Soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội hay, ngắn gọn
Hướng dẫn soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội Ngữ văn lớp 11 hay, ngắn gọn nhất và đủ ý giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung chính bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội để chuẩn bị bài và soạn văn 11. Mời các bạn đón xem:
Soạn bài Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội - Ngữ văn 11
A. Soạn bài “Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội” ngắn gọn:
Đề 1 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Đọc truyện "Tấm Cám", anh (chị) suy nghĩ gì về cuộc sống đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?
Dàn ý
a. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp)
- Cuộc đấu tranh giữa thiện bao giờ cái thiện cũng giành chiến thắng.
b. Thân bài
- Trong xã hội xưa: Nạn nhân của cái xấu thường là những người có hoàn cảnh đặc biệt: cô bé mồ côi, những người có ngoại hình xấu xí nhưng có tấm lòng nhân hậu. Truyện Tấm Cám cũng ko ngoại lệ.
- Tấm lòng trong sạch mới có thể lam cảm động những thế lực siêu nhiên (như ông Bụt, bà Tiên ..v..v). Nên chú ý nói đến 4 giai đoạn trong cuộc đời Tấm.
- Quy luật " Ở hiền gặp lành, ác giả ác báo".
c. Kết bài
- Bài học nhận thức và hành động
- Khái quát vấn đề
Bài làm tham khảo
Tấm Cám là một truyện cổ tích thần kì có nhiều tình tiết bi thảm, éo le dữ dội phản ánh cuộc đời đấu tranh khốc liệt giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời.
Phần đầu của truyện rất gần gũi với cuộc sống đời thường: bi kịch đầy nước mắt và tiếng thơ dài của những đứa trẻ mồ côi ở với mụ dì ghẻ tham lam, ác độc và đứa em cùng bố khác mẹ có tính ghen ghét. Tấm phải làm quần quật, đầu tắt mặt tối, ăn đói mặc rách, còn Cám thì được ăn trắng mặc trơn, không phải mó tay động chân tới bất cứ công việc nào. Chỉ cần giành đượcc ái yếm đỏ mà Cám đã đánh lừa chị để trút sạch tét trong giỏ chị. Mẹ con mụ dì ghẻ đã âm mưu, thủ đoạn bắt giết con bống là một hành động cực kì nhẫn tâm và độc ác nhằm tước đoạt niềm vui nhỏ nhoi, bình dị của Tấm, đẩy Tấm vào con đường đau khổ, cô đơn. Cái kế trộn đấu thóc lẫn đấu gạo bắt Tấm ngồi nhặt, không cho tấm đi hội đã cho thấy cái thói ghét ghen, lòng dạ đen tối, tâm lí sống nhỏ nhen của mụ dì ghẻ – một mụ đàn bà mất hết cả tình người. Nếu Tấm có được đi hội thì cô cũng không thể đi được khi chỉ có váy áo rách rưới mặc trên người.
"Mấy đời dì ghẻ lại thương con chồng!" cảnh mẹ con mụ dì ghẻ đối xử độc ác, tàn nhẫn với Tấm là chuyện nhan nhản trong cuộc đời xưa nay, mỗi người trong chúng ta đã từng nghe thấy và từng biết. Cái ác và bộ mặt của những kẻ như mụ dì ghẻ trong truyện "Tấm Cám", trong xã hội làm cho bất cứ ai cũng phải ghê sợ và khinh bỉ.
Sự xuất hiện nhiều lần của nhân vật Bụt đã là cho nước mắt của Tấm ngừng chảy, vơi bớt tiếng thở dài. Bụt đã bày cho Tấm cách nuôi bống, gọi bống để có niềm vui, được sống trong "tình bạn". Bụt đã bày cho Tấm cách gọi đàn chim sẻ bay đến nhặt thóc giúp Tấm. Bụt đã bày cho tấm cách chôn xương bống vào chân giường để sau này có áo quần lụa mớ bảy mớ ba, có dây thắt lưng lụa thiên lý, có nón quai thao, có giày thêu và ngựa tía để đi hội. Tiếng nói của Bụt mới chan chứa yêu thương, mới nhiệm mầu biết bao! Nhờ Bụt mà Tấm trở nên xinh đẹp, mới được đi hội. Nhờ Bụt mà Tấm được trở thành hoàng hậu, được sống trong cuộc đời vinh hoa, phú quý.
Bụt trong cổ tích "Tấm Cám" là hiện thân của niềm mơ ước của nhân dân lao động về sự đổ đời, về hạnh phúc. Những gì không thể xảy ra trong cuộc đời thì chỉ có thể ở trong mơ ước. Mơ ước ấy đã thể hiện triết lí về niềm tin "ở hiền gặp lành" của nhân dân ta. Cuộc đời nhiều đắng cay, đen tối, bị cái ác bủa vây, vùi 29/8/2017 Đọc truyện cổ tích Tấm Cám, anh chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?
Truyện cổ tích "Tấm Cám" đẹp về một giấc mơ đổi đời làm cho mỗi chúng ta xúc động:
"Ở hiền thì lại gặp hiền
Người hay thì gặp người tiên độ trì
Mang theo truyện cổ tôi đi
Nghe trông cuộc sống thầm thì tiếng xưa".
(Truyện cổ tích nước mình – Lâm Thị Mỹ Dạ)
Phần hai của truyện cổ tích "Tấm Cám" phản ánh cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác diễn ra không ngừng, càng về sau càng trở nên dữ dội, khốc liệt. Mẹ con mụ dì ghẻ tìm đủ mọi mưu mô, thủ đoạn tàn ác, dã man để tiêu diệt Tấm đến cùng, quyết giành cho được vinh hoa, phú quý.
Hoàng hậu Tấm về quê giỗ cha. Tấm trèo cau hái quả để cúng cha. Mụ dì ghẻ đã cầm dao đẵn gốc cau, Tấm ngã lộn cổ xuống ao chết. Mụ dì ghẻ đưa Cám vào cung lấy vua thay Tấm. Tấm hóa thành chim vàng anh đem lại niềm vui cho vua. Vàng anh hay hồn Tấm cất tiếng oan: "Giặt áo chồng tao thì giặt cho sạch / Giặt mà không sạch, tao rạch mặt ra".
Chim vàng anh bị Cám bắt giết thịt. Lông chim vàng anh hóa ra hai cây xoan đào rợp bóng rất đẹp. vua sai lính hầu mắc võng vào hai cây xoan đào nằm nghỉ hóng mát. Cám sai thợ chặt cây xoan đào đóng khung cửi. Cám vừa ngồi vào khung cửi đó thì nghe khung cửi nguyền rủa: "Cót ca cót két / Lấy tranh chồng chị / Chị khoét mắt ra!".
Cám đốt khung cửi, đem tro đi đổ. Từ đống tro lại mọc lên cây thị xanh tốt. Thị ra hoa, kết trái. Chỉ có một quả thị trên cành, tỏa mùa thơm ngào ngạt. Thị đã rụng vào bị bà lão hàng nước… Cô Tấm tái sinh. Cô Tấm xinh đẹp từ trong quả thị bước ra, trở lại với cuộc đời. Nhà vua chỉ nhìn qua miếng trầu têm cánh phượng mà nhận ra Tấm, người vợ xinh đẹp, yêu thương của mình.
Sau khi bị giết, Tấm không ngừng tái sinh, phục sinh nhưng đã bị Cám tìm đủ mọi cách tàn sát, hủy diệt. Chim vàng anh bị Cám giết thịt. Cây xoan đào bị Cám đốn. Khung cửi bị Cám đốt. Cây thị mọc lên tươi tốt. Thị kết trái. Tấm được phục sinh rồi được gặp lại nhà vua. Đó là những kiếp luân hồi của Tấm. Đó là sức sống mạnh mẽ, bất diệt của Tấm. Tấm bị sát hại, nhưng hồn Tấm vẫn căm giận kết án kẻ độc ác đã giết chết mình. 29/8/2017 Đọc truyện cổ tích Tấm Cám, anh chị có suy nghĩ gì về cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?
Quá trình biến hóa của Tấm trong phần hai truyện cổ tích "Tấm Cám" đã thể hiện sức chiến đấu kiên cường bất khuất, sức sống mạnh mẽ bất diệt của nhân dân lao động, của cái thiện trước cái ác, trước mọi thế lực đen tối và tàn bạo, trước mọi âm mưu quỷ quyệt. Cho dù bị giết chết, bị xé xác, bị phanh thây, cho dù bị đốt xác thì Tấm vẫn bất diệt!
Phần cuối của truyện là kết cục đáng đời của hai mẹ con người đàn bà tham lam, độc ác và quỷ quyệt. Cám chui xuống hố sâu, bị giội nước sôi mà chết. Mụ dì ghẻ thấy Cám chết rồi cũng lăn đùng ra chết. Hành động trả thù của Tấm và cái chết của hai mẹ con Cám đã thể hiện cuộc đấu tranh đẫm máu giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong cuộc đời xưa, nay. Đó là mơ ước của những con người bị áp bức, bị vùi dập. Và đó cũng là triết lí, là niềm tin của nhân dân: "Ác giả ác báo".
Trên con đường đi tìm chân lí, tìm ấm no hạnh phúc, những truyện cổ tích thần kì như truyện "Tấm Cám" mãi mãi là bài ca về những mơ ước đẹp, giàu nhân bản cho ta niềm vui, niềm tin và sức mạnh trừng phạt cái ác, chiến thắng cái ác.
Đề 2 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong "Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba - 1442"
Dàn ý
a. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp)
- Thân Nhân Trung là người có nhiều quan điểm tiến bộ, sâu sắc thể hiện sự chăm lo cho sự nghiệp hưng thịnh của nước nhà.
b. Thân bài
- Bày tỏ quan điểm của mình:
+ Khẳng định ý kiến của Thân Nhân Trung là hoàn toàn đúng đắn và sâu sắc.
+ Giải thích ý nghĩa câu nói của Thân Nhân Trung
+ Bài học rút ra từ tư tưởng của Thân Nhân Trung
c. Kết bài
- Bài học nhận thức và hành động
- Khái quát vấn đề
Bài làm tham khảo
Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã nhìn nhận:
“Tuấn kiệt như sao buổi sớm
Nhân tài như lá mùa thu”
để khẳng định giá trị của những trang nam tử, hảo hán cũng như những người tài trong công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước. Từ xưa tới nay, người ta luôn đề cao vai trò của hiền tài trong bất cứ hoàn cảnh, triều đại nào. Cũng bàn về vấn đề này, trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại bảo thứ ba - 1442, Thân Nhân Trung đã đề bút: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Thật vậy, với mỗi quốc gia, hiền tài chính là nguyên khí. “Hiền tài” là từ Hán Việt dùng để chỉ những con người vừa tài giỏi lại vừa có tâm, có đạo đức và phẩm chất hơn người. Những người này sẽ mang đến sự hưng thịnh cho quốc gia. Còn “nguyên khí” là cốt khí, sức mạnh nội tại của mỗi quốc gia, dân tộc trong công cuộc xây dựng đất nước. Nói như thế có nghĩa, người vừa có tài, vừa có đức chính là sức mạnh nội tại lớn lao để đất nước có thể phát triển đi lên. Thân Nhân Trung đã nhìn nhận thật sắc vấn đề này, khi khẳng định, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi xuống thấp.
Có thể nói ngoài Thân Nhân Trung thì chưa có bất kì một ai có thể nói nên mối liên hệ giữa hiền tài và sự suy thịnh của một triều đại một quốc gia. Ông đã đặt ra một sự gắn kết chính xác một đường lối chiến lược về văn hóa giáo dục và nó đúng cho dù ở bất cứ một triều đại, một thế kỉ nào.
Và cũng kể từ khi Thân Nhân Trung đưa ra nhận định này nó đã được các triều đại phong kiến coi như một tư tưởng quan trọng trong quốc sách văn hóa giáo dục. Quan niệm như thế khẳng định hiền tài có vai trò ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh dân tộc, Đồng thời cũng nhấn mạnh vai trò của nhà nước trong việc chăm lo nuôi dưỡng và đào tạo hiền tài.
Thời đại của nhà vua Lê Thánh Tông là thời đại hưng thịnh phát triển trên nhiều mặt , đạt đến đỉnh cao trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước chính vì thế nên dưới thời này đất nước có đến 502 người đỗ tiến sĩ trong đó có 10 người đỗ đẹ nhất giáp, đệ nhất danh và những vị hiền nhân này có vai trò vô cùng quan trọng trong công cuộc chấn hưng mạnh mẽ nước nhà.
Và tiếp thu truyền thống tốt đẹp đó Chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đề cao vai trò của việc đào tạo nhân tài. Người đã từng nói chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta hoàn toàn độc lập, dân ta hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Chính vì thế mà ngay sau khi dân ta giành được độc lập người đã đặt cho giáo dục một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Và Người cũng nhấn mạnh “một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. NGười kêu gọi các cháu thiếu nhi phải ra sức học tập để sánh vai với các cường quốc năm châu.
Bên cạnh đó Người cũng sử dụng chính sách chiêu mộ nhân tài đưa vào chính phủ lâm thời. một số những bậc nhân sĩ có tài lại yêu nước có thể kể đến như Huỳnh Thúc Kháng, Phan Anh, Nguyễn VĂn Huyên, Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Hữu Thọ….Quan điểm của Bác cũng được kế thừa từ quan điểm dùng hiền tài chấn hưng nền giáo dục nước nhà đã được Thân Nhân Trung nêu lên cách đây hơn 500 năm.
Có thể nói dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, bất kì chế độ nào thì việc đào tạo nhân tài cũng có vai trò vô cùng quan trọng. Nó không chỉ làm cho cuộc sống con người trở nên tốt đẹp hơn mà điều quan trọng nó còn khiến cho vận khí đất nước trở nên phồn vinh hơn.
Đề 3 (trang 14 sgk Ngữ văn 11 Tập 1): Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm: “học đi đôi với hành”
Dàn ý
a. Mở bài
- Giới thiệu vấn đề cần nghị luận (có thể mở bài trực tiếp hoặc gián tiếp)
- Phương pháp học đi đôi với hành và khái quát suy nghĩ
b. Thân bài
*Giải thích
“Học đi đôi với hành”: lĩnh hội kiến thức trong sách vở, qua lời dạy của thầy cô, của người có kinh nghiệm, hiểu biết và áp dụng những lí thuyết đó vào thực tế cuộc sống để thực hiện công việc của mình và rút ra bài học cho bản thân tiến bộ hơn.
* Phân tích
- Sách vở cung cấp cho chúng ta vô vàn kiến thức thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau
- Có học mà không có hành thì cũng chỉ là những kiến thức suông vì giữa học và hành có nhiều sự khác biệt.
* Chứng minh
- Học sinh tự lấy dẫn chứng cho bài làm văn của mình.
- Lưu ý: dẫn chứng phải xác thực, nổi bật được nhiều người biết đến.
*Phản biện
- Có nhiều bạn chỉ chăm chú vào học kiến thức trong sách vở, miệt mài với đèn sách nhưng không quan tâm đến việc áp dụng kiến thức đó vào thực tế.
- Lại có những người tuy có kinh nghiệm, được áp dụng thực tế nhưng lại không tích lũy, không có đủ kiến thức cần thiết.
c. Kết bài
- Bài học nhận thức và hành động
- Khái quát vấn đề
Bài làm tham khảo
Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại từng chỉ rõ để đào tạo được những con người vừa tài vừa đức cho đất nước thì không có cách nào hữu hiệu hơn phương châm “Học đi đôi với hành”. Bác cũng nhấn mạnh: “Học với hành phải đi đôi. Học mà không hành thì học vô ích. Hành mà không học thì hành không trôi chảy”. Thiết nghĩ phương châm và quan điểm ấy đều mang tính thời đại, đặc biệt phù hợp với nền giáo dục Việt Nam, khi chúng ta còn quá chú trọng lý thuyết mà xem nhẹ thực hành.
Học là một quá trình lĩnh hội, tiếp thu kiến thức một cách tích cực, chủ động từ nhiều nguồn khác nhau như sách vở, người hướng dẫn, bạn bè, cha mẹ,... Những kiến thức ấy không chỉ là những lý thuyết có trong sách giáo khoa mà còn là những giá trị văn hóa, đạo đức của xã hội. Con người học nhằm mục đích trau dồi trí tuệ, phát triển và hoàn thiện bản thân mình để cống hiến cho xã hội, đất nước. Song song với quá trình học là quá trình “hành”, hiểu một cách đơn giản đó là quá trình đưa lý thuyết vào với thực tiễn, là hành động cụ thể có chủ đích, nhằm kiểm tra, xác nhận và tạo ra kết quả từ những lý thuyết đã học. Ví dụ như việc bạn đọc sách dạy nấu ăn và bạn phải nấu để kiểm tra xem sách dạy có thực sự giúp bạn nấu ngon hơn không, còn món ăn mà bạn làm ra đó chính là thành quả đạt được sau khi kết hợp học và hành. Thực hành không phải là quá trình chỉ cần làm làm một lần duy nhất mà đó là một quá trình lặp lại, đến độ thuần thục thì khi đó mới thực sự là đưa lý thuyết vào thực tiễn thành công. Món ăn bạn mới học được, lần đầu bạn nấu hơi mặn, lần sau lại hơi nhạt, nhưng bạn nấu đến lần thứ 10 thì chắc chắn phải vừa, nếu không thì hẳn là lưỡi bạn đã có vấn đề.
Về phương châm “Học phải đi đôi với hành”, đó là một phương châm đúng đắn trong mọi sự học hành. Chúng ta đừng nên chống chế rằng các nhân sĩ thời phong kiến học chỉ học thuộc vài chục cuốn kinh thư là đã đỗ đạt làm quan rồi nổi danh một thời. Nay đã là thế kỷ 21, con người phải bao gồm cả đức và tài, đặc biệt là đương thời buổi hội nhập, chúng ta cần phải có những bước tiến vượt bậc, những bước đường tắt thì mới mong rút ngắn được khoảng cách tụt hậu trăm năm. Thế nên không còn cách nào khác là học và hành phải đi đôi với nhau, chúng ta vừa học vừa làm luôn, sai đâu sửa đó để rút ngắn thời gian kiểm chứng, để nhanh tạo ra những thành tựu nổi bật. Chẳng vậy mà, ở những trường đại học, cao đẳng, hay trường dạy nghề, họ thường bố trí học lý thuyết và thực hành song song. Sinh viên y sáng học lý thuyết về nhóm máu, chiều đã bước lên phòng thí nghiệm tự chích máu của mình ra làm thí nghiệm luôn. Qủa thực phải như vậy thì mới nhớ lâu, hiểu kỹ được. Hay như Debra Luffer có một câu nói rất kinh điển: “Có những ý nghĩ có thể mãi mãi chỉ nằm trên giấy, nhưng những ý tưởng khác thì luôn có một con đường dẫn thẳng vào trong các nang, các chai ngành dược”. Vậy sự chênh lệch ấy là ở đâu, khi mà mọi ý tưởng đều có một cơ hội như nhau, đó chính là sự thực hành của con người, thành công hay thất bại đều chỉ nằm trong một hành động làm hay không mà thôi. Lại lấy một ví dụ khác, người nghệ sĩ nắm rất rõ phương thức gảy đàn, nhưng chưa một lần sờ vào dây đàn thì đó không phải là một nghệ sĩ chân chính, bởi họ không tạo cho đời một khúc nhạc êm ái. Cũng tương tự như bạn học tiếng Anh mỗi ngày nhưng chưa bao giờ dám bắt chuyện với một người nước ngoài hay đơn giản là trốn tránh cả những tiết luyện nghe nói. Điều ấy cho thấy rằng lý thuyết của các bạn là lý thuyết chết, chỉ có thực hành mới tiếp cho chúng sự sống để khiến chúng tồn tại và phát triển. Có điều mà mọi người ít khi nghĩ đến, đó chính là lý thuyết cho chúng ta hiểu biết 1 phần thì thực hành làm được gấp 10 lần như thế, đó là những bài học kinh nghiệm mà chẳng lý thuyết nào viết ra cho bạn, trừ khi bản thân bạn tự trải nghiệm và lưu giữ.
Tuy vậy, ngày nay lại có một bộ phận không nhỏ những người học kiểu đối phó, học cho có, đến kỳ thi thì đi sưu tập đề thi năm ngoái hoặc có người thì đọc thuộc cả sách, trong khi chỉ cần túm đại một chỗ hỏi lại là đã vật vã, hoang mang vì không giải thích được. Đó là thói học vẹt, học tủ vô cùng nguy hại, rồi mai đây đất nước chỉ toàn mọt sách, toàn những cái đầu lười tư duy, lười hành động, não chỉ có nhiệm vụ ghi nhớ và không hơn. Chưa kể có người học chỉ vì thăng quan, tiến chức chứ chẳng phải vì trau dồi kiến thức, thế nên mới có cảnh 50 ngàn, 30 ngàn một buổi học hộ, học thuê. Riết rồi nghĩ cái người học hộ bỏ ra vài tiếng kiếm mấy chục ngàn rẻ mạt, còn người thuê thì chẳng cần học cũng không cần hành luôn. Ôi từ khi nào cái sự học nó lại lạ thế!
Tôi từng có nghe câu chuyện học sinh hỏi người hướng dẫn cách thực tập, người hướng dẫn lấy cuốn sách hướng dẫn mò mẫm cả buổi mà vẫn chẳng nghĩ ra cách, đây là lỗi của việc lười thực hành. Thế nên hãy ghi nhớ, học phải có hành, học mà không hành chẳng khác nào không học, học như vậy vừa tốn thời gian, vừa vô nghĩa. Có câu nói thì hay mà làm thì dở, chính là một câu phê phán sâu sắc cho thói quen học mà lười thực hành ấy, bởi có bao giờ làm đâu mà hay cho được.
“Học đi đôi với hành” là một phương châm chuẩn xác, là kim chỉ nam cho ngành giáo dục của Việt Nam ta, để tạo ra thế hệ thanh niên giỏi toàn diện, vừa chắc lý thuyết lại vừa giỏi làm, tiết kiệm được nhiều kinh phí trong việc đào tạo lại. Riêng thế hệ học sinh chúng ta lại càng cần phải nắm chắc phương châm trên, học viết thì phải luyện viết, học võ thì phải luyện quyền, học toán thì phải xông pha đi giải bài tập. Có thế lý thuyết mới không là lý thuyết suông mà lý thuyết đã phối hợp thật ăn ý với thực hành cho ra những kết quả tốt đẹp.
B. Tóm tắt những nội dung chính khi soạn bài “Viết bài làm văn số 1: Nghị luận xã hội”:
- Xác định được kiểu bài: Nghị luận xã hội.
- Lập luận chặt chẽ, bố cục rõ ràng, văn viết có cảm xúc.
- Ít mắc lỗi chính tả dùng từ và diễn đạt.
- Sáng tạo trong diễn đạt.
Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 11 | Giải bài tập Hóa học 11 Học kì 1, Học kì 2 (Sách mới)
- Lý thuyết Hóa học 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Hóa 11
- Giải sbt Hóa học 11 (sách mới) | Sách bài tập Hóa học 11
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 11
- Giáo án Hóa học lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Toán 11 | Giải bài tập Toán 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Các dạng bài tập Toán lớp 11
- Lý thuyết Toán lớp 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 11
- Giáo án Toán lớp 11 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 11 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Tiếng Anh 11 | Giải bài tập Tiếng anh 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 11
- Giải sbt Tiếng Anh 11 (thí điểm)
- Giải sgk Lịch sử 11 | Giải bài tập Lịch sử 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch Sử 11(sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch Sử 11
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 11
- Giải sgk Vật Lí 11 | Giải bài tập Vật lí 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Vật Lí 11 (sách mới) | Sách bài tập Vật Lí 11
- Lý thuyết Vật Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Vật Lí 11
- Các dạng bài tập Vật Lí lớp 11
- Giáo án Vật lí lớp 11 mới nhất
- Giải sgk Sinh học 11 | Giải bài tập Sinh học 11 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Sinh học 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Sinh 11
- Giải sgk Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Giáo dục công dân 11
- Lý thuyết Địa Lí 11 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa lí 11
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 11
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 11