TOP 31 mẫu Phân tích đoạn đầu Tuyên ngôn độc lập (2024) SIÊU HAY

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh lớp 12 gồm dàn ý và 31 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 12 hay hơn.

1 2,598 18/12/2023
Tải về


Phân tích đoạn đầu Tuyên ngôn độc lập - Ngữ văn 12

Bài giảng Ngữ văn 12 Tuyên ngôn độc lập

Dàn ý

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập" của Chủ tịch Hồ Chí Minh và phần mở đầu.

2. Thân bài

30 bài Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (ảnh 1)

a. Giá trị nội dung của phần mở đầu bản tuyên ngôn

- Phần mở đầu nêu nguyên lí chung của bản tuyên ngôn.

- Tác giả đã trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 nhằm:

+ Khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người: Quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc.

+ Nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố.

- Từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc.

b. Giá trị nghệ thuật của phần mở đầu bản tuyên ngôn

- Tạo cơ sở pháp lí vững chắc cho các phần còn lại.

- Dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.

- Lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết.

3. Kết bài

- Đánh giá vai trò của phần mở đầu đối với tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập".

Bài giảng Ngữ văn 12 Tuyên ngôn độc lập

Dàn ý Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh

I. Mở bài

- Giới thiệu chung về tác giả, tác phẩm, đoạn trích Tuyên ngôn độc lập

II. Thân bài

30 bài Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (ảnh 1)

* Phân tích đoạn trích mở đầu Tuyên ngôn độc lập (Hồ Chí Minh)

- Nội dung: Đoạn trích đã khẳng định những quyền thiêng liêng cao cả của con người không ai có thể xâm phạm. Mọi người, mọi dân. tộc trên thế giới đều bình đẳng, có quyền sống, quyền sung sướng, quyền tự do...

  • Mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập, Hồ Chí Minh đã trích dẫn từ hai bản tuyên ngôn của người Pháp và người Mĩ.
  • Dùng phép suy luận tương đồng, sau khi trích Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ, Người còn “Suy rộng ra cau ấy có nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới sinh ra đều bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”.
  • Rồi cuối cùng khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai có thể chối cãi được”.

- Nghệ thuật lập luận: Cách lập luận của Hồ Chí Minh vừa ngắn gọn, súc tích, vừa khéo léo vừa kiên quyết, lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo và đầy sức thuyết phục.

  • Khéo léo: Hồ Chí Minh tỏ ra trân trọng những tư tưởng tiến bộ, những danh ngôn bất hủ của người Mĩ, người Pháp...
  • Kiên quyết: một mặt Hồ Chí Minh khẳng định quyền độc lập tự do của dân tộc Việt Nam dựa trên những chân lí mà người Mĩ và người Pháp đã đưa ra, đồng thời cảnh báo nếu thực dân Pháp tiến quân xâm lược Việt Nam một lần nữa thì chính họ đã phản bội lại tổ tiên của mình, làm nhơ bẩn lá cờ nhân đạo, thiêng liêng mà những cuộc cách mạng vĩ đại của cha ông họ đã dành được
  • Lập luận sắc sảo, linh hoạt, sáng tạo: lời suy rộng ra của Người mang tư tưởng lớn của nhà cách mạng. Người đã phát triển quyền lợi của con người lên (thành) quyền tự quyết, quyền bình đẳng của các dân tộc trên thế giới. Đây là một đóng góp riêng của tác giả và cũng là của dân tộc ta vào một trong những trào lưu tự tưởng cao đẹp vừa mang tầm vóc quốc tế, vừa mang ý nghĩa nhân đạo của nhân loại trong thế kỉ XX.

* Liên hệ phần mở đầu của Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) để nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.

- Phần đầu Bình Ngô đại cáo: Nêu luận đề chính nghĩa.

  • Nguyễn Trãi chắt lọc lấy hạt nhân cơ bản của tư tưởng nhân nghĩa và đem đến nội dung mới: nhân nghĩa là yên dân trừ bạo.
  • Chân lí về sự tồn tại độc lập, có chủ quyền của nước Đại Việt: Cương vực lãnh thổ, nền văn hiến, phong tục, lịch sử riêng, chế độ riêng, hào kiệt...
  • Giọng điệu: trang trọng, hào hùng mang tính chất của một lời tuyên ngôn.

- Nhận xét về cách xác lập chân lí về quyền độc lập dân tộc của mỗi tác giả.

  • Giống nhau: Cả hai tác phẩm đều mang giá trị văn học - nhân văn sâu sắc. Cả hai đoạn trích đều xác lập cơ sở pháp lý cho mỗi tuyên ngôn.
  • Khác nhau: Mỗi tác giả đều sáng tạo với vẻ đẹp độc đáo riêng. Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi dựa trên lập trường "Nhân nghĩa" của dân tộc Việt Nam (yên dân, trừ bạo) còn Tuyên ngôn độc lập của Hồ Chí Minh đứng trên lập trường quyền bình đẳng, quyền độc lập, tự do của các dân tộc. Bình Ngô đại cáo có phạm vi nội bộ trong nước Đại Việt còn Tuyên ngôn độc lập ngoài việc tuyên bố trước toàn thể dân tộc Việt Nam, Tuyên ngôn độc lập kế thừa và đưa lên tầm cao mới tư tưởng độc lập dân tộc. Tác phẩm của Nguyễn Trãi theo thể cáo khi văn sử bất phần còn tác phẩm của Hồ Chí Minh theo thể tuyên ngôn...

- Lí giải (khuyến khích HS).

  • Giống: bởi vì cả hai tác giả đều là những danh nhân lớn của Việt Nam, tiếp thu tinh hoa dân tộc từ bao đời, có lòng yêu nước, yêu nhân dân.
  • Khác: bởi vì hoàn cảnh sống giữa hai tác giả khác nhau, vốn sống, vốn hiểu biết và tài năng nghệ thuật cũng khác nhau, đặc biệt là ngoài tinh hoa của dân tộc, Hồ Chủ tịch còn tiếp thu cả tinh hoa văn hoá thế giới một cách có chọn lọc...

III. Kết bài

30 bài Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh  (ảnh 1)

  • Đánh giá vai trò của phần mở đầu đối với tác phẩm "Tuyên ngôn độc lập".

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 1)

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: Tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu: cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mỹ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mỹ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đê mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt tám mươi năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” để làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Chủ tịch Hồ Chí Minh (5 mẫu) (ảnh 1)

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 2)

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lý lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc sắc, ngắn gọn và súc tích. Đoạn mở đầu ấy đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 3)

“Nắng Ba Đình mùa thu

Thắm vàng trên Lăng Bác

Vẫn trong vắt bầu trời

Ngày Tuyên ngôn Độc lập.”

Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 1945 - ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”.

“Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. Mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lý lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lý sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lí lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.

Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lý lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kỳ lạ của đoạn văn.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 4)

Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ đời sau những kiệt tác văn học. Phần lớn thơ ca của Người là để ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên kháng chiến. Nổi bật hơn cả là áng văn nghị luận “Tuyên ngôn Độc lập”, một văn kiện mang tính lịch sử, chính thức khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được đánh giá là sự chuẩn mực của thể loại nghị luận, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã viết rất cao tay, vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nghị luận là một thể loại văn chương mang tính thuyết phục rất cao, thường có tích triết lý hàn lâm, dùng để diễn tả và truyền đạt một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống thông qua các hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận mang ý kiến, tư tưởng của người viết, thường sẽ là tư tưởng đúng đắn, tích cực, có tầm ảnh hưởng tới định hướng xã hội. Đặt trong bối cảnh lịch sử, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã đáp ứng tất cả những yêu cầu cũng như tuân thủ chuẩn mực những quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam chính thức thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một nước độc lập sau Cách mạng Tháng tám năm 1945. Với sự kiện tối quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập” để đọc trước toàn thể nhân dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã tạo nên một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chãi cho toàn bộ ba phần phía sau, đồng thời trình bày lý lẽ sắc bén, bao hàm tầng ý nghĩa sâu xa, châm biếm:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được."

Khẳng định quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không đưa ra những lời lẽ kêu gọi sáo rỗng mà lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1778 của Mỹ. Sau đó, Người đưa ra dẫn chứng về bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định “quyền bình đẳng”, “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cái hay trong thủ pháp nghệ thuật ở đây là “gậy ông đập lưng ông”, lấy chính cái mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của chúng. Bản thân chúng là người đề cao sự tự do, khẳng định con người “luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” lại đi xâm lược nước khác. Dùng chính những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm “thượng đẳng”, cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất cao tay, mang hàm nghĩa sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỷ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là “chặn họng” những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.

Một ẩn ý sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kỳ quốc gia nào, bất kì lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng ngộ ra được đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.

“Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự kiện ngày 2 tháng 9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.

Đoạn mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, “Tuyên ngôn Độc lập” là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 5)

Trong bài thơ Theo chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại thời khắc lịch sử của dân tộc một cách thật xúc động:

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”

Vào sáng mùa thu năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được một tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận chiến. Điều đó được thể hiện chi tiết qua đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn.

Trước hết, đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh rất bất ngờ, độc đáo. Bởi Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe.

Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc như Nguyễn Trãi đã từng viết Bình Ngô đại cáo:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)

Một tài tình nữa của Hồ Chí Minh nằm trong ba chữa “suy rộng ra” điều đó cho thấy Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc. Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Một câu khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” để làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.

Như vậy, đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn đã thể hiện được tài năng lập luận tài tình của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra một cơ sở pháp lý mà không bất kì quốc gia nào có thể chối cãi được.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 6)

Xuyên suốt nền văn học Việt Nam, có những văn kiện ra đời nhằm phục vụ mục đích chính trị, quân sự, nhưng đồng thời cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực xứng tầm kiệt tác. "Tuyên ngôn độc lập" ra đời vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên một áng văn chính luận mẫu mực. Điều này đã được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.

Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đó là quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn không chỉ đóng vai trò là dẫn chứng của áng văn chính luận mà còn thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đầy sâu sắc. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử cấp bách của nước ta thời bấy giờ, khi mà nền độc lập vừa giành được sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang bị đe dọa bởi các thế lực đế quốc thực dân: quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ tiến vào từ phía Bắc và quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh của Pháp tiến vào từ miền Nam với âm mưu xâm chiếm lại nước ta một lần nữa. Như vậy, trước hành động của đối phương, tác giả đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn để tạo nên chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông" ngay trên trang giấy nhằm nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố. Đồng thời, điều này còn thể hiện rõ tác giả đang ngầm đặt cuộc cách mạng của nước ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ.

Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc, tạo nên một lí lẽ hết sức thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và thường xuyên phải đấu tranh chống lại gót giày xâm lược như nước ta, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và mang tính nhân văn vô cùng sâu sắc.

Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân.

Như vậy, thông qua nguyên lí chung được thể hiện ở phần mở đầu, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo lập một văn kiện chính trị - lịch sử, một áng văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần mở đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những luận điểm mà tác giả triển khai ở những phần còn lại, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 7)

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: Tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu: cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mỹ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mỹ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đê mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt tám mươi năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 8)

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lý lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc sắc, ngắn gọn và súc tích. Đoạn mở đầu ấy đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 9)

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2-9-1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập”, do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata – Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu 3 phần rất chặt chẽ: định đề – phản đề – tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mĩ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 – 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu u), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đề mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt 80 năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế… Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 10)

Nắng Ba Đình mùa thu

Thắm vàng trên Lăng Bác

Vẫn trong vắt bầu trời

Ngày Tuyên ngôn Độc lập.

Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh 2/9/1945 – ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”

“Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được của mỗi cá nhân. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lý lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lý sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lý lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.

Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lý lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kì lạ của đoạn văn.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 11)

Xuyên suốt nền văn học Việt Nam, có những văn kiện ra đời nhằm phục vụ mục đích chính trị, quân sự, nhưng đồng thời cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực xứng tầm kiệt tác. "Tuyên ngôn độc lập" ra đời vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên một áng văn chính luận mẫu mực. Điều này đã được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.

Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đó là quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn không chỉ đóng vai trò là dẫn chứng của áng văn chính luận mà còn thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đầy sâu sắc. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử cấp bách của nước ta thời bấy giờ, khi mà nền độc lập vừa giành được sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang bị đe dọa bởi các thế lực đế quốc thực dân: quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ tiến vào từ phía Bắc và quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh của Pháp tiến vào từ miền Nam với âm mưu xâm chiếm lại nước ta một lần nữa. Như vậy, trước hành động của đối phương, tác giả đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn để tạo nên chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông" ngay trên trang giấy nhằm nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố. Đồng thời, điều này còn thể hiện rõ tác giả đang ngầm đặt cuộc cách mạng của nước ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ.

Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc, tạo nên một lí lẽ hết sức thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và thường xuyên phải đấu tranh chống lại gót giày xâm lược như nước ta, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và mang tính nhân văn vô cùng sâu sắc.

Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân.

Như vậy, thông qua nguyên lí chung được thể hiện ở phần mở đầu, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo lập một văn kiện chính trị - lịch sử, một áng văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần mở đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những luận điểm mà tác giả triển khai ở những phần còn lại, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 12)

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2 tháng 9 năm 1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: Tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu: cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu ba phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mỹ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mỹ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mỹ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đê mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt tám mươi năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 13)

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mỹ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mỹ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lý cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mỹ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lý lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc sắc, ngắn gọn và súc tích. Đoạn mở đầu ấy đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 14)

“Nắng Ba Đình mùa thu
Thắm vàng trên Lăng Bác
Vẫn trong vắt bầu trời
Ngày Tuyên ngôn Độc lập.”

Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 1945 - ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”.

“Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. Mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lý lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lý sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lí lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.

Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lý lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kỳ lạ của đoạn văn.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 15)

Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ đời sau những kiệt tác văn học. Phần lớn thơ ca của Người là để ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên kháng chiến. Nổi bật hơn cả là áng văn nghị luận “Tuyên ngôn Độc lập”, một văn kiện mang tính lịch sử, chính thức khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được đánh giá là sự chuẩn mực của thể loại nghị luận, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã viết rất cao tay, vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nghị luận là một thể loại văn chương mang tính thuyết phục rất cao, thường có tích triết lý hàn lâm, dùng để diễn tả và truyền đạt một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống thông qua các hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận mang ý kiến, tư tưởng của người viết, thường sẽ là tư tưởng đúng đắn, tích cực, có tầm ảnh hưởng tới định hướng xã hội. Đặt trong bối cảnh lịch sử, bản “Tuyên ngôn Độc lập” đã đáp ứng tất cả những yêu cầu cũng như tuân thủ chuẩn mực những quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam chính thức thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một nước độc lập sau Cách mạng Tháng tám năm 1945. Với sự kiện tối quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo “Tuyên ngôn Độc lập” để đọc trước toàn thể nhân dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã tạo nên một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chãi cho toàn bộ ba phần phía sau, đồng thời trình bày lý lẽ sắc bén, bao hàm tầng ý nghĩa sâu xa, châm biếm:

“Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.”

Khẳng định quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không đưa ra những lời lẽ kêu gọi sáo rỗng mà lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1778 của Mỹ. Sau đó, Người đưa ra dẫn chứng về bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định “quyền bình đẳng”, “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Cái hay trong thủ pháp nghệ thuật ở đây là “gậy ông đập lưng ông”, lấy chính cái mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của chúng. Bản thân chúng là người đề cao sự tự do, khẳng định con người “luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” lại đi xâm lược nước khác. Dùng chính những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm “thượng đẳng”, cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất cao tay, mang hàm nghĩa sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỷ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là “chặn họng” những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.

Một ẩn ý sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kỳ quốc gia nào, bất kì lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng ngộ ra được đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.

“Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự kiện ngày 2 tháng 9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.

Đoạn mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, “Tuyên ngôn Độc lập” là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 16)

Trong bài thơ Theo chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại thời khắc lịch sử của dân tộc một cách thật xúc động:

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín
Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình
Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín
Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”

Vào sáng mùa thu năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được một tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận chiến. Điều đó được thể hiện chi tiết qua đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn.

Trước hết, đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh rất bất ngờ, độc đáo. Bởi Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe.

Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc như Nguyễn Trãi đã từng viết Bình Ngô đại cáo:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)

Một tài tình nữa của Hồ Chí Minh nằm trong ba chữa “suy rộng ra” điều đó cho thấy Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc. Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Một câu khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” để làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.

Như vậy, đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn đã thể hiện được tài năng lập luận tài tình của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra một cơ sở pháp lý mà không bất kì quốc gia nào có thể chối cãi được.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 17)

“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là “áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại”. Điều ấy đã thể hiện tài năng lập luận của Người, đặc biệt là ở đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn.

Phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập vô cùng độc đáo. Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe. Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc.

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn, mà còn trích cần một cách sáng tạo. Điều đó thể hiện qua ba chữ: “suy rộng ra”. Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc.

Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Lời khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền được sống, quyền được tự do dân tộc Việt Nam. Đó là những quyền lợi mà không bất kì quốc gia nào có thể xâm phạm được.

Tóm lại, phần mở đầu của bản tuyên ngôn đã làm đúng nhiệm vụ xác định cơ sở pháp lý vững chắc cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 18)

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”.

Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thống tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:

Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng” bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều này).

Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791).

Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng đã chứng tỏ điều này).

Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 19)

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lí lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 20)

“Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lý lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc sắc, ngắn gọn và súc tích. Đoạn mở đầu ấy đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 21)

Bản “Tuyên ngôn Độc lập” ngày 2-9-1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản “Tuyên ngôn Độc lập”, do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người “không ai có thể xâm phạm được”. Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”.

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản “Tuyên ngôn Độc lập” càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: “tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là “cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh” (Giáo sư Singô Sibata – Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. “Tuyên ngôn Độc lập” có kết cấu 3 phần rất chặt chẽ: định đề – phản đề – tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản “Tuyên ngôn Độc lập” năm 1776 của nước Mĩ và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp” năm 1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lý có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 – 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu u), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh “suy rộng ra” nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”. Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đề mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp “lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta” trong suốt 80 năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế… Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, “Tuyên ngôn Độc lập” là “lời Non Nước” cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 22)

Nắng Ba Đình mùa thu

Thắm vàng trên Lăng Bác

Vẫn trong vắt bầu trời

Ngày Tuyên ngôn Độc lập.

Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh 2/9/1945 – ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”

“Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lý. Cơ sở pháp lý ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được của mỗi cá nhân. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lý vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Từ cơ sở pháp lý ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lý lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lý sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lý lẽ, chân lý mà toàn thế giới đã công nhận.

Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lý lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kì lạ của đoạn văn.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 23)

Trong suốt sự nghiệp văn chương của mình, Hồ Chí Minh đã để lại cho thế hệ đời sau những kiệt tác văn học. Phần lớn thơ ca của Người là để ca ngợi thiên nhiên hoặc kêu gọi nhân dân đồng lòng đứng lên kháng chiến. Nổi bật hơn cả là áng văn nghị luận "Tuyên ngôn Độc lập", một văn kiện mang tính lịch sử, chính thức khai sinh ra nước Cộng hòa xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Được đánh giá là sự chuẩn mực của thể loại nghị luận, ngay từ đầu tác phẩm, Hồ Chí Minh đã viết rất cao tay, vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nghị luận là một thể loại văn chương mang tính thuyết phục rất cao, thường có tích triết lý hàn lâm, dùng để diễn tả và truyền đạt một tư tưởng nào đó đối với các sự việc, hiện tượng trong đời sống thông qua các hệ thống luận điểm, luận cứ và lập luận. Tác phẩm nghị luận mang ý kiến, tư tưởng của người viết, thường sẽ là tư tưởng đúng đắn, tích cực, có tầm ảnh hưởng tới định hướng xã hội. Đặt trong bối cảnh lịch sử, bản "Tuyên ngôn Độc lập" đã đáp ứng tất cả những yêu cầu cũng như tuân thủ chuẩn mực những quy tắc của một văn bản nghị luận. Việt Nam chính thức thoát khỏi ách nô lệ, trở thành một nước độc lập sau Cách mạng Tháng tám năm 1945. Với sự kiện tối quan trọng ấy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo "Tuyên ngôn Độc lập" để đọc trước toàn thể nhân dân. Phần mở đầu của tác phẩm đã tạo nên một hệ thống cơ bản, làm cơ sở lý luận vững chãi cho toàn bộ ba phần phía sau, đồng thời trình bày lý lẽ sắc bén, bao hàm tầng ý nghĩa sâu xa, châm biếm.

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc".

Lời bất hủ ấy ở trong Bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do.

Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi.

Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được.

Khẳng định quyền tự do của dân tộc Việt Nam, Hồ Chủ tịch không đưa ra những lời lẽ kêu gọi sáo rỗng mà lựa chọn cách trích dẫn trực tiếp "Bản tuyên ngôn Độc lập" năm 1778 của Mỹ.Sau đó, Người đưa ra dẫn chứng về "Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền" của Cách mạng Pháp năm 1791 để khẳng định "quyền bình đẳng", "quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Cái hay trong thủ pháp nghệ thuật ở đây là "gậy ông đập lưng ông", lấy chính cái mà Đế quốc Mỹ, Thực dân Pháp khẳng định và tuyên bố về quyền con người, quyền tự do để phản bác lại những hành động dơ bẩn của chúng. Bản thân chúng là người đề cao sự tự do, khẳng định con người "luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi" lại đi xâm lược nước khác. Dùng chính những lý lẽ, lập luận của kẻ thù, những lý luận đã đưa Pháp và Mỹ lên tầm "thượng đẳng", cao quý lại đi ngược lại với lời của chính tổ tiên họ để lại. Hồ Chí Minh viết rất cao tay, mang hàm nghĩa sâu sắc, khéo léo và có phần mỉa mai, châm biếm. Những lời này giống như một cái tát vào chính quyền tư bản thực dân lăm le xâm chiếm Việt Nam suốt vài thập kỉ. Rõ ràng là trích dẫn một cách trang nghiêm, tôn trọng nhưng thực chất là "chặn họng" những tên mang tư tưởng bá chủ, thống trị thế giới, đi ngược lại với lẽ tự nhiên, với những lời đã được cha ông họ truyền lại.

Một ẩn ý sâu sắc không phải ai cũng nhận ra khi Bác nhắc đến Mỹ và Pháp ngay từ đầu Bản Tuyên ngôn độc lập, trước khi liên hệ với Việt Nam là sự ngang hàng. Đặt Việt Nam sánh vai với hai cường quốc kinh tế là Pháp, Mỹ, Hồ Chí Minh khẳng định tầm quan trọng của quyền tự do tại Việt Nam cũng quan trọng như tại hai nước đế quốc này. Nền độc lập của bất kì quốc gia nào, bất kì lãnh thổ nào cũng đáng tôn trọng và đáng giữ gìn. Ý nghĩa sâu sắc không phải ai cũng ngộ ra được đã thể hiện tài năng văn học, đồng thời thể hiện trí tuệ xuất chúng của Hồ Chủ tịch.

"Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Không chỉ gói gọn trong khuôn khổ Việt Nam, Hồ Chí Minh còn mở rộng vấn đề nhân quyền, tự do ra tầm thế giới. Một mặt, tác giả muốn khẳng định sự tự do của Việt Nam đáng để được quốc tế quan tâm và ghi nhận, một mặt là lời kêu gọi vừa kín đáo, vừa quật khởi với các nước đang chìm đắm dưới ách nô lệ. Sau Cách mạng Tháng tám của Việt Nam, các dân tộc thuộc địa như Lào và Campuchia đã được tiếp thêm sức mạnh tinh thần mạnh mẽ cũng như niềm tin vào chế độ Xã hội Chủ nghĩa, đồng thời, sự keienj ngày 2/9 cũng đặt một mốc son vàng chói lọi vào công cuộc chiến thắng chủ nghĩa Phát xít trên toàn thế giới.

Đoạn mở đầu của "Tuyên ngôn Độc lập" được viết rất khéo và đắt, vừa kiên quyết khẳng định quyền tự do của Việt Nam, vừa khéo léo lên án, chỉ trích chủ nghĩa thực dân bất công, vô lý. Không chỉ mang tầm lịch sử đối với lãnh thổ Việt Nam, đây cũng là một tác phẩm có ý nghĩa quốc tế, là động lực đứng lên kháng chiến cho nhiều quốc gia khác. Về mặt nghệ thuật, "Tuyên ngôn Độc lập" là hình mẫu chuẩn mực về văn nghị luận với những lớp lang, lý lẽ rõ ràng, đặc biệt là đoạn mở đầu đầy tính thuyết phục, mang tầm thời đại.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 24)

Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh được xem như là mẫu mực của loại văn nghị luận. Điều đó thể hiện rõ trong đoạn mở đầu được viết rất cao tay: vừa khéo léo, vừa kiên quyết lại hàm chứa nhiều ý nghĩa sâu sắc.

Nhiệm vụ của phần mở đầu một bản Tuyên ngôn là nêu nguyên lí làm cơ sở tư tưởng cho toàn bài. Nguyên lí của Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền tự do độc lập của dân tộc. Nhưng ở đây Bác không nêu trực tiếp nguyên lí ấy mà lại dựa vào hai bản Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 để khẳng định “Quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do” của tất cả các dân tộc trên thế giới. Đây chính là nghệ thuật “lấy gậy ông đập lưng ông”.

Bác đã khẳng định quyền độc lập, tự do của dân tộc ta bằng chính những lời lẽ của tổ tiên người Mĩ, người Pháp đã ghi lại trong hai bản Tuyên ngôn từng làm vẻ vang cho truyền thông tư tưởng và văn hoá của những dân tộc ấy. Cách viết như thế là vừa khéo léo vừa kiên quyết:

Khéo léo vì tỏ ra rất trân trọng những danh ngôn bất hủ của người Pháp, người Mĩ để “khóa miệng” bọn đế quốc Pháp, Mĩ đang âm mưu xâm lược và can thiệp vào nước ta (sự thật lịch sử đã chứng tỏ điều này).

Kiên quyết vì nhắc nhở họ đừng có phản bội tổ tiên mình, đừng có làm vấy bùn lên lá cờ nhận đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mĩ, nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Đoạn mở đầu bản Tuvên ngôn Độc lập của Việt Nam mà nhắc đến hai bản Tuyên ngôn nổi tiếng trong lịch sử của nhân loại, của hai nước lớn như thế, thì cũng có nghĩa là đặt ba cuộc cách mạng ngang hàng nhau, ba nền độc lập ngang hàng nhau, ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau (và thực sự, cuộc Cách mạng tháng Tám 1945 đã giải quyết đúng nhiệm vụ của hai cuộc cách mạng của Mĩ (1776) và của Pháp (1791).

Sau khi nhắc đến những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập cùa Mĩ, Bác viết: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Ý kiến “suy rộng ra” ấy quả là một đóng góp đầy ý nghĩa của Bác đối với phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, nó như phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các thuộc địa sẽ làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX (lịch sử cũng đã chứng tỏ điều này).

Đoạn mở đầu Tuyên ngôn Độc lập của Bác chứa đựng một tư tưởng lớn với nhiều ý nghĩa sâu sắc, lại được viết bằng một nghệ thuật cao tay, mang sức thuyết phục mạnh mẽ. Đó là đoạn mở đầu mẫu mực trong một bản Tuyên ngôn bất hủ.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 25)

“Tuyên ngôn độc lập” của Hồ Chí Minh được coi là “áng văn chính luận mẫu mực của mọi thời đại”. Điều ấy đã thể hiện tài năng lập luận của Người, đặc biệt là ở đoạn mở đầu của bản tuyên ngôn.

Phần mở đầu của bản Tuyên ngôn độc lập vô cùng độc đáo. Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776 và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe. Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc.

Hồ Chí Minh không chỉ trích dẫn, mà còn trích cần một cách sáng tạo. Điều đó thể hiện qua ba chữ: “suy rộng ra”. Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc.

Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Lời khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” đã làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền được sống, quyền được tự do dân tộc Việt Nam. Đó là những quyền lợi mà không bất kì quốc gia nào có thể xâm phạm được.

Tóm lại, phần mở đầu của bản tuyên ngôn đã làm đúng nhiệm vụ xác định cơ sở pháp lý vững chắc cho nền độc lập của dân tộc Việt Nam.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 26)

Trong bài thơ Theo chân Bác, nhà thơ Tố Hữu đã ghi lại thời khắc lịch sử của dân tộc một cách thật xúc động:

“Hôm nay sáng mồng hai tháng chín

Thủ đô hoa, vàng nắng Ba Đình

Muôn triệu tim chờ... chim cũng nín

Bỗng vang lên tiếng hát ân tình”

Vào sáng mùa thu năm 1945, tại Quảng trường Ba Đình (Hà Nội), chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Văn chính luận của Người nói chung, Tuyên ngôn độc lập của Người nói riêng đã thể hiện được một tư duy sắc sảo, một ngòi bút giàu tính luận chiến. Điều đó được thể hiện chi tiết qua đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn.

Trước hết, đoạn mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập, ta thấy cách đặt vấn đề của Hồ Chí Minh rất bất ngờ, độc đáo. Bởi Người không ôn lại lịch sử vẻ vang của dân tộc mà trích dẫn những lời bất hủ trong bản Tuyên ngôn của Mỹ, năm 1776: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. Điều đó cho thấy Hồ Chí Minh rất sắc sảo và trí tuệ trong cuộc đối thoại lịch sử này. Bởi hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Pháp và Mỹ ở thế kỉ XVIII là di sản tư tưởng của nhân loại, đánh dấu buổi bình của cuộc Cách mạng tư sản lật đổ chế độ phong kiến, đã có công lao nêu thành nguyên tắc, pháp lý quyền cơ bản của con người vì vậy có sức thuyết phục người đọc, người nghe.

Lấy hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của lịch sử nhân loại làm mở đầu cho bản tuyên ngôn của mình, Hồ Chí Minh không chỉ thể hiện vốn hiểu biết văn hóa và trân trọng thành quả văn hóa của nhân loại mà còn thể hiện sự khôn khéo và kiên quyết. Khôn khéo ở chỗ, Người tỏ ra trân trọng bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ nhưng cương quyết cũng bởi đây cũng chính là hình thức gậy ông đập lưng ông. Đúng là bác bỏ luận điệu của kẻ thù thì không có gì lý thú và thích đáng hơn là dùng chính lý lẽ của chúng để đẩy chúng vào tự vạch mặt. Hồ Chí Minh nhắc họ đừng làm vấy bẩn lên ngọn cờ chính nghĩa mà tổ tiên họ đã phải trải qua bao nhiêu năm đấu tranh mới có thể dành được. Với cách trích dẫn này, Bác đã đặt ba bản Tuyên ngôn ngang hàng nhau, đặt ba nền độc lập đăng đối gợi được niềm tự hào dân tộc như Nguyễn Trãi đã từng viết Bình Ngô đại cáo:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập;

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương;

(Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi)

Một tài tình nữa của Hồ Chí Minh nằm trong ba chữa “suy rộng ra” điều đó cho thấy Bác tỏ ra khéo vận dụng những tinh hoa của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây hơn một thế kỷ bằng cách nâng lên một tầm vóc lớn lao, khái quát hơn. Từ quyền con người nói chung trong bản Tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, Người đã nâng lên thành quyền dân tộc. “Suy rộng ra…tất cả các dân tộc trên thế giới… quyền sung sướng và quyền tự do” nghĩa là không chỉ có cá nhân bình đẳng về quyền lợi mà các dân tộc trên thế giới cũng có quyền bình đẳng, quyền tự chủ, tự quyết. Chính ý kiến “Suy rộng ra” của Bác có ý nghĩa lớn lao đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc trên thế giới mà một nhà văn hóa nước ngoài trong cuốn “Hồ Chí Minh là Người đã phát triển quyền lợi con người thành quyền lợi dân tộc. Qua phân tích trên có thể thấy đoạn mở đầu hết sức ngắn gọn, súc tích, lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng. Hai câu trích dẫn bổ sung cho nhau - một lời lập luận sáng tạo đầy chất trí tuệ. Một câu khẳng định đanh thép: “Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được” để làm nổi bật lên luân lí chính trị sâu sắc: quyền sống, quyền tự do dân tộc.

Như vậy, đoạn mở đầu của bản Tuyên ngôn đã thể hiện được tài năng lập luận tài tình của Hồ Chí Minh. Người đã đưa ra một cơ sở pháp lý mà không bất kì quốc gia nào có thể chối cãi được.

thuật, giữa truyền thống và hiện đại. Dù sáng tác bằng thể loại nào thì tác phẩm của Người đều có phong cách riêng, độc đáo, hấp dẫn, có giá trị bền vững.

Là người có vốn hiểu biết sâu rộng, uyên thâm, nhiều tác phẩm của Người không những mang ý nghĩa sâu xa mà còn mang giá trị nghệ thuật to lớn. Không chỉ thành công ở một đề tài hay một thể loại văn học đặc thù nào, Hồ Chí Minh có rất nhiều tác phẩm giàu giá trị nghệ thuật thuộc những thể loại khác nhau mà những tác giả khác khó mà có được.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 27)

Tuyên ngôn Độc lập” là văn kiện có giá trị lịch sử to lớn: là lời tuyên bố xóa bỏ chế độ thực dân, phong kiến, là sự khẳng định quyền tự chủ và bình đẳng của dân tộc ta trên toàn thế giới, là mốc son chói lọi đánh dấu sự kiện nước ta bước vào một kỉ nguyên mới, kỉ nguyên của độc lập, tự do. Đoạn mở đầu tác phẩm đã thể hiện rõ giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

“Hỡi đồng bào cả nước” là câu nói mở đầu bản tuyên ngôn. Nó có sức mạnh hiệu triệu, lay động hàng triệu trái tim đồng bào, là đối tượng hướng đến của chủ tịch Hồ Chí Minh. Đối tượng tiếp nhận của bản tuyên ngôn này bao gồm đồng bào cả nước, nhân loại tiến bộ trên thế giới, thực dân Pháp và đế quốc Mĩ đang lăm le quay lại xâm lược nước ta.

Vì vậy, Người đã trích dẫn hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” năm 1776: “Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được, trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền được tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc” và bản “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền” của Pháp (1791): “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi” làm dẫn chứng xác thực.

Việc làm đó đã tạo nên tiền đề, cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn. Người đã thể hiện niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Người đã đặt cuộc cách mạng Việt Nam ngang hàng với cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ. Hồ Chí Minh đã sử dụng thủ pháp “gậy ông đập lưng ông”, lấy hành động của con cháu Pháp, Mĩ chà đạp lên lá cờ tự do, bình đẳng, bác ái đi xâm lược Việt Nam.

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. Hồ Chí Minh đã dùng những lí lẽ sắc sảo, đanh thép, hùng hồn. Văn phong của Người thể hiện trí tuệ uyên bác, hiện đại. Bản tuyên ngôn của Hồ Chí Minh đi trước thời đại về vấn đề nhân quyền và dân quyền. Từ những lí lẽ đầy đủ, cụ thể, Người đã đưa ra một lí lẽ đanh thép: “Đó là những lẽ phải không thể chối cãi được”.

Qua phần mở đầu “Tuyên ngôn Độc lập”, ta còn thấy văn phong của Hồ Chí Minh rất đặc sắc, ngắn gọn và súc tích. Đoạn mở đầu ấy đã làm nổi bật giá trị nội dung tư tưởng và nghệ thuật lập luận của Hồ Chí Minh.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 28)

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" ngày 2-9-1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập", do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người "không ai có thể xâm phạm được". Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi".

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản "Tuyên ngôn Độc lập" càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là "cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh" (Giáo sư Singô Sibata - Nhật Bản).

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. "Tuyên ngôn Độc lập" có kết cấu 3 phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mĩ và bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp" năm 1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lí có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh "suy rộng ra" nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đề mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp "lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đồng bào ta" trong suốt 80 năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Qua phần mở đầu "Tuyên ngôn Độc lập", ta còn thấy văn phong đặc sắc của Hồ Chí Minh: ngắn gọn, súc tích, thấm thía, rung động lòng người, "Tuyên ngôn Độc lập" là "lời Non Nước" cao cả và thiêng liêng.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 29)

Nắng Ba Đình mùa thu

Thắm vàng trên Lăng Bác

Vẫn trong vắt bầu trời

Ngày Tuyên ngôn Độc lập.

Mỗi lần đọc bài thơ “Nắng Ba Đình”, lòng tôi lại nao nao xúc động nhớ những thước phim tài liệu về ngày Quốc khánh 2/9/1945 – ngày đánh dấu một sự kiện lớn trong lịch sử của dân tộc ta. Tôi chợt bắt gặp một vầng trán cao rộng, một ánh mắt nheo cười, Bác Hồ đang bước lên lễ đài cùng với giọng nói ấm áp, thân mật: “Hỡi đồng bào cả nước!”.

Tuyên ngôn Độc lập” mở đầu bằng những câu văn hết sức giản dị, mộc mạc như vậy mà vẫn chứa chan tình cảm yêu thương, vẫn gợi không khí thật thiêng liêng. Hai tiếng “đồng bào” thật gần gũi, thân mật, vừa chứa chan tình yêu thương ruột thịt, vừa khơi dậy niềm tự hào, khơi dậy cội nguồn linh thiêng của dân tộc: Con Rồng, cháu Tiên. Trên thế giới này, có lẽ chỉ riêng dân tộc ta là cùng sinh ra từ bọc trăm trứng của mẹ Âu Cơ.

Có thể nói, vấn đề cơ bản và quan trọng nhất trong phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập” chính là xác lập cơ sở pháp lí. Cơ sở pháp lí ban đầu của Tuyên ngôn Độc lập, đó là những quyền không ai có thể chối cãi được của mỗi cá nhân. Những lời ấy được ghi trong bản Tuyên ngôn Độc lập ở Mĩ và bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp. Đó là quyền được sống, quyền tự do, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc. Lấy những lời bất hủ được ghi rành rành trong hai bản “Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ” và “Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền Pháp” đã được cả thế giới công nhận làm cơ sở pháp lí vô cùng vững chắc cho bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Bác đã dẫn lời hai bản tuyên ngôn nổi tiếng của Mỹ và của Pháp, chứa đựng những tư tưởng lớn, đã được thừa nhận của nhân loại, để làm cơ sở pháp lí cho bản tuyên ngôn của Việt Nam. Cách lập luận của tác giả vừa khôn khéo vừa kiên quyết. Bác đã dùng lời lẽ bản tuyên ngôn của Mỹ, Pháp để phủ nhận chính âm mưu xâm lược của hai cường quốc này. Qua thủ pháp nghệ thuật “gậy ông đập lưng ông”,dường như tác giả đã ngầm cảnh cáo nếu Pháp xâm lược Việt Nam thì chính họ đã phản bội lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc họ đã đúc kết thành chân lý ghi trong bản tuyên ngôn. Họ sẽ làm vấy bùn lên lá cờ nhân đạo của những cuộc cách mạng vĩ đại của nước Pháp, nước Mỹ nếu nhất định tiến quân xâm lược Việt Nam.

Từ cơ sở pháp lí ban đầu là quyền của con người Hồ Chí Minh đã suy rộng theo tính chất bắc cầu khẳng định quyền dân tộc. Người dõng dạc khẳng định: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Sự phát triển từ quyền con người, quyền dân tộc là suy luận hết sức thông minh và chặt chẽ. Đó còn là một sáng tạo có ý nghĩa to lớn, một cống hiến vĩ đại của chủ tịch Hồ Chí Minh cho dân tộc Việt Nam và cả nhân loại. Sự phát triển ấy chẳng những là phát súng lệnh khởi đầu cho bão táp cách mạng ở các nước thuộc địa, báo hiệu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân trên khắp thế giới vào nửa sau thế kỉ XX. mà còn là phát súng hiệu thức tỉnh kêu gọi các dân tộc bị áp bức trên thế giới vùng lên đấu tranh để giải phóng độc lập tự do.

Khép lại phần mở đầu là câu văn chắc nịch đanh thép. Người khẳng định mọi quyền lí lẽ chính đáng của con người, dân tộc là những “lẽ phải không ai chối cãi được”. Đây chính là bức tường pháp lí sừng sững, là tiền đề triển khai toàn bộ nội dung bản Tuyên ngôn Độc lập ở phần tiếp theo. Câu văn này cũng thể hiện tính luận chiến quyết liệt của ngòi bút Hồ Chí Minh. Người ngầm cảnh báo với kẻ thù xâm lược, chúng không thể phủ nhận những lí lẽ, chân lí mà toàn thế giới đã công nhận.

Chỉ bằng đoạn văn ngắn mở đầu, Tuyên ngôn Độc lập đã đưa ra căn cứ, lí lẽ xác đáng cho lập luận. Quá trình dẫn dắt tới căn cứ, lập luận này hết sức chính xác, chặt chẽ. Vậy là ngay từ phần mở đầu của “Tuyên ngôn Độc lập”, chủ tịch Hồ Chí Minh đã chứng tỏ tài năng lập luận bậc thầy, sự sâu sắc trong tư tưởng, lí lẽ sắc bén, ngôn ngữ đanh thép hùng hồn tạo nên sức mạnh luận chiến bất ngờ và sức hấp dẫn kì lạ của đoạn văn.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 30)

Xuyên suốt nền văn học Việt Nam, có những văn kiện ra đời nhằm phục vụ mục đích chính trị, quân sự, nhưng đồng thời cũng trở thành những tác phẩm văn học mẫu mực xứng tầm kiệt tác. "Tuyên ngôn độc lập" ra đời vào năm 1945 là một trong những tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bằng ngòi bút sắc bén, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kiến tạo nên một áng văn chính luận mẫu mực. Điều này đã được thể hiện rõ ngay từ phần mở đầu của tác phẩm.

Trong phần đầu tiên của tác phẩm, tác giả đã nêu lên nguyên lí chung của bản tuyên ngôn thông qua việc trích dẫn hai bản Tuyên ngôn: Tuyên ngôn Độc lập của Mĩ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Pháp năm 1791 với nội dung chính là khẳng định các quyền lợi cơ bản của con người. Đó là quyền sống, quyền bình đẳng và quyền mưu cầu hạnh phúc: "Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc", "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi". Hai bản tuyên ngôn mà Người trích dẫn không chỉ đóng vai trò là dẫn chứng của áng văn chính luận mà còn thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đầy sâu sắc. Đặt vào hoàn cảnh lịch sử cấp bách của nước ta thời bấy giờ, khi mà nền độc lập vừa giành được sau cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 đang bị đe dọa bởi các thế lực đế quốc thực dân: quân đội Quốc dân đảng Trung Quốc, đằng sau là đế quốc Mĩ tiến vào từ phía Bắc và quân đội Anh, sau lưng là quân viễn chinh của Pháp tiến vào từ miền Nam với âm mưu xâm chiếm lại nước ta một lần nữa. Như vậy, trước hành động của đối phương, tác giả đã khéo léo trích dẫn hai bản tuyên ngôn để tạo nên chiến thuật "Gậy ông đập lưng ông" ngay trên trang giấy nhằm nhắc nhở những hành động của bọn đế quốc, thực dân đang đi ngược lại và làm trái với những điều mà đất nước họ từng dõng dạc tuyên bố. Đồng thời, điều này còn thể hiện rõ tác giả đang ngầm đặt cuộc cách mạng của nước ta ngang hàng với hai cuộc cách mạng của Pháp và Mĩ.

Điều đặc biệt của bản tuyên ngôn là từ việc trích dẫn về quyền con người để làm dẫn chứng, tác giả đã nâng tầm và mở rộng thành quyền dân tộc, tạo nên một lí lẽ hết sức thuyết phục và sắc bén. Suy luận này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với các nước thuộc địa và thường xuyên phải đấu tranh chống lại gót giày xâm lược như nước ta, bởi con người chỉ được hưởng tự do, bình đẳng khi dân tộc giành được độc lập. Mối quan hệ giữa quốc gia dân tộc và con người đã được tác giả khẳng định thông qua một tư tưởng độc đáo và mang tính nhân văn vô cùng sâu sắc.

Với nội dung là nêu nguyên lí chung, phần mở đầu của tác phẩm đã thể hiện rõ tài năng của tác giả trên địa hạt văn chương. Việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn đã tạo nên một dẫn chứng xác thực góp phần củng cố lí lẽ, luận điểm đanh thép của tác phẩm.Tất cả đã tạo nên một lập luận chặt chẽ và giàu sức thuyết phục, vừa khôn khéo vừa kiên quyết để tạo nên nền tảng pháp lí vững vàng để tác giả tố cáo tội ác của bọn thực dân.

Như vậy, thông qua nguyên lí chung được thể hiện ở phần mở đầu, chúng ta có thể thấy được tài năng của tác giả Hồ Chí Minh khi tạo lập một văn kiện chính trị - lịch sử, một áng văn chính luận mẫu mực. Thông qua việc trích dẫn hai bản tuyên ngôn của Pháp và Mỹ, phần mở đầu đã trở thành một nền tảng vững chắc cho những luận điểm mà tác giả triển khai ở những phần còn lại, đồng thời khẳng định giá trị tư tưởng và giá trị nghệ thuật của bản "Tuyên ngôn độc lập" bất hủ.

Phân tích phần mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” (mẫu 31)

Bản "Tuyên ngôn Độc lập" ngày 2-9-1945 là một văn kiện có giá trị và ý nghĩa lịch sử to lớn: tuyên bố thủ tiêu chế độ thực dân và phong kiến trên đất nước ta, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỉ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc.

Bản "Tuyên ngôn Độc lập", do Hồ Chí Minh soạn thảo, trong đoạn văn mở đầu có giá trị nổi bật về tư tưởng và nghệ thuật lập luận, tiêu biểu cho phong cách chính luận của Người.

Về nội dung tư tưởng, Hồ Chí Minh đã chỉ ra và khẳng định: quyền bình đẳng, quyền được sống, quyền được tự do, quyền mưu cầu hạnh phúc là những quyền thiêng liêng của con người "không ai có thể xâm phạm được". Nhân quyền là cao cả thiêng liêng, bởi lẽ "Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi",

Nội dung tư tưởng của đoạn văn mở đầu bản "Tuyên ngôn Độc lập" càng trở nên sâu sắc vì từ những quyền thiêng liêng của con người, Chủ tịch Hồ Chí Minh nâng lên quyền của các dân tộc: "tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tư tưởng vĩ đại ấy không chỉ thể hiện khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta mà còn phản ánh khát vọng của các dân tộc nhược tiểu, phản ánh xu thế giải phóng dân tộc sau Thế chiến thứ hai. Đó là "cống hiến nổi tiếng của Cụ Hồ Chí Minh" .

Nghệ thuật lập luận trong đoạn mở đầu cũng rất đặc sắc. "Tuyên ngôn Độc lập" có kết cấu 3 phần rất chặt chẽ: định đề - phản đề - tuyên bố.

Ở phần định đề, Hồ Chí Minh trích dẫn hai đoạn văn tiêu biểu nhất nói về: nhân quyền và dân quyền trong bản "Tuyên ngôn Độc lập" năm 1776 của nước Mĩ và bản "Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp" năm 1791. Mĩ và Pháp là hai quốc gia vĩ đại; nhân quyền và dân quyền là tư tưởng vĩ đại, là khát vọng của con người, là chân lí có ý nghĩa phổ quát, không ai có thể chối cãi được. Cách trích dẫn của Bác rất chuẩn mực theo thứ tự thời gian (1776 - 1791), trên hai châu lục khác nhau (châu Mĩ, châu Âu), hai quốc gia khác nhau (nước Mĩ, nước Pháp), nhưng lại tương đồng về tư tưởng nhân quyền và dân quyền. Từ quyền thiêng liêng của con người, Hồ Chí Minh "suy rộng ra" nói đến quyền tự quyết của các dân tộc. Từ trích dẫn đi đến khẳng định: "Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được". Cách lập luận ấy rất chặt chẽ, đanh thép, giàu sức thuyết phục.

Nghệ thuật trích dẫn của Hồ Chí Minh đã chỉ ra khát vọng về độc lập tự do của nhân dân ta, ca ngợi tầm vóc vĩ đại của cuộc Cách mạng tháng Tám. Người vừa tranh thủ được sự đồng tình, ủng hộ của các dân tộc trên thế giới, đồng thời ngầm cảnh báo những âm mưu đen tối của thực dân Pháp và bọn đế quốc rằng, chúng xâm lược nước ta là chính chúng đã chà đạp lên nhân quyền và quyền tự quyết của các dân tộc.

Cách mở bài rất đặc sắc, vì từ định đê mà chuyển sang phần phản đề, Hồ Chí Minh đã vạch trần bộ mặt xảo quyệt thâm độc của thực dân Pháp "lợi dụng lá cờ tự do bình đẳng, bác ái đến cướp đất nước ta, áp bức đổng bào ta" trong suốt 80 năm trời, gây ra bao tội ác ghê tởm về chính trị, về kinh tế... Cách lập luận như thế rất chặt chẽ và hùng hồn.

Xem thêm các bài văn mẫu Ngữ văn 12 hay, chi tiết khác:

Phân tích bài thơ Tây Tiến

Phân tích hình tượng người lính trong bài thơ Tây Tiến của nhà thơ Quang Dũng

Phân tích khổ 3 bài thơ Tây Tiến

Phân tích khổ 1 bài Tây Tiến

Phân tích bài thơ Việt Bắc

1 2,598 18/12/2023
Tải về