Soạn bài Hướng dẫn tự học trang 126 lớp 9 Tập 2 - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều

Với soạn bài Hướng dẫn tự học trang 126 Tập 2 Ngữ văn lớp 9 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 9.

1 93 01/12/2024


Soạn bài Hướng dẫn tự học trang 126 Tập 2

Câu 1 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 2): Tìm đọc thêm những văn bản nghị luận văn học có đề tài và nội dung như các văn bản trong Bài 10.

Trả lời:

- Bản hòa âm ngôn từ trong Tiếng Thu của Lưu Trọng Lư (Chu Văn Sơn)

- Nỗi nhớ trong Bên kia sông Đuống (Nguyễn Minh Hùng – Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 11, tháng 11.2024)

- Về tâm trạng của nhân vật người anh trong Bức tranh của em gái tôi (Nguyễn Văn Hải - Tạp chí Văn học và tuổi trẻ số 4, tháng 4.2024)

Câu 2 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 2): Sưu tầm một số đoạn văn, bài văn phân tích các văn bản truyện và thơ có trong sách Ngữ văn 9

Trả lời:

Phân tích tác phẩm Chuyện người con gái Nam Xương

“Nghi ngút đầu ghềnh tỏa khói hương

Miếu ai như miếu vợ chàng Trương.”

(Lê Thánh Tôn)

Từ một câu chuyện có thật trong nhân gian về một nỗi oan khuất của một người thiếu phụ, Nguyễn Dữ đã viết nên “Chuyện người con gái Nam Xương”. Đó là tác phẩm văn xuôi trong Truyền Kỳ mạn lục, phản ánh hiện thực xã hội, thể hiện ước mơ nhân đạo sự nhân đạo, ca ngợi về phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam.

Câu chuyện phản ánh sinh động về thân phận người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Chuyện kể về nàng Vũ Thị Thiết – người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thuỳ mị nết na, tư dung tốt đẹp nhưng lấy phải người chồng là Trương Sinh – vốn là con nhà giàu nhưng thất học và có tính đa nghi. Ít lâu sau, chiến tranh loạn lạc diễn ra, Trương Sinh phải đi lính. Chồng đi vừa đầy tuần, nàng hạ sinh được một đứa con trai đặt tên là Đản. Nàng ở nhà nuôi con và phụng dưỡng mẹ chồng. Rồi người mẹ chồng cũng qua đời, nàng lo ma chay tử tế. Hết chiến tranh, Trương Sinh trở về bồng con ra thăm mộ mẹ. Chỉ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ, chàng quay về nhục mạ và đuổi nàng đi vì cho rằng nàng không chung thủy. Vì nỗi oan không được giải bày, nàng nhờ dòng sông Hoàng Giang rửa sạch mối oan tình. Sau chàng hiểu nỗi oan của vợ nhưng tất cả đã muộn màng.

Chuyện đã phản ánh hiện thực xã hội đầy bất nhân oan trái. Chính chiến tranh loạn lạc, chính xã hội bất công đã gây nên bi kịch về cuộc đời nàng. Ngày chồng trở về cứ tưởng mọi sự đền bù sau bao ngày tháng nhớ nhung được đền đáp như thế đó lại là bi kịch của cuộc đời nàng diễn ra. Vì thói “gia trưởng nam quyền”, Trương Sinh đã gạt ngoài những lời biện bạch của vợ. Đó là sự bất công nghiệt ngã của xã hội phong kiến. Quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ không được tôn trọng. Trương Sinh vì lý do ghen tuông – đó là chuyện bình thường trong cuộc sống đôi lứa, thế nhưng ta phải lên án Trương Sinh vì thói “gia trưởng” mà không nghe lời biện bạch của vợ dẫn đến cái chết đầy oan khốc của Vũ Nương. Đồng thời, câu chuyện cũng lên án chiến tranh tranh giành quyền lực của các tập đoàn phong kiến đã gây nên cảnh chia lìa đôi lứa, gián tiếp gây ra cái chết của Vũ Nương. Nguyễn Dữ phản ánh hiện thực xã hội đương thời đầy bất công oan trái kia đã đẩy bao con người nhất là phụ nữ vào những con đường không lối thoát. Một nàng Vũ Nương vì nỗi oan không được giải bày đã nhờ sông Hoàng Giang rửa sạch oan tình, một nàng Thuý Kiều trong Truyện Kiều của Nguyễn Du đánh đổi mười lăm năm trường khổ nhục hay một Kiều Nguyệt Nga của Nguyễn Đình Chiểu một đời đau khổ. Tất cả là đều do cái xã hội phong kiến nghiệt ngã kia đã tạo ra.

Không những vậy, trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã đề cao lòng nhân đạo, những phẩm chất cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Dù dòng đời bao biến chuyển, dù xã hội bất công oan trái nhưng những phẩm chất đó vẫn âm thầm tỏa sáng. Vũ Nương – một cô gái thuỳ mị, nết na, tư dung tốt đẹp, hội tụ đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Ngay cả khi lấy chồng, nàng vẫn biết tính tình không hòa hợp nhưng “cũng giữ gìn khuôn phép, không từng để lúc nào vợ chồng phải bất hòa”. Nhưng sum vầy chưa được bao lâu, chồng ra trận. Nàng ở nhà thủ tiết chờ chồng, nuôi dưỡng con cái và phụng dưỡng mẹ chồng chu đáo. Ngay cả trước khi qua đời, mẹ chồng nàng đã nói: “…xanh kia quyết chẳng phụ con, cũng như đã chẳng phụ mẹ”. Tấm lòng hiếu thảo của nàng dâu đối với mẹ chồng trong xã hội phong kiến có lẽ ta ít thấy. Ông bà ta từ ngày xưa đã dùng cụm từ “mẹ chồng nàng dâu” để nói lên sự nghiệt ngã trong quan hệ đó. Thế nhưng đối với tấm lòng của Vũ Nương, người mẹ chồng hết sức cảm động và khẳng định rằng “sau này trời xét lòng lành, ban cho phúc đức…”. Nhớ lại ngày tiễn chồng ra trận nàng có nói “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi…”. Một cô gái con nhà nghèo như nàng mà lại thốt lên những lời như thế quả thật hiếm thấy. Nàng không cần áo gấm, không cần phong hầu chỉ cần một mái nhà êm ấm hạnh phúc. Nguyễn Dữ viết đến đây để người đọc thấy được nỗi niềm khát vọng hết sức đơn sơ mà bao người cầu mong không có. Nhưng đến ngày chồng trở về, là ngày bi kịch của đời nàng, chỉ vì thói ghen tuông mù quáng đã đẩy nàng đến cái chết oan nghiệt. Vũ Nương đã khóc mà nói rằng: “Thiếp sỡ dĩ nương tựa vào chàng, vì có thú vui nghi gia nghi thất. Này bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa”. Nếu như người phụ nữ ẵm con mang theo nỗi buồn sâu thẳm để chờ chồng rồi hóa đá thì nàng Vũ Nương không thể biện minh cho mình nên đã nhờ dòng sông Hoàng Giang rửa sạch oan khiên. Trước khi nàng tự tử, nàng ngửa mặt lên trời cao để phân trần cùng trời đất “Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ… Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ”. Nàng đã nêu hậu quả của mình nếu không lòng trinh tiết chờ chồng để minh oan với trời đất. Đắng cay đến thế ! Một người vợ thủy chung, một người con dâu ngoan hiền như người mẹ chồng đã nói lúc lâm chung “xanh kia quyết chẳng phụ con…”, thế mà nàng phải mượn dòng nước Hoàng Giang cuốn trôi nỗi đau đời.

Trong “Chuyện người con gái Nam Xương”, Nguyễn Dữ đã xây dựng một thế giới thuỷ cung đầy ắp nghĩa tình. Phan Lang – người làm Đầu mục ở bến đò Hoàng Giang - đêm nằm mộng thấy cô gái áo xanh xin cứu mạng. Sáng hôm sau chàng được người phường chài biếu con rùa xanh, liền đem thả. Sau cũng nhờ con rùa đó – là Linh Phi hoàng hậu cứu giúp mà Phan Lang thoát khỏi nguy nan. Nguyễn Dữ đã sáng tạo thêm thế giới thủy cung đầy ân nghĩa thủy chung, vừa tạo nét ly kỳ hấp dẫn lôi cuốn cho câu chuyện, đồng thời cũng thể hiện ước mơ nhân đạo cao đẹp. Một người chung Thủy, hiền thục như Vũ Nương phải được trân trọng. Đó chính là khát vọng về quyền được sống của phụ nữ trong xã hội phong kiến.

Nguyễn Dữ đã thực hiện thành công khi xây dựng nghệ thuật đặc sắc trong câu chuyện. Một số yếu tố li kì và hoang đường trong câu chuyện vẫn không làm mờ nhạt giá trị hiện thực, nhân đạo mà còn làm tăng lên khát vọng về quyền sống, quyền tự do của người phụ nữ. Người đọc thật sự bất ngờ vì lời nói ngây thơ của đứa trẻ, sửng sốt thương tâm trước cái chết của Vũ Nương, cũng như bàng hoàng khi đứa trẻ chỉ vào vách và nói: “Cha Đản đến kia kìa”. Thì ra nguyên nhân của nỗi đau khổ, nỗi oan ức của một con người và cả sự tan nát của một gia đình vì một “cái bóng” trong lời trẻ con. Chi tiết cái bóng là nét nhấn độc đáo, là đỉnh điểm của câu chuyện. Cái bóng ấy, là hình tượng của sự thủy chung son sắt, là tấm lòng kiên trung, một mực yêu thương chồng. Dẫu chiến tranh có chia cắt hai người, nhưng trong lòng Vũ Nương, hình ảnh Trương Sinh vẫn luôn hiện hữu như hình với bóng không rời nhau. Cách xây dựng tình tiết độc đáo tạo sự lôi cuốn cho người đọc. Một gia đình mỗi người một tính cách: Vũ Nương hiền thục, chung Thủy và cam chịu, Trương Sinh nóng nảy đa nghi và đứa con thì vô tư dẫn đến cái bi đát của nó. Truyện kết hợp giữa hiện thực và hoang đường tạo nên sự li kì cho người đọc.

Truyện kết thúc với hình ảnh Vũ Nương thoắt ẩn thoắt hiện gây cho ta những ý nghĩ và cảm xúc mênh mang. Câu chuyện quả là bi thảm, đặc biệt với số phận của Vũ Nương. Kết thúc ấy làm lòng ta chợt quặn lên thương xót. Thương xót bởi vì Vũ Nương đoan trang, tiết hạnh là thế, chung thủy là thế, vậy mà phải chịu vết nhục phải tự tử để rửa sạch và chỉ đến khi Trương Sinh hiểu được sự thật, lập đàn giải oan thì đã quá muộn màng. Phải chăng số phận của Vũ Nương cũng chính là số phận bi đát của những người phụ nữ thời phong kiến. Số phận ấy mong manh như ngọn nến trước gió, sẵn sàng phụt tắt bất cứ lúc nào. Vũ Nương, Thúy Kiều… và biết bao số phân thật buồn thảm phụ nữ vẫn mãi đi vào ngõ tối. Cách mạng tháng Tám là cuộc tái sinh màu nhiệm đã mang đến cho người phụ nữ ngọn “gió mới ngàn phương”, “một vườn đầy xuân”.

Câu 3 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 2): Tự đề xuất bài tập phân tích một tác phẩm truyện hoặc thơ mà em yêu thích, lập dàn ý cho bài viết ấy.

Trả lời:

Phân tích bài thơ Sang thu – Hữu Thỉnh

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả, tác phẩm Sang thu

- Giới thiệu về khái quát nội dung của đoạn thơ

II. Thân bài:

1. Những tín hiệu báo mùa thu sang.

Bài thơ được mở ra bằng những tín hiệu rất riêng, báo mùa thu về:

+ “Hương ổi”: đi liền với từ “bỗng” gợi cảm giác đột ngột, ngỡ ngàng; “phả” – làn hương ngọt ngào, sánh đậm, mùi ổi chín như được cô lại, phả vào gió thu. “Hương ổi” gợi không gian thờ thân thuộc, yêu dấu của làng quê đất Việt với những khu vườn, lối ngõ sum xuê hoa trái, làm nên hương sắc mỗi mùa; gợi hương vị riêng của mùa thu trong thơ Hữu Thỉnh.

+ “Gió se” là ngọn gió heo may mùa thu dịu nhẹ, thoáng chút se lạnh lúc thu về, giúp ta cảm nhận rõ hơn cái ngọt lành của hương ổi.

+ “Sương chùng chình” – nghệ thuật nhân hóa, gợi dáng vẻ, tâm trạng của làn sương thu. Làn sương |lãng đãng như cố ý chậm lại, lưu luyến mùa hè, chưa muốn bước hẳn sang thu.

Hệ thống hình ảnh độc đáo đã diễn tả một cách tài tình cái không khí se lạnh đầu thu và cả cái nhịp điệu chầm chậm của mùa thu về với đất trời. Đối diện với những tín hiệu báo thu là cái ngỡ ngàng của lòng người:

+ “Hình như” là lối nói giả định, không chắc chắn, phù hợp với những biểu hiện mơ hồ lúc giao mùa

- những biểu hiện ấy không chỉ được cảm nhận bằng các giác quan mà còn phải cảm nhận bằng cả một tâm hồn tinh tế.

+ Âm điệu: là tiếng reo vui, ngỡ ngàng lúc thu sang. Khổ thơ là những cảm nhận mới mẻ, tinh tế của tác giả lúc mùa sang. Ẩn sau những đổi thay của thiên nhiên đất trời lúc sang thu là niềm vui, niềm hạnh phúc của thi nhân.

2. Quang cảnh thiên nhiên ngả dần sang thu:

- Được tái hiện vừa chân thực lại vừa sống động:

+ “Sống” “dềnh dàng”: tả thực con sống của mùa thu vô cùng trong trẻo, tĩnh lặng, êm đềm. Nghệ thuật nhân hóa khiến con sống như đang được nghỉ ngơi sau một mùa hạ vất vả với bão giông. Đó cũng là hình ảnh ẩn dụ cho con người qua chiến tranh, lửa đạn, giờ đang chậm lại, cho phép mình được nghỉ ngơi.

+ “Chim” “vội vã”: vừa tả thực những cánh chim bay vội về phương Nam tránh rét, vừa gợi những vội vã, tất bật với lo toan thường nhật của đời người.

+ Phép đối “dềnh dàng”< “vội vã” làm nổi bật hai động thái trái ngược của thiên nhiên mà cũng là sự vận động của thiên nhiên giao mùa. Được khắc họa rất ấn tượng:

+ “Đám mây mùa hạ” được hữu hình hóa, vừa thực vừa hư, tái hiện được nhịp điệu của thời gian, là một chiếc cầu nối liền những ngày cuối hạ và đầu thu để sự chuyển giao giữa hai mùa không đứt đoạn.

+ Đám mây mang cả lớp nghĩa thế sự, gợi trạng thái giao thời của đời sống khi đất nước chuyển giao từ chiến tranh sang hòa bình. Khoảnh khắc giao mùa hiện lên tinh tế, sống động qua những câu thơ rất giàu chất tạo hình. Ấn sau những hình ảnh thiên nhiên lúc thu sang ấy còn là hình ảnh của đời sống lúc sang thu.

3. Những biến chuyển của thiên nhiên và suy ngẫm về đời người lúc chớm thu:

- Những biến chuyển của thiên nhiên được tái hiện tài tình:

+ Phép đối: “vẫn còn” – “vơi dần”, “nắng” – “mưa” gợi sự vận động trái chiều của hai hiện tượng thiên nhiên -> biểu hiện của sự giao mùa. asia + “Mưa”, “nắng”: là những hiện tượng thời tiết dễ quan sát, nắm bắt, làm cụ thể hóa khoảnh khắc chuyển mùa. Nắng vẫn còn nhưng không chói chang, gay gắt, cơn mưa rào đặc trưng của mùa hạ đã vơi dần -> dấu hiệu của mùa thu đậm nét hơn.

+ Những từ ngữ chỉ mức độ “vẫn còn” “vơi” “bớt” được sắp xếp giảm dần cho thấy mùa hạ đang nhạt dần, mùa thu ngày càng rõ nét hơn. Mùa thu đã hiện hình giữa đất trời.

- Suy ngẫm về đời người lúc chớm thu:

+ Tiếng sấm: Theo nghĩa thực, tiếng sấm là dấu hiệu của những cơn mưa rào mùa hạ. Sang thu, tiếng |sấm nhỏ dần, không đủ sức làm lay động hàng cây đã bao mùa thay lá. Nghĩa ẩn dụ chỉ những biến động thất thường của ngoại cảnh, của cuộc đời, cho những gian nan, thử thách mà con người gặp phải trong cuộc đời.

+ “hàng cây đứng tuổi”: phép nhân hóa gợi cái xế chiều của đời người, gợi hình ảnh những con người đã trưởng thành, trầm tình và vững vàng hơn.

=> Con người khi đã trưởng thành sẽ hiểu biết hơn, bình tĩnh, ung dung hơn trc mọi đổi thay, biến động của cuộc đời.

III. Kết bài

- Nội dung:

+ Cảm nhận và tái hiện tinh thế khoảnh khắc chuyển mùa từ hạ sang thu với sự giao thoa của nhiều lớp nghĩa: trời đất sang thu, đời sống sang thu, đời người sang thu.

+ Tái hiện những nét đẹp đặc trưng của mùa thu đất Bắc lúc vừa sang.

- Nghệ thuật: Ngôn ngữ, hình ảnh vừa giản dị, tự nhiên mà giàu sức gợi, vừa độc đáo, mới lạ. Giọng thơ nhỏ nhẹ, sâu lắng.

Câu 4 (trang 126 sgk Ngữ văn 9 Tập 2): Sưu tầm một số quảng cáo hay.

Trả lời:

Quảng cáo sữa Vinamilk:

Sữa hạt

Vinamilk 9 loại hạt Ít đường

Kết hợp 9 loại hạt cho hương vị rang thơm béo bùi độc đáo, cung cấp đủ lượng ALA (Omega-3) cơ thể cần chỉ với 2 hộp mỗi ngày.

Phù hợp với

Mẹ mang thai, người bị dị ứng

Có gì đặc sắc

Soạn bài Hướng dẫn tự học trang 126 lớp 9 Tập 2 - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều (ảnh 1)

Kết hợp sáng tạo 9 loại hạt

9 loại hạt giàu dưỡng chất được chúng tôi chọn lựa kỹ lưỡng từ các nhà cung cấp uy tín khắp thế giới để đảm bảo yêu cầu tiên quyết của Vinamilk về nguyên liệu: chất lượng cao, sạch và an toàn.

Hạnh nhân
Giàu vitamin E, magiê và các chất chống oxy hóa mạnh mẽ - đặc biệt là flavonoid, giúp giảm cholesterol, cho tim mạch khỏe và hỗ trợ kiểm soát đường huyết.

Hạt óc chó
Hương vị béo bùi đặc trưng, đến từ dưỡng chất nổi trội nhất: chất béo tốt – chiếm 65% trọng lượng hạt, phần lớn là ALA (Omega-3) và Omega-6, giúp giảm huyết áp, giảm cholesterol xấu, hỗ trợ sức khỏe não bộ và tim mạch.

Yến mạch
Thành phần dinh dưỡng vừa đa dạng vừa cân bằng giữa chất xơ, carb, protein chất lượng cao, các amino acids thiết yếu, vitamin và khoáng chất quan trọng. Giúp chống oxy hóa, giảm đường huyết, kiểm soát cân nặng.

Đậu nành không biến đổi gen
Cung cấp 9 loại amino acids thiết yếu giúp nuôi dưỡng cơ bắp và hệ xương chắc khỏe.

Đậu phộng
Chứa lượng đạm cao và chất béo tốt, hỗ trợ thúc đẩy đốt năng lượng. Cung cấp nhiều năng lượng nhưng giúp duy trì cân nặng và giảm nguy cơ béo phì.

Đậu đỏ-đen-xanh-trắng
Bộ tứ đậu thuần Việt giàu dinh dưỡng - những vị thuốc quý có tính bình và mát trong Y Học Cổ Truyền, tác dụng giải nhiệt, thanh lọc độc tố và cân bằng ngũ tạng, đem lại làn da tươi sáng, rạng rỡ.

Xay nguyên hạt, giữ trọn dinh dưỡng

Quy trình sản xuất sữa hạt thông thường không xử lý được trọn vẹn hạt đậu nành, dẫn đến một phần không nhỏ lượng chất xơ, canxi, protein cùng nhiều dưỡng chất khác bị lãng phí.

Vinamilk là công ty sữa đầu tiên tại Đông Nam Á dùng công nghệ Xay nguyên hạt đậu nành(*), làm nên dòng sữa sánh mịn đầy đặn, giữ trọn vị hạt đậm đà và dưỡng chất tự nhiên.
(*)của Tetra Pak

Cung cấp đủ ALA (Omega-3) cơ thể cần

Cơ thể không tự tổng hợp được ALA mà cần bổ sung qua chế độ ăn uống. Theo Viện Dinh Dưỡng, nhu cầu ALA khuyến nghị cho người Việt là khoảng 500 mg/ngày. Mỗi hộp sữa hạt Vinamilk 9 loại hạt 180ml chứa khoảng 270 mg ALA, giúp cung cấp đủ lượng ALA cơ thể bạn cần khi uống 2 hộp mỗi ngày.

60% phần vật chất trong não bộ là chất béo, trong đó chủ yếu là 3 loại Omega ALA, DHA, EPA. Riêng ALA (tên đầy đủ: Acid Alpha-Linolenic) chỉ có trong thực vật, chứa nhiều trong đậu nành, hạt óc chó, cải xoăn,....

Chất lượng 4 Không

Không Lactose.
Không biến đổi gen.
Không dùng chất bảo quản.
Không thuốc diệt cỏ (Glyphosate).

Cam kết không thuốc diệt cỏ (Glyphosate)

Glyphosate là hóa chất diệt cỏ dại cực kỳ nguy hiểm vì có thể hấp thu vào thực vật, không thể bị loại bỏ dù rửa sạch hay nấu nướng - là một trong những tác nhân gây nên ung thư, dị tật bẩm sinh.

Vinamilk cam kết tất cả sản phẩm sữa thực vật không thuốc diệt cỏ (Glyphosate), đảm bảo dinh dưỡng chất lượng cao và tuyệt đối an toàn.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 9 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Kiến thức ngữ văn trang 105

Nghĩ thêm về Chuyện người con gái Nam Xương

Về truyện Làng của Kim Lân

Thực hành tiếng Việt trang 107

Thực hành đọc hiểu: Phân tích bài Khóc Dương Khuê

Viết: Viết quảng cáo hoặc tờ rơi về một sản phẩm hay một hoạt động

Nói và nghe: Trình bày ý kiến về một sự việc có tính thời sự

Tự đánh giá: Hình ảnh con thuyền, người dân chài trong bài thơ Quê hương

1 93 01/12/2024