Soạn bài Viết: Phân tích một tác phẩm truyện (trang 104) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều

Với soạn bài Viết: Phân tích một tác phẩm truyện trang 104 Ngữ văn lớp 9 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 9.

1 1,149 01/12/2024


Soạn bài Viết: Phân tích một tác phẩm truyện

1. Định hướng

1.1. Ở những lớp dưới, các em đã được học cách viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm truyện. Sách Ngữ văn 9 tiếp tục rèn luyện kĩ năng phân tích và viết kiểu bài văn nghị luận này.

Bài văn phân tích một tác phẩm truyện cần phân tích được nội dung chủ đề; dẫn ra và phân tích tác dụng của một số nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật được dùng trong tác phẩm, từ đó, nêu lên nhận xét, đánh giá của bản thân về hiệu quả thẩm mĩ của những nét đăc sắc ấy.

Khi viết bài văn phân tích một tác phẩm truyện cần tránh sa đà vào kể lại nội dung văn bản mà không phân tích, lí giải, đánh giá,… các phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm hoặc vừa kể lại, vừa “chêm xen” các nhận xét tản mát, vụn vặt. Các ý kiến, nhận xét về tác phẩm cần được khái quát thành luận điểm và được làm rõ bằng việc phân tích dựa trên văn bản của nhà văn cùng sự cảm nhận của bản thân. Số lượng luận điểm trong bài viết tuỳ thuộc vào sự phức tạp, phong phú,… của tác phẩm cần phân tích nhưng thông thường, khoảng từ 2 - 3 luận điểm chính được nêu lên và làm rõ trong bài viết là phù hợp.

Bài văn phân tích một tác phẩm truyện có thể yêu cầu phân tích toàn bộ tác phẩm, đoạn trích hoặc tập trung vào một số yếu tố nội dung, hình thức của tác phẩm truyện.

1.2. Để viết bài phân tích một tác phẩm truyện, các em cần chú ý:

- Đọc kĩ văn bản truyện, xác định chủ đề của truyện.

- Xác định các đặc sắc nghệ thuật của truyện như: nhan đề, ngôi kể, cốt truyện, tình huống truyện, nhân vật, ngôn ngữ của nhân vật và của người kể chuyện…; làm rõ tác dụng của những yếu tố này trong việc thể hiện chủ đề, ý nghĩa của tác phẩm.

- Xác định các luận điểm trong bài viết; lựa chọn các bằng chứng từ tác phẩm truyện cho mỗi luận điểm.

- Liện hệ, so sánh với những tác giả, tác phẩm khác có cùng đề tài, chủ đề để nhận xét điểm gặp gỡ và sáng tạo tiêng của tác giả được thể hiện trong tác phẩm truyện; liện hệ với bối cảnh đọc hiện tại, với bản thân để suy nghĩ, nhận xét về tác động, ý nghĩa của tác phẩm với người đọc và với chính bản thân em.

2. Thực hành

2.1. Thực hành viết theo các bước

Bài tập 1 (trang 103 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 1): Phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân.

Bài tập 2 (trang 103 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 1): Phân tích truyện ngắn “Ông lão bên chiếc cầu” của Ơ-nít Hê-minh-uê

a) Chuẩn bị (ví dụ với đề 1)

- Xác định yêu cầu của đề bài (về nội dung, kiểu loại văn bản) và người đọc bài viết.

- Xem lại nội dung đọc hiểu truyện ngắn Làng của Kim Lân.

b) Tìm ý và lập dàn ý

- Tìm ý cho bài viết bắng cách đặt và trả lời các câu hỏi theo sơ đồ sau:

* Chủ đề của truyện là gì?

Chủ đề của truyện Làng là:

Người nông dân yêu làng, yêu nước và có tinh thần cách mạng

+ Chủ đề của truyện Ông lão bên chiếc cầu:

Số phận bi thảm của người dân vô tội trong chiến tranh

* Em có nhận xét như thế nào về chủ đề của truyện?

+ Chủ đề của truyện ngắn Làng góp phần cất liên tiến nói ca ngợi những người nông dân Việt Nam vừa cần cù, chất phác vừa giàu lòng yêu nước, yêu quê hương. Tình yêu ấy chính là động lực giúp họ góp phần vào thắng lợi của cách mạng và sự nghiệp xây dựng đất nước.

+ Chủ đề của truyện Ông lão bên chiếc cầu nhắc nhở con người về tầm quan trọng của hòa bình. Đồng thời gửi gắm thông điệp về sự cần thiết phải trân trọng và giữ gìn nền hòa bình trên thế giới đặc biệt trong bối cảnh lịch sử và xã hội mà tác phẩm ra đời.

* Truyện có những đặc sắc nghệ thuật nào? Em sử dụng từ ngữ nào để thể hiện nhận xét, đánh giá của mình về mỗi đặc sắc nghệ thuật đó?

- Truyện Ông lão bên chiếc cầu:

+ Nghệ thuật kể chuyện hấp dẫn qua lời kể ở ngôi thứ nhất – nhân vật “tôi”.

+ Lời văn cô đọng, hình ảnh biểu tượng giàu ý nghĩa.

+ Xây dựng những chi tiết đối lập, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại giữa nhân vật tôi và ông lão rất đặc sắc cho thấy đặc điểm, tâm trạng và phẩm chất của nhân vật.

- Truyện ngắn Làng:

+ Tạo tình huống gay cấn, thử thách nội tâm nhân vật: Ông Hai nghe tin làng theo Tây, đây là tình huống đặc sắc, tạo điều kiện để thể hiện tâm trạng, phẩm chất nhân vật chân thực. Tác giả đã đặt nhân vật vào tình huống gay cấn để làm bộc lộ sâu sắc tình yêu làng, yêu nước của ông.

- Miêu tả diễn biến tâm lí nhân vật chân thực và sinh động, sâu sắc qua suy nghĩ, hành động, lời nói (lời đối thoại và độc thoại). Đặc biệt nhà văn đã diễn tả rất đúng, rất ấn tượng về sự ám ảnh, day dứt trong tâm trạng nhân vật. Điều đó chứng tỏ Kim Lân am hiểu sâu sắc con người và thế giới tinh thần của họ, đặc biệt là người nông dân.

- Ngôn ngữ đậm tính khẩu ngữ và là lời ăn tiếng nói của người nông dân.

- Lời trần thuật tự nhiên, sinh động chủ yếu theo điểm nhìn của ông Hai, dù vẫn dùng cách trần thuật ở ngôi thứ ba. Ngôn ngữ nhân vật ông Hai vừa có nét chung của người nông dân, với cách dùng từ, đặt câu hết sức dễ hiểu, mộc mạc lại mang đậm cá tính của nhân vật, rất sinh động.

* Truyện gợi cho em cảm xúc, suy nghĩ gì?

+ Truyện Ông lão bên chiếc cầu:

Tác giả muốn chuyển đến người đọc một thông điệp quan trọng: Chiến tranh chỉ đem đến mất mát, đau thương. Con người dù trong hoàn cảnh nào cũng luôn giữ cho mình sự lương thiện và tình yêu thương. Câu chuyện còn nhắc nhở con người phải biết trân trọng, giữ gìn nền hòa bình trên toàn thế giới

+ Truyện ngắn Làng:

Truyện ca ngợi chân thực, sinh động tình yêu làng quê, tình yêu đất nước, tinh thần kháng chiến của ông Hai, đó cũng là tình cảm của người nông dân VN đối với đất nước trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

- Lập dàn ý bằng cách lựa chọn sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:

Mở bài

Giới thiệu nhan đề, tác giả, thể loại và nhận xét cung về truyện.

Thân bài

Phân tích nội dung chủ đề truyện:

+ Nêu và nhận xét về chủ đề của truyện.

+ Phân tích, đánh gá các đặc sắc nghệ thuật để làm rõ chủ đề của truyện và hiệu quả thẩm mĩ của đặc sắc đó:

- Đặc sắc về nhan đề và tình huống truyện: nhan đề giản dị, giàu sức khái quát, tình huống truyện độc đáo.

- Đặc sắc về nhân vật và nghệ thuật xây dựng nhân vật.

- Một số đặc sắc nghệ thuật khác trong truyện: ngôi kể, điểm nhìn, ngôn ngữ,…

Kết bài

Nhận xét khái quát giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện. Nêu tác động của truyện đơi với cá nhân người viết bài

c) Viết

- Dựa vào dàn ý đã lập để luyện tập kĩ năng viết bài.

- Khi phân tích mỗi yếu tố cần chú ý những điểm nổi bật, sử dung bằng chứng từ văn bản và làm rõ tác dung của chúng.

- Trong khi phân tích, chú ý tạo điểm nhấn cho các yếu tố hình thức được lựa chọn bằng những đánh giá, nhận xét phù hợp, xác đáng, thể hiện sự tìm tòi, khám phá của người viết.

* Bài văn tham khảo

(1) Phân tích truyện ngắn “Làng” của Kim Lân:

Nói về quê hương, Raxun Gamzatov đã cho rằng rằng: "Người ta chỉ có thể tách con người ra khỏi quê hương chứ không thể tách quê hương ra khỏi con người". Điều đó muốn đưa ra một chân lý rằng, con người dù đi đến đâu cũng không thể quên được nguồn cội, quê hương. Đặc biệt là quê hương trong tâm khảm của người nông dân đã gắn bó máu thiệt với từng khóm tre, bờ ao, giếng nước, mái đình. Cùng với đề tài viết về tình yêu của người nông dân đối với quê hương, Kim Lân hướng tới khám phá cái đẹp khỏe khoắn, đôn hậu, chất phác trong tâm hồn những người nông dân qua tác phẩm truyện ngắn mang tên "Làng". Nói như cách nhận xét, bình phẩm của Nguyên Hồng thì Kim Lân là nhà văn của làng quê, của những người nông dân một lòng một dạ đi với đất, với người, với sự thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống vùng thôn quê.

Tác phẩm ra đời năm 1948, được lấy bối cảnh từ cuộc tản cư trong thời kỳ kháng chiến của nhân dân Bắc Bộ, Kim Lân xây dựng nhân vật ông Hai - người dân làng Chợ Dầu theo kháng chiến tản cư đến vùng tạm trú. Và trong lúc tản cư, biết bao điều suy tư, trăn trở về ngôi làng thân yêu của ông Hai đã được Kim Lân thể hiện một cách trọn vẹn, đầy đủ nhất. Cái hay của câu chuyện không chỉ dừng lại ở việc xây dựng nhân vật thành công mà còn xây dựng được một tình huống truyện độc đáo, bộc lộ được sự sâu sắc tình yêu làng, tình yêu nước của một người nông dân.

Ông Hai là người rất yêu làng của mình. Tình yêu của ông đã ăn sâu vào nhận thức, vào máu thịt để dù có đi đến đâu, đi tản cư đến nơi khác nhưng ông vẫn đau đáu nhớ và hướng về nơi có cái tên quen thuộc là Chợ Dầu. Yêu làng, ông yêu tất cả những thức thuộc về nơi ấy, yêu trong một niềm tự hào mãnh liệt vì mình là người dân làng Chợ Dầu. Ấy vậy mà, một hôn ông Hai chính tai nghe được tin làng theo giặc. Xét về mạt hiện thực, chi tiết này là rất hợp lý. Bởi lẽ, ai cũng biết trong những năm kháng chiến, để thực hiện chiêu bài tách quân ra khỏi dân, ví dân với quân như cá với nước, thực dân Pháp đã dùng mọi cách bắt bớ, đe dọa và lôi kéo nhân dân đứng về phía chúng. Tuy vậy, người nông dân đã bén rễ nội bộ rồi đốt làng, phá nhà người dân.

Trong tình huống này đã gây ra những mâu thuẫn giằng xé trong tâm trí ông lão đáng thương và đáng trọng ấy - tạo nên nút thắt cho câu chuyện. Chính bởi vậy mà tạo ra những điều kiện để thể hiện, bộc lỗ rõ tâm trạng và phẩm chất, tính cách của nhân vật thêm phần chân thực và sâu sắc nhất. Từ đó, góp phần giải quyết chủ đề chủ đề tác phẩm, đó là phản ánh và ca ngợi tình yêu làng, yêu nước chân thành, giản dị của những người nông dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Đồng thời cũng góp phần vào diễn biến và mạch phát triển câu chuyện.

Làng quê đối với người nông dân không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn của mỗi con người mà còn là nơi dù mỗi cá nhân có đi đến đâu cũng mong ngóng mỏi màn ngày để trở về với gia đình, người thân, bạn bè, láng giềng. Ở đó, bao nhiêu thế hệ đã được sinh ra và lớn lên, trưởng thành. Bao nhiêu cuộc đời đã hóa thành câu chuyện truyền tai nhau để viết nên những trang sử rất sống động. Người nông dân cũng vậy, họ bắt đầu tình yêu đất nước bằng tình yêu từ những thứ nhỏ bé, đơn sơ, thân thuộc xung quanh họ như từng cây cầu, mái rạ, yêu con đường đến trường, đình làng, bến nước. Thế đấy, tình yêu làng của ông Hai trước Cách mạng giản dị như tình yêu của một đứa con xa nhớ về người mẹ của mình, một tình yêu tôn sùng, có niềm tự hào xen lẫn có chút hồn nhiên. Mỗi khi kể về làng, ông khoe về cái sinh phần sừng sững ở cuối làng của viên tổng đốc làng ông, cho dù bản thân mình và nhiều người khác trong lòng đã phải khốn khổ vì cái sinh phần ấy.

Tuy vậy, tình yêu làng của ông Hai có sự chuyển biến mạnh mẽ kể từ sau Cách mạng. Khi ấy, làng Chợ Dầu trở thành làng kháng chiến. Ông Hai khoe làng ông có "những hố, những ụ, những giao thông hào", "có cái phòng thông tin tuyên truyền sáng sủa, rộng rãi nhất vùng, chòi phát thanh thì cao bằng ngọn tre, chiều chiều loa gọi cả làng đều nghe thấy". Quê hương được giải phóng, thoát khỏi ách cường hào phong kiến và bè lũ tay sai thực dân. Dân làng ông bắt đầu cuộc sống mới. Ông Hai no nức khi kể về những đêm rậm rịch tiếng bước chân của đoàn du kích tập quân sự, sáng, chiều râm ran tiếng trẻ em học bài...lại còn có cả những tiếng hát của thanh niên ngân vang trong những buổi cả làng bàn việc nước, việc dân. Như vậy, chúng ta có thể thấy được rõ ràng tình yêu làng của ông đã gắn với niềm vui của con người hòa vào cuộc sống kháng chiến dân tộc.

Vì quá yêu làng, nên ông Hai không hề muốn đi tản cư đến nơi khác. Chỉ vì hoàn cảnh bất đắc dĩ mà ông buộc phải xa làng, xa anh em, đồng chí. Nỗi khổ tâm này cũng nhiều lần khiến ông đau đáu về làng. Ấy vậy nên ông Hai cứ muốn nghe tin tức về làng, không chỉ riêng làng mình mà ông còn khao khát được nghe những tin thắng trận từ mọi miền đất nước. Như thế mới thấy được sự phát triển mạnh mẽ trong tình cảm và nhận thức của ông Hai nói riêng và người nông dân nói chung. Giờ đây, không những ông Hai yêu làng mà còn yêu cách mạng, yêu kháng chiến nữa. Từ miễn cưỡng thực hiện tản cư, đến yêu mến rồi nhiệt tình ủng hộ cách mạng, ủng hộ kháng chiến. Câu chuyện khoe làng cũng thế. Từ chuyện khoe làng, ông chuyển sang chuyện kháng chiến, chuyện đánh Tây. Tình yêu làng trong ông vẫn lớn, luôn được nhen nhóm nhưng giờ đây nó đã hòa quyện trong tình yêu cách mạng, yêu kháng chiến, tình yêu nước. Tình cảm cá nhân ông Hai đã hòa hợp với tình yêu tổ quốc. Yêu làng cũng là yêu nước. Tản cư nghĩa là ủng hộ cách mạng, nghĩa là ủng hộ sự nghiệp giải phóng đất nước mà ủy ban kháng hiến đã đề ra.

Để thấy rõ tình yêu làng của ông Hai, nhà văn đã đặc biệt miêu tả sự thay đổi trong nội tâm lẫn hành động trước và sau khi nghe được tin làng Chợ Dầu theo Tây. Trước khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông luôn nhớ mòng làng da diết, ước mơ lớn lao nhất đời ông có lẽ là được trở về làng, được trẻ lại, được tham gia kháng chiến. Như thế để cho thấy được rằng ông Hai là người rất có trách nhiệm với cuộc kháng chiến và tình cảm gắn bó máu thịt với quê hương. Công việc thường xuyên, đều đặn của ông là đến phòng thông tin để nghe ngóng tin tức. Dù không đọc giỏi nhưng ông vẫn vờ xem để bắt được ai đó có giọng đọc to mà nghe. "Một em nhỏ trong ban tuyên truyền xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm cắm quốc kỳ lên tháp Rùa" cũng đủ để làm ông tụ hào quá đỗi - "Đấy, cứ kêu chúng nó trẻ con mãi đi, liệu đã bằng chúng nó chưa?" "Một anh trung đội trường sau khí giết được bảy tên giặc đã tự sắt bằng một quả lựu đạn cuối cùng, Đội nữ du kích Trưng Trắc giả làm người đi mua hàng đã bắt sống một tên quan hai bốt Thao ngay giữa chợ". Những cái tin ấy càng làm đong đầy niềm tin của ông về ngày tất thắng của Cách mạng. "Chỗ kia phá đổ được một xe tăng và một xe díp". "Cứ thế, chỗ này giết một tí, tích tiểu thành đại làm gì mà rồi thằng Tây không bước sớm". Ruột gan ông lão cứ múa cả lên,vui quá! Ông lão náo nức bước ra khỏi phòng thông tin, rẽ vào quán dặn vợ mấy việc rồi đi thẳng ra lối huyện cũ. Sự chất phác và tình yêu ghét rạch ròi của người nông dân chân chất còn thể hiện ở chi tiết ông mong trời nắn nóng để "bỏ mẹ chúng nó".

Nhà văn thật tài tình khi đặt nhân vật của mình vào một tình huống éo le để bao nhiêu tâm sự, tình cảm cứ thể mà tuôn dào dạt. Khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc từ miệng những người từ dưới ấy lên, ông Hai sững sờ xấu hổ uất ức: "cổ ông lãn nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được". Khó mà có thể tin được điều ấy khi mà lòng ông còn mới ngập tràn những niềm vui thắng trận. Cảm xúc đột ngột tụt dốc, ông Hai cố trấn an bản thân nhưng rồi cũng phải chịu thua khi lời kể của những người tản cư khá rành rọt, chi tiết. Cảm giác hụt hẫng của ông như vừa tự mình đánh mất một điều gì đó lớn lao lắm. Phải chăng tình yêu làng đã quay lưng lại với ông để khiến ông nghẹn ngào, tủi hổ. Cảm giác của một tình yêu đã bị phụ rẫy, một niềm tin không hề lay động trước tin dữ ấy nhưng ông không thể đánh lừa được lòng mình. Cứ thế, ông Hai "cúi gằm mặt mà đi". Nỗi xấu hổ bủa vây lấy ông, nó xui bước bước chân ông không dam đi con đường nào khác là một mạch về nhà. Về đến nhà, ông nằm vật ra giường rồi tủi thân nhìn lũ con "nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con lang Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu....ông lão nắm chặt hai tay lại và rít lên". Từ nỗi hổ thẹn ông thấy nhục. Nhục vì mình mang bộ mặt của dân làng bán nước. Cả con mình cũng sẽ mang nỗi nhục ấy suốt đời. Nói một cách công bằng, dù làng chợ Dầu theo Tây thì cũng đâu phải lỗi của ông, lại càng không phải lỗi của các con ông. Dù biết là vậy nhưng ông Hai vẫn cảm thấy đau khổ, cảm giác tội lỗi như bản thân mình đã gây ra vậy. Điều đó cho thấy ông Gia đã tự nguyện gắn bó máu thịt với làng, lành là sinh mệnh, tình yêu làng là lẽ sống. Người nông dân không trực tiếp tham gia kháng chiến, chiến đấu nhưng vẫn một mực thủy chung với cách mạng, sự gắn bó bằng lòng tự trọng, không cần ai phải xua đuổi hay miệt thị, bản thân họ cũng tự giày vò chính mình "dẫu vì chính sách cụ Hồ, người ta chẳng đuổi đi nữa thì mình cũng chẳng còn mặt mũi nào đi đến đâu".

Kiểm điểm, liệt kê từng gương mặt, từng tính cách của mỗi người trong làng, ông Hai khó mà tin được rằng những anh em, đồng chí của mình lại có thể làm những việc xấu xa như vậy. Tuy nhiên, không có lửa thì làm sao có khói. Như ông nghĩ "ai người ta hơi đâu bịa tạc ra những chuyện ấy làm gì?". Với bản tính là một người thích đi và thường xuyên đi như ông mà suốt mấy ngày ông không dám đi đâu. Ông chỉ quanh quẩn ở nhà, nghe ngóng tình hình bên ngoài. "Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến cá chuyện ấy. Thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam - nhông... là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi! "

Trong gian nhà nhỏ giờ lại càng tăng thêm bầu không khí ngột ngạt vì những ý nghĩ rối tung trong đầu ông. Tiếng thở của ba đứa trẻ trong ánh đen vàng hiu như chính tương lại của gia đình ông Hai, bế tắc và tuyệt vọng. Ông không biết đi đâu, về làng thì không được, vì về làng lúc này đồng nghĩa với theo Tây, phản bội kháng chiến. Ở lại thì cũng không xong, vì mụ chủ nhà đã đánh tiếng xua đuổi. Còn đi thì biết đi đâu, bởi ai người ta chứa chấp dân làng Chợ Dầu phản bội. Nếu như trước đây, tình yêu làng và tình yêu nước hòa quyện trong nhau thì lúc này, ông Hai buộc phải có sự lựa chọn. Quê hương và Tổ quốc bên nào nặng hơn? Đó có thể nói rằng đây không phải là điều đơn giản vì với ông, làng Chợ Dầu đã trở thành một phần của cuộc sống, không dễ gì vứt bỏ; còn cách mạng là cứu cánh của gia đình ông, giúp cho gia đình ông thoát khỏi cuộc đồi nô lệ. Cuối cùng, ông đã đưa ra quyết định, đó là: "Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mắt rồi thì phải thù". Như vậy, tình yêu làng dẫn có thiết tha, mãnh liệt đến đâu cũng không thể mãnh liệt hơn tình yêu đất nước. Đó là biểu hiện vẻ đẹp trong tâm hồn của con người Việt Nam, khi cần họ sẵn sàng gạt bỏ tình cảm riêng tư để hướng tới tình cảm chung của cả cộng đông, của cả dân tộc.

Để vơi đi những tâm tư đè nặng và cũng để giải bày được tấc lòng thủy chung với Cách mạng, ông Hai đã có cuộc đối thoại, trò chuyện với đứa con út. Tuy bên ngoài là cuộc trò chuyện nhưng thực chất là cuộc độc thoại đầy xúc động. Một đứa trẻ lên ba không thể nào tự nói lên những điều như thế. Phải có một người cha, người bố như ông Hai - một người cha không chỉ truyền giọng điệu mình cho con tập nói mà còn là người cha truyền cho con tình yêu nước, tình yêu làng sâu đậm trong trái tim hồn nhiên, nhỏ bé: "Ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!". Đứa con gái nói cũng chính là nói hộ, nói thay tiếng lòng ông Hai. Dù có thế nào, ông vẫn một mực chung thủy, gắn bó với cách mạng, với cụ Hồ. Ở ông là một niềm tin sắt đá - niềm tin ấy đã phần nào giúp ông có thêm nghị lực để vượt qua khó khăn này. Do đó, chỉ có đứng trước nghịch cảnh, đối diện nỗi đau mới thấy tấm lòng người nông dân đối với cách mạng, đối với kháng chiến không bao giơ thay đổi, dù phải đau khổ tột cung nhưng nhất định vẫn giữ trọn vẹn lời thề.

May mắn cho ông Hai và cũng nhẹ nhõm cho cả người đọc khi nghe được tin lành chợ Dầu cải chính. Nối đau khổ của ông như được giải tỏa, bao niềm vui như nước lũ tràn về. Ông Hai cứ như tre ra "mồm bỏm bẻm nhai trầu, cặp mắt hung hung đỏ, hấp háy", ông hai có khác nào được hồi sinh. Ông "bô bô" khoe với mọi ngươi về cái tin làng ông bị đốt nhẵn, nhà ông bị đốt nhẵn. Nội dung lời khoe của ông có vẻ vô lý, bởi không ai có thể vui mừng trước cảnh làng, nhà của mình bị giặc tàn phá. Nhưng trong tình huống này thì điều vô lý ấy lại rất dễ hiểu: sự mất mát về vật chất ấy chẳng thấm vào đâu so với niềm vui tính thần mà ông đang được đón nhận. Nhà văn đã tỏ ra rất sắc sảo trong việc nắm bắt và miêu tả diễn biến tâm lí của người nông dân. Họ rất yêu làng. Nhưng họ cũng hiểu được rằng một khi nước mất nhà tan, cái làng cái nhà còn hay mất không quan trọng bằng nước mất hay còn. Chỉ cần còn tấm lòng con người theo cách mạng, còn kháng chiến thì còn nhà, còn làng. Vì Tổ quốc, vì đất nước họ sẵn sàng hy sinh tất cả dù đó là tài sản hay cả tính mạng của mình. Từ một người nông dân yêu làng, ông Hai trở thành người công dân nặng lòng với kháng chiến. Tình yêu làng, yêu nước đã hòa làm một trong ý nghĩa tình cảm việc làm của ông Hai. Tình cảm ấy thống nhất, hòa quyện như tình yêu nước được đặt cao hơn, lớn rộng lên tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tính thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp.

Tóm tại, tác phẩm Làng của Kim Lân nổi bật với tình huống truyện có tính căng thẳng, thử thách, cốt truyện chú trọng vào các tình huống bên trong nội tâm nhân vật, kết hợp với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tự nhiên mà sâu sắc, tinh tế. Ngôn ngữ đặc sắc, sinh động mang đậm chất khẩu ngữ gắn liền với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người nông dân. Truyện thể hiện chân thực, sinh động tành cảm yêu làng quê thống nhất với lòng yêu đất nước ở nhân vật ông Hai. Đồng thời giúp chúng ta hiểu, yêu mến và khâm phục biết nhường nào những người nông dân giản dị, mộc mạc mà lại có một tình yêu nước vô cùng tha thiết, cao cả.

2) Phân tích truyện ngắn “Ông lão bên chiếc cầu” của Ơ-nít Hê-minh-uê

Chiến tranh là một đề tài lớn trong nền văn học thế giới. Những câu chuyện về chiến tranh và con người trong chiến tranh luôn khiến không chỉ các nhà văn mà cả người đọc phải trăn trở và suy tư. Những nhà văn lớn của thời đại, ai cũng ít nhiều từng đặt bút viết về đề tài này, và Hê-minh-uê không nằm ngoài vòng xoay đó. Tuy không trực tiếp viết về chiến trường khói lửa, nhưng truyện ngắn “Ông lão bên chiếc cầu” của ông vẫn khiến người đọc cảm nhận được sâu sắc những nỗi đau mà con người phải gánh chịu trong chiến tranh.

Truyện ngắn “Ông lão bên chiếc cầu” lấy chủ đề về tình cảm của con người trong chiến tranh. Nhưng điều đặc biệt trong câu chuyện này, là tác giả không xoay quanh tình cảm giữa con người với con người, mà là giữa con người và loài vật. Trong bối cảnh đất nước Tây Ban Nha diễn ra nội chiến, đồng thời phải đối mặt với sự tấn công của Phát-xít, thì thị trấn của ông lão trong câu chuyện đang phải đếm ngược dần những ngày bình yên cuối cùng. Người dân trong thị trần đã kéo nhau rời đi hết, chỉ còn lại ông lão bám trụ đến cuối cùng. Điều khiến ông không nỡ rời đi chính là những con vật mà ông nuôi suốt thời gian qua. Tuy chỉ là những con vật nhỏ bình thường, không đắt đỏ hay sang quý, nhưng ông lão vẫn yêu thương, chăm sóc chúng chu đáo, xem chúng như gia đình của mình. Chiến tranh ập đến, khiến ông không thể không bỏ các vật nuôi lại và rời đi để bảo toàn mạng sống của mình. Nhưng ông đã cố gắng kéo dài thời gian đó đến khi không thể cố được nữa mới rời đi. Tình huống truyện mà Hê-minh-uê đặt ra ở đây chính sự xuất hiện của chiến tranh và bạo loạn, khiến con người phải bộc lộ ra những tình cảm chân thật nhất. Và ở đây, ông lão đã thể hiện cho độc giả một trái tim giàu lòng yêu thương ấm áp.

Khi nhân vật tôi gặp được ông lão, ông ấy đang ngồi bên một cây cầu để nghỉ chân sau những ngày chạy nạn. Hình ảnh ông lão già nua ăn mặc bẩn thỉu, ngồi im bên vệ đường, khuôn mặt xám xịt khiến nhân vật tôi và cả người đọc đều thương xót vô cùng. Qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi với ông lão, nhân vật tôi được biết về những con vật nuôi của ông, biết về quê hương mà ông luôn trăn trở. Hiểu và cảm nhận được trái tim ấm áp của ông, nhân vật tôi đã khuyên ông nên đứng dậy và tiếp tục chạy đến nơi an toàn. Nhưng ông lão thì lại không muốn như thế. Có lẽ là bởi ông đã quá kiệt sức sau những ngày chạy nạn. Nhưng hơn hết, có lẽ mọi niềm vui, hạnh phúc, mọi nghị lực, mục đích sống của ông vẫn còn đang kẹt lại ở quê nhà, nơi ông sống cả cuộc đời mình hơn 70 năm, nơi có những con vật nuôi mà ông để lại không rõ có thể sống sót hay không. Sự nhớ nhung, lo lắng ấy giằng xé trong tâm can của ông lão, khiến cơ thể của ông tê liệt, không thể tiếp tục tiến về phía trước được nữa. Lý trí và tình cảm của ông chia thành hai chiến tuyến. Một nửa thôi thúc ông đứng dậy tiếp tục đi về phía trước để tiếp tục được tồn tại. Nửa kia gọi ông buông xuôi tất cả để trở về nhà, trở về với những con vật thân yêu của mình. Thật đáng cay thay khi một ông già ở tuổi ngoài 70 lại chịu cảnh tứ cố vô thân, không có người thân, bạn bè, không có nhà và chẳng có quê hương. Ngay cả những con vật nuôi nhỏ bé mà ông chăm bẵm giờ đây cũng chẳng thể bảo vệ được. Tình cảnh đắng cay, chua xót ấy của ông lão khiến em vô cùng thương cảm. Cùng với đó là sự căm giận với những cuộc chiến tranh vô nghĩa, thù giận với những kẻ phát động chiến tranh chỉ để thỏa mãn ham muốn cá nhân, mặc kệ người dân sống trong địa ngục. Có lẽ đó cũng chính là điều mà Huê-minh-uê mong muốn khi viết nên truyện ngắn này. Ông ấy muốn mượn ngòi bút của mình để đánh thức trong lòng người đọc sự thương cảm trước số phận bất hạnh của những người dân thường trong chiến tranh cùng sự căm phẫn, phê phán chiến tranh vô nghĩa trên thế giới. Chính điều đó đã làm nên giá trị nhân đạo cao cả cho truyện ngắn này.

Nhưng để làm nên thành công của “Ông lão bên chiếc cầu”, chúng ta không thể không nhắc đến những đặc sắc nghệ thuật mà Hê-minh-uê sử dụng. Đầu tiên, chính là hình ảnh biểu tượng “cây cầu” hiện diện xuyên suốt trong tác phẩm. Chiếc cầu đó là ranh giới giữa hòa bình và chiến loạn, giữa nơi an toàn và chiến trường, giữa quê hương yêu dấu của ông lão và vùng trời xa lạ ông bị dồn bước đến. Cây cầu đó nhỏ bé, ngắn ngủi và có thể đập tan bất cứ lúc nào, giống như an toàn của người dân luôn bị đe dọa. Bởi vậy mà nhân vật tôi luôn đốc thúc ông lão đứng dậy và rời đi thật nhanh. Cùng với đó, ngôn ngữ đối thoại giữa hai nhân vật cũng là một điểm sáng nghệ thuật không thể bỏ qua. Các câu hội thoại ngắn gọn, súc tích, sử dụng nhiều câu rút gọn, khiến cuộc trò chuyện diễn ra nhanh và vội vã, đúng với bầu không khí nghẹt thở khi sắp có giao tranh xảy ra. Từ đó góp phần tạo nên bầu không khí căng thẳng cho câu chuyện. Đặc biệt, tuy chỉ là hai người xa lạ, nhưng lời đối thoại giữa nhân vật tôi và ông lão lại ăn ý đến lạ. Họ thấu hiểu và trò chuyện với nhau tự nhiên, thân thiết như hai người bạn lâu ngày gặp lại. Tình tiết đó giúp cho ông lão bộc lộ được những cảm xúc và suy nghĩ bên trong trái tim cằn cỗi bi thương của mình.

Có thể nói, truyện ngắn “Ông lão bên chiếc cầu” là một truyện ngắn đặc sắc của Hê-minh-uê về đề tài con người trong chiến tranh. Tuy xuyên suốt câu chuyện không có sự hi sinh nào diễn ra, nhưng người đọc vẫn cảm nhận được sự đau đớn, mất mát của nhân vật do trận chiến vô nghĩa đó gây ra. Thành công của tác phẩm này chính là hình tượng con người giàu tình yêu thương, quan tâm dành cho những người xa lạ quanh mình và cả những con vật nhỏ bé. Sự lương thiện ấy như ngọn lửa bừng sáng lên trong con đường tăm tối của chiến tranh, loạn lạc.

d) Kiểm tra và chỉnh sửa

Tham khảo các yêu cầu đã nêu ở bài 1, phần Viết, muc d (trang 25,26) và đối chiếu với dàn ý đã làm ở bài này.

2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: Miêu tả và tự sự trọng văn thuyết minh.

a) Cách thức

Nhân vật là yếu tố quan trọng giúp nhà văn thể hiện chủ đề của tác phẩm truyện. Vì vậy, khi phân tích một tác phẩm truyện, cần quan tâm đến việc tìm hiểu nhân vât. Để phân tích nhân vật, cần xác định các chi tiết nhà văn sử dụng để thể hiện nhân vật như ngoại hình, hành động, suy nghĩ, lời nói, mối quan hệ với các nhân vật khác,… từ đó, khái quát về đặc điểm của nhân vật (ví dụ đặc điểm về số phận, tính cách,…), về nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả, về tác dụng thể hiện chủ đề của nhân vật được phân tích,… Có thể lựa chọn để liên hệ, so sánh với nhân vật trong các tác phẩm văn học khác để nhận ra điểm gặp gỡ và khác biệt. Cần kết hợp linh hoạt giữa lí lẽ và bằng chứng, giữa phân tích và đánh giá, nhận xét, giữa nội dung khách quan về nhân vật và cảm nhận chủ quan của người viết về nhân vật đó.

Ví dụ dưới đây là đoạn văn phân tích nhân vật lão Hạc trong truyện ngắn Lão Hạc của Nam Cao.

Đoạn văn

Chức năng của câu văn

(1) Lão hiện ra tự nhiên quá đỗi, cứ như thấy thế nào tả thế ấy, chắng gia công sắp đặt, bài binh bố trận gì. (2) Mà chắp nối từ toàn những chuyện không đâu vào đâu: nào là đắn đo về bán hay không bán con chó vàng và mảnh vườn, chuyện ốm đau tiêu lạm vào số tiền góp nhặt, chắt bóp, dành dụm được, nào là chuyện thằng con đi xa có đến hàng năm chẳng thấy giấy má gì,… được kể nhân lúc hút thuốc lào vặt của hai ông hàng xóm, thế thôi. (3) Ấy thế những, lão hiện lên là nhờ một chùm tương quan được giấu kím trong cái mạch đầy vẩn vơ, tuỳ tiện ấy, tựa như một “hệ vi mạch” bí mật và hoàn hảo. (4) Mỗi tương quan là mỗi luồng sáng, chúng hội tụ về từ khắp phía giúp nhà văn làm rạng ngời lên chân dung lão Hạc. […] (5) Từ tấm lòng của lão Hạc dành cho đữa con trai duy nhất, Nam Cao đã nhìn thấy ở người cha xác xơ còm cõi này một tình phụ tử nguyên sơ và vĩnh cửu. (6) Không phải lão không biết quý sinh mệnh của mình. (7) Tuy nhiên, có một thứ lão còn quý hơn: Ấy là đạo làm người, làm cha! (8) Đối với lão, sống dường như có một ý nghĩa: sống cho con! (9) Hoàn cảnh cùng cực đẩy lão đến trước một lựa chọn nghiệt ngã: muốn sống thì phải lỗi đạo làm cha (phải xâm phạm mảnh vườn – tài sản duy nhất đáng giá mà lão đêm ngày gìn giữ để bù trì tạo lập cho giọt máu duy nhất mình để lại chơ vơ trên cõi đời này), còn muốn trọn đạo làm cha thì phải chết. (10) Và lão đã quyên sinh. (11) Cái chết của lão khiến ta đau đớn nhận ra tình phụ tử mộc mạc ấy mới thăm thẳm và thiêng liêng làm sao! (12) Nó xui ta nhớ đến cha con Chử Cù Vân và Chử Đồng Tử. (13) Người cha hấp hối cứ một mực dành cho con cái khố độc nhất, còn mình thì chết có vùi không trong đất lạnh cũng xong! (14) Thì ra cái dòng máu ấy vẫn chảy âm thầm và bền bỉ trong trái tim mỗi người cha Việt Nam suốt mấy nghìn năm nay, nó là vẻ đẹp bất diệt của dân tộc này.

(Theo Chu Văn Sơn, Nghệ thuật văn xuôi của truyện ngắn “Lão Hạc” , in trong Tiếng nói tri âm, tập II, NXB Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh, 1996)

(1) Nêu nhận xét ban đầu về nhân vật.

(2) Nêu bằng chứng từ các chi tiết trong tác phẩm.

(3), (4): Nêu nhận xét, phát hiện mới về nhân vật: Lão Hạc hiện lên nhờ chùm tương quan được giấu kín như một “hệ vi mạch” bí mật và hoàn hảo.

(5), (6), (7), (8), (9), (10), (11): Phân tích, bình luận về tình phụ tử sâu sắc của nhân vật Lão Hạc từ mối tương quan với người con trai duy nhất.

(12), (13): Liên hệ với tác phẩm văn học khác.

(14) Đánh giá, khái quát hoá về tình phụ tử của nhân vật.

b) Bài tập (trang 105 sgk Ngữ Văn lớp 8 Tập 1): Viết một đoạn văn (khoảng 10 – 12 dòng) phân tích tâm trạng của ông Hai khi trò chuyện với bé Húc trong truyện ngắn Làng của Kim Lân.

Trả lời:

Trong truyện ngắn Làng của Kim Lân, khi trò chuyện với bé Húc, ông Hai bộc lộ một tâm trạng đầy mâu thuẫn và đau khổ. Sau khi nghe tin làng Chợ Dầu theo giặc, ông Hai cảm thấy tủi hổ, lo sợ bị khinh rẻ và không biết dựa vào đâu. Trò chuyện với đứa con nhỏ ngây thơ, ông Hai như tự giãi bày nỗi lòng mình. Ông muốn con nhớ rằng nhà mình ở làng Chợ Dầu – một ngôi làng yêu nước, dù làng có bị hiểu lầm. Qua những lời tâm sự ấy, ông cũng tự khẳng định lòng trung thành với cách mạng và Bác Hồ. Ông cầu mong mọi người hiểu cho nỗi oan ức của mình, mong Cụ Hồ và cách mạng thấu hiểu lòng thành của ông. Tâm trạng ấy vừa đau đớn, vừa chất chứa niềm tin và hy vọng.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 9 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Kiến thức ngữ văn trang 76

Làng

Ông lão bên chiếc cầu

Thực hành tiếng Việt trang 90

Thực hành đọc hiểu: Chiếc lược ngà

Chiếc lá cuối cùng

Nói và nghe: Thảo luận về một vấn đề đáng quan tâm trong đời sống

Tự đánh giá: Những con cá cờ

Hướng dẫn tự học trang 112

1 1,149 01/12/2024