TOP 10 mẫu Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (2024) SIÊU HAY

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em lớp 8 gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

1 6,701 30/07/2024


Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em

Đề bài: Nghị luận về một vấn đề đời sống: giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua việc tổ chức một lễ hội ở quê em.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 1)

TOP 10 mẫu Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (2023) SIÊU HAY (ảnh 1)

Việt Nam ta là một đất nước có nền văn hóa vô cùng đa dạng, phong phú và lâu đời. Suốt hơn hai nghìn năm tồn tại và phát triển, đã nhiều lần nước ta phải đương đầu với những cuộc xâm lăng, đô hộ của dân tộc khác. Tuy nhiên, dù muon vàn khó khăn, chúng ta vẫn vùng dậy dành lại độc lập dân tộc, và bảo tồn được những giá trị văn hóa của dân tộc mình. Đó là niềm tự hào của con cháu đất Việt. Cho đến nay, nhân dân ta vẫn làm rất tốt điều đó, thông qua những hoạt động văn hóa được tổ chức thường niên tại từng địa phương. Tỉnh Phú Thọ quê em cũng góp sức mình vào công cuộc đó với Lễ hội Đền Hùng được tổ chức hằng năm vào ngày mùng 10 tháng 3 Âm Lịch.

Đền Hùng nằm trên ngọn núi Nghĩa Lĩnh, Xã Hy Cương, thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đây là nơi yên nghỉ của các thế hệ Vua Hùng - những con người đã có công dựng nên nước Việt Nam ta. Công lao của các vị tổ tiên ấy là vô cùng to lớn, vì vậy con cháu đời sau vẫn mãi nhớ ơn các ngài, năm nào cũng tổ chức lễ hội lớn. Cũng chính vì vậy mà Lễ hội Đền Hùng cùa quê hương em được đánh giá là một lễ hội mang cấp quốc gia.

Dân gia vẫn có câu ca dao rằng “Dù ai đi ngược về xuôi, Nhớ ngày giỗ Tổ mùng 10 tháng 3”. Nhưng trên thực tế, lễ hội Đền Hùng kéo dài trong mười ngày từ mùng 1 đến mùng 10 tháng 3 Âm Lịch. Trong đó, ngày mùng 10 là ngày quan trọng nhất. Cũng như tên gọi, Lễ hội Đền Hùng được chia thành hai phần, gồm phần lễ và phần hội. Phần lễ với nhiều hoạt động diễn ra, trong đó phần tế lễ được coi trọng nhất, nên được tổ chức vào ngày mùng 10. Hoạt động này bắt đầu bằng lễ dâng hương của người dân, trong đó có cả các đại diện của nhà nước. Đồ trên mâm lễ ngoài mâm ngũ quả, còn có bánh chưng bánh dày. Hai loại bánh này được dùng để gợi nhắc về công lao các Vua Hùng đã dạy dân cách trồng lúa nước, đồng thời phổ cập các món bánh làm từ lúa gạo. Cùng với phần tế lễ, trang trọng không kém chính là phần rước thần, rước voi, rước kiệu... của các làng Tiên Cương, Hy Cương, Phượng Giao, Cổ Tích…. Với trang phục và các cỗ kiệu được trang trí tỉ mỉ, nhằm thể hiện các nét đẹp văn hóa về từng thời kì của các làng truyền thống lâu đời ở khu vực Phú Thọ. Bên cạnh đó, phần hội cũng náo nhiệt và rộn ràng vô cùng với các nhóm múa hát xoan (ở đền Thượng), hát ca trù (ở đền Hạ) và nhiều trò chơi dân gian khác.

Tất cả những hoạt động đó, tuy khách nhau về nội dung, cách tổ chức, nhưng cùng có điểm chung chính là giúp bảo tồn và quảng bá mạnh mẽ những đặc sắc trong nền văn hóa của dân tộc ta từ bao đời nay. Thông qua lễ hội Đền Hùng, không chỉ con cháu đất Việt mà cả những người nước ngoài đến tham gia lễ hội. Họ được chứng kiến những nghi thức trang trọng, những hoạt động rước kiệu, những trò chơi… mang đậm bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam được truyền qua cả ngàn năm. Nhờ vậy, mà ngày càng nhiều người biết đến hơn về lễ hội này, về hát Xoan, về lễ rước thần, về trò ném gòn… Điều đó đã gián tiếp quảng bá đồng thời làm bàn đạp để duy trì những nét đẹp văn hóa đó của người dân Phú Thọ nói riêng và đất nước Việt Nam nói chung không bị phai nhạt theo thời gian.

Từ lễ hội Đền Hùng ở Phú Thọ, chúng ta thấy được giá trị và vai trò của việc tổ chức lễ hội đối với việc giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc. Bởi suy cho cùng, so với việc đọc và nghe những lời kể, những trang sách viết về văn hóa dân tộc. Thì việc được trực tiếp tham gia, chiêm ngưỡng các lễ hội ấy sẽ giúp người dân dễ cảm nhận và khắc ghi trong trái tim mình hơn. Cùng với đó, những lễ hội còn giúp phát triển du lịch và thúc đẩy kinh tế của các địa phương. Giúp cho người dân ai ai cũng ghi nhớ và mong chờ, đầu tư cho các mùa lễ hội diễn ra vào năm sau.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 2)

Giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc là một tư tưởng luôn được đề cao trong lịch sử xây dựng và phát triển đất nước của nhân dân Việt Nam, được thể hiện qua nhiều hình thức, một trong số đó là việc tổ chức các lễ hội. Lễ hội là một trong những nét văn hóa của dân tộc ta, nó không chỉ là nơi để vui chơi giải trí mà nó còn là để cho nhân dân ta thể hiện mong ước hay nhớ ơn tổ tiên ông bà ta. Mỗi một quê hương có những lễ hội riêng, tiêu biểu có thể kể đến lễ hội cầu ngư – lễ hội cá ông.

Có thể nói nhắc đến cái tên lễ hội ấy thì chúng ta hẳn cũng biết là lễ hội của những ai. Nói đến cá thì chỉ có nói đến nhân dân vùng ven biển sinh sống bằng nghề đánh bắt cá. Chính đặc trưng ngành nghề ấy đã quyết định đến tín ngưỡng của họ. Những người sống ven biển miền trung thường có tục thờ ngư ông. Chính vì thế cho nên hàng năm họ thường tổ chức vào các năm giống như những hội ở miền Bắc. Họ quan niệm rằng là sinh vật thiêng ở biển, là cứu tinh đối với những người đánh cá và làm nghề trên biển nói chung. Điều này đã trở thành một tín ngưỡng dân gian phổ biến trong các thế hệ ngư dân ở các địa phương nói trên.

Ở mỗi địa phương thì thời gian diễn ra lễ hội truyền thống lại diễn ra khác nhau. Ở Vũng Tàu thì được tổ chức vào 16, 17, 18 tháng 8 âm lịch hàng năm. Ở thành phố Hồ Chí Minh thì lại được tổ chức vào 14 – 17/18 âm lịch hàng năm. Nói chung dù diễn vào thời gian nào thì tất cả những lễ hội ấy đều nói lên được nét đặc trưng văn hóa của nhân dân ven biển. Đồng thời nó thể hiện khát vọng bình yên, cầu mong cuộc sống ấm no hạnh phúc thịnh vượng của họ. Lễ hội Ngư Ông còn là nơi cho mọi người tưởng nhớ đến việc báo nghĩa, đền ơn, uống nước nhớ nguồn.

Tiếp đến chúng ta đi vào phân tích phần lễ hội ngư ông. Trước hết là phần lễ thì bao gồm có hai phần:

Thứ nhất là lễ rước kiệu, lễ rước đó là của Nam hải Tướng quân xuống thuyền rồng ra biển. Khi ấy những ngư dân sống trên biển và bà con sẽ bày lễ vật ra nghênh đón với những khói nhang nghi ngút. Cùng với thuyền rồng rước thủy tướng, có hàng trăm ghe lớn nhỏ, trang hoàng lộng lẫy, cờ hoa rực rỡ tháp tùng ra biển nghênh ông. Không khí đầy những mùi hương của hương án và bày trước mắt mọi người là những loại lễ. Trên các ghe lớn nhỏ này có chở hàng ngàn khách và bà con tham dự đoàn rước. Đoàn rước quay về bến nơi xuất phát, rước ông về lăng ông Thủy tướng. Tại bến một đoàn múa lân, sư tử, rồng đã đợi sẵn để đón ông về lăng. Có thể thấy lễ rước ông không những có sự trang nghiêm của khói hương nghi ngút mà còn có sự đầy đủ của lễ vật và âm nhạc rộn rã của múa lân.

Thứ hai là phần lễ tế. Nó diễn ra sau nghi thức cúng tế cổ truyền. Đó là các lễ cầu an, xây chầu đại bội, hát bội diễn ra tại lăng ông Thủy tướng.

Tiếp đến là phần hội thì trước thời điểm lễ hội, hàng trăm những chiếc thuyền của ngư dân được trang trí cờ hoa đẹp mắt neo đậu ở bến. Phần hội gồm các nghi thức rước Ông ra biển với hàng trăm ghe tàu lớn nhỏ cùng các lễ cúng trang trọng. Đó là không khí chung cho tất cả mọi nhà trên thành phố đó thế nhưng niềm vui ấy không chỉ có ở thành phố mà nó còn được thể hiện ở mọi nhà. Ở tại nhà suốt ngày lễ hội, các ngư dân mời nhau ăn uống, kể cả khách từ nơi xa đến cũng cùng nhau ăn uống, vui chơi, trò chuyện thân tình.

