Soạn bài Viết bài tập làm văn số 3: Nghị luận văn học hay, ngắn gọn

Hướng dẫn soạn bài Viết bài tập làm văn số 3: Nghị luận văn học Ngữ văn lớp 11 hay, ngắn gọn nhất và đủ ý giúp học sinh dễ dàng nắm được nội dung chính bài Viết bài tập làm văn số 3: Nghị luận văn học để chuẩn bị bài và soạn văn 11. Mời các bạn đón xem:

1 679 lượt xem
Tải về


Soạn bài Viết bài tập làm văn số 3 : Nghị luận văn học - Ngữ văn 11

A. Soạn bài “Viết bài tập làm văn số 3: Nghị luận văn học” ngắn gọn:

Đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích:

Đầu lòng hai ả tố nga

......

Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai.

(Nguyễn Du, Truyện Kiều)

Dàn ý:

1. Mở bài

- Giới thiệu đề tài nghị luận: so sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.

2. Thân bài:

a. Nét giống nhau giữa tài sắc của Thúy vân và Thúy Kiều

- Vẻ đẹp từ bên ngoại

+ Hai ả tố nga

+ Mười phân vẹn mười.

- Lẫn vẻ đẹp từ tâm hồn bên trong

+ Mai cốt cách, tuyết tinh thần.

Êm đềm trướng rủ màn che.

Tường đông ông bướm đi về mặc ai

⇒ Ngợi ca kín đáo của nhà thơ về tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.

b. Nét khác nhau giữa tài sắc của Thúy vân và Thúy Kiều

- Vẻ đẹp Thúy Vân

+ Vẻ đep thanh tú, miệng nàng cười như hoa nở, mái tóc nàng đen mượt, làn da trắng mịn như tuyết.

+ Dự báo cuộc đời êm ả sau này nàng (mày thua, tuyết nhường)

- Vẻ đẹp Thúy Kiều

+ Người con gái “sắc sảo, mặn mà”

+ Mắt nàng thăm thẳm như làn nước trong veo của mùa thu.

+ Dự báo cuộc đời đau khổ sau này. (hoa ghen, liêu hờn).

- Tài năng Thúy Kiều

+ Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.

+ “Thiên bạc mệnh” à dự báo tấn bi kịch” hồng nhan bạc mệnh.

3. Kết bài

- Đánh giá chung: cảm nhận chung của em khi so sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.

Bài làm tham khảo

Nguyễn Du là đại thi hào của dân tộc ta. Tên tuổi của ông gắn liền với tác phẩm “Truyện Kiều” – kiệt tác số một của văn học trung đại Việt Nam. Có lẽ đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” trích trong tác phẩm là những vần thơ tuyệt bút. Chỉ bằng 24 câu thơ lục bát, Nguyễn Du đã miêu tả cả tài, sắc và đức hạnh của hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều với tất cả lòng quý mến, trân trọng của nhà thơ.

Đoạn trích “Chị em Thuý Kiều” nằm trong phần : “Gặp gỡ và đính ước”, sau phần giới thiệu gia cảnh gia đình Thuý Kiều. Với nhiệt tình trân trọng ngợi ca, Nguyễn Du đã sử dụng bút pháp nghệ thuật ước lệ cổ điển, lấy những hình ảnh thiên nhiên để gợi, tả, khắc họa vẻ đẹp chị em Thuý Kiều thành những tuyệt sắc giai nhân.

Trước hết, Nguyễn Du cho ta thấy vẻ đẹp bao quát của hai chị em Thuý Kiều trong bốn câu đầu:

Đầu lòng hai ả tố nga,

Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.

Mai cốt cách, tuyết tinh thần,

Mỗi người mỗi vẻ mười phân vẹn mười.

Nhà thơ dùng từ Hán Việt “tố nga” chỉ những người con gái đẹp tinh tế để gọi chung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều. Hai chị em được ví von có cốt cách thanh cao như hoa mai, có tâm hồn trong sáng như tuyết trắng. Mỗi người có vẻ đẹp riêng và đều đẹp một cách toàn diện. Từ cái nhìn bao quát ấy, nhà thơ đi miêu tả từng người. Bằng nghệ thuật ước lệ tượng trưng, liệt kê, nhân hoá, tác giả miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân là vẻ đẹp trang trọng, quý phái, phúc hậu:

Vân xem trang trọng khác vời,

Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười , ngọc thốt đoan trang,

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da

Vẻ đẹp của Thuý Vân có sự hoà hợp với tự nhiên, như ngầm dự báo trước tương lai êm ấm, bình lặng trong cuộc đời nàng.

Tác giả dùng thủ pháp đòn bẩy, tả khách hình chủ, tả Thuý Vân trước rồi mới tả Thuý Kiều. Vân đã đẹp, Kiều càng muôn phần đẹp hơn. Thuý Kiều lại có nhan sắc “ sắc sảo mặn mà”. Kiều “sắc sảo” về trí tuệ, “mặn mà” về tâm hồn. Đặc biệt, vẻ đẹp ấy thể hiện qua đôi mắt “làn thu thuỷ nét xuân sơn”. Đôi mắt chính là cửa sổ tâm hồn, đôi mắt Kiều trong sáng, long lanh như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú như nét núi mùa xuân. Nếu vẻ đẹp của Thuý Vân được thiên nhiên tạo hoá sẵn sàng nhường nhịn thì với Thuý Kiều, vẻ đẹp ấy lấn át cả thiên nhiên, khiến cho thiên nhiên ấy phải đố kị, ghen ghét:

“ Kiều càng sắc sảo mặn mà,

So bề tài sắc lại là phần hơn,

Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”

Nếu như nhan sắc của Thuý Kiều khiến cho nghiêng thành đổ nước, không ai sánh bằng thì tài năng của nàng may ra mới có người thứ hai.

“Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai,

Thông minh vốn sẵn tính trời,

Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm”

Thuý Kiều thông minh do thiên bẩm nên tất cả những môn nghệ thuật: thi hoạ, ca ngâm, nàng đều rất điêu luyện, đặc biệt là tài gảy đàn: “Cung thương làu bậc ngũ âm”. Nàng không chỉ giỏi về âm luật mà còn biết sáng tác. Khúc nhạc “Bạc mệnh” mà nàng sáng tác làm cho người nghe phải rơi lệ.

Như vậy, vẻ đẹp của Thuý Kiều là sự kết hợp giữa sắc-tài-tình. Chính vẻ đẹp ấy cũng ngầm dự báo một số phận không êm đềm, bình lặng như Thuý Vân, mà đầy trắc trở, éo le.

Những câu thơ cuối khái quát về cuộc sống đức hạnh của chị em Thuý Kiều:

“Êm đềm trướng rủ màn che,

Tường đông ong bướm đi về mặc ai”

Hai chị em sống trong môi trường gia giáo, nề nếp, tránh xa những chuyện thị phi ong bướm ngoài đời.

Đoạn thơ “Chị em Thuý Kiều” đã tái dựng tài tình chân dung hai trang tuyệt sắc giai nhân Thuý Vân, Thuý Kiều bằng nhiều biện pháp ẩn dụ, tượng trưng, hình ảnh ước lệ, từ ngữ trong sáng, giàu sức gợi. Qua chân dung hai chị em Thuý Vân, Thuý Kiều, nhà thơ Nguyễn Du đã bộc lộ thái độ trân trọng, ngợi ca vẻ đẹp người phụ nữ. Đó chính là một trong những biểu hiện rõ nét của tư tưởng nhân đạo Nguyễn Du trong “Truyện Kiều”.

Đề 2: "Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng giọng thơ lại có điểm khác nhau". Anh (chị) hãy làm rõ ý kiến trên.

Dàn ý:

1. Mở bài

- Giới thiệu khái quát về hai tác giả Nguyễn Khuyến và Tú Xương.

- Giới thiệu vấn đề bàn luận: "Nguyễn Khuyến và Tú Xương có nỗi niềm tâm sự giống nhau những giọng thơ lại có điểm khác nhau".

2. Thân bài

a. Nỗi niềm tâm sự giống nhau của Nguyễn Khuyến và Tú Xương

- Lột tả một cách chân thực và sâu sắc bộ mặt của đám quan chức đương thời

- Thái độ chua chát, mỉa mai của nhà thơ trước cảnh chạy quan chức, những cảnh rối ren nơi trường thi..

 Sự mỉa mai, châm biếm, đả kích, tố cáo những thói hư, tật xấu, những cảnh chướng tai, gai mắt của xã hội đương thời.

b. Giọng thơ khác nhau của hai ông

- Nguyễn Khuyến: giọng thơ mỉa mai nhẹ nhàng mà sâu sắc với những hàm ý sâu cay. Nguyễn Khuyến thường dùng nhiều hình thức ẩn dụ khác nhau

- Tú Xương: ông luôn hướng thằng ngòi bút trào phúng của mình vào các đối tượng, mà lột hết những cái xấu xa, giả dối của nó, khi đã mỉa mai, châm biếm thì phải thì phải thật sâu cay, độc địa.

c. Nguyên nhân của sự giống và khác nhau

- Giống nhau: hai ông đều sống cùng dưới một thời đại, xã hội đầy những cảnh chướng tai gai mắt.

- Khác nhau:

+ Đặc trưng của văn học

+ Đặc điểm con người của mỗi nhà thơ:

Nguyễn Khuyến là một người thuận lợi trong con đường học vấn, thi cử

Tú Xương dẫu có tài năng nhưng con đường khoa cử lao đao, không thuận lợi

+ Hoàn cảnh sống:

Nguyễn Khuyến từ nhỏ đã sống ở nông thôn

Tú Xương thì hoàn toàn khác, ông sinh ra và lớn lên ở thành thị

3. Kết bài

Khái quát vấn đề nghị luận và nêu cảm nghĩ của bản thân về đặc điểm sáng tác của hai nhà thơ.

Bài làm tham khảo

Hiện thực xã hội sẽ luôn là chất liệu của thơ ca bởi thơ ca, nghệ thuật là tấm gương phản ánh chân thực nhất sự vận động và phát triển của cuộc sống. Tú Xương và Nguyễn Khuyến đều là những người con sinh ra tại mảnh đất Nam Định và các ông có những nỗi niềm tâm sự giống nhau nhưng trong giọng thơ có điểm khác biệt. Sự khác biệt ấy làm nên màu sắc riêng của hai người, cũng tạo nên sự đa dạng, phong phú cho thơ ca Việt Nam đương thời.

Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ sống trong cùng một thời đại: vào cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Đây là thời kì đầy biến động trong lịch sử dân tộc. Từ năm 1858, Pháp đã chính thức nổ súng xâm lược Việt Nam ở cửa biển Đà Nẵng. Triều đình nhà Nguyễn nhanh chóng đầu hàng để Pháp dễ dàng chiếm được đất nước, lên nắm quyền và thiết lập một chế độ nhà nước nửa thực dân phong kiến. Vua Nguyễn vẫn còn nhưng thực chất chỉ là con bù nhìn để Pháp giật dây, điều khiển mà thôi. Cuối thế kỉ XIX, triều đình càng lúc càng trở nên thối nát. Chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng và đang ở bên bờ vực của sự sụp đổ. Đời sống nhân dân khổ cực bởi thuế má nặng nề, xã hội tăm tối, nửa tây nửa ta, nhiều hệ giá trị lung lay và sụp đổ. Đồng tiền trong xã hội và sự phi nhân tính lên ngôi. Cuộc sống bất công, tàn ác với biết bao điều lố lăng, nực cười trở thành lẽ thường tình diễn ra hàng ngày. Chính vì chứng kiến những điều “chướng tai gai mắt ấy” những nhà nho nhân cách cao đẹp, yêu nước và trăn trở với vận mệnh dân tộc đều mang nặng nỗi đau thế sự. Họ đã mang cái thở dài của mình vào trong thơ: có cả nỗi buồn, chua xót và cả tiếng cười phỉ báng sâu cay.

Tú Xương và Nguyễn Khuyến có nỗi niềm tâm sự giống nhau. Đó chính là hiện thực xã hội thực dân nửa phong kiến đầy rẫy những bất công, bạo ngược và tình cảnh khốn cùng của nhân dân lao động trong sáng tác của các ông. Không khó để người đọc có thể bắt gặp trong thơ hai ông tâm sự về lòng yêu nước, về thời thế và hiện thực xã hội với một sự đau xót, cảm thông trước cảnh lầm than của nhân dân. Càng đau xót bao nhiêu thì sức tố cáo, đả kích lại càng mạnh mẽ bấy nhiêu. Tú Xương đã viết về tình cảnh khốn khó, cùng cực phải chạy ăn từng bữa, lo toan đủ thứ điều dù đã cố gắng:

“Van nợ lắm khi tràn nước mắt

Chạy ăn từng bữa toát mồ hôi

Biết thân thuở trước đi làm quách

Chẳng ký, không thông, cũng cậu bồi!”

Còn với Nguyễn Khuyến, ông viết về hiện thực xã hội khi đồng tiền có sức mạnh ghê gớm, mua được cả công lí và đạo đức của con người, đặc biệt là những kẻ làm quan:

“Nổi tiếng mượn màu son phấn mụ

Đem thân chuộc lấy tội tình cha

Có tiền việc ấy mà xong nhỉ?

Đời trước làm quan cũng thế a?”

Không chỉ gặp nhau trong nỗi niềm về đất nước, thơ Tú Xương và Nguyễn Khuyến cũng nói lên tình yêu quê hương đất nước và sự trân trọng, nâng niu tình cảm bạn bè và gia đình. Người đọc hẳn vẫn còn nhớ bức tranh thu với không gian quen thuộc ở làng quê Bắc Bộ trong chùm thơ thu của Nguyễn Khuyến. Đó là một bầu trời cao rộng với những con ngõ trúc quanh co, vắng lặng, yên tĩnh, chỉ có ông cụ già ngồi bó gối buông cần chờ cá cắn câu:

“Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt

Ngõ trúc quanh co khách vắng teo

Tựa gối buông cần lâu chẳng được

Cá đâu đớp động dưới chân bèo”

Ta cũng cảm động trước một tình bạn cao đẹp, thiêng liêng vượt lên trên mọi vật chất tầm thường giữa Nguyễn Khuyến và người bạn của mình:

“Đầu trò tiếp khách trầu không có

Bác đến chơi đây ta với ta”

Còn với Tú Xương hầu hết những bài thơ trữ tình của ông dành cho bà Tú với một sự trân trọng, biết ơn của người chồng khi chứng kiến những gánh nặng đặt cả trên đôi vai gầy của bà Tú. Với Tú Xương, bà Tú không chỉ là vợ, mà đối với ông, bà còn như một người ân nhân ở bên cạnh, tảo tần, vất vả sớm tối trong khi ông luôn trào phúng vì sự bất lực, vô dụng của mình. Tú Xương viết về bà Tú bằng những vần thơ thật đẹp:

“Quanh năm buôn bán ở mom sông

Nuôi đủ năm con với một chồng

Lặn lội thân cò khi quãng vắng

Eo sèo mặt nước buổi đò đông”

Đồng điệu trong nỗi niềm trước cuộc đời, trước cảm xúc là thế, song thơ của hai ông vẫn có sự khác biệt, đặc biệt là khác biệt trong giọng điệu. Nguyễn Khuyến và Tú Xương đều sáng tác thơ trào phúng và thơ trữ tình. Với Nguyễn Khuyến,thơ trữ tình của ông có giọng điệu biến đổi linh hoạt, khi thì đằm thắm lúc lại đau xót. Còn tiếng cười trào phúng trong thơ ông là tiếng cười hóm hỉnh, nhẹ nhàng, thâm trầm đầy ngụ ý. Mặc dù cũng là sự mỉa mai, châm biếm nhưng ta vẫn thấy trong ấy sự tự trào. Trong bài thơ Tiến sĩ giấy, thứ “đồ thật - đồ chơi” được đánh tráo khái niệm với nhau khiến cho người ta mù mờ, không phân biệt được thật giả. Lòng tin về một hình mẫu con người từng được chế độ phong kiến đề cao không còn tồn tại với Nguyễn Khuyến nữa, bởi nạn mua quan bán chức diễn ra quá phổ biến lúc bấy giờ. Điều ấy cũng đồng nghĩa với việc giá trị, thước đo giá trị của kẻ làm quan không gì khác chính là họ có ích gì cho buổi ấy, tức là khả năng đảm trách được những việc lớn của quốc gia đại sự trong khi vận nước đang nguy khốn. Nếu không có được khả năng đó, tất thảy những ông nghè thật cũng chỉ là một thứ đồ chơi mà thôi:

“Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,

Nghĩ rằng đồ thật hoá đồ chơi !”

Với Tú Xương thơ trữ tình của ông chỉ yếu viết về bà Tú - người phụ nữ tảo tần, đảm đang, chịu thương chịu khó, với tất cả lòng yêu thương, trân trọng và cảm phục. Còn với thơ trào phúng, tiếng cười trong thơ Tú Xương là tiếng cười suồng sã, sâu cay và dữ dội. Đọc thơ trào phúng của Tú Xương người đọc vừa đau xót với hiện thực, lại vừa hả hê sung sướng vì những bức chân dung châm biếm của những con người đức cao vọng trọng xuất hiện trong tác phẩm của ông. Trong bài thơ Vịnh khoa thi hương quang cảnh trường thi với những sĩ tử, quan trường, giám thị được hiện lên qua những nét vẽ:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ,

Ậm ọe quan trường miệng thét loa.

Lọng cắm rợp trời quan sứ đến,

Váy lê quét đất mụ đầm ra”

Một cuộc thi để lựa chọn người tài phụng sự đất nước nhưng ở đây ta chỉ thấy sự nhốn nháo, ô hợp, lẫn lộn và những hình ảnh hài hước, châm biếm: sĩ tử thì lôi thôi nhếch nhác, quan trường thì ậm ọe, gào thét, trang phục của mụ đầm, vợ quan sứ thì lòe loẹt, nhố nhăng,...Tất cả đã biến trường thi thành một sân khấu tấu hài hợm hĩnh. Bài thơ cũng là sự phẫn uất của Tú Xương trước chế độ thi cử và nỗi lo của ông trước tình cảnh của đất nước.

Sở dĩ có sự khác nhau ấy là bởi Nguyễn Khuyến là người học rộng, tài cao rất thuận lợi trong con đường thi cử. Ông đã đỗ đạt cao. Thi hương, thi hội, thi đình ông đều đỗ đầu nên nhân dân trong vùng gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ. Ông là người tài năng, có cốt cách thanh cao và một tấm lòng yêu nước, thương dân. Ông chỉ làm quan trong khoảng mười năm còn phần lớn cuộc đời là dạy học và sống thanh bạch ở quê nhà. Tú Xương cũng là một người tài giỏi nhưng ông lại không may mắn trong thi cử mà cứ mãi long đong, lận đận. Ông đi thi nhiều lần nhưng cũng chỉ đậu được tú tài. Cuộc sống khó khăn với gánh nặng cơm áo gạo tiền, ông chẳng giúp được gì cho vợ con mà mọi thứ đè lên vai bà Tú. Vì thế mà giọng thơ của ông vừa chua chát, vừa bất lực lại vừa mạnh mẽ, phẫn uất.

Có thể nói, Nguyễn Khuyến và Tú Xương là hai nhà thơ nổi tiếng của nước ta những năm cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX. Những sáng tác của hai ông đã góp phần làm nên thanh điệu khác nhau cho nền thơ ca nước nhà. Cả hai ông đều có những nỗi niềm tâm sự về sự căm ghét xã hội thực dân nửa phong kiến thối nát, nhố nhăng với đầy rẫy những bất công và sự đồng cảm, sẻ chia với cuộc sống của nhân dân cũng như trân trọng những tình cảm thiêng liêng, cao quý trong cuộc đời mỗi người. Song đọc thơ hai ông, ta sẽ nhận ra ngay màu sắc, cá tính và cái tôi của hai người. Sự khác biệt trong giọng điệu tạo nên dấu ấn riêng của người nghệ sĩ. Cũng nhờ thế ta cũng hiểu thêm và trân trọng hơn những gì mà họ đã đóng góp cho thơ ca dân tộc.

Đề 3: Vẻ đẹp của hình tượng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

Dàn ý:

1. Mở bài

Giới thiệu: vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu

2. Thân bài

a. Hoàn cảnh sáng tác Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

+ Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (1859)

+ Phong trào vũ trang kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ (Trương Định).

+ Đêm rằm 16-12-1861, Bùi Quang Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở Cần Giuộc.

+ Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní.

+ Pháp phải điều động tàu chiến nã đại bác từ sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn.

+ Phía nghĩa quân hi sinh 27 người.

b. Vẻ đẹp người nông dân

+ Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn”sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp.

+ Lòng căm thù, ghét cay ghét đắng trướng hình ảnh kẻ thù xâm chiếm đất nước ta.

+ Lòng yêu nước cao độ.

+ Tinh thần chiến đấu dũng cảm chống quân thù.

+ Hi sinh anh dũng.

c. Nhận xét chung Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc

+ Những người nghĩa sĩ vô danh vì “chết vinh hơn sống nhục”.

+ Tượng đài của nhiều người của một tập thể anh hùng.

+ Nguyễn Đình Chiểu là người sớm nhận thấy được khá rõ tinh thần chiến đấu dũng cảm của người nông dân.

3. Kết bài

- Đánh giá chung: Vẻ đẹp hình tượng người nông dân Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.

Bài làm tham khảo

Nguyễn Đình Chiểu – nhà văn suốt đời mình dùng ngòi bút làm vũ khí chiến đấu cho chính nghĩa, đạo lí và độc lập dân tộc. Những trang viết của Đồ Chiểu bao giờ cũng thấp thoáng tấm lòng yêu nước, thương dân và lí tưởng đạo đức, nhân nghĩa. Và có thể nói “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” là một trong số những minh chứng tiêu biểu cho điều đó. Tác phẩm là tiếng khóc bi tráng cho một thời đại bi thương mà vĩ đại của dân tộc. Và đặc biệt, bài văn tế đã dựng nên bức tượng đài lịch sử về những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm hi sinh vì Tổ quốc.

Trước hết, người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc mang vẻ đẹp bình dị, chân chất bởi họ xuất thân.

“Nhớ linh xưa:

Cui cút làm ăn, toan lo nghèo khó

Chưa quen cung ngựa, đâu tới tường nhung, chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ

Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy, tay vốn quen làm, tập khiên, tập súng, tập măc, tập cờ, mắt chưa từng ngó”

Với những câu văn biền ngẫu nêu trên, cùng với nghệ thuật tương phản “vốn quen” – “chưa từng ngó” đã giúp chúng ta thấy rõ hoàn cảnh sống, nguồn gốc xuất thân của những người nghĩa sĩ. Họ chỉ là những người nông dân bình thường, sống cuộc sống bình dị, “cui cút”, chăm lo làm ăn, nghèo khó, lam lũ và vất vả. Và chính hoàn cảnh, chính tình yêu tổ quốc đã thôi thúc họ, đưa họ trở thành những người nghĩa sĩ.

Đồng thời, người nông dân nghĩa sĩ còn là những người có lòng yêu nước nồng nàn và lòng căm thù giặc sâu sắc. Những người nông dẫn nghĩa sĩ ấy vốn quen với mảnh vườn, con trâu, ấy vậy mà khi giặc xâm lược đến, những con người ấy mang hết thảy lòng yêu nước, căm thù giặc lên đường chiến đấu để bảo vệ quê hương, đất nước:

“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan, ngày xem ống khói chạy đen sì, muốn ra cắn cổ

Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắn đuổi hươu, hai vầng nhật nguyệt chói lòa, đâu dung lũ treo dê bán chó

Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kính, chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”

Với việc sử dụng hàng loạt động từ mạnh “ăn gan”, “cắn cổ” và “đâu dung lũ treo dê bán chó”, “ra sức đoạn kình”, “chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi” tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã diễn tả một cách sâu sắc lòng yêu nước căm thù giặc của những người nông dân nghĩa sĩ. Chỉ khi mang trong mình tính yêu nước và  lòng căm thù giặc sâu sắc, những người chiến sĩ ấy mới đủ dũng cảm để bước vào cuộc chiến đầy cam go, thử thách ấy.

Thêm vào đó, những người nông dân nghĩa sĩ còn hiện lên với vẻ đẹp anh dũng trong chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc, họ là tượng đài bất tử, bi tráng trong công cuộc đấu tranh bảo vệ Tổ quốc. Những người nông dân ấy vốn không phải là lính diễn bính nhưng vì “mến nghĩa làm quân chiêu mộ”, họ đã dấn thân vào con đường chinh chiến, đấu tranh. Trang bị của họ ra trận chỉ là những vật giản dị, bình thường “một manh áo vải, nào đợi mang bao tấu, bầu ngòi, trong tay cầm một ngọn tầm vông, chỉ nài sắm dao tu, nón gõ”, “hoa mai đốt bằng rơm con cúi”, “gươm đeo bằng lưỡi dao phay” ấy vậy mà họ đã chiến đấu anh dũng và giành được thật nhiều chiến công. Với việc sử dụng hàng loạt động mạnh “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có”, “kẻ đâm ngang, người chém ngược” đã diễn tả một cách sâu sắc khí thế, sức mạnh, quyết tâm của những người nông dân. Và chỉ với những vật dụng thô sơ những với bằng tất cả sức mạnh của mình những người nông dân đã giành được những chiến công vang dội “đốt xong nhà dạy đạo”, “chét rớt đầu quan hai nọ”, “làm cho mã tà ma ní hồn kinh”. Và để rồi cuối cùng, chính họ, những người tự nguyện chiến đấu với những vũ khí thô sơ nay lại hi sinh anh dũng trên chiến trường để lại niềm tiếc thương nhưng tự hào cho người ở lại và họ trở thành tượng đài bất tử cho lòng yêu nước, cho tinh thần chiến đấu vì Tổ quốc.

Tóm lại, bài văn tế đã xây dựng nên một tượng đài bằng ngôn ngữ về vẻ đẹp của những người nông dân nghãi sĩ Cần Giuộc – bình dị trong cách xuất thân nhưng lại kiên cường, anh dũng trong chiến đấu và sẵn sàng hi sinh vì Tổ quốc. 

Đề 4: Những cảm nhận sâu sắc anh (chị) qua tìm hiểu cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

Dàn ý:

1. Mở bài:

Giới thiệu qua về cuộc đời thơ văn Nguyễn Đình Chiểu.

2. Thân bài:

a. Tiểu sử Nguyễn Đình Chiểu:

- Sinh năm 1822, mất năm 1888, quê ở tỉnh Gia Định, tục gọi là Đồ Chiểu.

- Năm 1843 ông đỗ tú tài.

- Bỏ thi khi nghe tin mẹ mất, bị mù, bị từ hôn.

- Dạy học và làm thuốc ở Bến Tre.

- Ông liên hệ mật thiết với các nhóm nghĩa binh, dùng văn chương kêu gọi lòng yêu nước.

b. Cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu   

- Nghị lực và nhân cách cao cả.

- Đồ Chiểu là một nhà giáo, một người thầy.

Nguyễn Đình Chiểu còn là một thầy thuốc giỏi, một nhà thơ nổi tiếng.

c. Thơ văn Nguyễn Đình Chiểu   

- Nguyễn Đình Chiểu làm thơ để biểu lộ lòng yêu nước, thương dân và lấy đó  làm vũ khí chống giặc.

“Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc”.

“Lục Vân Tiên” lại được đánh giá là “bản trường ca ca ngợi chính nghĩa”.

Quan niệm “văn dĩ tài đạo” của ông khác với quan niệm của nhà Nho: đó là quan điểm xem ngòi bút là vũ khí chiến đấu.

3. Kết bài:

Đánh giá chung về cuộc đời và thơ văn Nguyễn Đình Chiểu 

Bài làm tham khảo

Nguyên Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói về cuộc đời và thơ của Nguyễn Đình Chiểu như sau: " Trên trời có vì sao có ánh khác thường". Điều khiến mỗi chúng ta ấn tượng sâu nhất về cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu có phải là một tấm gương sáng ngời về nghị lực và đạo đức. Ông chính là một người đã chiến đấu hết mình, sống thẳng thắn, chính trực với một nghị lực sống phi thường. Một người luôn đứng về chân lí, lẽ phải, luôn đấu tranh cho nhân dân thật đáng để ngưỡng mộ.

Nguyễn Đình Chiểu sinh năm 1822, mất năm 1888, tên thường gọi là Đồ Chiểu. Ông là người học rộng tài cao, từng đỗ tú tài. Đến năm 1847, ông ra Huế học để chờ thi khoa Kỉ Dậu 1849 nhưng trớ trêu thay mẹ ông mất. Vì quá thương nhớ mẹ mà ông đã khóc đến mù lòa hai mắt. Sau đó Pháp câm chiếm Gia Định, ông về ở Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Tại đây ông vẫn tiếp tục dạy học và làm thuốc. Ông nhanh chóng có liên hệ mật thiết với những những nhóm nghĩa binh của Đốc binh Nguyễn Văn Là và lãnh binh Trương Định. Dù bị mù cả hai mắt nhưng ông vẫn tích cực dùng văn chương để kêu gọi lòng yêu nước của sĩ phu và nhân dân.

Ông cũng là một con người trọng đạo lý, sống nặng tình. Ông sống luôn giữ gìn và đề cao bản sắc dân tộc, yêu ghét rõ ràng. Vì cứu người cụ Đồ Chiểu có thể sẵn sàng hi sinh, không màng danh lợi. Ta thấy ở ông một ý chí kiên định, không bao giờ chịu khuât phục trước cường quyền. Nguyễn Đình Chiểu chính là một tấm gương sáng về nghị lực. Ông dùng văn chương để đánh giặc, ngôn từ là vũ khí sắc bén.

Cái tên Cụ Đồ Chiểu đã cho thấy rằng ông chính là người đã có công đóng góp rất lớn trong giáo dục. Ông được biết đến với hình ảnh một người thầy giáo trọn đời chăm lo cho những môn sinh của mình. Trong những bài học đạo lí của ông, ta thấy được một nhân cách vĩ đại của một kẻ sĩ. Ông là một trong những người đã dành tâm huyết để cống hiến cho lĩnh vực y học. Nguyễn Đình Chiểu là một thầy thuốc giỏi, ông thông thạo sâu sắc y học phương Đông và Việt Nam và là một bầu trời y đức. Cuốn Ngư Tiều y là một trong những tác phẩm cuối đời của ông không chỉ dạy đạo làm thầy thuốc cứu người mà còn chỉ cả đạo làm người.

Không thể phủ nhận rằng chính cuộc đời Nguyễn Đình Chiểu là một tấm gương sáng chói, ta sẽ càng cảm thấy sâu sắc hơn nữa khi tìm hiểu về thơ văn của ông. Nguyễn Đình Chiểu dùng thơ ca để tỏ nỗi lòng yêu nước, yêu thương con người:

" Xưa rằng quốc thử lời khen phải

Giúp sống dân ta trọn lẽ trời"

Đọc những trang thơ văn yêu nước của ông ta còn thấy sống dậy trong lòng cả một thời oanh liệt chống Pháp, bền bỉ của nhân dân Nam Bộ.

Qua những bài văn tế ta cũng cảm nhận được sự ca ngợi những sĩ phu, những người người nông dân đánh giặc, tấm lòng trung nghĩa của ông. Tác phẩm "Văn tế nghĩa Cần Giuộc" được xem là áng văn bi tráng, sống mãi trong lịch sử dân tộc chống ngoại xâm. Bên cạnh đó không thể không nhắc tới truyện "Lục Vân Tiên" - bản trường ca ca ngợi chính nghĩa, tác phẩm đã ca ngợi những giá trị đạo đức đáng quý trong cuộc đời, gửi gắm đến chúng ta một tấm lòng nhân ái, tượng trợ lẫn nhau giữa người với người trong cuộc sống.

Xin được tiếp nối lời nhận xét của Thủ tướng Phạm Văn Đồng về ông: " Trên trời có những vì sao ánh sáng khác thường, nhưng con mắt của chúng ta phải chăm chú nhìn thì mới thấy và càng thấy sáng. Văn thơ của tác giả Nguyễn Đình Chiểu cũng vậy".

Văn thơ của ông thể hiện rất rõ tinh thần của ông. Một con người luôn đứng về lẽ phải chống lại cái ác và bọn bất nhân một cách quyết liệt đến cùng. Ông ca ngợi hết lời những con người cao đẹp vì nghĩa xả thân đánh cướp, trừ gian như Vân Tiên, Hớn Minh, Tử Trực... Ông cũng ca ngợi và tôn vinh những con người thuỷ chung và trong sáng, có nghĩa có tình như Kiều Nguyệt Nga. Ông cũng lên án bọn người bất nhân, bất nghĩa như Trịnh Hâm, Bùi Kiệm, Võ Thế Loan... Nguyễn Đình Chiểu yêu và ghét rạch ròi, phân minh không một chút lẫn lộn thiện ác, bạn thù.

Cụ Đồ Chiểu ngày đó luôn muốn gửi gắm việc học làm người đáng trân trọng như thế nào. Ta có thể cảm nhận được những thâm thúy trong thơ văn Nguyễn Đình Chiểu chính ở chỗ có chê khen rõ ràng, chuẩn đạo lý và văn hóa Việt Nam.

"Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà"

Nguyễn Đình Chiểu là người dành cả cuộc đời vì nghĩa. Dù mù lòa, dù vất vả nhưng con người ấy vẫn một lòng tôn thờ chính nghĩa, quyết tâm chống lại những thế lực bạo tàn bằng những câu thơ ca sắc bén của mình. Chúng ta sẽ không thể quên một cuộc đời, một sự nghiệp văn chương sáng ngời và một nhân cách thật cao cả.

Xem thêm các bài soạn Ngữ văn 11 hay, chi tiết khác:

Hai đứa trẻ

Ngữ cảnh

Chữ người tử tù

Luyện tập thao tác lập luận so sánh

Luyện tập vận dụng kết hợp các thao tác lập luận phân tích và so sánh

1 679 lượt xem
Tải về


Xem thêm các chương trình khác: