Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương hay, ngắn gọn

Hướng dẫn soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương Ngữ văn lớp 9 hay, ngắn gọn nhất và đủ ý giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung chính bài Chuyện người con gái Nam Xương để chuẩn bị bài và soạn văn 9. Mời các bạn đón xem:

1 2502 lượt xem
Tải về


Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương - Ngữ văn 9

A. Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương ngắn gọn

Phần đọc - hiểu văn bản

Câu 1 (trang 51 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

- Phần 1 (từ đầu… cha mẹ đẻ mình): Cuộc hôn nhân giữa Trương Sinh và Vũ Nương, sự xa cách vì chiến tranh, phẩm hạnh của Vũ Nương trong thời gian xa cách

- Phần 2 (tiếp… trót đã qua rồi) : Nỗi oan khuất và cái chết bi thảm của Vũ Nương

- Đoạn 3 (còn lại) Trương Sinh lập đàn giải oan cho Vũ Nương

Câu 2 (Trang 51 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

- Trong mối quan hệ vợ chồng trong cuộc sống hằng ngày: “Trương Sinh có tính đa nghi, đối với vợ phòng ngừa quá sức.”

→ “giữ gìn khuôn phép, không từng lần nào vợ chồng phải đến thất hoà.”.

- Trong tình huống chia li: “Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi.”

→ Tình nghĩa.

- Trong những ngày xa chồng: một người mẹ hiền, dâu thảo, ân cần, hết lòng chăm sóc mẹ chồng lúc ốm đau: “Nàng hết sức thuốc thang lễ bái thần phật và lấy lời ngọt ngào khôn khéo khuyên lơn.”, thương yêu, lo lắng chu toàn: khi mẹ chồng mất “Nàng hết lời thương xót, phàm việc ma chay tế lễ, lo liệu như đối với cha mẹ đẻ mình.”.

→ Làm tròn nghĩa vụ của người con và người mẹ.

- Khi bị chồng nghi oan, Vũ Nương đã cố phân trần để chồng hiểu rõ tấm lòng mình, nhưng không có kết quả. Lúc bị dồn đẩy đến bước đường cùng, nàng đành mượn dòng nước sông quê để giãi tỏ tấm lòng trong trắng. 

→ Tóm lại, bằng cách đặt nhân vật vào những hoàn cảnh, tình huống khác nhau, tác giả đã khắc hoạ đậm nét một  Vũ Nương hiền thục, một người vợ thuỷ chung, yêu thương chồng con hết mực, một người con dâu hiếu thảo, hết lòng vì cha mẹ, gia đình, đồng thời cũng là người phụ nữ coi trọng danh dự, phẩm hạnh, quyết bảo vệ sự trong sạch của mình.

Câu 3 (trang 51 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

Nỗi oan khuất của Vũ Nương do nhiều nguyên nhân đưa đến:

- Nguyên nhân trực tiếp: Do chồng nàng là Trương Sinh có tính hay ghen, đa nghi và không chịu nghe lời vợ giải thích.

- Nguyên nhân gián tiếp: Do xã hội phong kiến đã gây ra bao nhiêu bất công, phân biệt đối với người phụ nữ khiến cuộc đời, số phận của họ phải chịu nhiều bi thảm.

Câu 4 (trang 51 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

* Nhận xét:

- Tình huống truyện đầy bất ngờ, căng thẳng.

- Những lời trần thuật tự nhiên, chân thực.
- Những lời đối thoại đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển tình huống câu chuyện, góp phần giãi bày tâm trạng của nhân vật.

Câu 5 (trang 51 sgk Ngữ văn 9 Tập 1)

- Những yếu tố kì ảo:

+ Phan Lang nằm mộng cứu Linh Phi

+ Phan Lang được Linh Phi cứu xuống thủy cung

+ Vũ Nương còn sống và gặp lại Phan Lang dưới thủy cung

+ Trương Sinh lập đàn giải oan, Vũ Nương hiện về lúc hiện lúc ẩn.

- Ý nghĩa:

+ Tạo ra một cái kết có hậu hơn cho câu chuyện.

+ Thể hiện niềm cảm thương của nhà văn dành cho số phận người phụ nữ trong xã hội xưa.

+ Thể hiện niềm tin, ước mơ của nhân dân: người tốt sẽ được minh oan và đền đáp xứng đáng.

Phần luyện tập

Câu hỏi (trang 52 sgk Ngữ văn lớp 9 Tập 1):

Vũ Thị Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình thùy mị, nết na lại thêm tư dung tốt đẹp nên Trương Sinh, người cùng làng mới xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới nàng về làm vợ. Cuộc hôn nhân không bình đẳng của hai người đã ít nhiều hé lộ cuộc sống của Vũ Nương sau này.

Về làm vợ Trương Sinh, biết chồng có tính đa nghi, hay ghen nên Vũ Nương luôn luôn giữ gìn khuôn phép, giữ đạo làm vợ nên cả hai vợ chồng chưa lúc nào bất hòa. Cuộc sum vầy của đôi vợ chồng son chưa được bao lâu thì chiến tranh nổ ra, triều đình bắt trai tráng trong làng đi đánh giặc Chiêm. Trương Sinh phải tham gia tòng quân đánh giặc. Ngày tiễn chồng ra trận, Vũ Nương tuy buồn khổ, đau đớn song cũng không ngăn cản chàng vì Trương Sinh phải thực hiện nghĩa vụ với đất nước và nàng cũng hiểu chí nam nhi mà Trương Sinh theo đuổi. Vũ Nương không mong Trương Sinh quay trở về trong vinh hoa, phú quý, chỉ mong khi chàng trở về sẽ mang theo được hai chữ bình yên. Những người tiễn Trương Sinh nghe lời Vũ Nương không ai cầm được nước mắt. Nàng còn đứng ở đó trông theo bóng của chồng mãi đến khi bóng Trương Sinh khuất hẳn mới quay trở về.

Lúc bấy giờ nàng đang có mang, Trương Sinh đi chưa được bao lâu thì Vũ Nương sinh ta một đứa con trai kháu khỉnh, đặt tên là Đản. Thoắt cái đã nửa năm Vũ Nương xa chồng nhưng nàng lúc nào cũng mong nhớ và chờ đợi tin của chàng. Người mẹ già cũng vì thương nhớ con trai mà sinh bệnh. Vũ Nương vừa phải chăm con, vừa phải lo cho mẹ già. Nàng chạy chữa thuốc thang, cũng bái thần phật và lấy lời khôn khéo khuyên lơn bà. Song bệnh tình mỗi ngày một nặng, bà không qua khỏi. Trước khi nhắm mắt xuôi tay, bà đã trối lại với nàng rằng ngắn dài có số, tươi héo bởi trời. Mẹ không phải không muốn đợi chồng con về mà không gắng ăn miếng cơm, miếng cháo đặng cùng vui sum họp. Song lòng tham vô cùng mà vận trời khó tránh. Nước hết chuông rền, số cùng khí kiệt. Một tấm thân tàn, nguy trong sớm tối, việc sống việc chết không khỏi phiền đến con. Chồng con nơi xa xôi chưa biết sống chết thế nào, không thể về đền ơn được. Sau này, trời xét lòng thành, ban cho phúc đức, giống dòng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con, như con đã chẳng phụ mẹ. Vũ Nương đã lo ma chay, tế lễ cho bà chu đáo như đối với cha mẹ đẻ.

Bà cụ mất, ở nhà chỉ còn hai mẹ con. Vũ Nương mỗi tối ôm con, thường hay đùa trỏ bóng của mình trên vách nhà và nói với bé Đản đó là cha của nó. Sở dĩ nàng nói thế phần vì để vơi đi nỗi nhớ chồng, phần vì đứa con khỏi tủi thân khi thiếu vắng bóng người cha trong nhà. Thế nhưng, cái bóng cũng chính là nguyên nhân tạo nên nỗi oan khiên của nàng. Một năm sau khi mẹ chồng mất, giặc buông giáo đầu hàng, Trương Sinh trở về mới hay tin mẹ đã mất. Chàng đau khổ, buồn bã. Ôm con trong lòng ra thăm mồ của mẹ nhưng đứa con quấy khóc không nghe. Trương Sinh dỗ dành con và nghe được câu nói của bé Đản khiến chàng nghi ngờ sự thủy chung của vợ "Ô hay! Thế ra ông cũng là cha tôi ư?...Trước đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả". Mối nghi ngờ trong lòng Trương Sinh ngày càng lớn và không có cách nào gỡ ra được. Chàng đã về nhà nặng lời nhiếc móc, trách mắng vợ. Mặc cho vợ hết lời giải thích, minh oan, họ hàng làng xóm bênh vực và biện minh cho nàng nhưng cũng chẳng ăn thua gì cả. Cuối cùng, Vũ Nương đã phải tìm đến cái chết để chứng minh cho sự trong sạch của mình. Nàng về nhà tắm gội sạch chay, ra bến Hoàng Giang ngửa mặt lên trời mà than: "Kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh, xin thần chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng, dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, và xin chịu khắp mọi người phỉ nhổ". Nói rồi nàng gieo mình xuống sông mà chết. Trương Sinh tuy giận nhưng thấy nàng tự vẫn cũng động lòng thương, thuê người tìm vớt thây nàng nhưng chẳng thấy đâu cả. Trong một đêm không vắng vẻ, chàng ôm con dưới ngọn đèn khuya, chợt đứa con trỏ bóng chàng trên vách và bảo là cha mình. Bấy giờ Trương Sinh mới hiểu ra nỗi oan khuất của Vũ Nương nhưng tất cả đã quá muộn.

Lại nói về Vũ Nương, sau khi gieo mình xuống sông, được các nàng tiên trong cung nước thương mình vô tội nên đã rẽ một đường nước để nàng thoát chết và trở thành cung nữ của Linh Phi, vợ vua biển Nam Hải. Ở dưới thủy cung, Vũ Nương gặp được Phan Lang, người cùng làng cũng là ân nhân cứu mạng của Linh Phi. Hai người đã trò chuyện với nhau, khi Linh Phi sai người rẽ nước đưa Phan Lang trở về, Vũ Nương đã gửi một cây hoa vàng và nhờ Phan Lang chuyển lời tới Trương Sinh lập đàn giải oan rồi nàng sẽ trở về. Phan Lang về nói lại với Trương Sinh, chàng không tin nhưng khi nhìn thấy chiếc hoa vàng của vợ mới tin đó là sự thật. Chàng bèn lập đàn giải oan ở bến sông Trường Giang. Quả nhiên, Vũ Nương có trở về. Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa đứng giữa dòng nước, theo sau có đến năm mươi chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện. Trương Sinh có gọi nhưng nàng chỉ nói vọng vào ở giữa sông: "Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa". Rồi chốc lát, bóng nàng loang loáng, mờ nhạt dần rồi biến đi mất.

B. Tóm tắt những nội dung chính khi soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương

I. Tác giả

a. Cuộc đời

- Nguyễn Dữ - có sách phiên âm là Nguyễn Tự (chưa rõ năm sinh năm mất)

- Quê quán: Ông là người huyện Trường Tân, nay là Thanh Miện - Hải Dương

Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương hay, ngắn gọn (ảnh 1)

b. Sự nghiệp văn học

- Sự nghiệp sáng tác: Ông học rộng tài cao nhưng chỉ làm quan một năm rồi cáo về, sống ẩn dật ở vùng núi Thanh Hóa. Đó là cách phản kháng của nhiều tri thức tâm huyết đương thời.

- Sáng tác duy nhất của ông là quyển Truyền kỳ mạn lục (Ghi chép tản mạn những truyện kì lạ được lưu truyền).

II. Tác phẩm

1. Hoàn cảnh ra đời, xuất xứ

-  “Chuyện người con gái Nam Xương” thuộc tác phẩm Truyền kì mạn lục (ghi chép tản mạn những điều kì lạ vẫn được lưu truyền), được viết ở thế kỉ XVI. Chuyện người con gái Nam Xương có nguồn gốc từ truyện cổ dân gian Vợ chàng Trương, là thiên thứ 16 trong 20 truyện của Truyền kì mạn lục.

2. Thể loại

- Truyện truyền kỳ mạn lục 

3. Bố cục

- Phần 1 (từ đầu đến “...như đối với cha mẹ đẻ mình” ): Cuộc sống của Vũ Nương từ khi được gả về nhà Trương Sinh.

- Phần 2 (tiếp theo đến “...nhưng việc trót đã qua rồi”): Nỗi oan khuất của Vũ Nương

- Phần 3 (còn lại): Vũ Nương được giải oan.

4. Tóm tắt

Vũ Nương là người con gái quê ở Nam Xương, không chỉ xinh đẹp mà còn có tư dung tốt đẹp. Điều ấy khiến cho Trương Sinh - một chàng trai trong làng yêu mến, xin mẹ đem trăm lạng vàng cưới về. Trong cuộc sống vợ chồng, biết chồng là một người hay ghen, nàng luôn sống giữ gìn khuôn phép để gia đình hòa thuận. Vậy mà chồng nàng, sau khi đi lính chỉ vì một lời ngây thơ của con trẻ, chưa làm rõ đầu đuôi câu chuyện đã giở thói ghen tuông. Dù Vũ Nương hết lòng giải thích nhưng vẫn vô dụng. Nàng quyết định tìm đến cái chết để chứng minh sự trong sạch của mình. Sau này, khi đã hiểu rõ mọi chuyện, Trương Sinh cảm thấy hối hận thì cũng đã muộn. Chàng cho người lập đàn giải oan cho vợ, Vũ Nương hiện về lúc ẩn lúc hiện.

Soạn bài Chuyện người con gái Nam Xương hay, ngắn gọn (ảnh 1)

5. Giá trị nội dung

- Qua câu chuyện về cuộc đời và cái chết thương tâm của Vũ Nương, Chuyện người con gái Nam Xương thể hiện niềm cảm thương đối với số phận oan nghiệt của người phụ nữ Việt Nam dưới chế độ phong kiến đồng thời khẳng định vẻ đẹp truyền thống của họ.

6. Giá trị nghệ thuật

- Thành công về nghệ thuật dựng truyện, miêu tả nhân vật.

- Kết hợp tự sự với trữ tình.

- Có các chi tiết tưởng tượng, kì ảo.

Bài giảng Ngữ văn 9 Chuyện người con gái Nam Xương

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 9 hay, chi tiết khác:

Cách dẫn trực tiếp và cách dẫn gián tiếp

Sự phát triển của từ vựng

Luyện tập tóm tắt văn bản tự sự

Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh

Hoàng Lê nhất thống chí

1 2502 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: