Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ (trang 23) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều
Với soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ trang 23 Ngữ văn lớp 9 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 9.
Soạn bài Phân tích một tác phẩm thơ
1. Định hướng
1.1. Phân tích một tác phẩm thơ là kiểu bài đã được học ở lớp dưới. Yêu cầu phân tích một tác phẩm thơ ở đây gắn với ngữ liệu các bài đọc hiểu về thơ và thơ song thất lục bát, vì thế, các em cũng cần xem lại những văn bản thơ đã đọc hiểu trong Bài 1.
1.2. Để viết bài văn phân tích một tác phẩm thơ, các em cần chú ý:
– Đọc kĩ bài thơ, chú ý đặc điểm thể loại, tác giả và hoàn cảnh ra đời (nếu cần thiết) của tác phẩm.
– Phân tích nội dung và các yếu tố hình thức nghệ thuật nổi bật của bài thơ. Chỉ ra mối quan hệ giữa hình thức và nội dung; từ đó, làm rõ giá trị của các yếu tố hình thức trong việc thể hiện nội dung, chủ đề của tác phẩm.
– Thực hiện các bước viết bài văn theo quy trình bốn bước: chuẩn bị, tìm ý và lập dàn ý, viết, kiểm tra và chỉnh sửa.
– Suy nghĩ, nhận xét về ý nghĩa, giá trị và sự tác động của tác phẩm đối với người đọc cũng như với cá nhân em.
2. Thực hành
Bài tập (trang 24 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến.
a. Chuẩn bị
– Đọc kĩ đề bài, xác định các yêu cầu cần thực hiện.
– Xem lại kiến thức ngữ văn về thể thơ song thất lục bát, nội dung đọc hiểu bài thơ Khóc Dương Khuê của Nguyễn Khuyến; liên hệ với những bài thơ viết về tình bạn thắm thiết, thuỷ chung.
– Xác định luận đề và các luận điểm trong bài viết, lựa chọn bằng chứng từ bài thơ cho mỗi luận điểm.
b. Tìm ý và lập dàn ý
– Tìm ý cho bài viết bằng cách đặt và trả lời các câu hỏi sau:
+ Hoàn cảnh ra đời, đề tài và chủ đề của bài thơ Khóc Dương Khuê là gì?
+ Nghệ thuật của bài thơ Khóc Dương Khuê có gì đặc sắc?
+ Các yếu tố hình thức nghệ thuật ấy đã làm nổi bật chủ đề bài thơ như thế nào?
+ Qua bài thơ Khóc Dương Khuê, em có thể nhện xét gì về tình cảm và thái độ của tác giả đối với người bạn của mình?
+ Có thể học được gì về tình bạn từ bài thơ Khóc Dương Khuê?
…
– Lập dàn ý bằng cách sắp xếp các ý đã tìm được theo bố cục ba phần:
Mở bài: Giới thiệu khái quát về đề tài và giá trị của bài thơ Khóc Dương Khuê.
Thân bài:
Có thể nêu các ý theo trình tự sau:
+ Nêu hoàn cảnh ra đời và sự kiện tạo ra nguồn cảm xúc cho tác giả viết bài thơ.
+ Nêu chủ đề của bài thơ.
+ Phân tích các yếu tố hình thức và tác dụng của chúng trong việc biểu đạt nội dung bài thơ.
+ So sánh với một số bài thơ viết về cùng đề tài (nếu có) để làm rõ sự độc đáo của bài Khóc Dương Khuê.
Kết bài: Khái quát giá trị bài thơ và nêu tác động của bài thơ này đối với cá nhân em.
c. Viết
Dựa vào dàn ý đã làm để viết bài nghị luận phân tích bài thơ Khóc Dương Khuê. Trong khi viết, chú ý vận dụng cách so sánh trong phân tích thơ.
d. Kiểm tra và chỉnh sửa
- Đọc lại bài văn đã viết
- Việc kiểm tra, chỉnh sửa cần chú ý những yêu cầu chung sau đây:
Phương diện kiểm tra |
Câu hỏi kiểm tra |
Nội dung |
Mở bài: Đã giới thiệu khái quát nội dung văn bản chưa? (Ở bài viết này là giới thiệu khái quát về bài thơ Khóc Dương Khuê) Thân bài: + Có nêu được các nội dung cụ thể làm rõ cho luận đề đã nêu ở mở bài không? (Ở bài viết này luận đề cần làm rõ là tình cảm sâu nặng của tác giả đối với người bạn của mình qua bài thơ Khóc Dương Khuê) + So với dàn ý, bài viết còn thiếu ý nào? Các ý có được sắp xếp phù hợp không? Ý nào trong bài trùng lặp nhau? + Có nêu được các lí lẽ và bằng chứng tiêu biểu, thuyết phục không? + Đã kết hợp được các phương thức biểu đạt và các thao tác khác trong khi viết hay chưa? (Ở bài viết này là kết hợp phân tích với giải thích, chứng minh, so sánh, biểu cảm...) + Có nêu được những suy nghĩ và cảm xúc riêng của người viết không? Kết bài: Đã khái quát, tổng hợp vấn đề được trình bày chưa? (Ở bài viết này là những suy nghĩ và cảm xúc của bản thân về nội dung và nghệ thuật của bài thơ.) |
Hình thức |
+ Bài viết đã có đủ ba phần chưa? Độ dài của các phần có cân đối không? + Bài viết còn mắc những lỗi gì về trình bày, trích dẫn, dùng từ, đặt câu, chính tả...? |
Đánh giá chung |
+ Bài viết đáp ứng yêu cầu ở mức độ nào? + Em thấy thuận lợi hoặc khó khăn nhất khi viết phần nào? Vì sao? + Ưu điểm nổi bật của bài viết là gì? |
* Bài văn tham khảo:
Xưa nay trong nhân thế, tình bạn vốn là một thứ tình cảm gắn bó khăng khít, mang ý nghĩa vô cùng cao đẹp. Chính vì vậy, có rất nhiều nhà văn, nhà thơ đã lấy tình bạn làm đề tài sáng tác cho các tác phẩm của mình. Trong đó phải kể đến bài thơ song thất lục bát “Khóc Dương Khuê” của nhà thơ Nguyễn Khuyến. Một bài thơ với giọng điệu buồn bã, nhớ thương, kết hợp hài hòa, tinh tế giữa sự giản dị, dân dã với uyên bác, tài hoa đã thể hiện sâu sắc tình bạn chân thành, sâu nặng, của tác giả với người bạn tri âm, tri kỉ của mình.
Xét cho cùng, tình bạn giữa hai người Nguyễn Khuyến và Dương Khuê vốn không phải là một tình bạn thật hoàn toàn như ý. Tuy đỗ cử nhân cùng khoa thi với Nguyễn Khuyến, rồi đỗ tiến sĩ, cùng làm quan cho triều Nguyễn, nhưng sau năm 1884, năm đất nước thật sự mất vào tay thực dân Pháp, Dương Khuê lại không có được cái chí như Nguyễn Khuyến. Không cáo quan về làng, Dương Khuê tiếp tục làm quan cho triều đình tay sai thực dân cho đến tận lúc qua đời ở tuổi 64 (1902).
Tuy vậy, nói thế là để nhìn rõ hết mọi chuyện. Người Việt Nam ta vẫn có câu: nghĩa tử là nghĩa tận. Cái chết đột ngột của Dương Khuê đã thật sự li: một nỗi đau cho Nguyễn Khuyến. Lúc ấy, quên hết mọi điều, ông chỉ còn biết một điều duy nhất: ông đã mất một người bạn thân, mất một nguồn tình cảm quý giá không thế lấy gì thay thế được. Lúc ấy, tự đáy lòng, từ một tình bạn mà hình như chính ông cũng không thể đo lường hết chiều sâu, Nguyễn Khuyến đã chợt kêu lên những tiếng kêu thảng thốt:
Bác Dương thôi đã, thôi rồi,
Nước mây man mác, ngậm ngùi lòng ta.
Hầu như không có một chút văn chương chữ nghĩa nào trong hai dòng thơ trên, đặc biệt là dòng thơ thứ nhất. Chỉ có nỗi đau, nỗi đau chân thành, trọn vẹn, tự mình thể hiện ra thành lời. Hai tiếng “thôi” dân dã và tự nhiên, cứ như bật lên từ lời nói của một người dân quê bình dị nào đó.
Đặt câu thơ này vào trong hoàn cảnh xã hội mà sự “cao nhã“ luôn luôn được coi là một yêu cầu hàng đầu của văn chương, ta càng thấy ở đây sự chân thành được nhà thơ coi trọng đến chừng nào. Nói đến cái chết, ông không dám động đến từ “chết”. Trời đất cao dày ơi lẽ nào chuyện ấy đã đến thật rồi sao? “Thôi đã... thôi rồi”! Thế là hết! Thật thế rồi! Một kẻ quyền quý ngày xưa khi lỡ tay làm rơi mất viên ngọc lưu li độc nhất vô nhị trong thiên hạ, có lẽ cũng chỉ kêu lên đau đớn đến như thế là cùng. Không đau nỗi đau thật, làm sao có thể khóc một tiếng khóc thật như thế được.
Có điều là, với nỗi đau, Nguyễn Khuyến không thét lên, tiếng khóc của người là khóc với mình, khóc cho tự mình nghe, tiếng khóc lắng vào lòng. Tâm hồn vốn giản dị, ông chúa ghét sự ồn ào. Lúc này ông muốn ngồi một mình, đối diện với bạn, cùng nhắc lại tình bạn, cùng bạn ôn lại những gì đã từng có giữa hai người. Đã có bao nhiêu là kỉ niệm. Từ những ngày tưởng đã rất xa xôi:
Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,
Những sớm hôm tôi bác cùng nhau,
Kính yêu từ trước đến sau,
Trong khi gặp gỡ biết đâu duyên trời
Đó là kỉ niệm khi hai người vừa mới lần đầu gặp nhau trong khoa thi Hương và cùng thi đỗ. Nguyễn Khuyến quê ở Bình Lục, Hà Nam, Dương Khuê quê ở Vân Đình, Hà Đông, hai người vốn chẳng quen biết gì nhau. Thế mà, cứ như duyên trời định sẵn, tình bạn đã bắt đầu gắn bó từ đây.
Chữ nghĩa của Nguyễn Khuyến sao mà bình dị đến thế, nôm na, thân mật đến thế! Nào là “lúc sớm hôm”, rồi là "tôi bác", với những “cùng nhau”... Nhà thơ cũng xác định cái nhìn đầu tiên của mình về người bạn: đó là lòng kính yêu trọn vẹn, “kính yêu từ trước đến sau". Cùng với giọng kể lể chân thành như thế, nhà thơ nhắc lại với bạn về những kỉ niệm khác:
Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,
Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,
Có khi từng gác cheo leo,
Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.
Kỉ niệm giữa đôi bạn như thế quả là rất nhiều, rất đậm. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thư như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi.
Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Có người sẽ hỏi: nhà thơ Nguyễn Khuyến mà cũng đi hát ả đào sao? Thì có gì đâu mà nhà thơ không đi hát ả đào! Hát ả đào là một thú vui trong xã hội phong kiến. Có lúc thú vui này bị người ta lợi dụng (thì trên đời thiếu gì điều tốt đẹp bị người ta lợi dụng).
Tuy vậy, đối với đa số nhà Nho, đó lại là nơi để thưởng thức cái đẹp của lời ca, tiếng hát, tiếng đàn, cũng là nơi di dưỡng tâm hồn sau những tháng ngày gò mình trong khuôn khổ của chốn công danh, vốn được sáng tác để cho các đào nương hát lên đó sao?
Nguyễn Khuyến không có những bài thơ như vậy, nhưng rõ ràng là ông đã không thể quên “thứ vui con hát”, bởi đó là thú vui được “lựa chiều cầm xoang”, trải lòng mình theo tiếng đàn, tiếng hát. Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:
Cũng có lúc rượu ngon cùng nhấp,
Chén quỳnh tương ăm áp bầu xuân,
Có khi bàn soạn câu văn,
Biết bao đông bích, điển phần trước sau.
Nói về việc cùng bạn uống rượu mà nhà thơ dùng từ "nháp”, lại “cùng nháp” thì thật chính xác và tinh tế, bởi đây là việc uống rượu của người “uống cho vui”, chứ không phải kiểu uống của các bợm rượu. Nhà thơ có lần đã tự nói về khả năng uống rượu của mình:
Rượu tiếng rằng hay, hay chả mấy
Độ năm ba chén đã say nhè.
(Thu ẩm)
Chén các cụ dùng uống rượu ngày xưa là loại chén rất nhỏ, thường được gọi là “chén hạt mít”. Nói “nhấp” tức là uống từng hớp nhỏ, như chỉ vừa chạm môi vào, vừa uống vừa ngẫm nghĩ, vừa uống vừa thưởng thức cái vị đậm, cái mùi thơm của rượu. Rượu uống chỉ như thế nhưng lại “ăm áp bầu xuân”.
Bầu xuân này là bầu rượu và cũng là “bầu thơ“, bầu rượu đầy cho bầu thơ càng thêm lai láng. Hai tiếng “ăm ắp” mà nhà thơ dành cho bầu xuân” thật gợi cảm và sảng khoái. ‘‘Người thanh cái tiếng cũng thanh”, đến cách chơi cũng cho ta biết được bản chất con người, không phải bất kì ai cũng có được cái “rượu ngon cùng nhấp” ấy, nhất là cái căm nhận “ăm áp bầu xuân” ấy.
Thật là những ngày vui. Nhưng cũng có những ngày buồn, rất buồn. Đó là những ngày nước mất. Là nhà Nho, cùng phụng sự cho một triều đại, đôi bạn cùng chung chia sẻ nỗi đau của thời đại mình:
Buổi dương cửu cùng nhau hoạn nạn
Phận đấu thăng chẳng dám than trời
Bác già, tôi cũng già rồi
Biết thôi thôi thế thì thôi mới là!
Những câu thơ của Nguyễn Khuyến đọc lên nghe thật buồn bã, ngao ngán. Nói “buổi dương cửu” để chỉ thời kì loạn lạc khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhà thơ coi đó như là một vận hạn mà đất nước và con người phải trải qua. Không làm gì được trước vận hạn ấy, nhà thơ chỉ còn một cách lựa chọn là rời bỏ công danh, chẳng còn dám tham cái lộc trời “thăng đấu” của kẻ làm quan. Nhà thơ nói như một kẻ an phận mà nghe ra thật đau đớn.
Ông cảm thấy mình bất lực, cảm thấy mình đã già. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ "thôi” trùng điệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: Biết thôi - thôi - thế thì thôi. Đúng là tâm trạng của nhà thơ khi cáo quan về làng và cho đến cả những năm sau này: đau buồn trước cảnh nước mất nhưng không có thể làm gì cho đất nước ngoài việc từ quan để khỏi làm việc cho kẻ thù.
Qua 16 dòng thơ, Nguyễn Khuyến đã nhắc lại một cách cô đọng và đầy đủ về mối quan hệ bạn bè giữa đôi bạn Nguyễn Khuyến - Dương Khuê, đặc biệt là độ sâu, độ bền của tình bạn đó. Những kỉ niệm đã được nhà thơ nói tới một cách giản dị nhưng đầy trân trọng. Nhắc lại những kỉ niệm ấy, ôn lại và ngẫm nghĩ về tình bạn ấy, nhà thơ cảm thấy nỗi đau mà mình phải chịu hôm nay thật là một điều vô lí. Ông chưa bao giờ hình dung ra sự mất mát có thể xảy đến vào lúc này. Nhà thơ nhớ lại:
Muốn đi lại tuổi già thêm nhác
Trước ba năm gặp bác một lần
Cầm tay hỏi hết xa gần
Mừng rằng bác hãy tinh thần chưa can.
Xét về mặt văn chương, bốn dòng thơ trên không phải là những câu thơ thật mới lạ sắc sảo, bởi những câu thơ ấy sao mà nôm na bình thường, nào là “tuổi già thêm nhác”, rồi lại “hỏi hết xa gần”, với lại “tinh thần chưa can”, cứ như lời lẽ của một ông lão quê mùa nào đó ở vùng đất Hà Nam. Thì đúng vậy, Nguyễn Khuyến có làm văn chương đâu, ông chỉ bộc lộ nỗi niềm của mình! Nhà thơ còn tự mình lí sự với mình:
Kể tuổi tôi còn hơn tuổi bác
Tôi lại đau trước bác mấy ngày
Làm sao bác vội về ngay
Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời!
Chỉ khi người ta đau đớn thật lòng, người ta mới có kiểu lí sự như vậy. Như thế có khác gì nói rằng: Tại sao bác lại chết trước tôi nhỉ? Người chết trước lẽ ra phải là tôi chứ? Chính từ những lí sự này, mấy tiếng cuối cùng của đoạn thơ nổi lên thật chân thành và ai oán: Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời! Trước nỗi đau đã là sự thật, nhà thơ đành chấp nhận nỗi đau và càng thấy điều này là thật vô lí:
Ai chẳng biết chán đời là phải
Vội vàng chi đã mải lên tiên
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua.
Cái chết là một quy luật không ai có thể phủ nhận được. Tuy vậy, trong trường hợp này, Nguyễn Khuyến vẫn tìm thấy sự vô lí: Cái chết của người bạn đã đến một cách vội vã quá, nó cướp mất của ông một người bạn hiền và như thế, cũng cướp mất của ông tất cả mọi niềm vui. Câu thơ của ông nói về trường hợp riêng của mình, nghe thật giản dị mà vang lên như một chân lí về tình bạn đích thực ở đời:
Rượu ngon không có bạn hiền
Không mua không phải không tiền không mua
Trong hai dòng thơ, từ “không” xuất hiện đến năm lần như những cái lắc đầu buồn bã. Không còn bạn, không còn thiết uống rượu, bởi không còn người để chia sẻ vị ngon của rượu. Không còn bạn, không còn hứng thú làm thơ, bởi vì sao?
Câu thơ nghĩ đắn đo muốn viết
Viết đưa ai, ai biết mà đưa?
Lắc đầu bằng những tiếng “không”, đến đây nhà thơ tiếp tục lắc đầu bằng những câu hỏi. Hỏi cũng là để nói “không”. Thơ viết ra mà không có người thưởng thức được, cảm thông được, thì còn viết làm gì? Âm “iết” láy đi láy lại trong hai dòng thơ, rồi hai tiếng “ai”, hai tiếng “đưa” trung điệp (đưa ai - ai biết - mà đưa) cứ mở ra, khép lại, rồi lại mở ra, như một nỗi day dứt khôn nguôi.
Nhà thơ nghĩ đến những mối tình bạn mà sách vở xưa kia đã từng ca ngợi, coi như tuyệt đỉnh của tình bạn: Trần Phồn đời Hậu Hán sau khi bạn ra về thì treo giường lên, không để cho ai ngồi vào cái giường chỉ dành riêng để tiếp bạn; Bá Nha sau khi Chung Tử Kì chết thì quyết bỏ không chơi đàn bởi thấy không còn ai hiểu được tiếng đàn. Ông thấy mối tình giữa ông với Dương Khuê chính là một tình bạn như thế; sự mất mát của ông sau cái chết của Dương Khuê đúng là sự mất mát như thế:
Giường kia treo cũng hững hờ
Đàn kia gẩy cũng ngẩn ngơ tiếng đàn
Có thể lấy gì để bù đắp vào sự mất mát này không? Nhà thơ đã khẳng định rằng không. Chỉ còn một cách, như người ta vẫn thường làm, là tìm cho mình một cách an ủi. Rằng người chết không còn có thể sống lại được, rằng nước mắt xót thương cũng sẽ chẳng giúp được gì... Nguyễn Khuyến muốn dùng cái lẽ thường ấy của đời sống để tự an ủi mình:
Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở
Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương
Nhà thơ còn tự khuyên bảo mình:
Tuổi già hạt lệ như sương
Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan!
Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu rằng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.
