Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 - Ngắn nhất Cánh diều
Với soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2 Ngữ văn lớp 10 Cánh diều sẽ giúp học sinh trả lời câu hỏi từ đó dễ dàng soạn văn 10.
Soạn bài Tự đánh giá cuối học kì 2
Yêu cầu (trang 118 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2):
a) Đọc đoạn thơ sau và thực hiện các yêu cầu (từ câu 1 đến câu 6) bên dưới:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất nước có từ ngày đó…
(Trích trường ca “Mặt đường khát vọng” – Nguyễn Khoa Điềm)
Câu 1 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đặc điểm nổi bật của mạch cảm xúc trong đoạn thơ trên là gì?
A. Giàu tính tự sự
B. Thiên về giới thiệu
C. Đậm màu sắc miêu tả
D. Giàu chất triết lí, suy tưởng
Đáp án: D. Giàu chất triết lí, suy tưởng
Câu 2 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đoạn thơ trên có đặc điểm như thế nào?
A. Không vần, có nhịp, không có hình ảnh
B. Không vần, có nhip, giàu chất liệu dân gian
C. Không vần, không nhịp, không biện pháp tu từ
D. Không vần, không nhịp, nhiều biện pháp tu từ
Đáp án: B. Không vần, có nhip, giàu chất liệu dân gian
Câu 3 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Cái “ngày xửa ngày xưa” trong câu thơ “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể” được hiểu là gì?
A. Là câu chuyện cổ mẹ thường hay kể
B. Là câu chuyện hằng ngày của mẹ
C. Là lời ru của mẹ khi con còn nhỏ
D. Là câu ca xưa cũ mẹ khuyên nhủ con
Đáp án: A. Là câu chuyện cổ mẹ thường hay kể
Câu 4 (trang 119 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Hai câu thơ “Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn / Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” nhấc ta nhớ đến câu chuyện cổ nào?
A. Sự tích trầu cau và Sự tích ông bình vôi
B. Truyện Thánh Gióng và Cây tre trăm đốt
C. Sự tích ông bình vôi và Cây tre trăm đốt
D. Sự tích trầu cau và truyện Thánh Gióng
Đáp án: D. Sự tích trầu cau và truyện Thánh Gióng
Câu 5 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Dòng thơ nào sử dụng thành ngữ?
A. Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
B. Cái kèo, cái cột thành tên
C. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
D. Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đáp án: C. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Câu 6 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu nội dung chính của đoạn thơ trên trong khoảng 3 – 4 dòng.
Trả lời:
Với hình thức thơ tự do, đoạn trích đã thể hiện được tình cảm da diết và những suy nghĩ sâu sắc của nhà thơ khi nghĩ về đất nước.
b) Đọc đoạn trích sau và làm các bài tập ở bên dưới:
Nguyễn Trãi đã dùng văn học phục vụ chiến đấu, viết văn để đánh giặc. Văn chính luận của ông có nội dung yêu nước sâu sắc và tính chiến đấu cao, Quân trung từ mệnh tập “có sức mạnh như mười vạn quân" (Phan Huy Chú), từng đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù. Bình Ngô đại cáo cháy bỏng khát vọng chiến đấu cho độc lập dân tộc, bừng dậy hùng khí của những năm “đoạt sáo, cầm Hổ”, trào dâng khí thế chiến đấu và chiến thắng của những năm tháng “Bình Ngô phục quốc”. Trong Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã dùng trí mưu để phân tích thời – thế – lực nhằm chứng minh ta nhất định thắng, địch nhất định thua. Nguyễn Trãi đã vận dụng đạo lí lên án vua quan triều Minh về tội ác xâm lược, dối trá, tàn bạo,... tuyên dương nghĩa quân về việc làm chính nghĩa, quang minh chính đại, trung thực, khoan hồng,... Sức mạnh chiến đấu của văn chính luận Nguyễn Trãi là sức mạnh của chiến lược “lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”, của sự ưu thắng khi phân tích về thời – thế – lực. Từ nhu cầu “tâm công” và từ nhận thức về tính năng chiến đấu của văn chương, với tinh thần chiến đấu không mệt mỏi, không khoan nhượng, trên những điểm căn bản và tuân theo một sách lược linh hoạt, Nguyễn Trãi đã viết thư giảng cho địch những đòn tới tấp, đánh cho kẻ địch phải thua trên mặt trận tư tưởng. Chiến đấu là tính đặc thù của văn chính luận dân tộc. Nhưng chiến đấu ngoan cường, trực diện, tập trung, thường xuyên và có hiệu quả cao, xuất phát từ trí tuệ nhạy bén, tình cảm chân thành và nhất là từ ý thức dùng văn chương làm vũ khí “mạnh như vũ bão, sắc như gươm dao” (Phạm Văn Đồng), thì chỉ có thể tìm thấy sớm nhất trong văn chính luận Nguyễn Trãi.
(BÙI DUY TÂN, in trong Nguyễn Trãi, Về tác gia tác phẩm, NXB Giáo dục, 1999)
Câu 1 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đoạn trích viết về vấn đề gì? Tóm tắt trong khoảng 3 – 4 dòng.
Trả lời:
Văn chính luận của Nguyễn Trãi có vai trò và sức mạnh hết sức to lớn trong chiến đấu, đánh giặc ngoại xâm.
Câu 2 (trang 120 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu các biểu hiện cụ thể giúp em nhận biết được phương thức biểu đạt chính của đoạn trích.
Trả lời:
- Phương thức biểu đạt chính của đoạn trích là nghị luận.
- Mục đích: Thuyết phục người đọc về một vấn đề.
- Để thuyết phục phải nêu ý kiến, lí lẽ và bằng chứng.
Câu 3 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Đoạn trích trên được triển khai theo kiểu diễn dịch, quy nạp hay tổng - phân - hợp? Em dựa vào đâu để xác định cấu trúc ấy?
Trả lời:
- Đoạn trích trên được triển khai theo kiểu tổng – phân – hợp.
- Mở đầu nêu ý kiến khái quát: “Nguyễn Trãi đã dùng văn học phục vụ chiến đấu, viết văn để đánh giặc”.
- Sau đó, phân tích, triển khai, phát triển ý khái quát với những lí lẽ và dẫn chứng từ hai tác phẩm chính luận nổi tiếng của Nguyễn Trãi là Đại cáo bình Ngô và Quân trung từ mệnh tập.
- Kết thúc, nêu khái quát giá trị văn chính luận của Nguyễn Trãi.
Câu 4 (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Nêu nhận xét của em về nội dung và hình thức của đoạn trích (trình bày khoảng khoảng 8 – 10 dòng).
Trả lời:
Em thực sự ấn tượng với nội dung và hình thức của đoạn trích trên. Đây là một đoạn văn nghị luận bàn về việc Nguyễn Trãi đã dùng văn học làm vũ khí chiến đấu thành công như thế nào. Đầu tiên, tác giả đưa ra câu chủ đề: Nguyễn Trãi đã dùng văn học phục vụ chiến đấu, viết văn để đánh giặc. Sau đó, tác giả dùng lí lẽ, dẫn chứng kết hợp với các thao tác lập luận để chứng minh cho luận điểm của mình. Ông lấy dẫn chứng điển hình là tác phẩm Quân trung từ mệnh tập và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi, rồi phân tích Quân trung từ mệnh tập như từng đợt tiến công mãnh liệt vào kẻ thù, Bình Ngô đại cáo thì cháy bỏng khát vọng chiến đấu cho độc lập dân tộc...
II. Viết
Yêu cầu (trang 121 sgk Ngữ văn lớp 10 Tập 2): Chọn một trong hai đề sau để viết thành bài văn ngắn:
Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức một trong các tác phẩm văn xuôi đã học trong Ngữ văn 10, tập hai.
Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.
Bài mẫu tham khảo
Đề 1. Phân tích, đánh giá nội dung và hình thức của đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” (Ngô gia văn phái)
Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân.
Cuộc tranh giành đó Trịnh Tông là kẻ đang bị thất thế, có nguy cơ bị hại, phải nhờ mẹ là thái phi họ Dương kêu với quận Huy mới bảo toàn được tính mệnh.
Lính kiêu binh phần nhiều đều thuộc phe của Trịnh Tông. Tông mà bị diệt trừ thì họ mất chỗ dựa và có thế bị diệt theo. Số phận của các đám gia thần, tôi tớ, binh lính của các tập đoàn phong kiến xưa nay là vậy. Có thể kế các nhân vật kiêu binh như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng.
Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.
Mục đích nổi loạn cùa kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.
Sự can thiệp của bọn quý tộc, thân tộc trong phủ như quận Viêm, con hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu... cho thấy chúng chỉ muốn lợi dụng để hớt lấy công hoặc che chắn đế bảo vệ quyền lợi mình. Tiêu biểu cho thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Mặt khác qua sự can thiệp này ta thấy phủ chúa hoàn toàn bất lực, kiêu binh lộng hành, làm chủ tình thế. Ở nơi tập trung quyền hành trung ương chỉ là một đám lưu manh họp chợ để giở thói côn đồ thanh toán nhau!
Đoạn văn đã miêu tả một cuộc nổi loạn của binh lính. Thế lực của họ thật mạnh. Xuất phát từ lòng căm phẫn, khinh bỉ, muốn rửa hận, trả thù, quân kiêu binh đã tụ tập, bàn định và thống nhất với nhau rất nhanh. Họ nổi lên chi phối các sự kiện lịch sử. Họ mớm lời và xúi giục Trịnh Tông, họ quyết định cách nổi loạn, bầu người chủ mưu, không cần chỉ dụ của ai hết. Trịnh Tông phó thác chỉ là kẻ ăn theo, Trần Hữu Cầu viết hịch chỉ là một việc hiếu sự. Bằng Vũ quyết định ngày khởi sự, không cần tâu với Thánh mẫu. Khi nghe tiếng trống, quân lính “nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”, “họ hò reo quát tháo long trời lở đất”.
Đoạn giết quận Huy đã thế hiện sức mạnh của kiêu binh. Họ dọa quận Châu. Thoạt đầu, do thói quen phục tùng, họ sợ quận Huy, song chỉ được một lát, từ tư thế ngồi họ nhao nhao đứng dậy vây lấy voi chiến, nềm gạch ngói vào voi, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi kéo quận Huy xuống đánh chết, mồ bụng lấy gan ăn sống, sau đó lấy đá ghè chết em quận Huy. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.
Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên. Cho nên khi đã làm chúa rồi, vẫn không sao làm chủ được đám âm binh làm loạn: phá nhà, giết người, cướp của... Trịnh Tông trở thành nhân vật hài hước khi được bọn lính tráng đặt lên cái mâm rồi nâng lên hạ xuống như “giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố đông như họp chợ...
Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút ụy nghiêm nào. Họ lại xin di phá tất cả dinh cơ quận Huy, làm náo động kinh thành liền trong mấy ngày.
Trái lại với sức mạnh bạo lực của kiêu binh, giai cấp thống trị tỏ ra hoàn toàn bất lực và thảm hại.
Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không nổ! Hai anh em Huy bị giết nhanh chóng! Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa. Những kẻ nắm quyền quốc gia trong phủ mà như thế, thật là hài hước hết mức!
Phe theo Tông cũng bất lực không kém. Quận Châu lúc đầu theo Huy đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền mở cửa ngay. Thế mà khi kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân, làm như mình đã là người chỉ huy quân đội của phe Trịnh Tông vậy!
Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.
Có thề nói quận Huy và Trịnh Tông ở hai phía là những nhân vật của một tấn bi hài kịch lịch sử nói về sự suy sụp của triều đại họ Trịnh. Một triều đại phong kiến lâu đời, hiển hách đã rơi vào tình trạng suy sụp một cách thảm hại. Bố chết nằm đấy, anh em đã xung đột, tranh nhau ngai vàng. Đám lính tráng nổi lên làm chủ cả thành Thăng Long, phá nhà, đốt nhà, cướp của, giết người vô tội vạ v.v... Quận Huy bị phanh thây. Trịnh Cán bị phế truất. Tất cả là do bọn lính tráng, bọn bồi bếp tự phát nổi lên. Trịnh Tông lên ngôi mà bất lực trước đám, âm binh bất trị... Đúng là tấn bi kịch lịch sử.
Nhưng chất hài của tấn kịch lịch sử này cũng rất rõ: Những nhân vật đã bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai. Nhưng bắn cung cung gẫy, bắn súng súng không nổ... cuối cùng bị kéo cổ xuống đất. Đúng là hài hước. Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa... nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố đến xem như họp chợ.
Những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện.v.v…Nghĩa là những tư liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động.
Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một màn bi hài của lịch sử?
Đề 2. Phân tích một vấn đề xã hội mà em thấy có ý nghĩa đặt ra trong các tác phẩm truyện hoặc thơ đã học trong sách Ngữ văn 10, tập hai.
Khi đọc “Người ở bến sông Châu” bên cạnh những cảm xúc tiếc nuối, xúc động, em còn cảm nhận được sâu sắc một tình yêu nước ở dì Mây. Tình cảm là thứ thiêng liêng và cao đẹp nhất đối với cuộc sống con người. Mỗi người lại có cách yêu thương và những tình cảm tốt đẹp khác nhau. Một trong số tình cảm cao đẹp nhất mà chúng ta cần có đó chính là lòng yêu nước. Lòng yêu nước là sự biết ơn, trân trọng đối với những người đi trước đã cống hiến cho đất nước.
Yêu quý quê hương, có ý thức học tập, vươn lên để cống hiến cho nước nhà và sẵn sàng chiến đấu nếu có kẻ thù xâm lược. Người có lòng yêu nước là những người biết cố gắng học tập, làm việc rèn luyện bản thân thật tốt, sống có ước mơ, hoài bão, biết vươn lên để thực hiện những kế hoạch mình đề ra. Họ cũng là những người ham tìm hiểu, trân trọng và có ý thức lan tỏa những nét bản sắc văn hóa dân tộc, lịch sử, địa lí của nước nhà. Bên cạnh đó, lòng yêu nước còn là tinh thần đoàn kết, yêu thương, sẵn sàng giúp đỡ, sẻ chia với mọi người xung quanh và với người có hoàn cảnh khó khăn; tuân thủ pháp luật, những nguyên tắc, quy định của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Lòng yêu nước có vai trò và ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cuộc sống con người. Trước hết, lòng yêu nước là nền tảng để một đất nước vững mạnh, khi có lòng yêu nước, ta sẽ biết cống hiến nhiều hơn cho đất nước. Người có lòng yêu nước là người có những nhận thức đúng đắn, sống theo chuẩn mực xã hội. Lòng yêu nước giúp con người gắn kết lại với nhau nhiều hơn, tinh thần đồng bào từ đó được nâng cao hơn.
Là một học sinh trước hết chúng ta cần học tập thật tốt, nghe lời ông bà cha mẹ, lễ phép với thầy cô. Có nhận thức đúng đắn về việc giữ gìn và bảo vệ tổ quốc. Luôn biết yêu thương và giúp đỡ những người xung quanh,… để thể hiện lòng yêu nước của mình. Mỗi chúng ta được sống một lần, hãy sống, cố gắng phát triển bản thân theo chiều hướng tích cực và trở thành một công dân có ích cho xã hội, cho đất nước.
Xem thêm các bài Soạn văn lớp 10 sách Cánh diều hay, ngắn gọn khác:
Giới thiệu, đánh giá vẻ đẹp của tác phẩm văn học
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Toán 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Toán 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Toán 10 – Cánh Diều
- Chuyên đề dạy thêm Toán 10 Cánh diều (2024 có đáp án)
- Giải sgk Tiếng Anh 10 – Explore new worlds
- Giải sgk Tiếng Anh 10 – ilearn Smart World
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 10 ilearn Smart World đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 10 i-learn Smart World
- Giải sbt Tiếng Anh 10 - iLearn Smart World
- Giải sgk Vật lí 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Vật lí 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Vật lí 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Vật lí 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Hóa học 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Hóa học 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Hóa học 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Hóa học 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Sinh học 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Sinh học 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Sinh học 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Sinh học 10 – Cánh diều
- Giải sgk Lịch sử 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Lịch sử 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Lịch sử 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Lịch sử 10 – Cánh diều
- Giải sgk Địa lí 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Địa Lí 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Địa lí 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Địa lí 10 – Cánh Diều
- Lý thuyết Công nghệ 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Công nghệ 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Giáo dục Kinh tế và Pháp luật 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Kinh tế pháp luật 10 – Cánh diều
- Lý thuyết KTPL 10 – Cánh diều
- Lý thuyết Giáo dục quốc phòng 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Giáo dục quốc phòng - an ninh 10 – Cánh diều
- Giải sbt Giáo dục quốc phòng - an ninh 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Hoạt động trải nghiệm 10 – Cánh Diều
- Giải sgk Tin học 10 – Cánh Diều
- Giải sbt Tin học 10 – Cánh Diều
- Giải Chuyên đề Tin học 10 – Cánh diều
- Lý thuyết Tin học 10 - Cánh diều
- Giải sgk Giáo dục thể chất 10 – Cánh Diều