tươi sen và cười nắng. Đẹp và duyên biết chừng nào! Thế mà giờ đây, những người chị, người em ấy của quê hương đã tan tác đi đâu, về đâu ? Âm điệu đoạn thơ mỗi lúc một nghẹn ngào, chới với. Ba đoạn thơ cùng thể hiện một nỗi đau xót chung trước cuộc sống của quê hương đang bị lũ giặc hung ác giày xéo tan tành. Bên kia sống Đuống, bên này sống Đuống, vốn hai bờ, một sông nay chỉ còn một bờ, một nửa. Một nửa sống, một nửa con người! Đau xót như chết nửa con người chứ không phải chỉ như rụng bàn tay, Những ai có quê hương, làng mạc bị giặc chiếm đóng mà không thể ghé về thăm được, đứng bên này sông nhìn qua vùng giặc tạm chiếm, đều không khỏi xót xa, đau đớn và căm giận lũ cướp nước bạo tàn, đồng thời thông cảm với tâm trạng nhà thơ. Bao nhiêu thiết tha, trìu mến trong những chữ quê hương ta, ai về, cho ta gửi tấm the đen, gửi về may áo cho ai, ai về… có nhớ… Tưởng như ai về là về giùm cho ta, mang hộ tấm lòng da diết nhớ của ta cùng về. Ba đoạn thơ không chỉ là nỗi đau quặn thắt riêng cho một người mà còn là nỗi đau chung cho cả quê hương phía bên kia sông Đuống với chiều sâu lịch sử mấy nghìn năm, với truyền thống văn hóa vật chất, tinh thần tiếng tăm lừng lẫy, nay đang bị giặc giày xéo, hủy diệt. Tranh Đông Hồ không chỉ đem lại vẻ vang cho riêng Đông Hồ mà cho cả đất Kinh Bắc tài ba, thanh lịch từ giọng hát đến cái hoa tay… Bao nhiêu tên đất, tên chợ, tên núi, tên chùa, tên nghề, tên thợ… đều gợi lên một bức tranh thu nhỏ của đời sống phong phú và đẹp đẽ của cả một địa phường. Đó là tình cảm thiết tha của em, của anh, của chúng ta đối với quê hương. Các đoạn thơ trên còn có một lớp nghĩa thứ ba: đó là nỗi đau chung cho cả đất nước, dân tộc mà quê hương của tác giả là tiêu biểu. Trước hết, về mặt truyền thống văn hóa nghệ thuật và truyền thống trăm nghề sinh nhai đáp ứng nhụ cầu đời sống mọi người. Tranh Đông Hồ không còn là của riêng đất Kinh Bắc. Chùa Bút Tháp với tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay cũng là di sản và niềm tự hào của cả dân tộc. Hội hè thấp thoáng mộng bình yên cũng là mộng bình yên của cả dân tộc. Thậm chí, những nàng môi cắn chỉ quết trầu, những em sột soạt quần nâu, từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng… đều là những hình ảnh gợi nhớ không phải một địa phương mà cả nước một thời. Tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ khiến cho người đọc rưng rưng xúc động. Tác giả nhớ tiếc, xót xa không chỉ cho quê hương mình mà cho cả dân tộc và đất nước. Quân xâm lược dã man đã giày xéo lên những điều thiêng liêng nhất đối với tâm hồn ta. Cảm xúc đau thương kéo dài trong âm hưởng của những câu hỏi đi đâu, về đâu khắc khoải: Trên kia là quê hương dưới dạng văn hóa, còn đây là quê hương ở cảnh đời thường. Đời thường ấy cô đọng lại trong hình ảnh mẹ già với gánh hàng rong trên vai. Đời thường ấy nghèo khổ, cực nhọc vô vàn nhưng chính cái cực nhọc vô vàn ấy của mẹ ta đã nuôi chồng ăn học, nuôi con khôn lớn nên người; nuôi sống cả một dân tộc trải mấy nghìn năm đề xây dựng nên non sống, đất nước này. Cuộc sống lao động cần cù, thầm lặng ấy đến nay hãy còn đè nặng trên tấm lưng còm cõi của mẹ ta. Ôi, gánh hàng rong có nhiều nhặn gì đâu: Dăm miếng cau khô, Mấy lọ phẩm hồng, Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm và mấy cây kim, cuộn chỉ… Tiền lãi cũng chỉ nhỏ nhoi, ít ỏi như đồng kẽm, đồng xu. Ngày ngày, mẹ ta lại gánh hàng rong lên vai, bước cao, bước thấp trên đường trơn mưa lạnh. Chưa bán được đồng nào, bụng đói, dạ sầu. Mái đầu đã bạc nay càng bạc phơ. Vậy mà lũ giặc cũng chẳng buông tha. Chúng kéo đến cướp bóc, đập phá, bắn giết… Cuộc sống của mẹ và của bao người như mẹ rơi rụng như lá đa lác đác trước lều mùa đông. Có con cò trắng bay vùn vụt, Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Nó làm bạn với mẹ ta chăng? Nó là hóa thân của mẹ ta chăng? Con cò cũng hoảng hốt không biết về đâu. Mẹ ta đang bấm chân trên đường trơn mưa lạnh cũng không biết về đâu. Con cò ấy với mẹ ta bao đời nay đã là hai hình ảnh gần gũi, sóng đôi. Thân phận người phụ nữ xưa nay là vậy, giống như: Con cò lặn lội bờ sống, Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non… Suốt đời chỉ lo toan làm lụng và chịu đựng đau khổ. Mẹ già còm cõi khốn khó suốt một đời, nay gặp cảnh giặc giã lại càng thêm khốn khó. Cái gánh nặng trên vai mẹ kia chính là cái gánh giang sơn nhà chồng, là gánh nước non của muôn kiếp mẹ già! Đoạn thơ viết theo lối phá thể, năm ba câu ngắn loang loáng, vun vút rồi bất chợt buông xuống một câu lục bát chảy dài như tiếng thở than, như dòng nước mắt không gì ngăn nổi: Xì xồ cướp bóc, Tan phiên chợ nghèo, Lá đa lác đác trước lều, Vài ba vết máu loang chiều mùa đông, Chưa bán được một đồng, Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong… Mẹ ta lòng đói dạ sầu, Đường trơn mưa lánh mái đầu bạc phơ. Tiếp theo, nhà thơ miêu tả một cảnh đời thường khác: hình ảnh của đàn con thơ dại. Nghĩ về bên kia sống Đuống, lòng, ta quặn đau vì mẹ già khốn khổ và xót xa cho các con ta đang tranh nhau miếng cơm độn sắn khô; nghe tiếng súng nổ thì vội líu ríu chui gầm giường tránh đạn. Ú ớ giật mình vì Bóng giặc giày vò những nét môi xinh ngay cả trong giấc ngủ. Tội ác của giặc quả là trời không dung, đất không tha! Trên quê hương bị giặc chiếm, mẹ già nào mà không phải là mẹ già ta? Em nào, con nào mà không phải là em ta, con ta? Đạo lí làm người của dân tộc Việt Nam là vậy. Câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng đã thấm sâu vào cốt tủy của người dân đất Việt từ thuở xa xưa. Hai câu thơ : Đã có đất này chép tội, Chúng ta không biết nguôi hờn phảng phất lời kết tội của Đại cáo bình Ngô – áng thiên cổ hùng văn của ông cha ta thuở trước.

Bài thơ Bên kia sông Đuống được phổ biến nhanh chóng, rộng rãi trong thời kì chống Pháp. Cái độc đáo của nó chính là giọng điệu nghĩa tình thắm thiết thấm sâu vào lòng người. Tuy nói về một địa phương nhưng sắc thái cảnh vật, con người, văn hóa, đạo đức đều là của chung cả nước, miền nào có giặc mà không phải chịu những tình cảnh đau thương như ở bài thơ này. Huống chi bài thơ đã vẽ ra cái thế bên này và bên kia sống, tức cái thế con người chỉ sống có một nửa, còn nửa kia là mất mát, tan tác, căm hờn. Trước mắt chỉ biết cắn răng chịu đựng chứ chưa hành động được. Nhưng đau thương đã tới độ nhức nhối như thế này, ân tình sâu nặng như thế này thì khi có thời cơ là đánh giặc đến cùng. Tính cách của con người Việt Nam ta vốn hiền lành hết mực nhưng cũng biết căm thù sục sôi và chiến đấu quên mình. Bên kia sống Đuống là một bài thơ hay, có sức sống lâu dài, khẳng định tài năng và tên tuổi Hoàng cầm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 22)

Nhà thơ Hoàng Cầm là một nhà thơ nổi tiếng của nền thi ca nước ta. Ông có nhiều tác phẩm độc đáo để lại cho nên thơ ca Việt Nam. Trong đó, bài thơ "Bên kia sông Đuống" là một bài thơ hay độc đáo thể hiện tình cảm của tác giả với quê hương vùng đất kinh bắc của mình.

Bài thơ khắc họa hình ảnh con sông Đuống hiện lên thể hiện sức sống tiềm ẩn, vô cùng mãnh liệt như những người dân nơi đây, bài thơ gửi gắm tình cảm của tác giả với thiên nhiên và con người của mảnh đất thân thương này.

Em ơi buồn lòng chi

Anh đưa em về Bên kia sông Đuống

Bài thơ mở đầu với hai câu thơ tự nhiên, hình ảnh anh và em thể hiện tình cảm gắn bó, thể hiện mối quan hệ thân thiết tự nhiên. Hai câu thơ được viết bằng thanh bằng tạo nên cảm xúc mênh mang, da diết, là cho câu thơ nhẹ nhàng, sâu lắng như những câu hát trao duyên của những liền anh liền chị ở vùng đất nổi tiếng quan họ này.

Hình ảnh con sông Đuống hiền hòa quanh năm nước chảy, đôi bờ xanh trong, đã là ký ức vô cùng sâu sắc nằm ăn sâu trong tâm hồn của tác giả. Chỉ cần một chút gợi nhớ, gợi thương là tác giả có thể nhớ rất rõ nét về hình ảnh con sông thân thương ấy.

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Hình ảnh con sông Đuống hiện lên với bãi cát trắng xóa, phẳng lặng là nơi có thể giúp người nông dân thâm canh tăng gia sản xuất. Hình ảnh lòng sông sáng lấp lánh như tấm gương soi khổng lồ hiện lên thật nên thơ, trữ tình.

ác giả Hoàng Cầm vô cùng khéo léo khi vẽ lên hình ảnh con sông Đuống trong quá khứ, một con sống anh dũng nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ. Thể hiện sự từng trải của dòng sông vượt qua bao thăng trầm của lịch sử dân tộc

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Tác giả vẽ lên một bức tranh thiên nhiên vô cùng tươi đẹp về hình ảnh con sông Đuống với màu xanh ngút ngàn của ngô khoai, của những phù sa màu mỡ

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Sông Đuống trong chiến tranh bị chia cắt thành hai bờ, hai khoảng trời riêng một bên đã được giải phóng tự do, một bên vận con giặc chiếm giữ. Chính vì vậy, tuy con sông Đuống chảy chung một dòng nhưng những con người giữa hai bờ sông lại mang hai số phận khác nhau, hai chế độ chính trị khác nhau.

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Bằng bốn câu thơ ngắn ngủi nhưng tác giả đã vẽ lên một bức tranh tươi đẹp sinh động về vùng quê Kinh Bắc, với những nét truyền thống tươi đẹp, những ngày hội làng, những bãi lúa nương ngô tươi tốt, màu mỡ.

Vùng đất Kinh Bắc là vùng nổi tiếng có tranh Đông Hồ một loại tranh được vẽ bằng giấy gió thể hiện những phong tục tập quán, những ngày lễ hội đình đám của làng quê. Nó là một phần không thể thiếu của cuộc sống con người Việt Nam văn hóa cộng đồng.

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu

Câu thơ thể hiện cảm xúc của bài thơ, tự dưng chuyển sang màu sắc bi thương, đau khổ, khi nhà cháy, chó ngộ, mẹ con đàn lợn âm dương, chia lìa đôi ngả thể hiện sự ly biệt, tang tóc của con người và cảnh vật nơi đây.

Tác giả Hoàng Cầm vô cùng tinh tế khi sử dụng những điểm tích trong tranh Đông Hồ để nói chuyện về cuộc sống hiện tại của con người.

Ai về Bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thơi

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Trong những câu thơ này thể hiện những nét phong tục truyền thống của người dân quê vùng Kinh Bắc. Nó vẽ lên nét cổ truyền lâu đời của con người nơi đây, gợi nhớ thương về những phong tục thân thuộc thể hiện tình cảm gắn bó của tác giả với mảnh đất quê hương của mình.

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt áo nâu

Chỉ vài câu thơ tác giả Hoàng Cầm đã xây dựng lên trong mắt người đọc hình ảnh con người của vùng quê nơi đây, với những phong tục truyền thống như nhuộm răng đen, rồi áo tứ thân, ăn trầu cau…Những người phụ nữ vùng quê Kinh Bắc nổi tiếng là phúc hậu và nhanh nhẹn hoạt bát.

Họ có tài buôn bán, tháo vát từ khi còn nhỏ, nên khi trưởng thành họ thường rất nhanh nhẹn, đảm đang tháo vát. Khi nói về những người con gái của miền quê mình tác giả sử dụng những lời nói hay nhất để miêu tả, phác họa chân dung họ.

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Những cô gái hiện lên với khuôn mặt "búp xem" thanh tao, nho nhã, gợi cho con người ta một điều gì đó vừa thơm ngát quyến rũ, vừa thoát tục, trắng trong "gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn".

Nụ cười như mùa thu tỏa nắng, thể hiện một nụ cười lung linh quyến rũ, một nét đẹp tinh khôi khiến cho lòng người con trai khi xa quê nhớ về không khỏi bồi hồi xao xuyến, trái tim rung lên những nhịp đập ngây ngất, bồi hồi.

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Trong khổ thơ này tác giả sử dụng nghệ thuật tả thực thể hiện sự tần tảo, khổ hạnh của người mẹ già. Hình ảnh người mẹ ấy hiện lên vất vả già nua với bao lo toan bao áp bức phải chịu đựng. Khi đất nước đang yên bình thì xuất hiện bóng quân thù. Chúng kéo tới đàn áp, bóc lột nhân dân ta, làm cho cuộc sống của người dân ta trở nên khốn khổ.

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Hình ảnh những tên giặc Pháp hiện lên như một lũ quỷ mắt xanh, xì xồ tiếng nước ngoài, giầy đinh súng lục đập phá cuộc sống yên bình của người dân. Chúng gây ra cảnh đầu rơi máu chảy, đàm áp cuộc sống của người dân quê lương thiện, còn gì tàn nhẫn hơn.

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông

Không gian chợt trầm hẳn xuống, hoang sơ hiu quanh không còn sầm uất, vui vẻ như những khổ thơ đầu. Trong những câu thơ này người đọc cảm nhận rõ sự thê lương. Hình ảnh màu đỏ của máu, của chiều hoàng hôn, gây ấn tượng mạnh mẽ với người đọc gợi nên cảm giác tiêu điều, của cảnh chợ phiên sau khi bị giặc kéo tới tàn phá.

Những câu thơ thể hiện sự phẫn uất đau đớn, sự thù hận tột cùng của tác giả Hoàng Cầm khi quân giặc chà đạp giày xéo lên những con người, mảnh đất quê hương của ông. Những câu thơ như hối hả dồn nén những hận thù của tác giả dành cho bọn giặc.

Bài thơ "Bên kia sông Đuống" là một bài thơ tiêu biểu của tác giả Hoàng Cầm trong chiến tranh nó thể hiện tình cảm của tác giả với mảnh đất quê hương, thể hiện tinh thần yêu nước lòng căm thù giặc của tác giả với bọn yêu râu xanh cướp bóc dân tộc ta.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 23)

Trong vườn thơ ca kháng chiến chống Pháp, Bèn kia sông Đuống của Hoàng cầm được sáng tác tháng 4 năm1948 nổi lên như một bòng hoa thắm sắc ngát hương. Bài thơ đã diễn tả được một cách khá thấm thìa và cảm động tấm lòng của nhà thơ đối với quê hương Kinh Bắc nói riêng, quê hương nước Việt nói chung với những tình cảm yêu thương, tự hào về quê hương giàu đẹp, có nền vàn hoá nghìn đời đáng yêu và niềm căm giận trước tội ác kẻ thù đã giày xéo quê hương một cách phũ phàng. Trong đó còn có những đoạn thơ cho ta thấy quê hương Kinh Bắc có một nền văn hoá dân gian độc đáo đậm đà bản sắc dân tộc đồng thời nhà thơ cũng cho người đọc cảm nhận được hình ảnh què hương tan tác điêu tàn khi quân giặc tràn về:

Bẽn kia sông Đuống

Bầy giờ tan tác về đâu

Sự trù phú tươi đẹp của quê hương được kết tinh ở một hình ảnh thật gợi cảm, nền thơ. Đó là “lúa nếp thơm nồng”. Cái hương vị đậm đà thanh khiết có sức lan toả và dễ thấm vào hồn người đọc ấy của lúa nếp đã gọi lên trong ký ức chúng ta biết bao hình ảnh thân thuộc của làng quê Việt Nam, nơi có truyền thống trồng lúa nước từ ngàn đòi nay. (Trong bài Đất nước, Nguyễn Đình Thi cũng đã mở đầu bằng hai câu thơ có cái hương lúa nếp rất gợi cảm đó:”Sáng mát trong như sáng năm xưa – Gió thổi mùa thu hương cốm mói” và Quang Dũng cũng viết: “Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói – Mai Châu mùa em thom nếp xôi”. Chế Lan Viên trong bài Tiếng hát con tàu đã có hai câu thơ về hương nếp rất tài hoa “Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch – Bữa xôi đầu còn toả nhớ mùi hương”).

Nhưng nói về Bền kia sông Đuống là nói về vùng Kinh Bắc, quê hương của Hoàng Cầm, “nơi đã hút hết tâm hồn và đời thơ của tôi”. Đấy là “một vùng văn hoá nhiều đền chùa cổ kinh, quê hương cưa tranh Đông Hồ và những điệu quan họ duyên dáng, mà cũng là quê hương của nhiều truyền thuyết nên thơ cùng những hội hè náo nhiệt”. Nhưng nổi bật nhất trong số đó vẫn là tranh làng Hồ, vói những đường nét, màu sắc tươi sáng ngộ nghĩnh. Từ bao đời nay, tranh làng Hồ đă từng hết sức quen thuộc đối với mỗi gia đình Việt Nam vào dịp tết đến. Đó là những bức tranh mang màu sắc dân gian và dân tộc từ nghĩa đen đến nghĩa bóng, từ chất liệu đến đề tài, màu sắc. Tranh thường gọi về những đề tài sinh hoạt bình dị của đòi sống tâm hồn Việt Nam vốn yêu lao động, hoà bình, hạnh phúc và cuộc sống thịnh vượng… như “tranh con gà”, “mẹ con đàn lợn âm dương”, “đám cưới chuột”, “đánh vật”, “đánh ghen”, “hứng dừa”, “thầy đồ ếch”… Người nghệ sĩ dân gian tài hoa đã quét lên những bức tranh bình dị ấy bằng những mầu tươi sáng: màu đỏ son, màu cánh sen, màu hoa hiên, ri đồng… toàn là những chất liệu từ thôn quê quen thuộc… tất cả sáng bìùig lên trên nền giấy trắng tnìh và óng ánh “Mầu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”. Hai chữ “sáng bừng” đứng ở vị trí trung tâm, âm hưởng mạnh mẽ như rực sáng lên giữa câu thơ, toả sáng những tờ giấy điệp và cũng là toả sáng cả nền nghệ thuật độc đáo của dân tộc. Từ “sáng bừng” còn bao hàm cả niềm tự hào. tình cảm thiết tha nồng nàn, đằm thắm của nhà thơ đối với truyền thống vần hoá. Nếu không, làm sao tác giả có thể cảm nhận được vẻ đẹp ‘sáng bìíng” của “màu dân tộc” sâu sắc đến như vậy?

Quê hương ta “Bên kia sông Đuống” thanh bình, giàu đẹp, yên vui là thế nhưng khi giặc Pháp hung bạo kéo về, tất cả phút chốc trở nên tan tác diêu linh. Cuộc sống thanh bình, trù phú nên thơ của vùng Kinh Bắc giờ chi còn là những kỷ niệm xót xa đau tiếc. Đây là nỗi đau lớn nhất của con người nói riêng, của một đời người nói chung. Nhà đại thi hào dân tộc Italia đã có hai câu thơ nổi tiếng:

Trẽn đời đau khổ gì tày Chuyện vui nỉ lớ lại trong ngày thê lương Bao trùm lên mảnh đất, bầu trời quê hương nay chỉ là “những cánh đồng quê chảy máu – Dây thép gai đâm nát trời chiều” (Nguyễn Đình Thi), là ngọn lửa ngùn ngụt, hung tàn thiêu huỷ xóm làng. Trên cái nền cuộc sống yên ả thanh bình ngày xưa, giờ đã xuất hiện lũ giặc hung hăng, điên cuồng như một đàn chó dại “Lưỡi dài lê sắc máu”, gieo rắc tử khí khắp nơi “Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”. Hình ảnh kẻ thù được tác giả khắc hoạ bằng hình ảnh ẩn dụ rất chính xác mà rất gợi cảm, đã làm nổi bật được bản chất tàn bạo đầy thú tính của chúng.

Trước cảnh giặc tàn phá “Tan hoang nhà cháy khói căm thù”, trái tim tác giả như đau thắt lại và những câu thơ của Hoàng Cầm cũng ngắt ra thành từng dòng, từng nhịp như những tiếng nấc nghẹn ngào:

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

… Kiệt cũng ngõ thẳm bờ hoang

Thế chẳng những con người rơi vào cảnh ngộ tan tác chia lìa mà đến cả những bức tranh làng Hồ cũng cùng chung số phận:

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chim lìa đòi ngả

Đảm cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?

Cái tài của nhà thơ Hoàng cầm là đã tạo được nhiều hình ảnh vừa thực vừa ảo rất thú vị. Ở đây, cảnh trong tranh và cảnh ngoài đời như hoà vào nhau thật khó mà phân biệt. Hai bức tranh Đông Hồ được miêu tả trong bốn câu thơ đã vẽ lên được cảnh tản cư đau lòng khi giặc ập đến. Phải chăng giặc giày xéo lên quê hương gây nên cảnh tan tác chia lìa cho con người; đồng thời cũng là giày xéo lên một nền văn hoá nghìn đời đáng quý của ta một cách phũ phàng?

Câu thơ “từ ngày khủng khiếp” và đặc biệt là câu “Bây giờ tan tác về đâu?” là câu hỏi về đám cưới chuột, đàn lợn âm dương… nhưng đằng sau câu hỏi ấy là một tình yêu quê hương bao la, là nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về những gì thiêng liêng đã mất, là nỗi xót xa về quê hương đau thương dưới gót giày xâm lược, là nỗi oán hờn tím gan tím ruột trước tội ác trời không dung, đất không tha của kẻ thù. Đó cũng là câu hỏi muôn đời của lịch sử mỗi khi có giặc ngoại xâm.

Đoạn thơ trên đã làm nổi bật sự đối lập hai cảnh: trước và nay, hạnh phúc và đau thương, xây dựng và tàn phá, sum vầy yên ấm và tán tác chia lìa… làm khắc sâu nỗi đau tiếc, xót xa, căm giận; đặc biệt là làm nổi bật sự tương phản giữa những giá trị nhân văn của ta và sự tàn bạo phi nhân tính của những kẻ vẫn thường tự xưng là “văn minh”. Sự tương phản ấy như đập vào mắt, xuyên vào lòng kêu gọi lương tri nhân loại.

Tiếp đến là Kinh Bắc của những đền chùa cổ kính và những hội hè đình đám vào dịp đầu xuân.

Cảnh thật tươi vui đầm ấm rộn rã “Trên núi Thiên Thai — Trong chùa Bút Tháp — Giữa huyện Lang Tài”. Cuộc sống bình yên ấy đã diễn ra từ bao đời nay “mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên”. Và có lẽ nổi bất nhất trong những ngày hội vẫn là hình ảnh những cô gái Kinh Bắc “mặc áo the đen” duyên dáng, dịu dàng gợi thương gợi nhớ cho bao người. Nhưng từ ngày giặc đến, cuộc sống tưng bừng, giấc mộng bình yên ấy đâu còn nữa; chỉ còn những tiếng chuông chùa vẳng lên như một nỗi tiếc thương ngơ ngẩn.

Tiếng chuông chùa ở đây không còn gợi lên cảnh êm dịu thanh bình mà vọng lên “như khua sầu tủi, như rung oán hờn”.

Những câu thơ tiếp theo diễn tả cảnh đông vui nhộn nhịp của sinh hoạt làm ăn vào những ngày phiên chợ Hồ, chợ Sủi, người đua chen cùng những cảnh “Bãi trầm chỉ người giăng tơ nghẽn lối”, “Những nàng dệt sợi, đi bán lụa mầu — Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh Huê cầu” đã thành ca dao:

Ai về Đồng Tỉnh Huê cầu.

Để thương, để nỉ lớ, để sầu lại đây.

Như vậy, Kinh Bắc là quê hương của nhũng con người đáng yêu đáng quý. Nhưng đáng yêu nhất, để thương để nhớ cho Hoàng cầm nhất vẫn là: những cô gái chăn tằm hái dâu, những cô hàng xén có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo, đôn hậu mà rất tình tứ. Hoàng cầm đã dành những nét bút đẹp đẽ tài hoa nhất cho những cô gái này:

Ai về Bên kia sông Đuống

Cỏ nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu toả nắng “Khuôn mặt búp sen” là khuôn mặt inang vẻ đẹp truyền thống dân tộc của những cô gái quê. Nó gợi cho ta những đường nét thanh tứ xinh xắn với màu sắc phớt hồng và hương thơm thanh quý. Còn nụ cười “như mùa thu toả nắng” thì tươi và sáng như toả niềm vui ra xung quanh nhưng lại có vẻ đẹp dịu dàng kín đáo như cái nắng dịu mùa thu.

Nhưng tất cả “bây giờ đi về đâu?”. Và giữa khung cảnh tan tác của loạn lạc, của giặc giã chiến tranh, nạn nhân tội nghiệp đáng thương nhất là các bà mẹ già, đặc biệt là những người mẹ nghèo “Bà mẹ già kia tuổi đã nhiều- Đã từng đau khổ biết bao nhiêu”, dưới gánh nặng của cuộc đời một nắng hai sương, nay lại cộng thêm cái loạn lạc của chiến tranh mà vẫn phải “Đòn gánh tre chín rạn hai vai” để kiếm sống thì càng đau khổ đáng thương gấp bội phần:

Bèn kia sông Điiống Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong … Bước thấp bên bờ tre hun hút Có con cò trắng bay vùn vụt Lướt ngang dòng sông Điiống về đâu Mẹ ta lòng đói dạ sầu Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc với hình ảnh bà mẹ già “còm cõi mái đầu bạc phơ” với “gánh hàng rong bước cao bước thấp bên bờ tre hun hút” cùng với “cánh cò trắng bay vùn vụt lướt ngang dòng sông Đuống về đâu” gợi lên trong lòng ta biết bao cảm xúc xót thương. Đâu còn hình ảnh “Cánh cò bay lả bay la – Cánh cò bay lả rập rờn” hôm nào nữa; mà giờ chi còn là cánh cò hốt hoảng, bay vùn vụt bơ vơ như chạy loạn “Bỏ nhà…”. Hình ảnh ấy hoà.cùng hình ảnh yếu ót bơ vơ của người mẹ già làm cho hình ảnh những nạn ựhân xâm lược càng trở nên bi thương vô hạn.

Nhưng nghĩ cho cùng thi nạn nhân tội nghiệp nhất của chiến tranh vẫn là những đứa con thơ. Chúng đã khổ vì đói nghèo “ngày tranh nhau một bát cháo ngô” nay càng khổ thêm vì chiến tranh:

Trẻ em như búp trên cành

Biết ăn ngủ, biết học hành là ngoan

(Bác Hồ)

Ấy thế mà khi giặc tràn về, các con đã bị bóng đen kẻ thù đe doạ cả những vành nôi, và trong cơn mơ cũng thon thót giật mình vì sợ hãi. Bởi cái chết luôn luôn rình rập, lởn vởn đâu đó. Bởi kẻ thù mới giờ rất đáng sợ. Chúng vừa thô bạo vừa có hình thù gớm ghiếc, kỳ quái. Chúng đến đâu là gieo rắc chết chóc đau thương đến đó:

Chợt lủ quỹ mắt xanh trừng trợn

Kìa giày đinh đạp gãy quán gầy teo

Xỉ xồ cướp bóc, tan phiến chợ nghèo Lá đa lác đác trước lều Vài ba vết máu loăng chiều mùa đòng Đây là những hình ảnh thơ viết về tội ác của kẻ thù khá độc đáo. Mấy “Lá đa lác dác trước lều” cùng với “vài ba vết máu” làm “loang” đỏ cả “chiều mùa đông” cứ ám ảnh lay động không thôi tâm hồn ta. Cũng như hai câu thơ: “Bây giờ tan tác về đâu?” -bây giờ di đâu về đâu?” được láy lại ở nhiều đoạn thơ như một điệp khúc cứ xoáy sâu vào lòng ta một nỗi đau nhức nhối. Đúng là đoạn thơ trên của Hoàng cầm xứng đáng là đoạn thơ “chép tội giặc” để mãi mãi chúng ta không được nguôi hờn, mỗi khi có giặc ngoại xâm.

Từ đau thương đã chuyển sang uất hận, căm thù và biến thành sức mạnh chiến đấu:

Dao loé giữa chợ

Gậy lùa cuối thổn

Lúa chín vàng hoe giặc mất hồn

Ăn không ngon

Ngủ không yên

Đứng không vững

Chúng mày phát điên

Quay cuồng như đúng trẽn đống lửa

Đoạn thơ đã diễn tả được một cách sinh động và chân thực những cuộc chiến đấu quyết sống chết với giặc diễn ra ở thôn xóm, giữa chợ, trên cánh đồng lúa chín bằng những nhịp thơ dồn dập sảng khoái, đầy khí thế.

Bài thơ Bên kia sông Đuống được kết lại bằng những ước mơ cuộc sống thanh bình trở về: Mùa xuân lại hồi sinh với những hội hè đình đám như thuở xưa bên bờ sông Đuống yên ả. Hình ảnh “em” xuất hiện không buồn nữa mà em trở nên tươi trẻ, tràn đầy sức sống và niềm vui trong bộ quần áo mới với yếm thắm và dải lụa hồng phất phơ bay. Em cùng toàn dân tộc “Đi trẩy hội non sông” trong tâm trạng hân hoan “cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh”.

Nét đặc sắc của bài thơ Bên kia sông Đuống là tác giả đã tạo nên được một nhạc điệu khá độc đáo: vừa dạt dào tuôn chảy, vừa trầm buồn. Trèn nền nhạc buồn ấy, cái hồn của quê hương đất nước xứ sở cứ phảng phất lắng đọng trong mỗi dòng chữ, hình ảnh thơ. Vì thế bài thơ chỉ viết về một vùng quê rất riềng: quê hương Kinh Bắc nhưng vẫn có thể khơi dậy trong trái tim hàng triệu người Việt Nam tình yêu nước Việt muôn đời.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 24)

Hoàng cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 trong một gia đình Nho giáo ở Bắc Ninh. Quê hương Kinh Bắc cổ kính với truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú, tiêu biểu là dân ca quan họ, chắc chắn có tác động rất lớn tới tâm hồn giàu cảm xúc của nhà thơ.

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta.

Mỗi một khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống. Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diễn ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng, biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ, biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu

Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc.

Bên kia sông Đuống là tiếng lòng tri ân sâu nặng của Hoàng cầm, ông viết tác phẩm như trả một món nợ nghĩa tình cho quê hương, bài thơ là những nhịp cảm xúc lúc sôi sục trào dâng. Bài thơ chỉ viết về một vùng quê rất riêng, quê hương Kinh Bắc nhưng vẫn có thể khơi dậy trong trái tim hàng triệu người Việt Nam tình yêu nước Việt muôn đời.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 25)

Đi theo cách mạng, rồi đi kháng chiến chống Pháp, Hoàng Cầm đã là nhà thơ nổi tiếng. Sống giữa núi rừng Việt Bắc, nhà thơ vẫn hướng về quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống. Những tin dữ về quê hương bị giặc tàn phá khiến cho nhà thơ đau đớn, xót xa, căm giận. Trong một đêm (1948) Hoàng Cầm đã viết xong bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Bài thơ được truyền rộng rãi trong kháng chiến và được coi là một trong những bài thơ hay nhất viết về quê hương đất nước trong nền văn học hiện đại của nước nhà.

Bằng âm điệu trữ tình, nhà thơ hình dung lại toàn cảnh quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống:

“Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bèn này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”.

Câu thơ “Em ơi buồn làm chi” là khởi hứng của bài thơ, cũng là điểm tựa cho xúc cảm trữ tình của nhà thơ. Khơi vào đúng nguồn mạch trữ tình, dòng thơ tuôn chảy trong những câu thơ tự do như không có trở lực gì ngăn cản được:

“Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”.

Những câu thơ thật là tài hoa! Dòng sông yêu thương trong tâm tưởng thi nhân sao mà đẹp thế! Hình họa là của riêng thi nhân. Cái dáng “nghiêng nghiêng” ấy không phải trong không gian mà là trong thời gian (trong kháng chiến trường kì) mới lạ. Tình yêu của “em”, của “anh” và của mỗi chúng ta đổ dồn về dòng sông nhỏ mà sâu thẳm ấy. Màu sắc cũng thật là tha thiết, từ màu “trắng” của hoài niệm, đến màu xanh, hòa điệu của “xanh xanh” là “biêng biếc”, những sắc màu tươi đẹp của quê hương mà nghĩ đến lại thấy xót xa:

“Đứng hên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”.

Nghệ thuật so sánh “Sao xót xa như rụng bàn tay” của Hoàng Cầm đã biểu hiện nỗi đau tinh thần thật là cụ thể, nỗi đau đớn tinh thần đã trở thành nỗi đau đớn của thể xác.

Quê hương Kinh Bắc bên kia sông Đuống cứ hiện dần lên trong hương vị, trong sắc màu văn hóa dân tộc:

“Bển kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp”.

Điệp khúc “Bên kia sông Đuống” xoáy mãi vào tâm tư người đọc. “Bên kia” gợi hình ảnh của không gian gần gũi. Chính vì vậy mà lại càng xót xa. Chỉ một khoảng cách ngắn ngủi thôi mà bên này là tự do với cuộc sống yên lành mà “bên kia” là vùng tạm chiếm với khói lửa chiến tranh, với biết bao đau thương. Trong nỗi thương nhớ, nhà thơ hồi tưởng lại hình ảnh của quê hương trù phú, tươi đẹp. “Quê hương ta lúa nếp thơm nồng” gợi hương vị đậm đà thanh khiết của miền quê. Nhà thơ gợi bằng khứu giác khiến chúng ta cảm thấy như chính nhà thơ đang sông trên quê hương của mình, như đang đi trên những cánh đồng lúa chín với mùi hương lúa mới. Tác giả còn gợi đến truyền thống văn hóa nghệ thuật độc đáo của vùng Kinh Bắc. “Tranh Đông Hồ” còn gọi là tranh làng Hồ là một di sản văn hóa quý báu của dân tộc. Đó là một loại tranh dân gian đặc sắc của những nghệ nhân làng Hồ. Tứ thơ “Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong”#gợi đến những tác phẩm hội họa dân gian nổi tiếng như con gà, đàn lợn âm dương, đám cưới chuột, đánh ghen, hứng dừa... Cũng là lần đầu tiên, một nhà thơ biểu dương một hình thức nghệ thuật dân tộc như là quốc hồn quốc tuý. Câu thơ “Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” vừa có ý nghĩa khái quát (màu dân tộc) lại vừa có ý nghĩa cụ thể về nghệ thuật tranh làng Hồ (sáng bừng trên giấy điệp).

Rồi những ngày khủng khiếp: Giặc Pháp tràn đến, quê hương Kinh Bắc tươi đẹp chìm ngập trong máu lửa, điêu tàn:

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang”.

“Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”, ngọn lửa “ngùn ngụt” đó cũng là nỗi căm hờn của nhà thơ đối với quân giặc bạo tàn. Câu thơ ngắt ra đứt đoạn, khô khốc như nghẹn uất, nức nở. Giữa không khí khói lửa ngùn ngụt mà xuất hiện hình ảnh ẩn dụ “chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu” thật quá đắt, diễn tả một cách tài tình tội ác điên cuồng của lũ giặc - nó hay như hình ảnh “uốn lưỡi cú diệu mà sỉ mắng triều đình” trong Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn vậy.

Cuộc sống trên quê hương Kinh Bắc tan tác, chia lìa. Đến sự yên vui của loài vật trong tranh làng Hồ cũng tan tác, chia lìa:

“Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã B

ây giờ tan tác về đâu?”.

Biện pháp tu từ nhân hóa đã nâng cao hiệu quả thẩm mĩ. “Mẹ con đàn lợn âm dương, chia lìa đôi ngả” đó là tranh, nhưng cũng là sự thực ngoài đời. “Đám cưới chuột... tan tác về đâu” là sự tan tác của nghệ thuật, của vãn hóa nhưng cũng là sự tan tác của cuộc sống yên vui bên kia sông Đuông. Và như vậy là nhà thơ hai lần lên án tội ác của giặc Pháp xâm lược tàn phá cuộc sống dân lành và tàn phá nghệ thuật độc đáo của quê hương Kinh Bắc.

Tác giả lại trở về hoài niệm. Quê hương Kinh Bắc sống dậy trong lòng nhà thơ với biết bao hình ảnh thân thương. Mỗi một tên sông, tên núi, tên chùa... đều gợi đến lịch sử, đến truyền thống văn hóa, đến truyền thuyết, đến “hội hè đình đám”. Tác giả đối lập xưa và nay: “Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên” thì cuộc sống vui tươi như thế, nay thì vắng vẻ cô quạnh.

“Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu”.

Hoàng Cầm có biệt tài chỉ chấm phá một vài nét là những khuôn mặt của quê hương Kinh Bắc hiện lên biết mấy thân thương:

“Những nàng môi cắn chỉ quét trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu”.

Những cô gái của quê hương quan họ hiện lên như những bông hoa tươi thắm:

“Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng”.

Khuôn mặt “vàng” của thiếu nữ là khuôn mặt “trái xoan” (trái sầu đông). Hoàng Cầm lại phát hiện ra “khuôn mặt búp sen”, ít thiên về hình họa mà thiên về tinh thần như có hương có sắc, có tấm lòng trân trọng của nhà thơ đối với vẻ đẹp của thiếu nữ Kinh Bắc. Những mẹ già bên kia sông Đuống, qua cái nhìn và nét bút của Hoàng cầm làm động lòng hết thảy chúng ta:

“Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Chợt lủ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giày đinh đạp gãy quán gày teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo”.

Yêu quê hương Kinh Bắc sâu sắc, nặng tình nặng nghĩa với mỗi con người của quê hương ruột thịt, lại từng trải và lịch lãm, nên mỗi chữ thơ của Hoàng cầm nặng trĩu tấm lòng của thi nhân. Chữ “còm cõi” tràn đầy xót thương. “Mẹ già nua còm cõi” mà “gánh hàng rong” của mẹ cũng “còm cõi” với “dăm miếng cau khô” queo quắt với “mất lọ phẩm hồng” loè loẹt không giấu được cái nghèo của gáng hàng rong.

“Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm”.

Câu thơ “đầm hoen” nước mắt của thi nhân, đọc thấy cay cay nơi khóe mắt.

Tác giả lại sử dụng nghệ thuật đối lập, một bên là “mẹ già nua còm cõi”, một bên là “lũ quỷ mắt xanh”, “khua giày đinh” càng làm nổi bật sự tàn bạo của bọn giặc xâm lược. Tác giả còn phụ họa bằng hình ảnh của thiên nhiên thật là tài tình. Những chiếc lá đa lác đác trước lều rụng rơi, chia lìa, chết chóc. Và khi “Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong, Bước cao thấp bên bờ tre hun hút” thì lại:

“Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu”.

Một đường trắng ngang qua sông Đuống lạnh cả không gian, thảng thốt, kinh hoàng.

Hoàng Cầm lại đau lòng nghĩ đến đàn con thơ trong vòng vây của lũ giặc bạo tàn:

“Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sấm

Ú ớ cơn mé

Thon thót giật mình

Bóng giặc giày vò những nét môi xinh”.

Trong chiến tranh còn gì đáng thương hơn là trẻ thơ! Ta đã từng xúc động với lũ trẻ trong bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu: “Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy”. Giờ đây lại chính là những đứa con của thi sĩ Hoàng Cầm bên kia sông Đuống, đói khát “ngày tranh nhau một bát cháo ngô”, bom đạn đe dọa “đêm líu ríu chui gầm giường tránh đạn”. Tiếng súng giặc đã dội vào “giấc thơ ngây” của trẻ thơ và khuếch đại lên trong trái tim thi nhân thành tiếng sấm!

“Trong giấc thơ ngây, tiếng súng dồn tựa sấm”

Hoàng Cầm yêu tha thiết quê hương Kinh Bắc, gắn bó máu thịt với từng “bãi mía bờ dâu” với nền văn hóa lâu đời và độc đáo, với những con người đáng thương đáng mến, với truyền thống đấu tranh bất khuất của quê hương. Hoàng cầm cũng rất mực tài hoa và giàu cảm xúc. Chỉ một đoạn thơ, ta cũng nhận ra được những nét đặc sắc của bài thơ “Bên kia sông Đuống”. Bằng âm điệu phong phú của thể thơ tự do, bằng nghệ thuật tạo hình điêu luyện, tác giả đã diễn tả được hình ảnh của quê hương Kinh Bắc thân yêu đang chìm trong máu lửa và tình cảm xót xa, đau đớn, thương cảm của nhà thơ đốì với quê hương đang bị giặc giày xéo. Từng câu thơ cháy lên ngọn lửa căm thù ngùn ngụt trong lòng thi sĩ. Bài thơ “Bên kia sông Đuống” gợi lên niềm xúc động lớn lao và cho chúng ta yêu sâu đậm thêm những giá trị tinh thần trên quê hương đất nước thân yêu của mình.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 26)

Hoàng cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 trong một gia đình Nho giáo ở Bắc Ninh. Quê hương Kinh Bắc cổ kính với truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú, tiêu biểu là dân ca quan họ, chắc chắn có tác động rất lớn tới tâm hồn giàu cảm xúc của nhà thơ.

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta.

Mỗi một khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống. Dòng thơ đầu tiên mở ra tác phẩm là một tiếng gọi cất lên từ sâu thẳm trái tim đau đớn của nhà thơ, đồng thời cũng là một lời an ủi:

Em ơi buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lì

Lời an ủi đưa em về sông Đuống thực chất chỉ diễn ra trong hoài niệm của nhà thơ. Trong niềm hoài niệm đó, hình ảnh trung tâm là con sông quê hương với bờ cát trắng phẳng lì chảy từ quá khứ xa xôi về hiện tại, hiện lên trong tâm trí nhà thơ như một dòng sáng lấp lánh và trù phú hai bên bờ những màu xanh bạt ngàn của những bãi mía, nương dâu:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

Dáng nằm nghiêng nghiêng của dòng sông Đuống là một phát hiện, một sáng tạo độc đáo của Hoàng Cầm. Cảm xúc mãnh liệt cùng trí tưởng tượng phong phú đã giúp nhà thơ sáng tạo ra một hình ảnh thơ độc đáo đầy ấn tượng, làm xáo trộn cả không gian và thời gian, ám ảnh hoài tâm trí người đọc.

Cảm hứng chủ đạo trong đoạn thứ nhất là nỗi đau, sự nuối tiếc, xót xa, căm giận trước cảnh tượng quê hương thanh bình, đông vui, tươi đẹp bị giặc chiếm đóng. Vùng quê Kinh Bắc, trong hoài niệm, được gợi lên bởi hương lúa nếp thơm nồng, biểu tượng của cuộc sống ấm no, và tranh Đông Hồ, biểu tượng của đời sống tinh thần lành mạnh.

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm nồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Vẻ đẹp quê hương bừng sáng lên rồi bị ngập chìm trong khói lửa chiến tranh. Nhà thơ miêu tả thật xúc động những cảnh tan tác chia lìa của quê hương khi quân giặc tới: ngùn ngụt lửa hung tàn, ruộng khô, nhà cháy, con người chia li, cả loài vật cũng thành ra tan tác:

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu

Mượn hình ảnh trong tranh để diễn tả cảnh tượng thật ngoài đời, nhà thơ đã lay động sâu xa tình cảm của những con người vốn gắn bó máu thịt với truyền thống văn hóa hàng ngàn đời của quê hương Kinh Bắc. Vậy mà giấc mộng bình yên mấy trăm năm ấy giờ đây tan vỡ .

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em sột soạt quần nâu

Bây giờ đi đâu về đâu

Những con người mang một phần linh hồn của quê hương xứ sở ấy giờ đây trở nên bơ vơ, tan tác. Chỉ còn tiếng chuông chùa văng vẳng từ thuở bình yên xa xưa vọng về càng làm tăng thêm sự hoang vắng của quê hương như tiếng thở than nuối tiếc một thời yên ấm.

Trong tâm trí nhà thơ, hình ảnh những cô gái Kinh Bắc dăng tơ dệt lụa, buôn bán tảo tần hiện lên với những nét xinh tươi, dịu dàng, duyên dáng và biết bao tình tứ.

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Kinh Bắc vốn là đất lành giờ đây bỗng hóa thành đất dữ. Chẳng những con người không sống được yên ổn mà cả những cánh cò cũng táo tác, hốt hoảng không chốn nương thân.

Có con cò trắng bay vùn vụt

Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu

Mẹ ta lòng đói dạ sầu

Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ

Hình ảnh cánh cò lồng vào hình ảnh người mẹ, nhưng không phải là cánh cò bay lả bay la của thời bình nữa mà là cánh cò hốt hoảng chạy trốn đạn bom, soi bóng trên lưng người mẹ run rẩy, bước thấp bước cao trên đường trơn mưa lạnh.

Phần còn lại của bài thơ diễn tả cảnh bộ đội trở về và nhân dân vùng lên đấu tranh tấn công một cách chủ động vào kẻ thù. Giọng thơ chuyển từ nhớ tiếc, xót thương sang uất hận, căm thù. Một khung cảnh mùa xuân tràn trề niềm vui và ánh sáng lại trở về với vùng quê Kinh Bắc.

Bên kia sông Đuống là tiếng lòng tri ân sâu nặng của Hoàng cầm, ông viết tác phẩm như trả một món nợ nghĩa tình cho quê hương, bài thơ là những nhịp cảm xúc lúc sôi sục trào dâng. Bài thơ chỉ viết về một vùng quê rất riêng, quê hương Kinh Bắc nhưng vẫn có thể khơi dậy trong trái tim hàng triệu người Việt Nam tình yêu nước Việt muôn đời.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 27)

Cùng với “Tây tiến” của Quang Dũng, “ đồng chí” của Chính Hữu và “bên kia sông Đuống” là những thành tựu quan trọng trong thời ca thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Các tác phẩm này thể hiện một phẩm chất mới trong ca ca trữ tình cách mạng. nó kết hợp hài, nhuần thấm giữa tình cảm riêng tư và hiện thực lớn của cách mạng. Bài thơ “bên kia sông Đuống” kết tinh những nghệ thuật của thơ của ông.

“Em ơi! Buồn làm chi

Anh đưa em về sông Đuống

Ngày xưa cát trắng phẳng lỳ

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ

Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm đồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Mở đầu bài thơ bằng tiếng gọi, một lời an ủi “em ơi buồn làm chi”, câu mở đầu bài thơ đến với nhà thơ như sự vô thức, tiềm thức, nhìn thấy quê hương bị tàn phá, đột nhà thơ như nghe được trong chính bản thân mình từ thôn xóm nào xa nghe vọng bài hát như than thở, như ru em, một giọng nữ trong trẻo nghe rõ mồn một nhưng lại nghe như lúc thời còn thơ dại, và nhà thơ đã cất lời an ủi “em ơi, buồn làm chi”.

“Em” trong thơ Hoàng Cầm thường gắn với những em Kinh Bắc xinh tươi, duyên dáng của ngày lễ hội và ở đoạn cuối của bài thơ thì em Kinh Bắc đó hiện ra rõ nét hơn. Bao giờ về bên kia sông Đuống, anh lại tìm em, em mặc áo yếm, em thắt lụa hồng, êm đi trẩy hội. “Em” ở trong bài thơ chính là hiện thân, hóa thân của quê hương, tác giả mượn em quê hương như một đối tượng trữ tình để bày tỏ tâm tình của mình với quê hương xứ sở. bài thơ thể hiện tình yêu quê hương nhưng nó tha thiết và trìu mến như chính người yêu của tác giả.

“Những người con gái luôn ở trong tiềm thức của tôi và là cảm hứng trực tiếp cho những bài thơ,..mà cái đa tình ở đây đâu đơn thuần là tình yêu đôi lứa, tôi còn dành cái tình yêu ấy cho nơi mình sinh ra” nhà thơ Hoàng Cầm từng chia sẻ như vậy.

“anh đưa em về sông Đuống” chỉ là hành trình trong hoài niệm, trong không gian tâm tưởng dòng sông quê hương đã hiện ra với vẻ đẹp bình yên “bờ cát trắng phẳng lì” nhưng đó chỉ là vẻ đẹp của “ngày xưa” thôi còn bây giờ bị tàn phá đi nhiều rồi.

“Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ”

Tác giả miêu tả con sông thật sống động và như có tâm hồn vậy “cái dòng sông Đuống nghiêng nghiêng đó đã gắn bó với tôi từ những năm lên 8,9 tuổi và khi tôi xa Kinh Bắc chứng kiến hình ảnh những người phụ nữ trăn trở, suy nghĩ về số phận của mình thì cái dáng nằm nghiêng nghiêng ấy cũng là dáng vẻ suy tư số phận dân tộc”. Sông Đuống giống như một sinh thể có hồn, ôm ấp lấy quê hương.

“Xanh xanh bãi mía bờ dâu

Ngô khoai biêng biếc

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc

Sao xót xa như rụng bàn tay”

Từ láy “xanh xanh” “biêng biếc”, các điệp từ để nhấn mạnh sự trù phú, tươi đẹp của quê hương, nhưng ở câu cuối của khổ thơ “Sao xót xa như rụng bàn tay” đê nói lên sự đau đớn, chia lìa.

Mỗi khổ thơ là những hoài niệm về cái gì thân thương nhất của quê hương đồng thời cũng là dòng “chép tội” của giặc mai mãi “không nguôi hờn”. Quê hương Kinh Bắc vói lúa nếp Làng Vân, trạn đồng hồ, thể hiện cuộc sống tươi đẹp cả về vật chất lẫn tinh thần, tranh dân gian là đề tài quen thuộc, lấy những gì thân thuộc nhất để vẽ.

“Bên kia sông Đuống

Quê hương ta lúa nếp thơm đồng

Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong

Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn”

Hoàng Cầm nhà thơ của đất Kinh Bắc, nhà thơ đã phất cánh diều thơ của mình từ cánh diều thơ văn học, văn hóa Kinh Bắc, “bên kia sông Đuống” là một hình tượng tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Phần mở đầu là cái nhìn toàn cảnh và cảm xúc khái quát về bên kia sông Đuống.

Còn độn hai của bài thơ thể hiện cảnh quê hương bị tàn phá do bom đạn, do chiến tranh, không còn cái yên bình, thơ mộng như ngày nào mà thay vào đó là cảnh quê hương bị bọn giặc phá hoại, chỉ nhìn thôi người ta cũng đủ đau xót.

“Quê hương ta từ ngày khủng khiếp

Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn

Ruộng ta khô

Nhà ta cháy

Chó ngộ một đàn

Lưỡi dài lê sắc máu

Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang

Mẹ con đàn lợn âm dương

Chia lìa đôi ngả

Đám cưới chuột tưng bừng rộn rã

Bây giờ tan tác về đâu?”

Hình ảnh quê hương tươi đẹp trong quá khứ thanh bình, gợi lên tình cảm yêu thương tiếc nuối bao nhiêu thì hình ảnh kẻ thù man rợ lại làm sục sôi căm giân bấy nhiêu. Những câu thơ trên lột tả những hành động thú tính, tàn bạo. ta đã thấy được sự tương phản ở phần đầu của bài thơ, đó là quê hương với nếp vàng thơm, với tranh đồng hồ đặc trưng, thì giơ đây lại nhuốm màu tang tóc, màu của mất mát và đau thương, một đồng quê, một làng quê yên bình, nên thơ giờ đây lại trở thành đồng cháy. Từ một bức tranh đời sống chân thực, sinh động, có bà lam lũ vất vả, có con thơ ham trò chơi, vẫn tung tăng với những trò nghịch phá thì giờ đây lại trở thành một vùng đất “tâm linh” giữa cái thực và ảo.

“Vùng tâm linh đó không phải cái gì xa với mà là những kỉ niệm sâu lắng nhất. Nó quen thuộc và thân quen với mình trong những năm tháng thơ ấu và đến lúc đó nó nhập vào mình như vô thức nhưng lại rất thực”.

“Ai về bên kia sông Đuống

Cho ta gửi tấm the đen

Mấy trăm năm thấp thoáng

mộng bình yên

Những hội hè đình đám

Trên núi Thiên Thai

Trong chùa Bút Tháp

Giữa huyện Lang Tài

Gửi về may áo cho ai

Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu

Những cụ già phơ phơ tóc trắng

Những em xột xoạt quần nâu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Quê hương Kinh Bắc với những chùa cổ kính và trang nghiêm cùng với những lễ hội đình làng có từ bao nhiêu đời. tác giả đã vẽ nên một bức tranh hội hè đông vui, có nam phụ lão ấu, sắc môi đỏ tươi, tóc trắng phơi phới, màu nâu tươi mới, nét duyên dáng, đằm thắm, vẻ thanh thản, an nhiên với dáng xúng xắng, tung tăng.

Ai về bên kia sông Đuống

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen

Những cô hàng xén răng đen

Cười như mùa thu tỏa nắng

Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen

Bãi Tràm chỉ người dăng tơ nghẽn lối

Những nàng dệt sợi

Đi bán lụa mầu

Những người thợ nhuộm

Đồng Tỉnh, Huê Cầu

Bây giờ đi đâu? Về đâu?”

Kinh Bắc hiện lên với người con yêu dấu của quê hương. Những người con gái thì tảo tần, vén khéo như hiện thân của quê hương những nét chấm phá khi nói về những người con gái thì có tài hoa, xinh đẹp, khéo léo, một vẻ đẹp vừa mộc mạc, thanh cao, vừa duyên dáng vùa dịu dàng. Cuộc sống làm ăn, buôn bán diễn ra một cách sôi nổi, sầm uất và nhộn nhịp “Chợ Hồ, chợ Sủi người đua chen”.

“Bên kia sông Đuống

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong

Dăm miếng cau khô

Mấy lọ phẩm hồng

Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn

Khua giầy đinh đạp gẫy quán gầy teo

Xì xồ cướp bóc

Tan phiên chợ nghèo

Lá đa lác đác trước lều

Vài ba vết máu loang chiều mùa đông”

Hình ảnh những người mẹ Kinh Bắc hiện lên thật đáng trân trọng, người mẹ ấy đã tảo tần, lam lũ, dựa vào gánh hàng rong để mưu sinh, lo cho từng bữa ăn hàng ngày. Vì thế những vần thơ mà nhà thơ viết về mẹ thật trũi nặng và thương cảm. những cảnh ấy dường như đã quá quen với tác giả với mọi người, dù vất vả thế nhưng cuộc sống vẫn diễn ra một cách êm đềm và bình yên trong tình yêu thương của mẹ và của gia đình, của quê hương.

Rồi đột nhiên trong cái cảnh đấy, con người như thế, cảnh vật như thế mà sao bọn giặc tàn ác nó lại khiến quê hương thật xơ xác, thật thương cảm bao nhiêu, dường như sự chết chóc diễn ra hàng ngay, hàng giờ trên chia cái mảnh đất gắn bó cả tuổi thơ của tác giả vào đây. Qua đây để ta thấy được sự khốc liệt của chiến tranh, một cuộc chiến phi nghĩa mà bọn thực dân pháp đang tiến hành tren đất nước ta.

“Bên kia sông Đuống

Ta có đàn con thơ

Ngày tranh nhau một bát cháo ngô

Đêm líu díu chui gầm giường tránh đạn

Lấy mẹt quây tròn

Tưởng làm tổ ấm

Trong giấc thơ ngây tiếng súng dồn tựa sấm

Ú ớ cơn mê

Thon thót giật mình

Bóng giặc dày vò những nét môi xinh”

Những hình ảnh của em bé thật tội nghiệp, “ngày tranh nhau bát cháo ngô, đêm đen thì phải chui vào gầm giường để tranh đạn”

Đứng trước hoàn cảnh đó thì tác giả đẫ vẽ nên, hình dung về một cuộc chiến đấu giải phóng quê hương, đất nước. và rồi chúng ta đã dành chiến thắng và chiến thắng đó thật lông lẫy.

Bài thơ thể hiện một cách chân thành, xúc động cái tình cảm và niềm xót thương của tác giả đối với quê hương. Nhà thơ đã gắn bó thiết tha với cái mảnh đất ông cha, với truyền thống tốt đẹp của dân tộc và gắn bó mật thiết với những cón người nơi đây.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 28)

Cũng tựa như “Trường ca sông Lô” của Văn Cao và “Du kích sông Thao” của Đỗ Nhuận trong âm nhạc, bài thơ “Bên kia sông Đuống” của thi sĩ Hoàng Cầm có thể coi là một bản trường ca trong thơ thời kỳ kháng chiến chống Pháp. Quy mô bài thơ khá lớn, bao hàm đủ cả quá khứ, hiện tại, tương lai của một miền đất vốn là chiếc nôi văn hóa của xứ Bắc lại đang chìm ngập trong cơn binh lửa, với nhiều cảnh đời, tình người, nhiều trạng huống cảm xúc buồn, vui, yêu, ghét, nhớ tiếc, hy vọng… như cả một hoạt cảnh thơ hoàn chỉnh.