Bài thơ được viết bằng ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, chân thành kết hợp với sự tài hoa, uyên bác qua các điển cố, điển tích đã thể hiện trọn vẹn cảm xúc đau đớn, xót xa, bàng hoàng của nhà thơ trước sự ra đi đột ngột của bạn. Thể thơ song thất lục bát xen kẽ từng cặp câu thơ bảy chữ và cặp câu thơ lục bát đầy biến tấu, giàu vần điệu, ngắt nhịp đa dạng, kết hợp giữa tự sự với trữ tình, có khả năng chuyển tải những xúc chân thành, buồn thương, suy tư, trầm lắng rất phù hợp để nhà thơ bộc bạch lòng mình. Bài thơ giúp chúng ta thêm hiểu và trân trọng giá trị của tình bạn cũng như nhận ra được một tình bạn chân thành trong cuộc sống.
2.2. Rèn luyện kĩ năng viết: So sánh trong phân tích thơ
a) Cách thức
So sánh là chỉ ra sự giống nhau, khác nhau của hai hay nhiều tác phẩm, từ đó làm nổi bật sự độc đáo, sáng tạo của nhà thơ. Về nguyên tắc, có thể so sánh điểm giống và khác nhau ở tất cả các cấp độ, từ nội dung (đề tài, chủ đề, cảm hứng, tư tưởng...) đến hình thức tác phẩm (nhan đề, bố cục, chi tiết, vần, nhịp, hình ảnh, các biện pháp nghệ thuật, ngôn ngữ...); có thể so sánh tác phẩm của hai tác giả nhưng cũng có thể so sánh hai tác phẩm của cùng một tác giả.
Trong phân tích thơ, để làm nổi bật cái hay, cái đẹp của tác phẩm được phân tích, người viết thường so sánh với các tác phẩm cùng đề tài, chủ đề... Ví dụ, khi phân tích bài Sông núi nước Nam, có thể dẫn ra các tác phẩm cùng viết về tinh thần yêu nước, ý thức độc lập dân tộc như Hịch tướng sĩ (Trần Quốc Tuấn), Phò giá về kinh (Trần Quang Khải), Tỏ lòng (Phạm Ngũ Lão), Đại cáo bình Ngô (Nguyễn Trãi) ... cũng như nhiều bài thơ hiện đại sau này. Hoặc khi phân tích những bài thơ chữ Hán của Hồ Chí Minh, nhiều người đã liên hệ với thơ Đường, thơ Tổng, so sánh để thấy rõ: Thơ của Người “rất Đường mà lại không Đường một tí nào” (Hoàng Trung Thông).
b. Bài tập
Đề bài (trang 26 sgk Ngữ văn 9 Tập 1):
Hãy viết đoạn văn so sánh, nêu lên một điểm giống nhau và một điểm khác nhau giữa văn bản Sông núi nước Nam với văn bản Nước Đại Việt ta (trích Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi).
* Đoạn văn tham khảo:
Hai văn bản Sông núi nước Nam và nước Đại Việt (trích Đại cáo bình Ngô - Nguyễn Trãi) ta đều là hai văn bản mang đậm chủ nghĩa yêu nước, tồn tại như những bản tuyên ngôn độc lập đầy lòng tự hào. Tuy nhiên, ở mỗi văn bản, tác giả lại khẳng định chủ quyền tổ quốc theo một cách riêng. Nếu ở Sông núi nước Nam, chủ quyền của nước Nam được củng cố dựa trên lý luận từ “sách Trời” - từ một thế lực siêu nhiên. Thì ở “Nước Đại Việt ta”, Nguyễn Trãi lại thể hiện niềm tự hào về độc lập dân tộc dựa trên những thành tựu, những trang sử vàng hào hùng của dân tộc. Tác giả đặt nước ta ngang hàng với nước phương Bắc, đưa ra những chứng cứ, lập luận có thật vô cùng sắc bén về những thành tựu mà các thế hệ cha ông đã từng đạt được… Từ đó khiến không ai có thể phủ nhận được chủ quyền của nước ta. Nhưng dù là bằng cách nào, bằng biện pháp gì, thì cả hai tác giả của hai văn bản đều đã đưa vào tác phẩm của mình tình yêu nước và niềm tự tôn dân tộc mãnh liệt. Giúp khẳng định chủ quyền nước ta trước mọi kẻ thù.
Xem thêm các chương trình khác: