TOP 11 mẫu Phân tích bài thơ Vịnh cây vông (2024) SIÊU HAY
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông lớp 8 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông
Dàn ý Phân tích bài thơ Vịnh cây vông
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Nguyễn Công Trứ (là nhân vật có ảnh hưởng ở thế kỉ XIX, thường viết về chí nam nhi, triết lý cầu nhàn hưởng lạc; cản nghèo và nhân tình thế thái...)
- Giới thiệu bài thơ Vịnh cây vông (hoàn cảnh sáng tác: Tương truyền bài thơ này làm để nhạo quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu, khái quát chung về nội dung và nghệ thuật...)
2. Thân bài:
* Hai câu đề: Giới thiệu cây vông và tương quan giá trị giữa cây vông với một số loài cây khác.
- Biền, nam, khởi, tử: bốn loại cây gỗ tốt, mang lại nhiều giá trị...
- Vông: một loại cây to lớn nhưng gỗ xốp, mềm, cao lớn nhanh nhưng dễ bị mối, mọt, chịu lực kém, thuộc loại ngô đồng.
=> So với bốn loại cây ở câu đầu thì cây vông kém hẳn về giá trị
- Nghệ thuật: liệt kê, đảo ngữ kết hợp từ “những thứ vông” => thái độ xem thường, không coi trọng của tác giả, từ đó cũng mỉa mai người trồng không biết chọn loại cây quý, có giá trị để trồng.
* Hai câu thực: Đặc điểm của cây vông
- Phép đối: càng già – già xốp xát; ruột gan không có >< có gai chông => hình thức không đi đôi với giá trị, đồng thời châm biếm hạng người đã không có tấm lòng lại còn toàn làm những điều hại người....
* Hai câu luận: Mượn đặc điểm, công dụng ít ỏi của cây vông để liên hệ quan lại phong kiến (quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền)
- Công dụng ít ỏi của cây vông: không thể làm cột trụ mà chỉ có thể làm bờ rào, phên giậu.(trái ngược với hình thức to lớn của cây)
- Châm biếm quan lại Hà Tôn Quyền: Mang danh “lương đống”, trụ cột triều đình nhưng không làm tròn nhiệm vụ, chỉ biết dựa vào chống lưng, quyền lực để duy trì chế độ cai trị của mình.
=> Nguyễn Công Trứ không phủ nhận tác dụng của cây vông nhưng đề cập với thái độ châm biếm, mỉa mai, xem thường như chính bộ máy quan lại vô dụng (qua việc sử dụng từ “lương đống, phiên ly” thay vì dùng rường cột, phên giậu)
* Hai câu kết: Châm biếm, mỉa mai những hạng người giống cây vông
- “Nòi nào thì giống nấy – cũng trổ ra bông”: vừa chế giễu giống cây kém giá trị nhưng vẫn trổ bông phát triển mạnh mẽ, vừa mỉa mai hai cha con nhà họ Hà nòi nào giống nấy vô dụng nhưng mới có chút khen ngợi đã hãnh diện, ngày càng duy trì cường quyền.
- “Khen” nhưng thực chất là chê, càng nhấn mạnh sự đả kích, châm biếm sâu sắc của tác giả...
* Nghệ thuật: thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với niêm, luật chặt chẽ, vận dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo, có sự kết hợp với ngôn ngữ Hán Việt, giọng thơ châm biếm, mỉa mai...
3. Kết bài: Khẳng định lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 1
Bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nghệ thuật mang tính chất trào phúng, được viết dưới hình thức vịnh câu đối. Bài thơ miêu tả về cây vông và sử dụng cây vông như một biểu tượng để phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội.
Trong bài thơ, tác giả miêu tả cây vông như một loại cây không đáng để trồng và chăm sóc. Cây vông cao lớn nhưng không có giá trị, khi già trở nên xốp xáp và không còn ruột gan, chỉ còn lại gai chông. Tác giả cũng phê phán những người ra tài nhưng không đáng để ngưỡng mộ, chỉ dựa vào chốn phiên ly để đỡ lòng. Bài thơ cũng nhấn mạnh rằng, mỗi người sinh ra đã có nòi nào thì giống nấy, không thể thay đổi được. Ngay cả khi khen ngợi cho những người như cây vông, cũng chỉ là trổ ra những bông hoa không có ý nghĩa thực sự. Từ ngôn ngữ và hình ảnh trong bài thơ, tác giả sử dụng những từ ngữ tươi sáng, tươi vui để miêu tả cây vông và những người không đáng để ngưỡng mộ. Tuy nhiên, qua sự tương phản giữa sự tươi vui của cây vông và sự tàn phá của thời gian, tác giả cũng biểu đạt tâm trạng và tình cảm của người thơ. Từ bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ, chúng ta có thể thấy ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống. Bài thơ cũng nhắc nhở chúng ta không nên chỉ nhìn vào bề ngoài mà quan trọng hơn là giá trị thực sự của mỗi người và mỗi vật.
Tóm lại, bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm trào phúng, phê phán những người không có giá trị thực sự trong xã hội. Từ bài thơ, chúng ta có thể rút ra được ý nghĩa về sự tàn phá của thời gian và sự đổi thay của cuộc sống
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 2
Nguyễn Công Trứ là nhân vật lịch sử nổi tiếng, in đậm dấu ấn không chỉ trong lĩnh vực văn chương mà còn ở nhiều phương diện của đời sống xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XIX. Ông thường viết về chí nam nhi, triết lý cầu nhàn hưởng lạc; cản nghèo và nhân tình thế thái. Bài thơ “Vịnh cây vông” là bài thơ tiêu biểu cho nhân tình thế thái. Tương truyền bài thơ này làm để nhạo quan Lại bộ tham tri Hà Tôn Quyền triều Minh Mạng (1820-1840), trong bữa tiệc họ Hà mừng con thi đậu. Mượn hình ảnh cây vông, Nguyễn Công Trứ đã để lại tác phẩm có giá trị sâu sắc.
Hai câu thơ đề giới thiệu về loài cây vông và tương quan giá trị giữa cây vông với một số loài cây khác.
Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.
“Biển, nam, khởi, tử” là bốn loài cây gỗ quý, có giá trị cao đối với con người. Bên cạnh đó, vông một loại cây to lớn nhưng gỗ xốp, mềm, cao lớn nhanh nhưng dễ bị mối, mọt, chịu lực kém, thuộc loại ngô đồng. Cây vông về hình thức giống với bốn loại cây được nêu ở câu thơ đầu tuy nhiên so về công dụng thì cây vông kém hẳn về giá trị. Chính vì thế, Nguyễn Công Trứ đã dùng cụm từ “chẳng vun trồng” để nhắc tới biền, nam, khởi, tử trong khi lại dùng “những thứ vông” để nói về cây vông. Phép đảo ngữ “ cao lớn làm chi – những thứ vông” nhấn mạnh thái độ chê bai, xem thường của tác giả đối với loài cây này, đồng thời mỉa mai người trồng không biết chọn loại cây quý, có giá trị để nuôi dưỡng.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông.
Nếu hai câu đề giới thiệu cây vông thì hai câu thực tập trung miêu tả đặc điểm của cây. Theo lẽ thường, các loài cây gỗ càng nhiều năm tuổi càng có giá trị cao tuy nhiên cây vông lại trái ngược. Phép đối “tuổi tác càng già - già xốp xáp”; Ruột gan không có - có gai chông” nhấn mạnh đặc tính xốp, mềm, chịu lực kém của cây vông. Từ láy “xốp xáp” gợi sự xốp rỗng, yếu ớt của thân cây, không những không có sức chịu đựng tốt còn đầy rẫy gai nhọn, gây hại cho con người. Hai câu thơ gợi liên tưởng đến quan lại họ Hà mục ruỗng, rỗng tuếch, vừa không có đạo đức, không làm đúng bổn phận của mình vừa tàn ác, bóc lột dân nghèo.
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.
Nguyễn Công Trứ đã lấy công dụng ít ỏi của cây vông để ví với vai trò bộ máy quan lại Hà Tôn Quyền ở hai câu luận. Trong khi các loại cây: biển, nam, khởi, tử được dùng làm cột trụ, bệ chống chắc chắn thì với đặc điểm “xốp xáp” của cây vông thì chỉ có thể làm bờ rào, phên giậu. Cũng như quan lại họ Hà, mặc dù Mang danh “lương đống”, trụ cột triều đình nhưng không làm tròn nhiệm vụ, chỉ biết dựa vào chống lưng, quyền lực để duy trì chế độ cai trị của mình. Tác giả sử dụng từ “lương đống, phiên ly” thay vì dùng rường cột, phên giậu khi nói về tác dụng của cây vông bởi hai từ Hán Việt mang sắc thái nghiêm trang, trang trọng trong khi các từ “không nên mặt, chút nỡ lòng ” lại mang nghĩa phủ định, đánh giá thấp. Sự tương phản, đối lập này càng làm cho câu thơ mang tính châm biếm, đả kích sâu hơn.
Đã biết nòi nào thì giống nấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!
Hai câu kết là lời chê bai, khinh rẻ, xem thường của tác giả đối với cây vông hay trực tiếp là cha con nhà họ Hà. “Nòi nào thì giống nấy – cũng trổ ra bông” - vừa chế giễu giống cây kém giá trị nhưng vẫn trổ bông phát triển mạnh mẽ, vừa mỉa mai hai cha con nhà họ Hà nòi nào giống nấy vô dụng nhưng mới có chút khen ngợi đã hãnh diện, ngày càng duy trì cường quyền. Mặc dù “khen” nhưng thực chất là sự chê bai, khinh thường. Trong hoàn cảnh bấy giờ không thể trực tiếp đứng ra vạch trần sự vô dụng, xấu xa của bọn quan lại, Nguyễn Công Trứ đã gián tiếp mượn hình ảnh cây vông để thể hiện sự phẫn nộ, khinh bỉ của tác giả và của nhân dân đối với quan lại chỉ biết dựa vào chống lưng làm càn.
Bằng thể thơ Thất ngôn bát cú Đường luật với niêm, luật chặt chẽ, vận dụng hình ảnh ẩn dụ độc đáo tạo sự đa nghĩa, có sự kết hợp với ngôn ngữ Hán Việt, giọng thơ châm biếm, mỉa mai... Nguyễn Công Trứ đã chỉ trích thực trạng hàng ngũ quan lại vô tài vô đức cũng như việc dùng người mù quãng của triều đình nhà Nguyễn.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 3
Bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nghệ thuật sắc sảo và châm biếm, nó lên án sự bất tài và tham lam của bộ máy quan lại trong thời kỳ triều Minh Mạng. Dưới đây là một phân tích chi tiết từng phần của bài thơ:
Tác giả mở đầu bằng hai câu đề để đưa ra vấn đề về giá trị thấp của cây vông so với các loại cây khác như biển, nam, khởi, tử. Cây vông được mô tả to lớn nhưng không có giá trị, tạo nên sự châm biếm và trào phúng từ tác giả đối với nó.
Bài thơ tiếp tục đề cập đến công việc làm rào và giậu, nơi tác giả chỉ trích những người tham lam và tự phụ. Sử dụng từ ngữ như "phiên li" và "lương đống" nhấn mạnh sự thất bại trong công việc và làm nổi bật sự vô ích của cây vông như một biểu tượng.
Tác giả lên án sự yếu đuối và bất lực của những người làm rào và giậu khi tuổi tác gia tăng. Bằng cách mô tả họ là "càng già, già xốp xáp, ruột gan không có, có gai chông," tác giả làm nổi bật sự không đáng kể của họ và ý kiến rằng công việc của họ không đóng góp nhiều cho xã hội.
Cuối cùng, câu kết cuối cùng khẳng định rằng "đã biết nòi nào thì giống nấy." Điều này ám chỉ rằng bản chất của những người làm rào và giậu cũng như cây vông đều thiếu giá trị và tài năng. Tác giả cũng phê phán việc khen ngợi họ, nhấn mạnh rằng họ không xứng đáng được khen ngợi. Hà Tôn Quyền, được ám chỉ trong bài thơ, trở thành một ví dụ điển hình cho bộ máy quan lại bất tài và vô dụng.
Bài thơ "Vịnh cây vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm châm biếm và mỉa mai về sự bất tài và tham lam của bộ máy quan lại trong triều đại Minh Mạng, sử dụng hình ảnh cây vông để tạo ra một thông điệp sắc sảo và châm biếm.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 4
"Bài Vịnh Cây Vông" của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm văn xuôi nổi tiếng thuộc thể loại quan ngôn, viết vào thế kỷ XVII, thời kỳ phong kiến Việt Nam. Tác phẩm này không chỉ là một trong những tác phẩm xuất sắc của văn học Việt Nam mà còn là biểu tượng của sự tài năng và tầm vóc của Nguyễn Công Trứ - một nhà văn, nhà thơ, và quan trọng trong lịch sử văn hóa Việt Nam.
Biền, nam, khởi, tử, chẳng vun trồng,
Cao lớn làm chi những thứ vông.
Bài thơ được viết với sự sáng tạo trong mô tả về cảnh thiên nhiên, đặc biệt là hình ảnh của cây Vông. Cây Vông trong bài thơ không chỉ là một đối tượng mô tả mà còn là biểu tượng của sức sống, lòng kiên nhẫn và sự mạnh mẽ. Hình ảnh cây Vông được tô điểm bằng những từ ngữ tinh tế, tạo nên bức tranh sống động và sâu sắc về vẻ đẹp tự nhiên.
Tuổi tác càng già, già xốp xáp,
Ruột gan không có, có gai chông.
Nguyễn Công Trứ biểu hiện tâm trạng của mình qua từng câu thơ, những nỗi niềm, lo lắng và hy vọng của ông hiện rõ trong từng dòng chữ. Bài thơ không chỉ là nơi Nguyễn Công Trứ diễn đạt những suy nghĩ cá nhân mà còn là một cách ông kết nối với độc giả, chia sẻ những cảm xúc tinh tế và sâu sắc về cuộc sống và tình người.
Ra tài lương đống không nên mặt,
Dựa chốn phiên ly chút đỡ lòng.
Bài thơ Vịnh Cây Vông chứa đựng sự chân thành và triết lý của Nguyễn Công Trứ. Những câu thơ lôi cuốn người đọc không chỉ bởi vẻ đẹp ngôn ngữ mà còn bởi sự chân thành, chân thật của tác giả. Nguyễn Công Trứ không ngần ngại thể hiện quan điểm cá nhân và triết lý sống qua từng dòng thơ, tạo nên một tác phẩm văn học độc đáo và đầy ảnh hưởng.
Đã biết nòi nào thì giống nấy,
Khen cho rứa cũng trổ ra bông!
Câu thơ mang tính chất tự do, chủ thể của nó có vẻ là tác giả đang phát ngôn, đưa ra quan điểm của mình.Từ "Đã biết nòi nào thì giống nấy" thể hiện quan điểm về tính chất di truyền, ám chỉ rằng con người thường kế thừa những đặc tính từ bậc cha mẹ hoặc tổ tiên.Tác giả sử dụng ngôn từ dân dụ và gần gũi với đời sống hàng ngày. "Nòi" ở đây có thể hiểu là dòng họ, gia tộc.Việc sử dụng "giống nấy" nhấn mạnh sự đồng nhất, giống hệt, không thay đổi.Câu thơ mang yếu tố hài hước và mỉa mai. Tác giả có thể đang muốn nhấn mạnh sự hiển nhiên, không cần thiết phải khen ngợi về những điều đương nhiên, những đặc tính di truyền.Hình ảnh này có thể được hiểu như việc khen ngợi là không cần thiết, giống như việc khen ngợi cho một thứ gì đó đã rất quen thuộc và tự nhiên, giống như việc hoa bông tự mọc trổ ra mà không cần sự giúp đỡ hay đánh giá từ bên ngoài.Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ một cách sáng tạo, với hình ảnh sinh động và ngôn từ giản dị nhưng mang đầy ý nghĩa.
Bài thơ không chỉ là một sáng tác văn học nổi bật mà còn là một phản ánh của tâm hồn dân tộc Việt Nam trong thời kỳ phong kiến. Nó là một tài liệu quý giá giúp hiểu rõ hơn về tư duy, tình cảm, và tri thức của người Việt Nam thời đó."Bài Vịnh Cây Vông" của Nguyễn Công Trứ là một kiệt tác văn học kết hợp giữa tài năng sáng tác và sự tri thức sâu rộng của tác giả. Bài thơ này không chỉ làm giàu thêm di sản văn hóa Việt Nam mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho các thế hệ về sau.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 5
Tác giả sử dụng hai câu đề để đặt vấn đề về giá trị kém cỏi của cây vông so với những loài cây khác như biển, nam, khởi, tử. Cây vông được miêu tả là to lớn nhưng gỗ của nó lại xốp và mềm yếu. Trong khi đó, biển, nam, khởi, tử đều là những loài cây gỗ tốt. Điều này nhấn mạnh sự kém cỏi của cây vông và là một phần của tiếng cười trào phúng của tác giả đối với nó.
Câu thực bàn về việc làm rào và giậu, một công việc đòi hỏi sự tài năng và trách nhiệm. Tuy nhiên, tác giả cho rằng người làm công việc này không nên tự phụ và quá tự cao. Từ “phiên li” và “lương đồng” được sử dụng để chỉ rõ sự thất bại của người đó trong công việc của họ. Điều này cũng làm rõ sự kém giá trị của cây vông, mà tác giả đang sử dụng như một biểu tượng.
Câu luận đề cập đến việc tuổi tác của người làm công việc làm rào và giậu càng cao thì họ càng yếu đuối. Từ “tuổi tác càng già, già xốp xáp, ruột gan không có, có gai chông” cho thấy sự yếu đuối và bất lực của họ. Tác giả cũng ám chỉ rằng họ không đáng kể, và việc họ làm không mang lại giá trị nhiều cho xã hội.
Câu kết cuối cùng khẳng định rằng “đã biết nòi nào thì giống nấy.” Điều này có nghĩa là bản chất của người làm rào và giậu và cây vông đều kém giá trị và bất tài. Cuối cùng, tác giả nêu rõ rằng việc khen ngợi họ là không đúng, vì họ không xứng đáng được khen ngợi. Hà Tôn Quyền, người được ám chỉ trong bài thơ, trở thành một ví dụ điển hình cho bộ máy quan lại bất tài và vô dụng.”
Tóm lại, bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm châm biếm và phê phán về sự bất tài và tham lam của bộ máy quan lại trong triều đại Minh Mạng, sử dụng hình ảnh cây vông và các từ ngữ mỉa mai để truyền tải thông điệp của mình.
Phân tích bài thơ Vịnh cây vông - mẫu 6
Bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ là một tác phẩm nổi tiếng trong văn học Việt Nam. Tác giả đã sử dụng từ ngữ và hình ảnh để biểu đạt tình cảm và ý nghĩa sâu sắc về sự sống và sự tàn phá của thời gian. Trong bài thơ, tác giả miêu tả cây vông trong mùa đông, khi mọi thứ xung quanh đều lạnh giá.
Tuy nhiên, cây vông vẫn tỏa sáng và rực rỡ như một điểm sáng trong cảnh vật. Điều này biểu thị sự sống và sự kiên cường của cây vông giữa những khó khăn và thử thách của cuộc sống. Tác giả cũng sử dụng các từ ngữ biểu đạt tình cảm và ý nghĩa sâu sắc. Những từ ngữ như “tươi vui”, “hạnh phúc” được sử dụng để miêu tả tâm trạng của cây vông.
Tuy nhiên, hình ảnh cây vông bị giá lạnh tàn phá cũng xuất hiện, biểu thị sự tàn phá và thử thách của cuộc sống. Bài thơ “Vịnh cây vông” được viết theo thể thơ nào, tuy nhiên, không có đủ thông tin để xác định thể thơ cụ thể. Tuy nhiên, tác giả đã sử dụng các từ ngữ biểu đạt tình cảm và ý nghĩa sâu sắc, tạo nên một sự biểu cảm đặc biệt trong bài thơ.
Tổng kết lại, bài thơ “Vịnh cây vông” của Nguyễn Công Trứ mang đậm tâm trạng và tình cảm của tác giả. Từ ngữ và hình ảnh được sử dụng để biểu đạt tình cảm và ý nghĩa sâu sắc về sự sống và sự tàn phá của thời gian. Bài thơ này là một tác phẩm nổi tiếng và có giá trị trong văn học Việt Nam.
Xem thêm các chương trình khác:
- Giải sgk Toán 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Toán 8 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Toán 8 – Kết nối tri thức
- Vở thực hành Toán 8 Kết nối tri thức | Giải VTH Toán 8 Tập 1, Tập 2
- Chuyên đề dạy thêm Toán 8 cả 3 sách (2024 có đáp án)
- Bài tập Tiếng Anh 8 Global success theo Unit có đáp án
- Giải sgk Tiếng Anh 8 – Global success
- Giải sbt Tiếng Anh 8 - Global Success
- Trọn bộ Từ vựng Tiếng Anh 8 Global success đầy đủ nhất
- Ngữ pháp Tiếng Anh 8 Global success
- Giải sgk Khoa học tự nhiên 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Khoa học tự nhiên 8 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Khoa học tự nhiên 8 – Kết nối tri thức
- Giải vth Khoa học tự nhiên 8 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Lịch sử 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Lịch sử 8 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Lịch sử 8 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Địa lí 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Địa lí 8 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Địa lí 8 – Kết nối tri thức
- Giải VTH Địa lí 8 Kết nối tri thức | Vở thực hành Địa lí 8
- Giải sgk Giáo dục công dân 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Giáo dục công dân 8 – Kết nối tri thức
- Giải sbt Giáo dục công dân 8 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Công nghệ 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Công nghệ 8 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Công nghệ 8 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Tin học 8 – Kết nối tri thức
- Lý thuyết Tin học 8 - Kết nối tri thức
- Giải sbt Tin học 8 – Kết nối tri thức
- Giải sgk Hoạt động trải nghiệm 8 – Kết nối tri thức