Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 – văn nghị luận | Ngắn nhất Soạn văn 8
Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 – văn nghị luận lớp 8 ngắn nhất mà vẫn đủ ý giúp học sinh dễ dàng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Ngữ văn 8 Tập 1 từ đó soạn văn lớp 8 một cách dễ dàng.
Soạn bài Viết bài tập làm văn số 7 – văn nghị luận (ngắn nhất)
I. Đề bài tham khảo
Đề 1 (trang 128 sgk ngữ văn 8 Tập 2):
Tuổi trẻ và tương lai đất nước.
Dàn bài:
a. Mở bài
- Nêu vai trò của tuổi trẻ với tương lai đất nước.
- Có thể dẫn dắt thư của Bác Hồ: “Non sông Việt Nam…công học tập của các cháu” hoặc một số câu khác có nội dung tương tự.
b. Thân bài
- Giải thích:
+ Tuổi trẻ là một khoảng thời gian trong cuộc sống nằm giữa thời thơ ấu và thời trưởng thành. Nó gắn liền với vẻ ngoài, sự tươi mới, sức sống, tinh thần…
+ Tuổi trẻ là lứa tuổi được học hành, được trang bị kiến thức và rèn luyện đạo đức, sức khỏe, chuẩn bị cho việc vào đời và làm chủ xã hội tương lai.
- Tuổi trẻ là tương lai đất nước:
+ Tuổi trẻ là lực lượng lao động đông đảo, chất lượng cao đưa đất nước tiến bộ
+Tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt tham gia bảo vệ an nguy đất nước
+ Tuổi trẻ là đối tượng đi đầu trong thời kì hội nhập, bắt kịp xu hướng thời đại. Muốn “sánh vai các cường quốc” thì đất nước phải phát triển về khoa học kĩ thuật, phải học tập, tu dưỡng, rèn luyện ngay từ khi còn trẻ.
- Chứng minh:
+ Ngày xưa: những người tài như Lí Công Uẩn, Trần Quốc Tuấn, Nguyễn Trãi,… từ thời trẻ đã chăm chỉ luyện rèn, trưởng thành lập những chiến công làm rạng danh đất nước.
+ Ngày nay: Chủ tịch Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng. Các nhà khoa học xã hội có nhiều đóng góp cho đất nước trong mọi lĩnh vực như nhà bác học Lương Định Của, tiến sĩ Tạ Quang Bửu, anh hùng lao động Trần Đại Nghĩa, …
Các thế hệ học sinh, sinh viên ngày nay cũng ra sức rèn đức, luyện tài, gặt hái được những thành công trong học tập, nghiên cứu khoa học… đó là tiền đề quan trọng để đưa đất nước phát triển hơn trong tương lai.
- Để phát huy của tuổi trẻ:
+ Đảng và nhà nước phải có chính sách ưu đãi, quan tâm để thu hút nhân tài, không để chảy máu chất xám.
+ Nhà trường phải đẩy mạnh công tác giáo dục thế hệ trẻ về tài, đức.
+ Thế hệ trẻ cần tự nhận thức vai trò, trách nhiệm của bản thân đối với sự phát triển của đất nước
c. Kết bài
- Khẳng định tầm quan trọng của thế hệ trẻ
- Rút ra bài học cho bản thân.
Bài văn mẫu:
Bác Hồ vị cha già của dân tộc, dù bận trăm công nghìn việc nhưng Bác luôn quan tâm đến thế hệ trẻ ngày nay. Nhân dịp khai giảng năm học đầu tiên khi nước ta hoàn toàn độc lập, Bác đã gửi thư cho học sinh cả nước. Trong thư có đoạn: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần vào công học tập của các cháu”. Dù trải qua bao thăng trầm lịch sử, đất nước có nhiều đổi thay nhưng câu nói thiêng liêng của Bác vẫn có giá trị về giáo dục, khích lệ tuổi trẻ trên mọi miền đất nước chăm chỉ học tập.
Thế kỉ 21, thế kỉ của sự phát triển, nâng cao không ngừng của văn hóa, kinh tế, đất nước. Để có thể bắt kịp đà phát triển của những nước lớn mạnh thì cần sự chung sức, đồng lòng của tất cả mọi người, mà lực lượng chủ yếu chính là tuổi trẻ. Bởi tuổi trẻ là lực lượng nòng cốt, là chủ nhân tương lai, là nhân vật chính góp phần tạo nên cái thế, cái dáng đứng cho Tổ Quốc Việt Nam. Sinh ra ở đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc, mỗi người luôn tìm cho mình một lẽ sống hay nói đúng hơn là một lý tưởng sống. Và nhất là tuổi trẻ hiện nay, những người nắm trong tay vận mệnh của đất nước phải xác định được cho mình một lý tưởng sống đúng đắn. Trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tuổi trẻ chúng ta được đặt ra câu hỏi: sống như thế nào để có ích cho xã hội? Tuổi trẻ là nhân tố quyết định sự tồn vong của đất nước, vì thế lý tưởng sống của chúng ta là xây dựng đất nước, xây dựng Chủ nghĩa xã hội, nối tiếp cha ông bảo vệ Tổ Quốc và đi lên vì sự tiến bộ của nhân loại.
Tuổi trẻ là lứa tuổi thanh niên, thiếu niên. Là lứa tuổi được học hành, được trang bị kiến thức và rèn luyện đạo đức, sức khỏe, chuẩn bị cho việc vào đời và làm chủ xã hội tương lai. Tuổi trẻ là những người chủ tương lai của đất nước, là chủ của thế giới, động lực giúp cho xã hội phát triển. Chính vì vậy mà các bạn thanh thiếu niên cần phải sống có lý tưởng cao đẹp. Hãy nhớ rằng: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không đó là nhờ vào công học tập của các cháu” lời nhắn như thiêng liêng ấy phải được thực hiện! Các bạn hãy cố lên!
“Không có việc gì khó
Chỉ sợ lòng không bền
Đào núi và lấp biển
Quyết chí ắt làm nên”
(Hồ Chí Minh)
Và thời nào cũng vậy, thế hệ trẻ luôn là lực lượng tiên phong, xông pha vào những nơi gian khổ mà không ngại khó. Điều đó đã được thể hiện rất rõ trong thời chiến. Những người con của đất nước đã hiến dâng cả tuổi thanh xuân của mình - cái tuổi 20 đầy ước mơ ấy - cho Tổ quốc với lý tưởng sống thật cao đẹp và thánh thiện. Đấy là những thanh niên của gần 40 năm trước, còn lớp thanh niên ngày nay thì sao? Đấy chính là chúng ta. Chúng ta nên biết một điều: nếu như lớp người đi trước đã quên mình cho thế hệ sau được độc lập, no ấm thì ngày nay, tuổi trẻ chúng ta sẽ tiếp tục duy trì truyền thống đó. Và một điều quan trọng là bạn đừng xem đấy là nghĩa vụ để rồi miễn cưỡng thực hiện. Chúng ta hiểu rằng: được sinh ra là một hạnh phúc và được sống tự do, no đủ đó là món quà quý báu, vô giá mà quê hương và xã hội đã ban tặng cho chúng ta. Hạnh phúc không tự nhiên mà có. Mà đó là xương máu, tâm huyết của biết bao con người trên đất nước này. Họ là ai? Họ là những con người yêu quý quê hương đất nước. Họ cho rằng được hiến dâng cho quê hương là hạnh phúc, là niềm tự hào, là vinh dự quý báu.
Thế thì sao chúng ta không học theo họ. Mọi suy nghĩ, hành động đều bắt nguồn từ ý nghĩ. Ý nghĩ, tư tưởng là nền móng cơ bản dẫn đến việc làm, lối sống của thế hệ trẻ. Mỗi một thời đại, mỗi một hoàn cảnh lịch sử mà thanh niên nuôi dưỡng những ước vọng, những lý tưởng sống và suy ngẫm riêng. Chúng ta không bác bỏ, không phủ nhận quá khứ, lịch sử hào hùng, thế hệ trẻ ngày ấy đã góp phần không nhỏ vào thắng lợi chung của đất nước. Đó là lý tưởng muốn được chiến đấu, hi sinh cho độc lập, tự do tổ quốc, cho tự hào dân tộc. Nhưng chúng ta không thể lấy thước đo của ngày hôm qua áp dụng vào ngày hôm nay, cũng không thể đem thế hệ trước so sánh, áp dụng cho thế hệ sau. Đơn giản vì mỗi thế hệ có một môi trường riêng, một nhận thức, một hoàn cảnh và một sứ mệnh riêng. Vì vậy “Không có chuyện lớp trẻ ngày nay quay lưng với quá khứ!” (Tổng bí thư Đỗ Mười nói ).
Tuổi trẻ hiện nay đã khẳng định tiếng nói và lý tưởng sống của mình chính là phấn đấu tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”. Với riêng mỗi cá nhân, đã sinh ra trong đời, ai trong chúng ta cũng khao khát được sống hạnh phúc. Hơn thế nữa, từ đáy lòng của con người luôn ước ao có được một cuộc sống bình an, vui tươi, không lo âu buồn phiền, không đau khổ oán than, muốn an hưởng sự may lành hơn là bất hạnh, giàu sang hơn là nghèo nàn.
Còn nhớ năm 2005, trên báo chí luôn nhắc đến gương người Việt trẻ Nguyễn Phương Ngọc - người dám ước mơ đứng trên bục cao nhất của “Trí Tuệ Việt Nam”. Phương Ngọc sinh năm 1983 tại Hải Phòng cuối cùng đã đoạt Giải công nghệ cuộc thi “Trí Tuệ Việt Nam 2004”. Đã giành giải nhất phần thi thuật toán tại cuộc thi Imagine Cup 2005 (cuộc thi quy tụ 17 nghìn sinh viên từ 90 quốc gia trên thế giới) do Tập đoàn Microsoft tổ chức tại Yokohama (Nhật Bản).
Phải nói rằng Việt Nam chúng ta có khá nhiều thuận lợi, vừa được thiên nhiên ưu đãi, vừa có nhiều nguồn tài nguyên đa dạng, phong phú. Hơn nữa, tuổi trẻ mọi thời đại chính là niềm tự hào dân tộc vì mỗi khi đất nước lâm nguy thì Việt Nam lại xuất hiện những anh hùng trẻ tuổi dũng cảm, tài trí. Điều đó cho thấy rằng tuổi trẻ Việt Nam luôn suy nghĩ, lo lắng và quan tâm đến vận mệnh của dân tộc và luôn phát huy truyền thống anh hùng.
Mỗi người trong chúng ta ai cũng từng đi qua tuổi trẻ - tuổi của sức mạnh phi thường với sự căng tràn bầu nhiệt huyết, tuổi không chịu khuất phục trước khó khăn, và sẵn sàng chấp nhận hi sinh vì đất nước. Tuổi trẻ cả nhân loại đang ra sức tìm kiếm và xây dựng những thứ tưởng chừng như viễn tưởng nhưng nay lại trở thành hiện thực, như những thành tựu trong ngành công nghệ thông tin, công nghệ sinh học... Họ có đủ điều kiện để phát huy hết khả năng nội lực của chính mình, họ có tự do trong suy nghĩ và hành động, họ có sự dân chủ trong mọi ý tưởng và lý tưởng, họ có được sự tôn trọng về thực quyền sáng tạo. Vậy thì tiềm năng và tương lai phát triển của mỗi quốc gia đều mong đợi và đều đặt niềm tin vào tuổi trẻ.
Tuổi trẻ Việt Nam những năm gần đây đã khẳng định được sức mạnh của chính mình trong mọi lĩnh vực như: kinh tế, khoa học kĩ thuật, giáo dục,... Ngày càng xuất hiện nhiều nhà kinh doanh trẻ năng động; những nhà khoa học tài năng; đặc biệt là những thành tích của học sinh, sinh viên Việt Nam tham dự các kì thi Olympic khu vực và quốc tế như Nguyễn Phương Ngọc - đã giành giải nhất phần thi thuật toán tại cuộc thi Imagine Cup 2005. Do đó khi còn ngồi trên ghế học trường các bạn hãy chăm chỉ học hành.
Đề 2 (trang 128 sgk ngữ văn 8 Tập 2):
Văn học và tình thương
Dàn bài:
a. Mở bài:
- Chỉ ra mối liên hệ giữa văn học và tình thương.
- Trích dẫn câu tục ngữ "thương người như thể thương thân".
b. Thân bài:
- Tình thương là thứ tình cảm yêu thương giữa người với người, người với vật, người với thiên nhiên,...
- Vai trò của văn học là đem đến những giá trị nhân văn, giúp khơi gợi những tình cảm yêu thương trong con người.
+ Hiểu và đồng cảm với số phận của các nhân vật: Chị Dậu, Lão Hạc,....
+ Gắn kết tình cảm gia đình, yêu thương nhau hơn: Bức tranh của em gái tôi (tình anh em), Bếp lửa (tình bà cháu), Trong lòng mẹ (Tình mẫu tử), Yêu thương gia đình, những người xung quanh (Ca dao yêu thương tình nghĩa....)
+ Tình yêu thiên nhiên, yêu quê hương, non sông đất nước (Ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa; Khi con tu hú, Ngắm trăng, Quê hương,...)
- Tình thương cũng chính là động lực, là cảm hứng để cho ra đời những tác phẩm văn học tràn đầy giá trị nhân văn (Tắt đèn, Lão Hạc,...)
c. Kết bài:
- Khẳng định ý nghĩa của mối quan hệ giữa văn học và tình thương.
- Bài học cho bản thân.
Bài văn mẫu:
Văn chương nghệ thuật là thứ chỉ có trong đời sống văn hóa tinh thần của con người, nó mang đến những tác động nhất định đến tâm tư, tình cảm và nhận thức của con người. Con người chúng ta luôn sống bằng tình thương và đề cao lòng nhân ái, giữa văn học và con người có sự liên kết chính nhờ tình thương ấy. Trong bản thân văn học và tình thương của con người tồn tại mối quan hệ sâu sắc, gắn bó mật thiết với nhau.
Văn học nói chung được hiểu là một bộ môn nghệ thuật sử dụng ngôn từ, hình ảnh bằng nhiều phương thức khác nhau để thể hiện quan điểm, tư tưởng, tình cảm của người viết. Những tác phẩm văn học là những văn bản mang ý nghĩa giá trị về trí tuệ, tư tưởng, triết lý cao, hoặc có thể mang lại sự đồng cảm trong suy nghĩ và nhận thức. Tình thương là một trong những khía cạnh tình cảm của con người, biểu hiện của sự giao cảm giữa con người với con người và con người với thế giới xung quanh. Tình thương được thể hiện trên nhiều góc độ khác nhau, có thể là lòng đồng cảm, thương xót, có thể là ngợi ca và trân trọng hay thậm chí là tiếng nói phê phán, lên án. Giữa văn học và tình thương tồn tại mối quan hệ tương hỗ và gắn bó mật thiết với nhau.
Trước hết, tình thương chính là mục đích cuối cùng mà văn học hướng đến, văn học dù ở trên phương diện nào, được thể hiện bằng cách nào cũng chỉ hướng đến tình thương của con người. Bởi một tác phẩm văn học chân chính là phải hướng đến con người, phục vụ đời sống tình cảm của con người. Văn học được coi như một đại diện của tính nhân văn, nhân đạo của con người, không chỉ mang đến sự đồng cảm, thấu hiểu và sẻ chia với nỗi đau thương, bất công và mất mát của con người mà còn đi tới những góc khuất trong đời sống tình cảm của họ để san sẻ. Giống như Ngô Tất Tố với những kiếp người như chị Dậu trong "Tắt đèn", chị em Liên trong "Hai đứa trẻ" của Thạch Lam, hay Thúy Kiều trong "Truyện Kiều" của Nguyễn Du...
Văn học còn là những bài ca, tiếng nói ca ngợi về tình thương, những phẩm chất cao đẹp của con người, vẻ đẹp giá trị và trân trọng tình cảm của con người. Ví dụ như ca ngợi về vẻ đẹp người phụ nữ Việt Nam có "Thương vợ" của Tú Xương, ca ngợi tư tưởng nhân đạo như "Bình Ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi... Phê phán và lên án những mặt tối trong xã hội cũng chính là biểu hiện tình thương của văn học, thông qua văn học những khuất tất, mặt trái của xã hội được phơi bày ra ánh sáng (Lão Hạc, Tắt đèn...), những thói hư tật xấu, tệ nạn xã hội được lên án mạnh mẽ (Hạnh phúc của một tang gia, Những ngày thơ ấu...), ngay cả việc lên án chế độ xã hội các thế lực chèn ép quyền sống con người cũng được triệt để qua văn học (Truyện Kiều, Chí Phèo...). Tình thương lại chính là nguồn cảm hứng vô tận cho văn học, bởi trong mọi hoàn cảnh tâm lý và bối cảnh xã hội, tình thương của con người vẫn luôn tồn tại. Văn học ra đời để truyền tải tình thương và gìn giữ những giá trị tình thương của con người, mọi khía cạnh của tình thương đều được văn học khai thác triệt để để có thể gắn kết con người, đưa con người gần lại với nhau và thấu hiểu nhau hơn.
Có thể khẳng định mối quan hệ giữa văn học và tình thương là một mối quan hệ gắn bó chặt chẽ không thể tách rời, trên cơ sở tình thương văn học ngày càng phát triển đa dạng cả về chiều rộng và chiều sâu, tình thương của con người nhờ có văn học mà ngày càng sâu sắc và vươn tới những giá trị cao cả.
Đề 3 (trang 128 sgk ngữ văn 8 Tập 2):
Hãy nói “không” với các tệ nạn
Dàn bài:
a. Mở bài:
+ Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: tệ nạn xã hội và tác hại của nó
+ Khẳng định: nói không với các tệ nạn xã hội
b. Thân bài
- Giải thích:
Tệ nạn xã hội là một hiện tượng xã hội tiêu cực, biểu hiện bằng những hành vi sai lệch chuẩn mực xã hội, vi phạm đạo đức xã hội và có dấu hiệu vi phạm pháp luật gây hậu quả xấu đời sống xã hội.
- Biểu hiện: qua những hành vi sai lệch chuẩn mực đạo đức, chuẩn mực xã hội, như:
+ Thói hư, tật xấu.
+ Phong tục tập quán cổ hủ, lạc hậu.
+ Nếp sống xa đoạ truỵ lạc, mê tín đồng bóng, bói toán…
- Nguyên nhân dẫn đến các tệ nạn xã hội
+ A dua, đua đòi, thích thể hiện bản thân
+ Bị bạn bè rủ rê, lôi kéo
- Tác hại của những tệ nạn đó
+ Cờ bạc: mất thời gian, công sức và tiền bạc; tan nát gia đình; gây ra các tệ nạn khác: trộm cắp, giết người cướp của.
+ Thuốc lá: hao tốn tiền bạc, dẫn đến ung thư phổi, ảnh hưởng đến những người xung quanh, gây ô nhiễm môi trường.
+ Ma túy: khiến con người rơi vào trạng thái ảo giác, hoang tưởng, khiến sức khỏe suy kiệt. Là con đường ngắn nhất dẫn tới trộm cắp, cướp giật, tan nát gia đình…
- Làm thế nào để tránh xa tệ nạn xã hội?
+ Cá nhân: trang bị những hiểu biết về tệ nạn xã hội để tránh xa nó, sống có bản lĩnh, suy nghĩ và làm việc lành mạnh...
+ Gia đình: giáo dục nhân cách, quản lí thời gian, tiền bạc, nêu gương tốt
- Xã hội: ngăn chặn tệ nạn, tạo công ăn việc làm, sân chơi lành mạnh, xử lí nghiêm minh các trường hợp mắc vào tệ nạn…
c. Kết bài: Cần nói không với các tệ nạn.
Bài văn mẫu:
Không thể phủ nhận sự phát triển về mọi mặt của đất nước nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, xã hội phát triển đã kéo theo biết bao tệ nạn xã hội. Vậy chúng ta phải làm gì trước mối lo của toàn gia đình và xã hội? Là công dân của bất kỳ đất nước nào trên thế giới, đặc biệt là học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, chúng ta hãy kiên quyết nói “không” với các tệ nạn xã hội.
Để biết về tác hại to lớn của các tệ nạn xã hội, chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu tệ nạn xã hội là gì? Đó là những thói quen xấu như rượu chè, cờ bạc, ma tuý, mại dâm,… Những thói quen này có ảnh hưởng rất xấu đến sức khỏe và tinh thần của bản thân đồng thời gây ra những hệ lụy nghiêm trọng trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Ma tuý là một chất gây nghiện, nó vắt kiệt sức khỏe và tha hoá đạo đức của người dùng. Một người, khi đã nghiện thì khó có thể dứt ra được, cuộc sống của anh ta sẽ lệ thuộc vào thuốc, và chính vì sự lệ thuộc ấy, anh ta sẵn sàng làm cả những điều phi nhân tính để có tiền mua thuốc. Sức khoẻ cũng suy giảm một cách nhanh chóng, người nghiện trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.
Còn về thuốc lá, khác với ma túy, thuốc lá cũng có mặt tích cực. Nếu hút ít, thuốc lá sẽ giúp con người tỉnh táo, hưng phấn khi suy nghĩ, làm việc. Nhưng nhiều người lại quá lạm dụng điều đó, hút quá nhiều dẫn đến tiêu cực. Hút thuốc nhiều sẽ huỷ hoại sức khỏe con người. Nghiện thuốc làm suy giảm hoạt động của hệ hô hấp dẫn đến nhiều bệnh tật như lao, ung thư phổi. Khói thuốc do người hút thải ra sẽ ảnh hưởng đến sức khoẻ của những người xung quanh, đặc biệt với những bà mẹ đang mang thai. Và đương nhiên, hút thuốc cũng sẽ ảnh hưởng phần nào đến kinh tế gia đình.
Chúng ta cũng không thể không nói tới cờ bạc, “bác của thằng bần”. Trong cờ bạc luôn có kẻ thắng người thua. Thua thì đương nhiên bị mất tiền nhưng điều nguy hại hơn là tâm lý “gỡ gạc”, chính tâm lý này đã kéo người thua ngày càng sa vào vũng lầy không thể rút chân ra được. Người thắng tuy có được tiền nhưng đã tốn biết bao thời gian và công sức mà lẽ ra nên để dành cho việc khác có ích hơn. Hiện nay, tệ cờ bạc hay còn gọi là “nạn đỏ đen” xuất hiện tràn lan, biến tướng dưới hình thức các trò chơi được giải. Thật đáng lo ngại. Chúng ta hãy mạnh tay với tệ nạn này.
Còn rượu, nó không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe người uống mà còn ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Uống nhiều rượu sẽ ảnh hưởng đến thần kinh, làm giảm trí nhớ, mất thăng bằng cơ thể, và quan trọng hơn, không kiểm soát được mọi hành vi của mình, có thể dẫn đến những hành động nguy hiểm cho mọi người xung quanh.
Và còn nhiều tệ nạn khác nữa, trên đây mới chỉ là những tệ nạn đang nổi lên trong cuộc sống. Vậy chúng ta phải làm gì trước mối lo chung của toàn xã hội? Là một học sinh dưới mái trường xã hội chủ nghĩa, là một công dân của xã hội, chúng ta Hãy nói không với các tệ nạn xã hội, hãy kiên quyết nói “không”, ngàn lần “không” với các tệ nạn, chúng ta hãy tránh xa các tệ nạn, và quan trọng hơn, chúng ta hãy cùng nhau chặn đứng tệ nạn bằng cách cổ động tuyên truyền cho mọi người cùng thấy tác hại của tệ nạn. Chúng ta hãy cố gắng góp sức nhỏ nhoi của mình cùng mọi người đẩy lùi các tệ nạn, mối lo chung của toàn nhân loại, để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp, trong sạch không bị ô nhiễm vì tệ nạn.
Xem thêm các bài Soạn văn lớp 8 ngắn gọn, hay khác:
Soạn bài Ôn tập và kiểm tra phần tiếng việt
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Hóa học 8
- Giải sbt Hóa học 8
- Giải vở bài tập Hóa học 8
- Lý thuyết Hóa học 8
- Các dạng bài tập Hóa học lớp 8
- Giải sgk Vật Lí 8
- Giải sbt Vật Lí 8
- Lý thuyết Vật Lí 8
- Giải vở bài tập Vật lí 8
- Giải SGK Toán 8 | Giải bài tập Toán 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Toán 8 (sách mới) | Sách bài tập Toán 8
- Bài tập Ôn luyện Toán lớp 8
- Các dạng bài tập Toán lớp 8
- Lý thuyết Toán lớp 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Toán 8
- Giáo án Toán lớp 8 mới nhất
- Bài tập Toán lớp 8 mới nhất
- Chuyên đề Toán lớp 8 mới nhất
- Giải sgk Tiếng Anh 8 (sách mới) | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2
- Giải sgk Tiếng Anh 8 | Giải bài tập Tiếng Anh 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (sách mới) | Sách bài tập Tiếng Anh 8
- Giải sbt Tiếng Anh 8 (thí điểm)
- Giải sgk Tin học 8 | Giải bài tập Tin học 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải sgk Lịch Sử 8 | Giải bài tập Lịch sử 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Lịch sử 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Lịch sử 8
- Giải vở bài tập Lịch sử 8
- Giải Tập bản đồ Lịch sử 8
- Đề thi Lịch Sử 8
- Giải vở bài tập Sinh học 8
- Giải sgk Sinh học 8
- Lý thuyết Sinh học 8
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 | Giải bài tập Giáo dục công dân 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Lý thuyết Giáo dục công dân 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm GDCD 8
- Lý thuyết Địa Lí 8 (sách mới) | Kiến thức trọng tâm Địa Lí 8
- Giải sgk Địa Lí 8 | Giải bài tập Địa Lí 8 Học kì 1, Học kì 2 (sách mới)
- Giải Tập bản đồ Địa Lí 8
- Đề thi Địa lí 8