Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích (trang 43) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều

Với soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích trang 43 Ngữ văn lớp 9 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 9.

1 71 01/12/2024


Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích

Nguyễn Du

1. Chuẩn bị

Yêu cầu (trang 43 sgk Ngữ văn 9 Tập 1):

- Đọc trước đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích.

- Đọc nội dung giới thiệu dưới đây để tìm hiểu bối cảnh đoạn trích

Trả lời:

Sau khi bị Mã Giám Sinh làm nhục, biết mình bị lừa bán vào lầu xanh, Kiều liều mình tự vẫn. Mụ chủ nhà chứa sợ “mất cả vốn lẫn lời” nên đã vờ hứa hẹn sẽ gả chống cho Kiều, rồi đưa nàng ra ở lầu Ngưng Bích để kén chồng nhưng thực chất là giam lòng và chuẩn bị âm mưu, hóng bắt nàng phải tiếp khách làng chơi.

Đoạn trích này nằm ở phần thứ hai: Gia biến và lưu lạc.

2. Đọc hiểu

Nội dung chính: Đoạn trích miêu tả tâm trạng buồn tủi, cô đơn và nỗi niềm thương nhớ của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Qua đó tác giả thể hiện cnh ng cô đơn bun ti và tm lòng thủy chung, hiếu tho của nàng.

Soạn bài Kiều ở lầu Ngưng Bích (trang 43) - Ngắn nhất Ngữ văn 9 Cánh diều (ảnh 1)

* Trả lời câu hỏi giữa bài:

Câu 1 (trang 44 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Việc sử dụng từ ngữ để diễn tả hoàn cảnh của Kiều có gì đặc biệt?

Trả lời:

Không gian trước lầu Ngưng Bích được miêu tả là rộng lớn và mênh mông qua các từ như “non xa”, “trăng gần” và “bát ngát”. Không gian được mở ra theo chiều cao và chiều xa, tạo cảm giác chênh vênh và đơn độc giữa cảnh bao la. Sự trống trải và hoang vắng của cảnh vật được thể hiện rõ qua các từ như “cát vàng”, “bụi hồng”, “cồn nọ” và “dặm kia” tất cả đều gợi lên sự thiếu vắng sự sống và cảm giác ngổn ngang.

Thời gian qua cảm nhận của Thúy Kiều được biểu hiện qua hình ảnh “mây sớm đèn khuya”, cho thấy dự lặp đi lặp lại và quay vòng của thời gian, tạo cảm giác nhàm chán và buồn tẻ.

Khung cảnh thiên nhiên này phản ánh rõ hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Nàng bị giam lỏng, mất tự do ở chốn hoang vắng mặc dù thơ mộng, mang trong mình cảm giác cô đơn, buồn tủi và đầy hổ thẹn.

Các từ ngữ như “khóa xuân”, “non xa”, “trăng gần”, “bốn bề”, “cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia” đều góp phần diễn rả hoàn cảnh và tâm trạng của Thúy Kiều, nhấn mạnh sự cô độc và buồn bã trong tình cảnh của nàng.

Câu 2 (trang 44 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Chú ý biện pháp tả cảnh ngụ tình.

Trả lời:

Nghệ thuật tả cảnh ngụ tình là nghệ thuật mà trong đó tác giả đã mượn khung cảnh để gửi gắm tâm trạng nhân vật. Cảnh không chỉ đơn thuần là bức tranh thiên nhiên mà còn là bức tranh tâm trạng của con người.

Hai tiếng “buồn trông” được lặp lại bốn lần trong đoạn trích, vừa như gói trọn tâm thế của Kiều “trước lầu Ngưng Bích”, vừa tạo nhịp điệu đều đều, buồn thương cho đoạn thơ. Ở nơi “khoá xuân”, Kiều chỉ biết lấy thiên nhiên làm điểm tựa, và từ điểm tựa đó nàng nhận thức về số kiếp của mình. Tầm nhìn của nàng trước hết hướng ra xa, vì nơi xa đó là nhà nàng, là nơi có những người thân yêu nhất:

Buồn trông cửa bể chiều hôm,

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?

Không gian xa rộng, quạnh hiu nơi cửa bể như càng làm nổi rõ hơn thân phận nhỏ bé, cô đơn của Kiều. Không gian ấy cộng hưởng cùng thời gian “chiều hôm” - thời khắc gợi nhớ, gợi buồn - khiến như thấm sâu hơn vào tâm hồn người con gái nơi xứ lạ nỗi niềm xót xa. Giữa khung cảnh ấy, trái tim cô đơn, tâm hồn trống vắng cần lắm một hơi ấm, một sự hiện diện của sự sống:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa ?

“Thuyền” chính là hình ảnh biểu tượng cho sự sống con người. Nhưng đó là sự hiện hữu mờ mờ, như có như không, được diễn tả qua hai từ “thấp thoáng”, “xa xa”. Sự xuất hiện mờ ảo của cánh buồm không làm cho khung cảnh thêm thân mật, ấm áp mà càng gợi sầu, gợi cảm giác cô liêu cho con người. Không tìm thấy sự sẻ chia từ nơi cửa biển xa xăm, Kiều hướng tầm mắt về “ngọn nước” gần mình hơn:

Buồn trông ngọn nước mới sa

Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Giữa dòng nước, cánh hoa trôi man mác như gợi nhắc thân phận cảnh bèo trôi dạt của người trong cảnh. Câu hỏi tu từ như xoáy vào tâm hồn người đọc. Thân phận cánh hoa hay chính là những trăn trở, xót xa cho số kiếp mỏng manh, phiêu bạt của Kiều? Hai tiếng “về đâu” cuối câu thơ với thanh không càng tạo cảm giác xa vắng, vô định, như tương hợp với tâm thế hiện thời của Kiều. Tìm đến với thiên nhiên đó mong sao vơi bớt mối sầu chất chứa trong lòng nhưng càng nhìn cảnh, tâm trạng lại càng rối bời.

Câu 3 (trang 44 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Dự cảm tương lai của Kiều được thể hiện qua hình ảnh nào?

Trả lời:

Dự cảm tương lai được thể hiện qua hình ảnh:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh.

Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Gió cuốn mặt duềnh”: Ước lệ cho sóng gió cuộc đời đang bủa vây, cuốn lấy Kiều, những tai ương sắp ập đến đời nàng. Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm như tiếng gào thét của lòng người trong cảnh ngộ bẽ bàng, tê tái. Tầm nhìn của Kiều hướng từ xa về gần, từ cao đến thấp, mong mỏi kiếm tìm một sự đáp vọng. Thanh âm duy nhất đáp lại nàng là tiếng sóng "ầm ầm” “kêu quanh ghế ngồi”. Nó không làm cho không gian vang động hơn mà càng khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn lẫn dự cảm lo âu về tương lai của Kiều. Xót xa biết bao, đớn đau biết bao! Chỉ có thiên nhiên bên nàng, sẻ chia “tấm lòng’' với nàng. Đó chính là thời khắc Kiều thấm thía nhất nỗi niềm tự thương thân.

* Trả lời câu hỏi cuối bài:

Câu 1 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia làm mấy phần? Trình bày nội dung chính của mỗi phần?

Trả lời:

- Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể chia làm 3 phần.

- Nội dung chính của mỗi phần

Phần 1(6 câu đầu): Hoàn cảnh cô đơn tội nghiệp của nàng Kiều ở lầu Ngưng Bích

Phần 2 (8 câu tiếp): Nỗi thương nhớ cha mẹ và người yêu

Phần 3 (8 câu cuối): Tâm trạng buồn đau lo âu tuyệt vọng của Kiều.

Câu 2 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Khung cảnh được miêu tả ở sáu dòng thơ đầu có tác dụng như thế nào trong việc thể hiện tâm trạng Thuý Kiều?

Trả lời:

- Không gian: được miêu tả qua cái nhìn của Thúy Kiều.

+ Đặc điểm: bát ngát, núi xa, cát vàng, trăng lạnh, cồn cát nối tiếp nhau, mù mịt trong bụi hồng.

-> Không gian mênh mông, hoang vắng, rợn ngợp không có bóng người, cảnh vật trơ trọi. Không gian tô đậm cho khung cảnh lầu Ngưng Bích chơ vơ, giam hãm một thân phận đơn độc, nhỏ bé.

+ Nghệ thuật: phép đối (cồn nọ- dặm kia) đã mở không gian ra nhiều phía (chiều cao, rộng và chiều xa)

“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya

Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng

- Thời gian: dằng dặc từ sáng tới khuya, nàng chỉ biết làm bạn với mây buổi sớm, đèn buổi khuya, hết sáng lại tối gợi thời gian tuần hoàn khép kín trôi đi đơn điệu.

-> Kiều cô đơn tuyệt đối từ sớm tới khuya trong không gian lạnh lẽo hoang vắng .

=> Thuý Kiều trong tâm trạng bẽ bàng,cô đơn, buồn tủi, xấu hổ đối diện với mây sớm, đèn khuya nàng càng thêm thấm thía cái "bẽ bàng"của thân phận .Cảnh ấy, tình ấy làm lòng Kiều tan nát.

- Nghệ thuật: Tả cảnh ngụ tình.

=> Càng gợi cho nàng nhớ đến cha mẹ và người yêu trong sự thất vọng đến sợ hãi.Ngoài ra, tác giả còn dùng nghệ thuật liệt kê, phép đối lập làm cho cảnh vật hiện ra bốn bề bát ngát mênh mông đối lập với lòng người cô đơn trống vắng nơi xứ người.

Câu 3 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Thuý Kiều lần lượt nhớ những ai? Theo em, trình tự nỗi nhớ đó có hợp lí không? Vì sao?

Trả lời:

Trong cảnh ngộ bị giam lỏng, Thúy Kiều đã nhớ tới Kim Trọng, sau đó nhớ về cha mẹ. Đó là trình tự hợp lí, bởi với cha mẹ, nàng đã gặp trước lúc cách xa, nàng cũng đã bán thân cứu cha nên vơi bớt nỗi lo và làm tròn chữ hiếu. Nhưng với người nàng thương, Kim Trọng, chàng chưa biết tin gì về gia biến nhà nàng và nàng đau đớn, day dứt vì đã không giữ được lời thề bên chàng Kim. Bởi thế mà nàng cảm thấy vô cùng day dứt, đau đớn và cảm thấy tội lỗi khi không giữ được lời thề nguyện ước với chàng Kim.

Câu 4 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Theo em, tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời của ai? Vì sao em biết điều đó? Những lời này có tác dụng gì trong việc thể hiện nội tâm nhân vật?

Trả lời:

Tám dòng thơ từ dòng 7 đến dòng 14 trong đoạn trích là lời của Thuý Kiều. Đó là nỗi nhớ thương của Kiều về người yêu và cha mẹ.

Trong nỗi cô đơn tuyệt đối ấy, Kiều cảm thấy xa cách, hoang vắng, một mình một bóng bơ vơ, bị giam cầm cách biệt nơi đất khách quê người, xa quê hương, xa người yêu của mình:


Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.​
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.​

Ở lầu Ngưng Bích Kiều đã nhớ về Kim Trọng trước, đó là một nét bút đặc sắc, độc đáo và phù hợp với tâm lí, thể hiện tấm lòng chung thủy của Kiều. Các từ ngữ “tưởng”, “trông”, “chờ” trong ngôn ngữ độc thoại nội tâm của Kiều đã làm bật lên nỗi nhớ Kim Trọng khôn nguôi của nàng. Kiều càng nhớ về lời thề đôi lứa, lời hẹn ước trăm năm ở vườn Thúy lại càng thương cho Kim Trọng. Chén rượu thề như còn đây mà nay mỗi người như mỗi ngả khiến nàng ân hận, xót xa như kẻ phụ tình. Nàng tưởng tượng Kim Trọng đang hướng về mình, “rày trông mai chờ” uổng công vô ích khiến nàng càng thêm xót xa, càng thấp thỏm lo âu. Dù cho mỗi người một phương nhưng tình cản, tấm lòng son của nàng dành cho Kim Trọng là mãi mãi, không thể phai mờ. Càng nghĩ Kiều càng lo lắng, khiến nàng bật lên câu hỏi tu từ không biết trên bước đường trôi dạt nơi “bên trời góc bể”, bao giờ nàng mới có thể gột rửa sạch những hoen ố của tấm lòng son chung thủy để có thể đáp lại tình yêu của Kim Trọng dành cho nàng.

Ở nơi lầu cao ấy, nàng cũng không nguôi nhớ thương, lo lắng cho cha mẹ của mình:

Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ?
Sân Lai cách mấy nắng mưa,
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.​

Với ngôn ngữ độc thoại, kết hợp với lối viết cổ, tâm trạng ngổn ngang của Kiều hiện lên thật rõ nét. Các từ ngữ “hôm mai”, “cách mấy nắng mưa” chỉ nỗi nhớ mong cha mẹ dài theo năm tháng của nàng. Kiều xót thương cha mẹ mình ngày đêm lo lắng, “tựa cửa hôm mai” mong ngóng tin nàng, sợ cha mẹ già yếu ở nhà, không ai chăm sóc, phụng dưỡng. Thành ngữ “quạt nồng ấp lạnh”, cùng với điển tích “Sân Lai”, “Gốc tử” đã nói lên tâm trạng nhớ thương, tấm lòng hiếu thảo của Kiều với cha mẹ mình. Nàng lo sợ ở nơi quê hương, mọi thứ đã đổi thay, cha mẹ nàng lại ngày càng già yếu nên nàng vô cùng day dứt, áy náy vì chưa làm tròn bổn phận phụng dưỡng cha mẹ của người con. Từ đó tấm lòng vị tha và hiếu thảo của Kiều đã hiện lên thật rõ nét. Trong cảnh ngộ bị giam lỏng nơi lầu Ngưng Bích, lưu lạc nơi chân trời góc bể, Kiều là người đáng thương nhất. Thế nhưng với tâm hồn cao đẹp của mình, nàng luôn hi sinh bản thân, quên đi cảnh ngộ của bản thân để lo lắng, nghĩ về Kim Trọng, nghĩ về cha mẹ của mình. Nỗi nhớ của Kiều rất thực và có chiều sâu, từ đó cho thấy Kiều là một đứa con hiếu thảo, một người tình thủy chung và là một con người giàu lòng vị tha.

Câu 5 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Kiều ở lầu Ngưng Bích được coi là một trong những đoạn trích thể hiện tài năng của Nguyễn Du trong nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Hãy phân tích tám dòng cuối để làm sáng rõ điều đó.

Trả lời:

Trong tám câu thơ cuối, hai tiếng “buồn trông” được nhắc lại tới bốn lần. Có thể thấy lúc này, Kiều không còn ai để dựa vào ngoài chính mình. Nàng mong chờ thiên nhiên tươi đẹp mang đến cho nàng chút gì đó làm niềm vui nhưng không, với đôi mắt “buồn trông” thì nàng không thể nhìn thấy những điều tốt đẹp.

Thúy Kiều hướng đôi mắt của mình về phía xa, nơi có nhà của nàng, có một người nàng thương yêu nhưng chưa kịp nói lời từ biệt:

Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Buổi chiều hôm là lúc mà khung cảnh trở nên ảm đạm. Cộng thêm cái nhìn của Thúy Kiều về nơi cửa bể quạnh hiu càng làm tăng thêm sự nhỏ bé, nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Xót xa thay cho người con gái bé nhỏ. Nàng tìm kiếm cho mình một chút hiện diện của sự sống như mong muốn vơi đi nỗi cô đơn của mình:

Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa

Có thuyền, ắt hẳn phải có người. Nhưng sự sống ấy ở xa quá, chẳng đủ làm khỏa lấp nỗi cô đơn của Thúy Kiều. Hai chữ “thấp thoáng”, “xa xa” chỉ làm tăng thêm cảm giác cô liêu. Bấu víu vào cánh buồm xa không được, Thúy Kiều hướng ánh mắt buồn trông về phía ngọn nước:

Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?

Cụm từ hoa trôi man mác khiến ta liên tưởng đến cánh bèo trôi. Cánh bèo thường được ví như thân phận của người phụ nữ. Hoa trôi về đâu? Cuộc đời của Thúy Kiều sau này sẽ đi về đâu? Thúy Kiều đặt ra câu hỏi cho cánh hoa nhưng cũng là đặt câu hỏi cho chính cuộc đời mình. Câu hỏi không có câu trả lời. Về đâu? Thúy Kiều cũng không biết được. Một cánh hoa trôi trên dòng nước lạnh lẽo, cô độc như Thúy Kiều của thực tại. Kiều lại đưa mắt về với mặt đất:

Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh

Cỏ xanh không còn rợn chân trời như ngày tết thanh minh nữa mà giờ đã trở nên rầu rầu như tâm trạng của con người. Phải chăng, ngọn cỏ cũng hiểu cho tâm trạng của Kiều? Tâm trạng buồn rầu ấy phủ ngập lấy không gian xung quanh. Kiều nhìn xa về phía chân mây rồi lại nhìn gần xuống mặt đất nhưng nơi đâu cũng chỉ thấy một màu xanh xanh. Đó là một màu xanh xám ảm đạm của buổi chiều tà chứ không còn là màu xanh của sự sống trong tiết trời mùa xuân nữa.

Chính nỗi buồn của Thúy Kiều đã nhuộm buồn màu xanh của cảnh vật nơi lầu Ngưng Bích. Trong khung cảnh ấy, chỉ có Thúy Kiều với nỗi cô đơn, buồn tủi trong lòng. Nàng tha thiết tìm một tiếng vọng của sự sống nhưng không, những gì nàng nhận về chỉ có âm thanh của tự nhiên:

Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi

Cách lựa chọn từ ngữ của Nguyễn Du rất tinh tế. Tất cả đều nhằm nói lên thân phận bèo trôi của Thúy Kiều. Tiếng sóng ầm ầm ở đây là tiếng sóng lòng của Thúy Kiều. Điều đó đủ cho ta thấy trong lòng nàng tâm trạng giằng xé dữ dội như thế nào. Tiếng sóng không làm phá vỡ không gian yên tĩnh của không gian mà nó càng làm khắc sâu thêm tâm trạng đau đớn của Kiều. Đau đớn lắm chứ bởi lúc cần có người bên cạnh nhất thì Kiều chỉ tìm thấy được sự an ủi nơi thiên nhiên.

Câu 6 (trang 45 sgk Ngữ văn 9 Tập 1): Em hãy chuyển nội dung 14 dòng thơ đầu thành một đoạn văn xuôi.

Trả lời:

Trong tiết xuân nơi lầu Ngưng Bích, khung cảnh hiện ra với vẻ đẹp mờ ảo, phảng phất một chút buồn man mác. Trước mắt nàng là cảnh núi non xa xa, trập trùng trong màn sương mờ, hiện lên như bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ. Gần hơn, ánh trăng dịu dàng chiếu sáng, như người bạn đồng hành thầm lặng của nàng, cùng nàng chia sẻ nỗi cô đơn giữa không gian rộng lớn. Cảnh vật bao quanh nàng là một biển trời mênh mông, bát ngát, kéo dài đến vô tận. Cồn cát vàng rực rỡ, bụi hồng mờ ảo trên những con đường xa thẳm, tất cả như đẩy nàng vào cảm giác lạc lõng, cô quạnh giữa thế gian rộng lớn. Trong cảnh vật bao la ấy, lòng nàng không khỏi nhớ đến người xưa, người mà nàng đã từng cùng nâng chén dưới ánh trăng, chia sẻ những khoảnh khắc thắm thiết. Nỗi nhớ nhung ấy làm lòng nàng chao đảo, khắc khoải trong sự chờ đợi không hồi đáp. Nàng ngóng trông từng cánh thư, từng tin tức, nhưng chỉ nhận lại những hy vọng hão huyền, những mộng tưởng mơ hồ. Giữa khoảng trời mênh mông và bờ biển xa tít tắp, nàng cảm thấy mình nhỏ bé, lạc lõng và bơ vơ. Nàng tự hỏi, bao giờ tình yêu và lòng son sắt của nàng mới có thể phai nhòa theo thời gian, khi những nhớ thương vẫn hằn sâu trong tâm trí. Nàng xót xa cho người đã từng chờ đợi mình, từng ngóng trông mình mỗi sớm mai, lo lắng không biết ai sẽ sưởi ấm trái tim lạnh giá trong những đêm dài cô quạnh. Hình ảnh người ấy đứng tựa cửa, mắt hướng về phía xa, chờ đợi trong vô vọng hiện lên rõ ràng trong tâm trí nàng, làm nàng thêm xót xa. Qua bao mùa mưa nắng, lòng nàng tự hỏi liệu người ấy còn đứng dưới gốc cây tử, nơi mà hai người đã từng chia sẻ những kỷ niệm ngọt ngào, hay rằng thời gian đã làm phai nhòa tất cả? Liệu những nhớ thương ấy có còn đong đầy như xưa, hay chỉ còn là những kỷ niệm phai nhạt theo thời gian? Cảm giác này khiến nàng thêm đau lòng, thêm phần cô đơn trong không gian lạnh lẽo và vắng lặng nơi lầu Ngưng Bích.

Xem thêm các bài Soạn văn lớp 9 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:

Kiến thức ngữ văn trang 32

Cảnh ngày xuân

Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga

Thực hành tiếng Việt trang 42

Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học

Nói và nghe: Nghe và nhận biết tính thuyết phục của một ý kiến

Tự đánh giá: Lục Vân Tiên gặp nạn

Hướng dẫn tự học trang 52

1 71 01/12/2024