Để chở được một dung lượng khá đồ sộ như vậy mà cấu trúc không bị manh mún, chất lượng không bị sồi sụt (hoặc có sồi sụt chút ít không đáng kể), mà ngược lại người viết lại có thể cuốn người đọc, người nghe theo một dòng chảy cuồn cuộn từ câu thứ nhất đến câu cuối cùng như một con sông Đuống bằng thơ ấy, rốt cuộc là nhờ vào sức mạnh của cái gì vậy? Về ý tưởng ư?- Thực ra bài thơ có tung ra được ý tưởng gì độc đáo, mới mẻ lắm đâu. Về cốt truyện ư?- Càng không có gì đáng gọi là ly kỳ, hấp dẫn, nếu không nói là sơ lược. Ngay cả về ngôn từ, ngoài những sáng tạo thành công lắm khi đến độ xuất thần mà ta sẽ nói tới sau, không thể phủ nhận là trong bài vẫn còn không ít lời lẽ kiểu cách và sáo. Rốt cuộc, sức mạnh to lớn của bài thơ dài này vẫn nằm trong nguyên lý muôn đời của thơ ca tức là dòng cảm xúc mạnh mẽ, dào dạt vô cùng, thứ cảm xúc dường như đã được tích tụ từ rất lâu trong lòng người, bất chợt được một bàn tay của ngoại cảnh bật tung cánh cửa, khiến nó tuôn ra ào ạt, đủ sức cuốn phăng đi mọi con đê khuôn sáo, mọi toan tính chừng mực và tỉnh táo, để làm tràn ra trên mặt giấy những chữ, những dòng mà sau này chính nhà thơ có lần thú nhận là ông đã viết chúng ra như trong một cơn mê sảng, như thể có ai đó đọc vào tai cho mà ghi lại vậy! Thần bí hóa công việc làm thơ hẳn có người khó chịu, nhưng tình trạng thăng hoa của cảm xúc, sự khơi đúng nguồn mạch trong khai thác cảm xúc và cả ý tưởng nữa trong công việc sáng tạo nghệ thuật, dẫu rất hiếm và quý, nhưng cũng là chuyện xưa như trái đất. Và thi sĩ Hoàng Cầm của chúng ta, một nhà thơ vốn đã nổi danh đa tình, đa cảm, lại sành sỏi trong công việc thao túng chữ nghĩa, trong cái đêm Việt Bắc se lạnh, đang nằm nhớ thương gia đình và quê hương đến cháy lòng, lại được nghe những người du kích từ quê nhà vừa bị giặc chiếm chạy lên chiến khu kể lại nguồn cơn thảm cảnh thì việc chỉ ngay trong một đêm ông có thể hạ bút làm xong bài thơ tràng thiên ngót một trăm năm mươi câu này là điều không có gì khó hiểu. Công việc sáng tạo nghệ thuật vẫn thường như vậy, có khi cả tháng cả năm không vạch nổi một chữ, nhưng có khi mạch cảm xúc bất chợt tuôn ra như thác vỡ bờ, ấy là những khoảnh khắc hạnh phúc tuyệt vời của người viết. Thậm chí, ta cũng không ngại để “nói vuốt đuôi” rằng, với mạch tình cảm thể hiện ra trong bài thơ này thì sự thể còn không thể nào khác được nữa kia! Liệu bài thơ còn giữ được cái mạch liền như “áo nhà trời không có đường khâu” này hay chăng, nếu nó được làm ra một cách ì ạch, ngắc ngứ, đánh vật hết ngày này sang ngày khác? Dĩ nhiên, làm có thể nhanh, sửa sang có thể dềnh dàng, nhưng liệu có sự khôn ngoan, kỹ tính nào lại đẻ ra nổi một câu thơ kỳ lạ vào bậc nhất trong thơ Việt từ cổ chí kim như câu thơ tả sông Đuống “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ” được chăng?
Như vậy là ta đã động đến cái đặc thù của bài thơ này: tính liền mạch - nhờ cảm xúc mạnh mà tạo nên liền mạch, lại nhờ có mạch mà tạo ra được nhiều ưu thế khác.
Một tiếng kêu tự đáy lòng dễ thường chỉ gặp ở trong thơ tình, mà là thơ tình thứ thiệt, thơ tình chân chất của người trong cuộc, chứ không phải thứ thơ tình mượn danh tình yêu để rao giảng việc khác. Có sự vào bài ngọt lịm như thế, sự vào bài giúp cho cả bài sẽ “đầu đi đuôi lọt” như vậy là nhờ ngay từ đầu tác giả chắc không nghĩ mình làm thơ để ban phát một điều gì, thậm chí phục vụ một mục đích gì. Ông viết như một sự giải tỏa nỗi lòng đang dào dạt những nhớ thương, buồn đau khôn xiết. Có thể rồi dần dà ông sẽ nghĩ tới những điều ấy, nghĩ tới bạn đọc, nhưng đó chắc chắn là chuyện đến sau, còn vào phút ấy, ông phải viết ra ngay những lời như đã ngấp nghé nơi cổ họng, như một tiếng kêu, một tiếng thét bật ra từ sâu thẳm trái tim-thế thôi. Tôi nghĩ, nếu sau này nhà thơ có kể lại rằng ông đã viết những lời này như sự mách bảo của một thế lực siêu nhân thì thế lực bí mật đó chẳng có gì khác hơn là những cảm xúc, những ý tưởng đã nung nấu đến thành ra máu thịt ở trong ông tự những bao giờ khiến cho chính ông cũng không ngờ tới. Sự thể này trên đời vẫn có lúc xảy ra, mà nhà thơ của chúng ta không phải là trường hợp hy hữu. Nhất thiết không có gì thần bí theo nghĩa duy tâm ở đây, mà chỉ có bản chất của công việc sáng tạo nghệ thuật, cái công việc “cướp quyền Tạo Hóa” rắc đậu thành binh, dám cả gan tạo dựng cả trời đất và hồn người trên trang giấy thì vốn tự thân đã là như vậy. Phải thấu hiểu đến tận cùng cái phút giây “thơ về giáng bút” như chữ dùng của thi sĩ Vũ Hoàng Chương khi bàn tay của người viết tựa như miệng của cô đồng-nếu như có những cô đồng đích thực-chỉ biết chạy theo những “mệnh lệnh” bí ẩn từ đâu đó trong cõi vô minh mà ở đây ta có thể hiểu là tiếng nói sâu thẳm của những cảm xúc, những nghiền ngẫm suy tư đã tích tụ từ lâu lắm trong bộ nhớ của con người, lâu và chín đến nỗi ta không còn nhớ đến nó nữa, đến nỗi khi nó vang lên bên tai thì ta cứ nghĩ là nó vọng về từ vô thức! Phải, có hiểu như vậy thì ngõ hầu ta mới không hoang mang khi đứng trước một câu thơ như ta vừa nói tới ở trên:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng
chiến trường kỳ.
Có lẽ từ thuở bài thơ được phổ biến đến nay, câu thơ này luôn luôn và mãi mãi là một câu đố trong lòng công chúng yêu thơ. Tôi biết, có vị giáo sư đáng kính đã từng đạp xe dọc sông Đuống hàng chục, hàng chục cây số để tìm lời giải đáp cho câu hỏi ấy. Nghe đâu như ông đã tìm ra, nhưng là để giải đáp cho ông thôi, còn những người khác, họ có chấp nhận hay không thì chưa chắc. Thực ra, tất cả chỉ ở hai chữ “nghiêng nghiêng” kỳ quái! Giá như nó chỉ khiến ta thấy nó cầu kỳ, thậm chí kỳ cục thì chẳng có gì mà nói, người ta hoàn toàn có thể viết những chữ kỳ cục hơn thế nhiều, nhưng hoặc chỉ để mua cười cho thiên hạ, hoặc sẽ chẳng ma nào để ý tới, điều phiền toái ở đây là dòng thơ kỳ lạ này lại ngay lập tức bám riết lấy hồn ta, trí ta, nó lay động, nó gợi mở, nó khiến ta cứ phải hình dung, phải tưởng tượng… thế nghĩa là nó có cái lý bên trong nào đó, có cái tình u ẩn nào đó-và với một câu thơ có sức ám ảnh dai dẳng đến như thế, thì ta chỉ biết nói là nó hay, quá hay, vậy thôi, hay đến nỗi nếu được bầu một câu thơ hay nhất trong nền thơ kháng chiến, tôi xin được bỏ phiếu cho câu này. Bỏ phiếu, không do dự, nhưng cũng không… giải thích! Là vì thú thực, tôi cũng như mọi người, đã hơn một lần cố công giải thích cho cái hay của câu thơ, nhưng riêng tôi tự thấy nên từ bỏ ý định vô vọng này đi, bởi đơn giản càng mổ xẻ, phân tích càng thấy bất lực, thậm chí còn phơi hết sự dung tục của mình ra. Xin cứ để yên cho câu thơ được nằm mờ ảo trong vòng hào quang của Thần Thánh, mà với Thánh Thần thì “kính nhi viễn chi” xem ra vẫn là thái độ khôn ngoan hơn cả.
Tôi đã quá dài lời vì một câu thơ, nhưng sự thể không thể khác được. Điều đáng khâm phục là ngoài câu thơ thiên phú trên đây, bài thơ vẫn còn những câu, những chữ tài tình đến mức xuất thần. Chẳng hạn, nói nỗi đau trong lòng mà như cảm thấy được đến tận ngoài da thịt: “sao xót xa như rụng bàn tay”! Sao lại “rụng bàn tay” mà không phải cái gì khác? Tả bọn giặc xâm lược thì:
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giày đinh đạp gãy quán gầy teo
Còn đây là cái cách mượn cảnh trời tả hồn người tinh vi và kinh điển:
Có con cò trắng bay vùn vụt
Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu
Có vẻ như ta đang nghe Nguyễn Du với “chim hôm thoi thót về rừng” báo hiệu một tai họa sắp ập xuống với nàng Kiều. Và đến câu thơ sau đây thì không có gì khác hơn là tài dùng chữ siêu việt:
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Hai chữ “thấp thoáng” đã nâng vị thế con người lên một tầm nhìn rất cao và đầy nhân bản. Xin kể một câu chuyện nhỏ: Có một lần, sau một cuộc đọc thơ ở Thư viện Hà Nội, mấy anh em làm thơ của nhiều thế hệ quây quần trò chuyện, nhà thơ Phùng Quán, ý muốn thử tài các đồng nghiệp theo cách của ông, liền làm một cuộc trắc nghiệm bằng cách đề nghị mỗi nhà thơ đọc một câu thơ của mình mà có thể gói trọn thần thái của cả đời người ấy trong đó (xin tiết lộ là đã có không ít nhà thơ rất lúng túng khi phải tham gia cuộc trắc nghiệm này). Đến lượt nhà thơ Hoàng Cầm thì chính Phùng Quán xin được nói hộ “ông anh tôi đây” và Phùng Quán đã chọn câu thơ trên một cách thích thú và tâm đắc. May mắn được có mặt ở đấy, người viết bài này cũng phải công nhận cái sự chọn của ông thi sĩ họ Phùng là rất chính xác. Kể câu chuyện này ở đây là để thay cho một lời bình luận, vì nó đã nói lên rất nhiều.

Mặc dù không dám mạo hiểm cắt nghĩa những gì mình tự thấy chưa mấy tự tin vào những hiểu biết vốn còn nông cạn, nhưng dẫu sao điều gì cảm được thì cứ xin nói ra, mà một trong những điều ấy là: chính mạch thơ-nhờ được bảo lãnh bởi mạch cảm xúc-đã khơi nguồn cho sức băng tới của bài thơ, và chính trong sự vận động tự thân của thơ như một dòng suối chảy xiết đã làm cho những hạt vàng lấp lánh của ngôn từ vốn bị vùi sâu dưới đất đã bật lên, đã có dịp phơi mình dưới ánh sáng mặt trời. Sức cuốn ấy của tình cảm cũng tạo nên một dòng âm nhạc chảy xiết, vừa phong phú vừa linh hoạt, với hầu như đủ hết các thể thơ từ tự do, lục bát, đến cả song thất… dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp, nhanh chậm đều nương theo nhu cầu tình cảm của con người mà ngân lên. Ta dễ dàng nhận ra sức mạnh ấy của nhạc tính trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm khi đọc vào bất cứ đoạn nào trong bài thơ, chẳng hạn:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu…
Và cứ thế cho đến những câu thơ kết đẹp như một dòng âm thanh lanh lảnh vút lên giữa trời xanh:
Bao giờ về bên kia sông Đuống
Anh lại tìm em
Em mặc yếm thắm
Em thắt lụa hồng
Em đi trẩy hội non sông
Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân
xanh.
Thiết nghĩ, cùng với giá trị của những từ ngữ, hình ảnh xuất thần, về mặt nhạc tính, “Bên kia sông Đuống” đã là cả một dàn giao hưởng của rất nhiều giai điệu, tiết tấu làm say đắm hồn người và đủ để biểu dương vẻ đẹp không gì sánh nổi của tiếng Việt khi trở thành vũ khí lợi hại của thơ ca.
Để kết thúc bài viết đã khá dài, tôi thấy vẫn còn một điều phải nói nốt về bài thơ này: ấy là, cuộc sống đã có lý khi dành một bài thơ đẹp và hoành tráng đến thế để ca ngợi một vùng đất như xứ Kinh Bắc, mảnh đất có truyền thống văn hóa sâu thẳm, xứ sở của những hội hè, đình đám, những chùa chiền, miếu mạo, của nguyên phi Ỷ Lan, của bà chúa Chè Đặng Thị Huệ, của những liền anh, liền chị, của “tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp” v.v và v.v.. Chính là tất cả những cảnh, những người, những tình, những nghĩa đã chung đúc tinh anh lại, gửi vào trong ngọn bút tài hoa của một người con xứ sở: Thi sĩ Hoàng Cầm.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 29)

Nhà thơ Hoàng Cầm sinh ra ở Bắc Ninh – quê hương quan họ với những làn điệu dân ca ngọt ngào đằm thắm chính là suối nguồn nuôi dưỡng tâm hồn thơ ca của ông. Mảnh đất Kinh Bắc đã gợi thương gợi nhớ cho Hoàng Cầm, nó giống như một ám ảnh nghệ thuật trong thơ ông. Đọc thơ ông, thấy hiện lên cảnh vật và con người Kinh Bắc – một vùng đất trù phú, hữu tình với biết bao di tích lịch sử, đền đài, miếu mạo, biết bao những sinh hoạt, những truyền thống văn hóa lâu đời: Hội Gióng, hội Lim.. Bài thơ Bên km sông Đuống là một kết tinh nghệ thuật tiêu biểu của nhà thơ.

Mỗi khổ thơ trong bài thơ đều được mở đầu bằng hình ảnh dòng sông Đuống – một sinh thể hữu hình tiềm ẩn sức sống, văn hóa, tâm hồn Kinh Bắc, tạo cho bài thơ như một bản giao hưởng trầm hùng thấm đượm chất trữ tình, cảm hứng ấy được bộc lộ khá rõ ngay từ mở đầu bài thơ, khi người con của quê hương đứng ở “Bên này” nhìn về Bên kia sông Đuống:

Em ơi buồn lòng chi
Anh đưa em về Bên kia sông Đuống

Bài thơ mở đầu thật tự nhiên, câu thơ vừa như lời gọi vừa như một lời an ủi, vỗ về. Hai câu thơ chủ yếu sử dụng toàn thanh bằng, tạo ra được độ mênh mang, dàn trải trong cảm xúc. Nó làm cho bài thơ nhẹ nhàng, như ru như hát gợi dậy trong lòng người bao nỗi niềm bâng khuâng. Tác giả trò chuyện tâm tình với người em gái Kinh Bắc hay cũng chính là giãi bày lòng mình, an ủi em cũng chính là an ủi mình, đó chỉ là cái cớ để bộc lộ cảm xúc của tác giả. Sông Đuống là điểm đến trong tâm tưởng của Hoàng cầm. Ngay cả lời an ủi người em gái cũng hướng về dòng sông đầy kỉ niệm ấy.

Rõ ràng hình ảnh sông Đuống là một ám ảnh trong ký ức của Hoàng Cầm về quê hương Kinh Bắc. Sau khi giới thiệu, nhà thơ tiếp tục làm rõ bức tranh toàn cảnh của dòng sông này:

Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì

“Ngày xưa cát trắng phẳng lì” giống như một câu thơ bản lề. Từ “ngày xưa” làm cho thời gian hiện tại như bị đẩy lùi về quá khứ, người ta ngỡ như bắt gặp đâu đó thế giới cổ tích huyền diệu. Câu thơ ắp đầy hoài niệm bâng khuâng. Hình ảnh Kinh Bắc thanh bình phẳng lặng còn được gợi tả khá tài tình qua “cát trắng phẳng lì” – chỉ cần gợi ra một chi tiết mà giúp người đọc nhận ra thần thái của cả bức tranh. Ở đây, hình ảnh sông Đuống được miêu tả cụ thể, đẹp đẽ, sống động, nó giống như một chinh thể đẹp mà ở góc nhìn nào người ta cũng cảm nhận được và kiêu hãnh với vẻ đẹp của nó. Không những thế, sông Đuống còn được nhìn trong trạng thái động “Sông Đuống trôi đi” nhưng quan trọng hơn nữa, người đọc cảm nhận dòng chảy của nó, sự trôi chảy của dòng sông cũng chính là sự trôi chảy của thời gian lịch sử. Nhà thơ còn sử dụng từ láy “lấp lánh” tạo ra sự lung linh, rực rỡ, mỹ lệ cho dòng sông. Trong cái lấp lánh ấy người đọc cảm nhận được ánh sáng của nó, lúc này đây dòng sông đã trở thành dòng ánh sáng, không những thế dường như chúng ta còn cảm thấy niềm tự hào kiêu hãnh của tác giả gửi gắm trong câu thơ này. Nhà thơ đã sử dụng biện pháp tu từ nhân hóa là cho dòng sông có dáng “nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kì”, sông Đuống giống như một chứng nhân lịch sử trong suốt cuộc kháng chiến của dân tộc. Cái hay của câu thơ là ở từ “nghiêng nghiêng” – từ láy tạo hình chúng ta như cảm nhận được vóc dáng của dòng sông mềm mại uốn lượn và rất nhịp nhàng, gợi cảm. Có lẽ phải có cái dáng “nằm nghiêng nghiêng” ấy con sông mới như một sinh thể có hồn, có tâm trạng hơn, phải chăng vì thế mà có ý kiến cho rằng: hình ảnh sông Đuống trong cảm nhận của Hoàng Cầm được miêu tả như một người thiếu nữ trong nỗi niềm trăn trở, lo âu. Tiếp đó, hình ảnh một chốn quê thanh bình, một không gian yên ả đã hiện ra:

Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc

Đây là những nét vẽ điển hình của làng quê Việt Nam, đây là bãi mía bờ dâu, kia là ngô khoai. Tất cả đều là những hình ảnh quen thuộc, bình dị đối với con người Việt Nam. Hoàng Cầm viết về những hình ảnh ấy bằng tất cả sự gắn bó và niềm yêu mến tha thiết. Bao trùm lên toàn bộ không gian là một mầu xanh nhưng với những sắc độ khác nhau, “xanh xanh”, “biêng biếc”. Người đọc cảm nhận được nét trù phú tốt tươi, khoáng đạt, trong sáng của cảnh vật, chúng như ánh lên một sự sống mạnh mẽ. Bài thơ này được viết theo mạch cảm xúc nhớ thương, mê mải với quá khứ thanh bình rồi ngỡ ngàng với nỗi đau ở hiện tại. Hai câu thơ tiếp theo như vỡ òa nước mắt:

Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay

Bên này – bên kia, một dòng sông chia cách hai khoảng trời, chia cách đôi bờ Kinh Bắc một bên là vùng tự do, một bên đã bị giặc chiếm đóng. Cấu trúc “sao nhớ tiếc” “sao xót xa” ẩn chứa đầy tâm trạng đớn đau, mà nhớ, tiếc nuối xót xa. Chữ “sao” như xoáy vào lòng người đọc một nỗi nhức nhối, đau đáu, khôn nguôi, xưa là thanh bình đẹp đẽ, nay là đau đớn chia lìa. Ở đây nỗi đau đã lên đến tột cùng và được cụ thể hóa như là có thể cảm giác được quê hương như là một phần máu thịt, bởi thế quê hương bị chia cắt cũng giống như con người mất đi một phần cơ thể mình. “Như rụng bàn tay – một hình ảnh so sánh thật tự nhiên, giản dị nhưng rất sâu sắc đã tiếp thêm tình yêu nỗi nhớ khôn nguôi của Hoàng Cầm đối với mảnh đất Kinh Bắc. Nỗi nhớ này là điểm xuất phát, sự bùng nổ cho cảm hứng về quê hương Kinh Bắc tuôn chảy dào dạt trong mạch thơ của ông. Đoạn thơ thứ hai trong bài thơ là một điệp khúc giàu sức gợi hình tượng:

Bèn kia sông Đuống
Quê hương ta lúa nếp thơm nồng
Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong
Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp

Bằng nhữg câu thơ trên, nhà thơ đã khái quát được nét vẽ đẹp nhất, sống động và điển hình nhất bức tranh làng quê Kinh Bắc. Một bức tranh đầy màu sắc, ánh sáng và hương vị. Lời giới thiệu “quê hương ta lúa nếp thơm nồng” hết sức mộc mạc, nó như một nét vẽ bình dị, quen thuộc của làng quê Việt Nam gợi dậy bao ám ảnh trong lòng người đọc về một quê hương thanh bình yên ả. Những bức tranh Đông Hồ là hình ảnh đặc trưng của quê hương Kinh Bắc thể hiện được bản sắc văn hóa tinh hoa của con người trên từng nét vẽ. Đó là sự kết tinh vẻ đẹp tài hoa trong cuộc sống tinh thần người Kinh Bắc. Những bức tranh Đông Hồ do những nghệ sĩ dân gian sáng tác bao gồm những đề tài quen thuộc phản ánh tâm tư khát vọng trong sáng lãng mạn và không kém phần dí dỏm của người liên doanh: đám cưới chuột, đàn lợn, hứng dừa, đánh ghen… chúng được vẽ trên giấy dó, giấy điệp, vẽ bằng chất liệu cỏ cây, hoa lá, đất cát quê hương. Như vậy nét tươi trong của tranh Đông Hồ không chỉ gợi ra cái tươi tắn trong trẻo mà còn chứa nét đẹp rạng ngời tinh khôi. Chữ “sáng bừng” được dùng khá độc đáo, nó không còn là tính từ mà đã được sử dụng như một động từ không chỉ để chỉ ánh sáng mà còn khẳng định sức sống kỳ diệu của dân tộc. “Màu dân tộc” trở thành một ẩn dụ độc đáo của Hoàng cầm, qua đó thể hiện niềm kiêu hãnh của nhà thơ về bản sắc văn hóa của dân tộc mình. Bởi quê hương xiết bao yêu dấu, tự hào sống trọn trong trái tim khói lửa, nhà thơ đã diễn tả nồi đau xót căm hờn xen lẫn sự tiếc nuối xót thương với những hình ảnh đầy ấn tượng:

Quê hương ta từ ngày khủng khiếp
Giặc kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn
Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã
Bây giờ tan tác về đâu

Câu thơ đầu giống như câu thơ bản lề làm chuyển đổi mạch cảm xúc của bài thơ. Tác giả gọi những ngày giặc xâm chiến là những ngày “khủng khiếp” cho thấy sự khốc liệt của chiến tranh. Nhiều hình ảnh ẩn dụ được sử dụng để gọi tả sự khốc liệt này, hình ảnh “lửa hung tàn” gợi ra sự tàn bạo của kẻ thù đồng thòi là tiếng nói tố cáo phê phán gay gắt chiến tranh. Nếu ở khổ thơ phía trên nhịp thơ đều đặn dàn trải ổn định thì đến khổ thơ này những câu thơ ngôn ngắt nhịp mạnh dồn dập liên tiếp chỉ tội ác chồng chất của kẻ thù cùng với niềm căm thù ngút tròi và nổi đau tột cùng của con người Từ láy “ngùn ngụt” không chi là từ gợi hình chi ngọn lửa mà chính là lòng căm thù của con người bị đốt cháy – những câu thơ của Hoàng cầm rất giàu sắc thái biểu cảm, bao trùm lên không gian là sự hoang tàn, vắng lạnh, xơ xác, không còn cái vẻ thanh bình, cái nét trù phú tươi tắn. Tất cả chi là một cảnh tượng chia li chết chóc. Chữ kiệt cùng được dùng rất hay – không gian càng trở nên sâu thẳm, nỗi đau được biểu hiện tột cùng. Điều đặc biệt là tác giả không miêu tả cụ thể hình ảnh con người nhưng dấu ấn về cuộc sống chia li hoang tàn vẫn được biểu hiện rõ, ông đã mượn hình ảnh nhũng con vật vô tri trong bức tranh Đông Hồ để nói về nỗi đau của con người, đây là một dụng ý nghệ thuật sâu xa của nhà thơ Hoàng Cầm. Đằng sau nỗi đau là hình ảnh quê hương Kinh Bắc với những phong tục tập quán, những hội hè, đình đám, được gợi nhắc lại hết sức sống động:

Ai về Bên kia sông Đuống
Cho ta gửi tấm the đen
Mấy trăm năm thấp thoáng mộng bình yên
Những hội hè đình đám
Trên núi Thiên Thơi
Trong chùa Bút Tháp
Giữa huyện Lang Tài
Gửi về may áo cho ai
Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu

Ở đây ta bắt gặp một phong tục đẹp đẽ vùng Kinh Bắc. Tấm the đen gửi về may áo. Nó không chỉ là nét vẽ truyền thống mà con là hành động gửi thương gửi nhớ của con người, qua đó thể hiện niềm trân trọng yêu mến sâu sắc của tác giả với con người Kinh Bắc. Các địa danh Thiên Thai, Bút Tháp, Lang Tài được gợi nhắc đã thể hiện niềm kiêu hãnh và tự hào sâu sắc của nhà thơ về vẻ đẹp quê hương mình. Mặt khác các địa danh này lại đi liền với các từ có ý nghĩa định vị về mặt không gian là “trên”, “trong”, “giữa”. Nhà thơ Hoàng cầm đã mở ra trước mắt người đọc một không gian rộng lớn mênh mông, không gian của “mộng bình yên” đẹp đẽ, thơ mộng. Thêm nữa có một nét vẽ cổ điển của âm thanh tiếng chuông chùa văng vẳng lại như điểm nhịp cho cuộc sống yên ả, bình dị của Kinh Bắc. Hình ảnh con người Kinh Bắc được phác họa bằng những câu thơ cụ thể:

Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em sột soạt áo nâu

Chỉ bằng vài nét phác họa, Hoàng cầm đã dựng nên trước mắt người đọc từng bức chân dung cụ thể của con người Kinh Bắc, họ đều rạng ngời với vẻ đẹp truyền thống, những người thiếu nữ, có vẻ đảm đang tháo vát, nhũng cụ già phúc hậu, những em nhỏ ngây thơ tinh nghịch. Rõ ràng ở đây ta thấy niềm yêu mến sâu sắc của tác giả. Những nỗi ám ảnh trong Hoàng cầm sâu sắc nhất có lẽ là hình ảnh người con gái Kinh Bắc. Ông đã dùng những câu thơ đẹp nhất, tài hoa nhất để gợi tả họ:

Có nhớ từng khuôn mặt búp sen
Những cô hàng xén răng đen
Cười như mùa thu tỏa nắng

Chữ “Có nhớ” đặt ở đầu câu thơ là lời gợi nhắc đầy ám ảnh, hình ảnh “khuôn mặt búp sen” gợi tả khuôn mặt người con gái vừa đoan trang, trong trắng, phúc hậu vừa dịu dàng, và đây cũng là nét vẽ điển hình nhất của người con gái Kinh Bắc nói riêng và của người con gái Việt Nam nói chung. Và gắn liền với hình ảnh “cô hàng xén ràng đen”, đây lại là một phong tục tập quán cổ truyền, một nét vẽ truyền thống người con gái Kinh Bắc. Cái hay nhất của đoạn thơ trên là biện pháp tu từ so sánh giữa nụ cười thiếu nữ Kinh Bắc với ánh nắng mùa thu. Dường như ở đây có một sự giao hòa giữa vẻ đẹp con người và vẻ đẹp thiên nhiên đất trời. Nét rạng ngời tươi tắn trong nụ cười cô gái cũng giống với nét rạng ngời tươi tắn của nắng mùa thu chứ không phải cái nắng nóng bỏng gay gắt của mùa hè hay yếu ớt ảm đạm của mùa đông, nắng thu như tỏa trong nó một sức sống mạnh mẽ. Đến đây người đọc như không còn thấy dấu tích của chiến tranh, bởi vậy câu thơ ẩn chứa một niềm tin tưởng lạc quan của con người. Một không gian Kinh Bắc nhộn nhịp, tấp nập được gợi tả qua một loạt những câu thơ tiếp, hình ảnh người người đông đúc trong một không khí tưng bừng náo nức đã khẳng định một sức sống mạnh mẽ của quê hương Kinh Bắc. Tình yêu quê hương Kinh Bắc tràn đầy trong những vần thơ. Trong hoài niệm của Hoàng cầm về con người Kinh Bắc có hình ảnh người mẹ:

Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm

Những câu thơ đậm màu sắc tả thực. Từ láy “còm cõi” đã diễn tả rất tinh tế vóc dáng khổ hạnh của người mẹ đồng thời chỉ rõ những vất vả, nhọc nhằn, lo toan mà người mẹ phải chịu đựng, trong lòng người đọc như dâng lên sự cảm thương sâu sắc. Gian hàng của người mẹ chẳng có gì, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng, vài thếp giấy đã hoen vàng. Các từ “dăm”, “vài” là các từ chỉ số nhiều nhưng trong cảm nhận của người đọc, người ta ngỡ như chỉ những thứ hàng hóa ít ỏi, sơ sài của người mẹ, chữ “hoen” được sử dụng rất hay, “hoen” không chỉ là sương thấm vào giấy mà như thấm cả giọt nước mắt, mồ hôi của mẹ. Đi liền với hình ảnh người mẹ là tội ác của kẻ thù:

Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo
Xì xồ cướp bóc
Tan phiên chợ nghèo

Tác giả gọi kẻ thù là “lũ quỷ mắt xanh” – một hình ảnh ẩn dụ chỉ tội ác tàn bạo và dã man của kẻ thù, từ láy “trừng trợn” không chỉ gợi dáng vẻ nạt nộ, dọa dẫm của kẻ thù mà con góp phần lột tả sống động chân dung của kẻ khát máu, quân cướp bóc. Không những thế, chữ “chợt” chỉ gót giày quân xâm lược đột ngột, bất ngờ, không gian thanh bình bỗng chốc bị phá vỡ. Tác giả sử dụng những từ mạnh mang sắc thái biểu cảm cao “khua” “đạp”, “xì xồ”, “tan”, “gầy teo” diễn tả những hành động dã man liên tiếp của kẻ thù những tội ác chồng chất. Hình ảnh con người hàng xóm, quê hương như bị thu hẹp lai dưới gót giày tàn bạo của quân xâm lược. Qua đó ta thấy tội ác kẻ thù càng tăng, niềm căm thù càng trở nên mạnh mẽ, nỗi đau càng trở nên sâu thẳm. Tột cùng nỗi đau thương trong tâm hồn thi sĩ được đúc kết, gửi gắm qua hai câu thơ lục bát đầy xúc động:

Lá đa lác đác trước lều
Vài ba vét máu loang chiều mùa đông

Không gian hoang sơ hiu quạnh được gọi tả với vài chiếc lá đa thưa thớt, một chiều mùa đông nhuộm đỏ: đỏ của mầu máu, đỏ của ráng chiều. Câu thơ có khả năng gây ấn tượng cực mạnh đối với người đọc. Câu lá đa lác đác trước lều” gợi âm điệu buồn tẻ, rời rạc, điểm nhịp cho không gian vắng vẻ, thưa thớt, hiu quạnh của làng quê Việt Nam trong những ngày tháng kẻ tù xâm lược các từ “vài ba”, loang được sử dụng rất đắt giúp người đọc cảm nhận được từng vết máu đang loang dần, từng chứt từng chút vào cảnh vật cũng như vào con người. Mùa đông vốn ảm đạm, thời gian chiều mùa dông càng khắc sâu thêm sự ảm đạm ấy. Câu thơ đã gọi tả sực khốc liệt của chiến tranh. Những vết máu của chiến tranh thấm đỏ khung trời hay ráng chiều nhuộm đỏ. Tất cả đều gợi sự bi thương tang tóc. Như vậy, hai câu thơ tả ít mà gợi nhiều, nó không chỉ đánh thức người đọc niềm căm thù sôi sục quân xâm lược mà con gợi dậy một nỗi đau khôn cùng. Câu thơ tràn ngập một màu máu và thấm đẫm nỗi khóc thương nhỏ lệ.

Không có cuộc sống gắn bó máu thịt vói quê hương, không tha thiết với vẻ đẹp tinh túy của truyền thống quê hương thì nhà thơ Hoàng cầm có lẽ không thể có những mẫn cảm kỳ diệu như vậy. Đọc những dòng thơ nhà thơ viết về Kinh Bắc, chúng ta lại bồi hồi liên tưởng đến quê hương mình và cảm ơn nhà thơ đã nói đúng phần hồn linh nghiêm nhất của chúng ta mỗi khi trào dâng cảm xúc hoài niệm về quê hương.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 30)

Những ai đi về Bắc Ninh không thể quên câu hát “người ơi người ở đừng về”, và cứ thế mỗi năm không biết đã có bao nhiêu lần hội Lim mời gọi du khách về qua câu hát “ Anh có về Kinh Bắc quê em, mà nghe quan họ mà xem làng nghề”. Tuy nhiên người xa không chỉ biết đến Bắc Ninh qua những làn điệu quan họ mượt mà, ngọt ngào như lời mẹ ru ấy mà cứ nhắc đến nơi đây thì bạn đọc không thể nào không nhắc đến bài thơ Bên kia sông Đuống của Hoàng Cầm. Bài thơ ấy có gì mà làm mê lòng người đến như thế?

Bài thơ ra đời khi quê hương Kinh Bắc của ông rơi vào tay giặc Pháp . Nỗi đau xót khi nghe tin quê hương ngập chìm khói lửa chiến tranh trĩu nặng tâm hồn ông . Đứng bên này Sông Đuống, mảnh đất tự do, hướng về quê hương bên kia Sông Đuống , mảnh đất bị giặc chiếm đóng với bao nỗi niềm và xót xa trong tâm trạng . Một dòng sông mà giờ đây đôi bờ cách biệt Nhà thơ Hoàng Cầm viết bài thơ này thể hiện một nỗi nhớ quê hương tha thiết, quê hương ông ở bên bờ kia sông Đuống. Qua bài thơ này ta thấy được những vẻ đẹp của quê hương quan họ lại vừa thấy được tâm trạng chất chưa của nhân vật trữ tình. Phải chăng ông mượn cảnh vật kia để nói lên tâm trạng của mình.

Mười câu thơ đầu như cất lên những niềm đau đớn trong lòng tác giả, đó là một nỗi niềm gửi gắm qua hai tiếng gọi em ơi. Nhà thơ gọi vợ mình hay gọi ai:

“Em ơi! Buồn làm chi
Anh đưa em về sông Đuống
Ngày xưa cát trắng phẳng lì
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ
Xanh xanh bãi mía bờ dâu
Ngô khoai biêng biếc
Đứng bên này sông sao nhớ tiếc
Sao xót xa như rụng bàn tay”

Nhà thơ nói em ơi đừng buồn nhưng trong chính trái tim của ông lại mang một nỗi niềm đau đớn nhất, hai đại từ “anh” “em” như mang đến cho ta thấy một tình yêu của hai người gắn bó với quê hương, đó là lời tâm sự, lời an ủi hay chính là lời thể hiện sự đau xót của nhà thơ. Con sông Đuống ấy ngày xưa cát trắng phẳng lì dòng sông vẫn chảy trôi tuần hoàn lấp lánh như những hạt vàng trên mặt nước. Một cảnh đẹp quê hương Kinh Bắc hiện lên thật nên thơ trữ tình biết bao. Đó là cảnh bên bờ sông Đuống, dòng sông ấy cả thời bình đến thời chiến vẫn lấp lánh một dòng dưới nắng chiều nhè nhẹ. Ta như cảm thấy một hơi gió thổi cái hồn của dòng nước phù sa lên nhẹ nhàng thấm thía biết bao nhiêu. Nó vẫn cứ hiên ngang nằm đấy trong kháng chiến trường kì. Bờ sống có bãi mía bờ dâu xanh biếc, ngô khoai biêng biếc. thật là một vẻ đẹp mộc mạc nên thơ trữ tình. Sự đau đớn của nhà thơ được dồn cả vào hai câu thơ cuối. Cái sự xót xa khi là sự mất làng, nỗi xót xa quê hương đang bị bọn thực dân xâm chiếm, nỗi lo lắng vợ con không biết rằng có được bình yên. Nỗi đau ấy khiến tác giả như rụng rời cả chân tay.

Tiếp đến những câu thơ sau ta tác giả mang đến nét đẹp của quê hương mình, đó là một quê hương vô cùng đẹp với những nét văn hóa như tranh Đồng Hồ, những con gà con lợn hiện lên tươi trong với lúa nếp thơm những cánh đồng. Ấy thế mà tren những cảnh đẹp ấy một quê hương với những ngày khủng khiếp của những trận tàn phá của quân khốn khiếp kia. Tất thảy những gì có trên mảnh đất ấy đều bị tàn phá nặng nề. Từ đồng ruộng khô đến những ngôi nhà cháy rồi lũ chó bị ngộ hết một đàn. Đàn lơn tan hoang, đám cưới chuột chẳng thấy đâu. Qua những cảnh hoang sơ đổ nát ấy những nét đẹp quê hương vẫn hiện lên với hình ảnh đàn lợn và đám cưới chuột. Đó là nghệ thuật vẽ tranh của làng Kinh Bắc:

“Ruộng ta khô
Nhà ta cháy
Chó ngộ một đàn
Lưỡi dài lê sắc máu
Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang
Mẹ con đàn lợn âm dương
Chia lìa đôi ngả”

Không những thế những nét văn hóa của người Kinh Bắc lại được hiện lên, đó là những ngôi chùa văng vẳng tiếng chuông. Rồi hàng loạt địa danh được nêu tên nào là núi Thiên Thai, chùa Bút Tháp, những áo the khăn xếp của người quan họ. Thế rồi những em gái quẹt chầu, những bà mái tóc bạc phơ không biết rằng bây giờ họ về đâu. Nhà thơ hỏi hai lần như thể hiện sự thương xót và đau đớn với con người quê hương mình:

“Chuông chùa văng vẳng nay người ở đâu
Những nàng môi cắn chỉ quết trầu
Những cụ già phơ phơ tóc trắng
Những em xột xoạt quần nâu
Bây giờ đi đâu ? Về đâu ?”

Bao nhiêu nét đẹp người con gái kinh Bắc được hiện lên, nào là cô hàng xén răng đen cười như mùa thu tỏa nắng. Lại có những búp sen , những phiên chợ quê hương. Một lần nữa câu hỏi lại được cất lên. Có thể nói đẹp bao nhiêu, nhớ bao nhiêu thì càng lo lắng và đau đớn bây nhiêu. Nhà thơ không chỉ lo gia đình mình mà ông lo cho tất cả những gì của quê hương ông, từ con người đến cảnh vật.

Cuối cùng nhà thơ gửi những lo lắng nhớ mong thương xót đến người mẹ già của mình đang phải chịu những khổ đau bất hạnh. Một cảnh tượng thương tâm như thế, một người mẹ già cả một đời nhọc nhằn vất vả, công việc của mẹ là bán trầu và một số thứ phẩm hồng thếp giấy. Cái quán nhỏ tí teo gầy xác xơ ấy mà chúng cũng không tha, chúng dẫm cho tan nát, không biết rằng mẹ có bị chúng đánh đạp không chỉ biết chúng cướp bóc cả chợ rồi có những vết máu loang lở khắp đó đây. Phận làm con nghĩ đến mẹ mình đang phải chịu cảnh như thế làm sao có thể yên lòng được đây. Mẹ lại một mình gánh hàng rong đi về, hình ảnh con cò trắng như thể hiện cho sự khổ hạnh của người nông dân. Đường cũng trơn trượt, bao nhiêu ấy lo lắng biết làm sao?:

“Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong
Dăm miếng cau khô
Mấy lọ phẩm hồng
Vài thếp giấy dầm hoen sương sớm
Chợt lũ quỷ mắt xanh trừng trợn
Khua giầy đinh đạp gãy quán gầy teo”

Bao nhiêu ấy chưa đủ nhà thơ lo lắng chi những đứa con của mình, những đứa con ngây dại nghe tiếng súng giặc tựa tiếng sấm, bao nhiêu ám ảnh đến ngủ cũng giật mình. Và đêm ấy nhà thơ trở về với ngôi nhà thân thương ấy chuẩn bị cho một cuộc tập kích của bộ đội ta quân giặc khiếp sợ như đứng trên ngọn lửa. Lòng nhân dân ta thì mãi mãi không nguôi, nỗi căm hờn như khắc lên cả đồng lúa, tiếng mẹ hát ru về mối thù nặng vai ấy, người mẹ già khóc lóc đớn đau. Tác giả ngậm ngùi xin mẹ và vợ đừng khóc nữa anh lên đường để trả mối thù này. Anh bắt nó, lấy súng của nó để trừng trị nó:

“Tiếng bà ru cháu buổi trưa
Chang chang nắng hạ võng đưa rầu rầu
“À ơi. . . cha con chết trận từ lâu
Con càng khôn lớn càng sâu mối thù””

Thế rồi biết bao nhiêu chiến thắng được lập nên những kì tích trả thù cho quê hương đất nước mình:

“Bao nhiêu đồn giặc tơi bời
Bao nhiêu nước mắt
Bao nhiêu mồ hôi
Bao nhiêu bóng tối
Bao nhiêu nỗi đời”

Để rồi một ngày kia anh lại về với em với cuộc sống thanh bình, em mặc yếm thắm đi chảy hội xuân với nụ cười rạng rỡ.

Như vậy qua đây ta thấy Hoàng Cầm đã mang đến cho ta những nét đẹp quê hương, cuộc sống, phong tục tập quán ăn trầu nhuộm răng, tranh đông hồ và những nỗi khó khăn gian khổ khi phải chịu cảnh lầm than do bọn thực dân gây nên. Hoàng Cầm đứng bên này dòng sông mà lòng không nguôi nhớ về quê mẹ. Lòng lo lắng, sự đau xót đã khiến ông cất lên những vần thơ chan chứa này.

Phân tích Bên kia sông đuống – Hoàng Cầm (mẫu 31)

Thi sĩ Hoàng cầm tên thật là Bùi Tằng Việt, sinh năm 1922 trong một gia đình Nho giáo ở thôn Lạc Thổ, xã Song Hồ, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Ông có năng khiếu thơ ca và bắt đầu sáng tác từ năm 14 tuổi. Quê hương Kinh Bắc cổ kính với truyền thống văn hóa nghệ thuật lâu đời và phong phú, tiêu biểu là dân ca quan họ, chắc chắn có tác động rất lớn tới tâm hồn giàu cảm xúc của nhà thơ.

Bên kia sống Đuống in trong tập thơ cùng tên xuất bản năm 1956. Tác giả kể về trận giặc Pháp đánh chiếm phía Nam tỉnh Bắc Ninh trong khi ông đang công tác ở chiến khu Việt Bắc. Một đêm tháng tư năm 1948, nghe tin quê hương bị giặc tàn phá, nhà thơ vô cùng xúc động đã sáng tác nên bài thơ này và nó nhanh chóng được lưu truyền rộng rãi trong cán bộ, chiến sĩ ta. Sống Đuống là con sống nối liền sống Hồng và sống Lục Đầu tức sống Thái Bình. Bờ Nam sống là quê hương tác giả. Bờ Bắc là vùng tự do của kháng chiến.

Bài thơ khá dài, gồm hai phần lớn: Phần thứ nhất nói về quê hương nhà thơ bên kia sông Đuống đang bị giặc giày xéo; phần thứ hai kể chuyện bộ đội trở về cùng nhân dân đánh giặc giải phóng quê hương.

Bằng cách miêu tả cuộc sống thanh bình của quê hương giờ đây đang bị quân xâm lược hung tàn giày xéo tan hoang, nhà thơ bộc lộ nỗi đau quặn thắt của trái tim, sâu xa hơn là bày tỏ tình cảm yêu mến tha thiết đối với quê hương, đất nước và dân tộc.

Mở đầu là vẻ đẹp thơ mộng của con sống Đuống với cái dáng nghiêng nghiêng mềm mại, với cát trắng phẳng lì, một dòng lấp lánh, xanh xanh bãi mía bờ dâu, ngô khoai biêng biếc. Đó là hình ảnh của cuộc sống thanh bình, no ấm. Vậy mà giờ đây, tất cả đã bị xáo trộn phũ phàng. Đứng bên này sông (tức là bờ Bắc), tác giả nhớ tiếc vì không thể về bên kia được, bởi bên kia đã bị giặc chiếm rồi. Nỗi buồn thấm đẫm tâm trạng nhà thơ, người con đang xa quê hương. Nhưng cớ sao mà nhà thơ buồn đến mức xót xa như rụng bàn tay?

Ở câu thơ thứ nhất: Em ơi buồn làm chi; nhân vật Em là ai? Có thể là người thương hoặc có khi là chính bản thân nhà thơ. Nó là âm thanh chủ đạo tạo ra âm hưởng tha thiết chung của toàn bài ; đau thương mà vẫn dịu nhẹ, thấm sâu. Kể cả hình ảnh so sánh khá táo bạo : xót xa như rụng bàn tay, nghe đau đớn thấu ruột gan nhưng vẫn là nỗi đau cố nén vào trong.

Bắc Ninh thuộc vùng Kinh Bắc xưa là vùng đất có bề dày lịch sử rất đáng tự hào: có mộ Kinh Dương Vương ở Thuận Thành; là địa bàn đánh giặc Ân của Thánh Gióng. Hai Bà Trưng cũng chiến đấu chống quân Nam Hán ở đấy. Lí Thường Kiệt đánh đuổi quân Tống ở sông Như Nguyệt tức sông cầu.
Chiến dịch xương Giang của Lê Lợi – Nguyễn Trãi cũng diễn ra trên mảnh đất này… Về văn học, truyện cổ Tấm Cám có nguồn gốc từ đó. Tranh dân gian Đông Hồ nổi tiếng khắp nơi. Về kiến trúc và điêu khắc thì chùa Bút Tháp có pho tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay. Con người Kinh Bắc nổi tiếng là tài giỏi, thanh lịch : Trai Cầu vồng, Yên Thế; gái Nội Duệ, cầu Lim. Bắc Ninh là cái nôi của dân ca quan họ ngọt ngào làm mê đắm lòng người.

Cuộc sống êm đềm đang diễn ra bình thường như quy luật ngày lên đêm xuống. Bên kia sống Đuống là quê anh, làng Lạc Thổ, làng Đông Hồ. Ai đặt cho làng cái tên hay như thế ? Lạc Thổ là đất vui, là cảnh Niết Bàn của Phật. Đông Hồ đem lại niềm vui tỉnh thần cho cả tỉnh, cả nước với nghề làm tranh Tết. Các nghệ nhân tài hoa xưa đã sáng tạo ra những bức tranh có nội dung vui tươi, màu sắc đậm đà, nét vẽ lại mộc mạc, chân chất. Tranh nào tranh nấy như những lời chúc mừng năm mới tốt đẹp. Từ con người đến loài vật đều vui với xuân, đều nảy nở, sinh sôi. Gà đàn, Lợn ổ, Lợn âm dương, Đám cưới chuột, Hứng dừa, Thầy đồ Cóc… Từ làng Đông Hồ, tranh tỏa đi khắp nơi. Chợ Tết rực rỡ màu tranh xanh đỏ tím vàng loang loáng, lấp lánh trên nền giấy điệp (giấy quét một lớp bột vỏ sò gọi là điệp pha với keo), đưa tới mọi nhà niềm vui và niềm tin năm mới làm ăn phát đạt. Tranh Đông Hồ có vẻ đẹp dân dã, thanh tao mà ý nghĩa ấm áp biết bao nhiêu !

Bỗng dưng lũ xâm lăng ùn ùn kéo đến như đám cháy ngùn ngụt lừa hang tàn. Nhà thơ miêu tả chúng bằng những dòng thơ đẩy căm hận và khinh bỉ, ví chúng chẳng khác gì chó ngộ một đàn, lưỡi dài lê sắc máu; tàn phá đến kiệt cùng ngõ thẳm, bờ hoang. Hỏi có cái gì còn nguyên vẹn khi ruộng khô, nhà cháy?

Sông Đuống là quê hương anh, quê hương em, quê hương của chúng ta. Cuộc sống yên lành, tươi đẹp từ cỏ cây, sống nước đến tấm lòng nhân hậu của con người, vẻ đẹp phong phú ấy thể hiện ở lúa nếp thơm nồng, ở tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong, Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã… nhưng quân xâm lược dã man đã đốt phá tan hoang. Cảnh vật, con người của quê hương giờ đây tan tác, chia hai, không biết về đâu ?

Nào chỉ có đau đớn về vật chất? Quân giặc đốt phá, giết chóc khiến quê hương tơi bời trong lửa đạn ; nhưng đó mới chỉ là những vết thương trước mắt. Còn điều sâu xa hơn là những bức tranh vẽ đàn lợn âm dương, đám cưới chuột kia chứa đựng ý nghĩa về nguồn gốc sự sống trong quan niệm bình dị mà sâu sắc của cha ông cũng bị giặc hủy diệt. Đó là hủy diệt sự sống. Hỏi còn tội ác nào lớn hơn thế nữa ?!

Lời thơ, ý thơ đau đớn mà âm điệu đoạn thơ cũng xót xa kéo dài vô tận. Quê hương ta chứa đựng cuộc đời của ông bà, cha mẹ, chứa đựng cuộc đời ta. Nhưng nó lại ở bên kia sông Đuống, nằm trong vùng địch tạm chiếm nên trở thành xa xôi. Cả thời gian lẫn không gian đều mờ mịt khiến nỗi xót xa trở thành nỗi đau tột cùng : xót xa như rụng bàn tay. Giặc tràn tới, bây giờ không biết mọi cái đã về đâu ? Âm điệu của hai chữ về đâu nghe như một tiếng trời ơi vút lên giữa thinh không, vô vọng!

Quê hương sông Đuống còn một nét văn hóa nữa cũng nổi tiếng cả nước như tranh làng Hồ ; đó là hội hè mùa xuân. Hội xuân có bao vẻ đẹp, vẻ hay. Hội hè là nơi mọi người vui chung niềm vui mùa màng tốt tươi năm trước, cầu mong năm nay càng tốt tưới hơn. Hội hè là nơi mọi người vui với sức mạnh, tài ba của Trai cầu vồng, Yên Thế, gái Nội Duệ, cầu Lim, vui câu hát điệu hò của liền anh liền chị, vui gặp gỡ gái trai… Núi Thiên Thái, chùa Bút Tháp và bao nhiêu nơi khác khắp miền quê sống Đuống mùa xuân đều có hội. Hội hè đã trở thành mơ ước của mọi lứa tuổi mỗi độ xuân về, đã thành nếp trong óc trong tim mọi người như một thứ mộng bình yên, trải mấy trăm năm. Nhưng nay dẫu đang là mùa xuân mà không ai còn lòng dạ nào mở hội. Có thể chuông chùa còn văng vẳng nhưng những người đi dự hội xuân năm ngoái lên núi, vào chùa, sang sống với con đò đưa các liền anh, liền chị… những cô môi cắn chỉ quết trầu, những cụ già phơ phơ tóc trắng, những em sột soạt quần nâu… bây giờ ở đái?! Nhà thơ băn khoăn, ao ước: Ai về bên kia sống Đuống, Cho ta gửi tấm the đen. Quê ta có nghề trồng dâu nuôi tằm và dệt lụa. Ta gửi về cho mẹ, cho em tấm the đen để may áo tứ thân đi dự hội cho vời bớt lo toan suốt một năm, một đời. Nhưng bóng mẹ, bóng em nay ở đâu? Nỗi lo lắng, khắc khoải thấm đẫm trong từng câu, từng chữ.

Đoạn thơ nêu lên một nét sinh hoạt văn hóa lâu đời của quê hương Kinh Bắc là hội xuân. Bắt đầu bằng âm hưởng nhớ thương da diết với ai về và cho ta – những mô típ quen thuộc trong ca dao, dân ca; cuối cùng là: Gửi về may áo cho ai cũng vẫn bằng giọng điệu thân thương. Tội nghiệp thay Tấm the đen không người nhận, phơ phất giữa cõi trống không, chẳng biết về đâu?

Một biểu hiện khác nữa của cuộc sống văn hóa ở quê hương nhà thơ là những cảnh sinh hoạt dân dã với những con người quen thuộc: Những cô hàng xén răng đen, Cười như mùa thu tỏa nắng, những phiên chợ Hồ, chợ Sui người đua chen, Bãi Trầm Chỉ người giăng tơ nghẽn lối, Những nàng dệt sợi, Đi bán lụa màu, Những người thợ nhuộm, Đồng Tỉnh, Huê cầu… Làm ăn vất vả, tất bật, hay lam hay làm… đều là những vẻ đẹp có từ thuở xưa. Ông cha truyền lại cho con cháu những nghề tinh khéo, truyền lại luôn cả cái phong tục mắc cửi giăng tơ ngang đường, ai đi qua phải giải cho được câu đố hay câu hát mới được qua, không thì chỉ tơ không buộc mà cứ vương. Truyền cái nghề pha màu chọn nắng, chiều người mà nhuộm cho vừa mắt vừa lòng các cô, các chị. Thợ nhuộm Đồng Tỉnh, Huê cầu đi đâu cũng để lại những tấm áo, những thắt lưng, những chéo yếm bền màu, đẹp sắc và để luôn lại những nỗi nhớ niềm thương: Ai về Đồng Tỉnh, Huê cầu, Để thương để nhớ để sầu cho ai ?!

Có ai về bên kia sống Đuống không em? Còn chăng những chị, những em tuy quanh năm phải tảo tần phụng dưỡng mẹ cha, lo cho chồng con mà vẫn góp phần làm cho cuộc đời tươi sen và cười nắng. Đẹp và duyên biết chừng nào! Thế mà giờ đây, những người chị, người em ấy của quê hương đã tan tác đi đâu, về đâu ? Âm điệu đoạn thơ mỗi lúc một nghẹn ngào, chới với.

Ba đoạn thơ cùng thể hiện một nỗi đau xót chung trước cuộc sống của quê hương đang bị lũ giặc hung ác giày xéo tan tành. Bên kia sống Đuống, bên này sống Đuống, vốn hai bờ, một sông nay chỉ còn một bờ, một nửa. Một nửa sống, một nửa con người! Đau xót như chết nửa con người chứ không phải chỉ như rụng bàn tay, Những ai có quê hương, làng mạc bị giặc chiếm đóng mà không thể ghé về thăm được, đứng bên này sông nhìn qua vùng giặc tạm chiếm, đều không khỏi xót xa, đau đớn và căm giận lũ cướp nước bạo tàn, đồng thời thông cảm với tâm trạng nhà thơ. Bao nhiêu thiết tha, trìu mến trong những chữ quê hương ta, ai về, cho ta gửi tấm the đen, gửi về may áo cho ai, ai về… có nhớ… Tưởng như ai về là về giùm cho ta, mang hộ tấm lòng da diết nhớ của ta cùng về.

Ba đoạn thơ không chỉ là nỗi đau quặn thắt riêng cho một người mà còn là nỗi đau chung cho cả quê hương phía bên kia sông Đuống với chiều sâu lịch sử mấy nghìn năm, với truyền thống văn hóa vật chất, tinh thần tiếng tăm lừng lẫy, nay đang bị giặc giày xéo, hủy diệt. Tranh Đông Hồ không chỉ đem lại vẻ vang cho riêng Đông Hồ mà cho cả đất Kinh Bắc tài ba, thanh lịch từ giọng hát đến cái hoa tay… Bao nhiêu tên đất, tên chợ, tên núi, tên chùa, tên nghề, tên thợ… đều gợi lên một bức tranh thu nhỏ của đời sống phong phú và đẹp đẽ của cả một địa phường. Đó là tình cảm thiết tha của em, của anh, của chúng ta đối với quê hương.

Các đoạn thơ trên còn có một lớp nghĩa thứ ba: đó là nỗi đau chung cho cả đất nước, dân tộc mà quê hương của tác giả là tiêu biểu. Trước hết, về mặt truyền thống văn hóa nghệ thuật và truyền thống trăm nghề sinh nhai đáp ứng nhụ cầu đời sống mọi người. Tranh Đông Hồ không còn là của riêng đất Kinh Bắc. Chùa Bút Tháp với tượng Phật Bà nghìn mắt nghìn tay cũng là di sản và niềm tự hào của cả dân tộc. Hội hè thấp thoáng mộng bình yên cũng là mộng bình yên của cả dân tộc. Thậm chí, những nàng môi cắn chỉ quết trầu, những em sột soạt quần nâu, từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng… đều là những hình ảnh gợi nhớ không phải một địa phương mà cả nước một thời. Tình yêu quê hương tha thiết của nhà thơ khiến cho người đọc rưng rưng xúc động.

Tác giả nhớ tiếc, xót xa không chỉ cho quê hương mình mà cho cả dân tộc và đất nước. Quân xâm lược dã man đã giày xéo lên những điều thiêng liêng nhất đối với tâm hồn ta. Cảm xúc đau thương kéo dài trong âm hưởng của những câu hỏi đi đâu, về đâu khắc khoải:

Trên kia là quê hương dưới dạng văn hóa, còn đây là quê hương ở cảnh đời thường. Đời thường ấy cô đọng lại trong hình ảnh mẹ già với gánh hàng rong trên vai. Đời thường ấy nghèo khổ, cực nhọc vô vàn nhưng chính cái cực nhọc vô vàn ấy của mẹ ta đã nuôi chồng ăn học, nuôi con khôn lớn nên người; nuôi sống cả một dân tộc trải mấy nghìn năm đề xây dựng nên non sống, đất nước này. Cuộc sống lao động cần cù, thầm lặng ấy đến nay hãy còn đè nặng trên tấm lưng còm cõi của mẹ ta. Ôi, gánh hàng rong có nhiều nhặn gì đâu: Dăm miếng cau khô, Mấy lọ phẩm hồng, Vài thếp giấy đầm hoen sương sớm và mấy cây kim, cuộn chỉ… Tiền lãi cũng chỉ nhỏ nhoi, ít ỏi như đồng kẽm, đồng xu. Ngày ngày, mẹ ta lại gánh hàng rong lên vai, bước cao, bước thấp trên đường trơn mưa lạnh. Chưa bán được đồng nào, bụng đói, dạ sầu. Mái đầu đã bạc nay càng bạc phơ. Vậy mà lũ giặc cũng chẳng buông tha. Chúng kéo đến cướp bóc, đập phá, bắn giết… Cuộc sống của mẹ và của bao người như mẹ rơi rụng như lá đa lác đác trước lều mùa đông.

Có con cò trắng bay vùn vụt, Lướt ngang dòng sông Đuống về đâu ? Nó làm bạn với mẹ ta chăng? Nó là hóa thân của mẹ ta chăng? Con cò cũng hoảng hốt không biết về đâu. Mẹ ta đang bấm chân trên đường trơn mưa lạnh cũng không biết về đâu. Con cò ấy với mẹ ta bao đời nay đã là hai hình ảnh gần gũi, sóng đôi. Thân phận người phụ nữ xưa nay là vậy, giống như: Con cò lặn lội bờ sống, Gánh gạo nuôi chồng tiếng khóc nỉ non… Suốt đời chỉ lo toan làm lụng và chịu đựng đau khổ. Mẹ già còm cõi khốn khó suốt một đời, nay gặp cảnh giặc giã lại càng thêm khốn khó. Cái gánh nặng trên vai mẹ kia chính là cái gánh giang sơn nhà chồng, là gánh nước non của muôn kiếp mẹ già!

Đoạn thơ viết theo lối phá thể, năm ba câu ngắn loang loáng, vun vút rồi bất chợt buông xuống một câu lục bát chảy dài như tiếng thở than, như dòng nước mắt không gì ngăn nổi: Xì xồ cướp bóc, Tan phiên chợ nghèo, Lá đa lác đác trước lều, Vài ba vết máu loang chiều mùa đông, Chưa bán được một đồng, Mẹ già lại quẩy gánh hàng rong… Mẹ ta lòng đói dạ sầu, Đường trơn mưa lánh mái đầu bạc phơ.

Tiếp theo, nhà thơ miêu tả một cảnh đời thường khác: hình ảnh của đàn con thơ dại. Nghĩ về bên kia sống Đuống, lòng, ta quặn đau vì mẹ già khốn khổ và xót xa cho các con ta đang tranh nhau miếng cơm độn sắn khô; nghe tiếng súng nổ thì vội líu ríu chui gầm giường tránh đạn. Ú ớ giật mình vì Bóng giặc giày vò những nét môi xinh ngay cả trong giấc ngủ. Tội ác của giặc quả là trời không dung, đất không tha!

Trên quê hương bị giặc chiếm, mẹ già nào mà không phải là mẹ già ta? Em nào, con nào mà không phải là em ta, con ta? Đạo lí làm người của dân tộc Việt Nam là vậy. Câu ca dao: Nhiễu điều phủ lấy giá gương, Người trong một nước thì thương nhau cùng đã thấm sâu vào cốt tủy của người dân đất Việt từ thuở xa xưa.

Hai câu thơ : Đã có đất này chép tội, Chúng ta không biết nguôi hờn phảng phất lời kết tội của Đại cáo bình Ngô – áng thiên cổ hùng văn của ông cha ta thuở trước.

Bài thơ Bên kia sông Đuống được phổ biến nhanh chóng, rộng rãi trong thời kì chống Pháp. Cái độc đáo của nó chính là giọng điệu nghĩa tình thắm thiết thấm sâu vào lòng người. Tuy nói về một địa phương nhưng sắc thái cảnh vật, con người, văn hóa, đạo đức đều là của chung cả nước, miền nào có giặc mà không phải chịu những tình cảnh đau thương như ở bài thơ này. Huống chi bài thơ đã vẽ ra cái thế bên này và bên kia sống, tức cái thế con người chỉ sống có một nửa, còn nửa kia là mất mát, tan tác, căm hờn. Trước mắt chỉ biết cắn răng chịu đựng chứ chưa hành động được. Nhưng đau thương đã tới độ nhức nhối như thế này, ân tình sâu nặng như thế này thì khi có thời cơ là đánh giặc đến cùng. Tính cách của con người Việt Nam ta vốn hiền lành hết mực nhưng cũng biết căm thù sục sôi và chiến đấu quên mình. Bên kia sống Đuống là một bài , có sức sống lâu dài, khẳng định tài năng và tên tuổi Hoàng cầm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Viết đoạn văn 200 chữ về lòng nhân ái

Viết đoạn văn khoảng 200 chữ về lòng yêu nước

Trình bày suy nghĩ về điều bản thân cần làm để tuổi trẻ có ý nghĩa

Viết đoạn văn nghị luận về sự tử tế

Viết đoạn văn 200 chữ suy nghĩ về hạnh phúc

1 39,207 20/12/2023
Tải về