Như vậy qua đây ta thấy hiểu thêm về những lễ hội của đất nước, ngoài những lễ hội nổi tiếng ở miền Bắc thì giờ đây ta cũng bắt gặp một lễ hội cũng vui và ý nghĩa không kém là ngư ông. Có thể nói qua lễ hội ta thêm hiểu hơn những mong muốn tốt lành của những người ngư dân nơi vùng biển đầy sóng gió. Đặc biệt nó cũng trở thành một lễ hội truyền thống của những người dân nơi biển xa.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 3)

Việt Nam ta là một đất nước nghìn năm văn hiến với nền văn hóa đa dạng, giàu giá trị lịch sử vẫn và đang được bảo tồn qua nhiều thế hệ. Thông qua các lễ hội ở địa phương giúp chúng em hiểu biết nhiều hơn về quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha ta. Một trong những lễ hội thường được tổ chức ở địa phương em là hội Đền Cổ Loa vào ngày mùng 6 tháng Giêng âm lịch hàng năm.

Lễ hội đền Cổ Loa là một trong những lễ hội từ lâu đời của văn hóa Việt Nam. Hằng năm, khi ăn tết cổ truyền xong thì vào ngày mùng 6 tết người dân Đông Anh quê em lại nô nức tổ chức lễ hội đền Cổ Loa để tưởng công đức của vua An Dương Vương - Người có công thành lập nên nhà nước đầu tiên của nước ta.

Đền Cổ Loa hay còn gọi là thành Cổ Loa là điểm tham quan tại Hà Nội vốn được xây dựng dưới thời vua An Dương Vương với bao truyền thuyết ly kỳ và bi tráng của một thời kỳ lịch sử của dân tộc ta. Nơi đây lưu giữ biết bao giá trị lịch sử từ thời vua An Dương Vương để lại. Theo lời xưa thì ngày mùng 6 tháng giêng là ngày vua An Dương Vương nhập cung, sau đó 3 ngày là ngày mùng 9 thì lên ngôi vua và mở hội khao toàn bộ lực lượng quân binh, thế nên người dân cũng tổ chức lễ hội ăn mừng. Lễ hội đền Cổ Loa cũng xuất hiện từ đây và gìn giữ đến tận bây giờ.

Đền Cổ Loa là một chiến tích lịch sử đã chứng kiến một câu chuyện buồn về sự ngu muội của một nàng công chúa quá tin chồng nên đã đẩy để đất nước rơi vào tay giặc và là bài học về sự mất cảnh giác trong một vài thời khắc đã để lại hậu quả khôn lường. Song trải qua thời gian thì đền Cổ Loa vẫn là một niềm tự hào của dân tộc ta.

Lễ hội đền Cổ Loa nhằm giáo dục cho nhân dân về truyền thống uống nước nhớ nguồn đồng thời bảo tồn những hoạt động văn hóa di sản xưa và là một lễ hội lớn mà các bạn không nên bỏ qua để hiểu biết thêm về lịch sử nước nhà.

Như vậy, thông qua lễ hội đền Cổ Loa hàng năm đã cho chúng ta thấy được vai trò to lớn của lễ hội đối với việc giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa của dân tộc. Người xưa có câu: Trăm nghe không bằng một thấy. Chính vì vậy được đến tận nơi chiêm ngưỡng tòa thành cũng như tham gia vào các hoạt động của lễ hội sẽ giúp chúng ta dễ dàng khắc ghi những kiến thức lịch sử để từ đó lưu giữ và bảo tồn những truyền thống này tốt hơn.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 4)

Dân tộc Việt Nam ta đã có lịch sử dựng nước và giữa nước hơn 1000 năm nay. Với bề dày lịch sử đó, chúng ta có cả một nền văn hóa đa dạng và đậm đà bản sắc dân tộc. Chính vì vậy, vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc luôn là vấn đề được quan tâm hàng đầu.

Trong xã hội hiện đại, các địa phương đã chọn cách thực hiện sứ mệnh gìn giữ, phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua việc tổ chức các lễ hội truyền thống. Tùy theo văn hóa của từng nơi, mà ở đó sẽ có các lễ hội khác nhau. Ở Quảng Bình quê em, hằng năm đều diễn ra Lễ hội đua thuyền trên sông Gianh. Đây là một nét văn hóa lâu đời của bà con hai bên sông. Bởi từ xa xưa, dân cư đã tập trung về đây sinh sống chính bởi con sông lớn trĩu nặng phù sa này. Con sông cung cấp nước cho bà con tưới tiêu, trồng lúa. Cung cấp nguồn thủy sản phong phú, đa dạng cho bà con. Và đây cũng là con đường di chuyển chính đến các vùng lân cận của bà con quê em. Chính vì vậy, việc chèo thuyền trên sông đã trở thành hình ảnh quen thuộc đi vào văn hóa của các làng, xã ven sông. Do đó, hằng năm người dân ở đây đều tổ chức đua thuyền để bày tỏ sự kính mến với con sông quê hương. Đồng thời để nối tiếp, tái hiện lại cuộc sống lao động của ông bà tổ tiên bao đời nay. Dù hiện tại, người dân không còn sinh sống nhờ nghề đánh cá, cũng còn rất ít hộ trồng lúa ven sông, nhưng truyền thống đua thuyền hằng năm chưa bao giờ dừng lại. Sau khi đất nước độc lập, lễ hội đua thuyền được diễn ra cố định vào ngày 2/9 hằng năm, nhằm chào mừng ngày đất nước hòa bình. Đồng thời tưởng nhớ công lao của các chiến sĩ đã hi sinh.

Có thể nói, lễ hội đua thuyền trên sông Gianh là một nét đẹp văn hóa lâu đời nhất ở quê em. Việc tổ chức lễ hội đua thuyền suốt mấy chục năm qua, chỉ gián đoạn trong thời chiến, chính là cách mà ngời dân quê em tiếp bước cha ông gìn giữ một nét văn hóa truyền thống quê hương mình.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 5)

Ở quê hương đất Tổ của em có một lễ hội lớn lắm, đó là Lễ Hội Đền Hùng (Giỗ tổ Hùng Vương) được tổ chức vào ngày mồng Mười tháng Ba âm lịch hàng năm.

Lễ hội Đền Hùng là một lễ hội lớn, để tưởng nhớ các vua Hùng, những người đã có công dựng nước. Nó đã trở thành một nét đẹp trong văn hóa tâm linh của người Việt chúng ta. Hàng năm, hội Đền Hùng được tổ chức long trọng với sự “hành hương trở về cội nguồn dân tộc” của các địa phương trên cả nước về đất Tổ– Phú Thọ. Lễ hội được diễn ra tại địa phận xã Huy Cương, thành phố Việt Trì, thu hút rất nhiều người dân trên cả nước về tụ hội.

Lễ hội bắt đầu từ ngày mồng 8 đến ngày 11 tháng 3 âm lịch. Trước hết đó là phần lễ, với các nghi thức được tổ chức một cách trang trọng như dâng hương, dâng lễ vật từ các địa phương tưởng nhớ 18 vị vua Hùng và công lao của các ngài. Năm nào cũng vậy, trong lễ hội Đền Hùng đều có tổ chức cuộc thi kiệu của các làng chung quanh. Chính bởi những lễ rước kiệu này mà không khí lễ hội trở nên náo nhiệt và đông vui hơn. Trẻ con thích thú hò hét chạy theo đoàn người ăn mặc đẹp đẽ rước kiệu. Mỗi làng đều cố gắng bỏ công sức và tiền bạc để tạo ra những chiếc kiệu đẹp nhất bởi người dân tin rằng, nếu kiệu của làng nào giành được giải tức là họ đã được các vua Hùng tin tưởng và phù hộ.

Phần hội với rất nhiều trò chơi dân gian đặc trưng của địa phương em như ném còn, chơi đu, đấu vật, chọi gà,… Được bố mẹ cho đi hội Đền Hùng thường xuyên nhưng có lẽ phần hát Xoan ở đền Hạ làm em cảm thấy thích nhất. Không khí ở đây vừa mát lại vừa thoáng, được thưởng thức những câu hát mộc mạc, bình dị đậm chất dân tộc thì không gì bằng.Hát Xoan là một trong những di sản của Phú Thọ quê em. Em rất tự hào vì làn điệu dân ca quê hương mình.

Lễ hội Đền Hùng thật sự rất ý nghĩa và hấp dẫn. Đó không chỉ là tín ngưỡng thờ cúng các vua Hùng mà còn là nét đẹp của dân tộc Việt ta, hướng về cội nguồn.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 6)

Lễ hội là tín ngưỡng văn hoá của mỗi dân tộc. Hầu như làng, xã nào cũng có lễ hội được tồ chức vào đầu xuân. Mọi người dân Thuận Thành, Bắc Ninh thường có câu ca:

Dù ai buôn đâu, bán đâu

Hễ trông thấy tháp chùa Dâu thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Nhớ ngày mồng tám thì về hội Dâu.

Câu ca dao như một lời nhắc nhở các tín đồ phật giáo hãy nhớ về hội Dâu được tổ chức vào đầu xuân hàng năm.

Hội Dâu được tổ chức vào mồng 8 tháng 4 âm lịch hàng năm. Chùa Dâu là một ngôi chùa cổ nhất Việt Nam, được xây dựng vào những năm đầu thế ki XV. Mặc dù vậy chùa Dâu vẫn giữ được những nét nguyên bản từ khi được xây dựng tới nay. Hàng năm, chùa Dâu thu hút rất nhiều tín đồ đến thắp hương, đặc biệt là vào dịp lễ hội. Vào mỗi dịp lễ hội, người dân háo hức tổ chức sửa sang chùa chiền. Ngay từ chiều mùng 7 đã có lễ rước các bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà Keo mà theo truyền thuyết bốn bà được tạc từ một cây dâu, chị cả là bà Dâu nên chùa Dâu được xây dựng lớn nhất. Đặc biệt vào ngàv mồng 7, các vãi đến để cúng, quét dọn và làm lễ rửa chùa. Ngày hội chính diễn ra rất sôi động, náo nhiệt. Mọi người đến đây với lòng thành kính, kính mong đức phật ban cho sự an lành, ấn no. Chùa có rất nhiều gian, điện, đặc biệt có pho tượng Kim Đồng – Ngọc Nữ đạt đến chuẩn mực nghệ thuật cao với các tỉ lệ của người thật. Hành lang hai bên có những pho tượng với nhiều tư thế, nét mặt khác nhau. Người ta đến lỗ hội không chỉ để thắp hương, cầu an mà còn để vui chơi, đón không khí ngày xuân. Có rất nhiều trò chơi được tổ chức trong lễ hội như: đu quay, hát quan họ đối đáp, giao duyên giữa các liền anh, liền chị dưới thuyền rồng với những trang phục mớ ba, mớ bảy cổ truyền. Khắp sân chùa là những hàng bán đồ cúng, những nén hương trầm, hay những đồ chơi dân gian cho trẻ em như sáo, trống… hoặc chỉ là những bông lan thơm ngát. Tất cả tạo ra một không khí cộng đồng ấm cúng. Mọi người quên đi sự bận rộn, quên đi sự bon chen, thách thức để nhớ tới đức phật cùng sự thánh thiện, nhớ tới cõi bình an của tâm hồn. Khoảng 7 giờ sáng ngày 8/4, người ta đã nghe thấy tiếng chiêng, tiếng trống và tiếng cúng tế dâng sớ cầu mong bình an, lạy tạ các vị thánh thần, phật pháp của đội tế lễ tứ sắc chùa lập ra. Đặc biệt, ở lễ hội Dâu thờ Tứ Pháp là Pháp Vân (bà Dâu), Pháp Vũ, Pháp Điện, Pháp Lôi. Sau khi các cụ làm lễ xong, đoàn rước từ chùa Tổ bắt đầu quay về, hàng đoàn người kéo nhau đi theo hộ tống. Người đi đầu cầm bình nước, người thứ hai dâng hương, tiếp đó là đoàn kiệu được những trai tráng của lồng khiêng. Họ mặc những trang phục như quân tốt đỏ thời xưa, theo sau là các bà mặc áo nâu đội sớ. Người cầm nước vừa đi vừa cầm cành trúc vẩy nước vào những người xung quanh như ban sự may mắn cho mọi người. Người ta quan niệm rằng ai được vẩy nước vào sẽ may mắn, được Phật ban phước quanh năm và được Phật phù hộ, bảo vệ. Khi hội tan, mọi người về rồi thắp hương ở ngoài sân thờ nhớ lời hẹn gặp năm sau. Nhưng lạ lùng hơn hầu như năm nào sau hội trời cũng mưa và người dân cho đấy là lễ tẩy chùa, ở một khía cạnh nào đó thì đây được coi như một điều linh nghiệm huyền bí.

Lễ hội thể hiện trình độ tổ chức cao, sự kết hợp giữa làng xã và ý thức cộng đồng, cuốn hút khách thập phương với những nét nghệ thuật, văn hoá đặc sắc, phong phú. Đối với Bắc Ninh, cái nôi của Phật giáo thì đây là dịp thể hiện sự tài hoa, tinh tế, lịch lãm trong văn hoá ứng xử, giao tiếp. Là một người con của Bắc Ninh, em cảm thấy tự hào về truyền thống của quê hương mình và em sẽ luôn có ý thức bảo vệ và gìn giữ những nét văn hoá ấy, đặc biệt là những lễ hội truyền thống mang đậm nét văn hoá dân tộc vào những ngày đầu xuân.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 7)

Lịch sử dân tộc Việt Nam là những trang sử hào hùng về những tháng năm dựng nước và giữ nước. Đất nước rạng rỡ ngày hôm nay được bắt đầu từ thuở Hùng Vương lập nước. Đến muôn đời sau, con dân nước Việt vẫn nhớ ơn Vua Hùng. Truyền thống ấy được Bác Hồ ca ngợi: “Các Vua Hùng đã có công dựng nước. Bác cháu ta phải giữ lấy nước” và thể hiện ở lễ hội Đền Hùng hằng năm.

Trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước, người Việt đã hình thành trong tâm thức của mình Vua Hùng là vị vua dựng nước. Giỗ Tổ Hùng Vương mùng 10 tháng 3 Âm lịch hàng năm là ngày để cả dân tộc tưởng nhớ, biết ơn tiền nhân đã có công sinh thành giống nòi, khai mở bờ cõi, tạo dựng hình hài đất nước. Ngày lễ trọng đại ấy đã đi vào ca dao:

“Dù ai đi ngược về xuôi

Nhớ ngày Giỗ Tổ mồng Mười tháng Ba”

Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương không phân biệt huyết thống, dòng họ, không phân chia địa lý, vùng miền, dân tộc, làm nên giá trị cốt lõi của văn hóa Việt Nam và sức mạnh khối đại đoàn kết dân tộc.

Lễ hội Đền Hùng hàng năm được tổ chức tại Đền Hùng, tọa lạc trên núi Nghĩa Lĩnh, xã Hy Cương, Thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Lễ hội thường kéo dài từ ngày 6/3 đến hết ngày 10/3 âm lịch, tùy theo thời gian từng năm. Trong những ngày đó, trên địa bàn tỉnh Phú Thọ cũng triển khai rất nhiều hoạt động, chương trình chào mừng đặc sắc khác để du khách gần xa có thể đến tham gia.

Phần lễ của lễ hội này được tổ chức rất trang trọng, hoành tráng, có sự tham dự của các chính khách ở Trung ương và những vị chức sắc, vai vế lớn trong làng. Mở đầu buổi lễ, khi tiếng nhạc phường bát âm bắt đầu phát ra, chủ tế sẽ đọc lời cầu nguyện trước ngai thờ của vua Hùng. Kết thúc mỗi lần đọc sẽ kèm theo một hồi trống và chiêng hiệu, sau đó đoàn tế tiến lên phía trước tiền đường, thực hiện nghi thức quỳ lạy rồi lùi về sau. Tham gia phần lễ, bạn sẽ được chiêm ngưỡng hình ảnh lễ hội Đền Hùng rực rỡ với những đoàn kiệu sơn son thiếp vàng, cờ hoa, ô lọng đầy màu sắc, được rước bởi những nam thanh nữ tú trong làng.

Về phần hội của lễ hội Đền Hùng có rất nhiều hoạt động hấp dẫn. Đầu tiên phải kể đến việc chiêm ngưỡng các tác phẩm, ấn phẩm, tư liệu về Hùng Vương. Bạn có thể đến Bảo tàng, khu di tích Đền Hùng để ngắm nhìn những tác phẩm, tư liệu liên quan đến Hùng Vương cũng như phong tục, tín ngưỡng thờ cúng của người dân. Không chỉ vậy, ta còn có thể thưởng thức những tiết mục biểu diễn văn hóa dân gian đặc sắc như: đánh trống đồng, hát xoan, đâm đuống, trình diễn múa rối nước,... Ngoài ra, các hội thi thú vị mang đậm văn hóa cội nguồn là một nét đẹp không thể thiếu. Hàng loạt hội thi nấu bánh chưng và giã bánh dày siêu thú vị, thi bơi chải trên Hồ công viên Văn Lang,... đã từng nhận được rất nhiều sự quan tâm của du khách.

Hiện nay, trên cả nước có 1.417 di tích thờ Hùng Vương và các nhân vật thời Hùng Vương, trải khắp các vùng, miền, riêng tỉnh Phú Thọ - vùng đất cội nguồn dân tộc có 345 di tích. Lễ hội Đền Hùng còn có ý nghĩa sâu sắc đối với đời sống tâm linh của người dân Việt Nam, được tổ chức để tưởng nhớ và tôn vinh công lao dựng nước và giữ nước của các vị vua Hùng. Việc bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống lễ hội dân gian tại các di tích này đã tạo thành hệ thống di sản vật thể và phi vật thể mang đậm bản sắc văn hóa Việt Nam.

Dịp Giỗ Tổ Hùng Vương - Lễ hội Đền Hùng hàng năm như một niềm tự hào hãnh diện với thế giới về một di sản văn hóa vô cùng giá trị, độc đáo, đã tồn tại hàng nghìn năm, ăn sâu vào tâm hồn, tình cảm, trở thành truyền thống đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của đồng bào cả nước và kiều bào ta ở nước ngoài. Qua đó, nhân dân ta tiếp tục khơi dậy, phát huy sức mạnh truyền thống đại đoàn kết dân tộc trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam ngày càng vững mạnh và phát triển.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 8)

"Dù ai buôn đâu bán đâu

Mùng chín tháng tám chọi Trâu thì về

Dù ai buôn bán trăm nghề

Mùng chín tháng tám nhớ về chọi Trâu"

Việt Nam ta là một đất nước có nền văn hiến hơn bốn ngàn năm, với sự phong phú và đa dạng của các thể loại văn hóa, phong tục truyền thống, đặc biệt là các lễ hội dân gian. Mà ở mỗi một địa phương, một vùng miền lại có những kiểu lễ hội khác nhau được tổ chức quanh năm, với nhiều những nét đặc sắc thể hiện những nét tín ngưỡng, ý nghĩa độc đáo. Một trong những lễ hội đáng chú ý phải kể đến lễ hội chọi trâu Đồ Sơn.

Không rõ lễ hội chọi trâu Đồ Sơn có từ khi nào, chỉ biết rằng đây là một tập tục, truyền thống có từ rất lâu đời của những người dân vạn chài tại vùng biển Đồ Sơn, tỉnh Hải Phòng được giữ gìn và phát triển cho tới ngày hôm nay. Lễ hội diễn ra vào ngày 9/8 âm lịch hàng năm, thu hút sự tham gia của hàng ngàn du khách từ khắp nơi và được xem là một trong những hoạt động văn hóa quan trọng nhất của những người dân nơi đây. Vào năm 2013, xét về những giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc và tiêu biểu, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn đã vinh dự được xếp vào một trong những Di sản Văn hóa phi vật thể cấp Quốc gia.

Về nguồn gốc của lễ hội này trong dân gian có lưu truyền kha khá các truyền thuyết, sự tích khác nhau. Trong đó nổi tiếng nhất là thần tích "Tước Điểm Đại Vương" - vị Thủy Thần cai trị vùng biển Đồ Sơn, chuyện kể rằng vào khoảng thế kỷ thứ XIX, có một người dân đi qua đền thờ của vị tôn thần này thì vô tình được chứng kiến cảnh hai con trâu đang húc nhau, tuy nhiên khi nghe thấy tiếng động thì chúng liền bỏ chạy xuống biển. Người ta cho rằng hai con trâu ấy là vật cưỡi dưới trướng vị thủy thần này, chính về vậy hàng năm vào ngày 9.8 âm lịch, người dân nơi đây tiến hành tổ chức lễ chọi trâu để tế thần, nhằm chọn ra những con trâu to khỏe nhất để tham gia hiến tế cho thần linh. Cũng có một tích khác kể về việc một cô thôn nữ được vua Thủy Tề cưới về làm vợ, bãi biển chỗ đám rước nàng đi qua hàng năm tôm cá tập trung về nhiều vô kể. Chính vì vậy để đảm bảo công bằng người dân đã tổ chức lễ chọi trâu, làng nào có trâu chọi thắng thì được quyền đánh bắt ở vùng biển ấy một năm. Cũng có tích kể rằng sở dĩ nơi đây có lễ hội chọi trâu là để làm yên lòng cá Kình dưới biển, hàng năm người dân tổ chức chọi trâu, rồi đem con trâu thắng đi hiến tế để cầu mong cho dân làng đi biển không bị cá kình ăn thịt nữa,..

Ý nghĩa chính của lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là để ghi nhớ công ơn của các vị thủy thần, cầu mong cho công việc đánh bắt được thuận lợi, mưa thuận gió hòa, tôm cá đầy ghe, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau giữa các làng xã với nhau. Bộc lộ được những nét đẹp trong sinh hoạt cộng đồng của người dân miền biển, có sự kết hợp tinh tế giữa văn hóa nông nghiệp vùng đồng bằng với văn hóa cư dân miền biển, khi sử dụng trâu chọi - vốn được xem là đầu cơ nghiệp của nhà nông để làm lễ vật hiến tế, nghi thức tế lễ các vị thủy thần, tạo thành một phong tục văn hóa rất riêng.

Về việc chuẩn bị cho lễ hội chọi trâu hàng năm cũng khá kỳ công, trâu chọi được người dân lựa chọn trước một năm từ những vùng đất nổi tiếng với giống trâu đẹp, khỏe, để đem về nuôi dưỡng chăm sóc và huấn luyện suốt một năm. Con trâu chọi đạt chuẩn là những con trâu đực to khỏe, da hồng, lông móc, ngực nở, tấm lưng dày rộng, háng rộng và thu nhọn về phía sau, sừng phải đen bóng, lông trên đầu cứng, giữa hai sừng có xoáy tròn, mắt đen, trong đỏ,... Nói chung để chọn được một con trâu tốt, đòi hỏi người xem trâu phải dày dặn kinh nghiệm, kiên nhẫn và phải có nhiều thời gian lặn lội tìm trâu về chăm sóc. Có thể nói rằng công cuộc chuẩn bị trâu kỳ công, vất vả và cũng là công việc vô cùng quan trọng, mang tính quyết định trong lễ hội chọi trâu. Về trường đấu hay trường tổ chức chọi trâu thì không cần chuẩn bị nhiều, chỉ cần chuẩn bị một khu đất rộng diện tích khoảng 800m vuông, bên ngoài có hào nước bao quanh, xung quanh bố trí khán đài, chỗ ngồi cho khán giả xem chọi trâu là ổn.

Cũng như nhiều lễ hội truyền thống khác, lễ hội chọi trâu Đồ Sơn được chia ra làm hai phần là phần lễ và phần hội, tuy nhiên điểm khác biệt là hai phần này được tổ chức đan xen với nhau chứ không phân định rạch ròi như nhiều lễ hội khác. Phần lễ bắt đầu từ ngày mùng 1 đầu tháng khi cách vị cao niên có vai vế trong làng tiến hành làm lễ tế Thủy Thần ở đình tổng, sau đó là lễ rước nước, lọ nước thần sẽ được rước về các đình riêng của mỗi làng. Tiếp theo để chuẩn bị cho hội chọi trâu, thì các nhà có trâu chọi phải đem trâu ra làm lễ tế Thành Hoàng, sau khi hoàn tất lễ trâu được gọi một cách tôn kính là "ông Trâu". Đến ngày 9/8 âm, lễ hội chọi trâu chính thức diễn ra, sau khi xin phép Thành Hoàng cho trâu đi chọi, các "ông trâu" được rước bằng nghi lễ long trọng với lọng, kiệu, cờ ngũ sắc, trống chiêng, long đỉnh,... Người đi rước ăn vận lịch sự với áo dài khăn đóng truyền thống, người khiêng kiệu, vác lọng,... thì mặc quần áo với sắc đỏ và sắc vàng chủ đạo, theo lối may truyền thống, người dẫn loa thì mặc áo lương đen, quần trắng, khăn xếp, thắt lưng đỏ. Đám rước rộn ràng, trang nghiêm với tiếng nhạc bát âm, cờ bay phấp phới cùng với tiếng hò reo cổ vũ rộn rã của người đi xem, không khí thập phần sôi nổi. Khi trâu được đưa vào đấu trường, đứng đúng vị trí, lần lượt tiếng trống, tiếng loa đồng loạt nổi lên, cổ vũ tinh thần mạnh mẽ, kết hợp với nghi thức múa cờ do 24 thanh niên trai tráng trong các làng được tuyển chọn, để gia tăng khí thế và mở màn hội chọi trâu. Kết thúc múa cờ, trâu được dẫn vào vị trí cách nhau 20m, người chủ trâu nhanh chóng rút vật giữ trâu còn gọi là "sẹo" để trâu tự do lao vào nhau chiến đấu trong tiếng hò reo cổ vũ từ bên ngoài. Sau trận đấu sống mái "ông trâu" chiến thắng lại được rước về Đình tổng bằng nghi lễ trang trọng, rồi đợi đến ngày 10/8 toàn bộ trâu đã tham gia thi đấu sẽ được đem đi giết thịt để hiến tế và khao cả làng, nhằm mục đích chia lộc, để mỗi người dân đều được hưởng phước từ thủy thần, mong cho đời sống được khấm khá hơn. Lễ hội kéo dài đến ngày 16/8 âm, thì kết thúc bởi nghi lễ "tống thần" và rã đám, chính thức khép lại một kỳ lễ hội quan trọng trong năm, người dân quay trở về cuộc sống bình thường.

Lễ hội chọi trâu Đồ Sơn là một trong số những lễ hội đặc sắc, có ý nghĩa văn hóa to lớn, thể hiện được những nét đẹp trong phong tục truyền thống của người dân miền biển trong đời sống lao động sản xuất, cũng như mối quan hệ hài hòa giữa con người với thiên nhiên. Tuy nhiên bên cạnh những nét đẹp và những giá trị truyền thống đáng trân trọng, thì việc đảm bảo an toàn trong việc chọi trâu cũng cần phải được chú ý và có những chế tài nghiêm ngặt để tránh xảy ra những tai nạn đáng tiếc làm mất đi ý nghĩa tốt đẹp của ngày hội này.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 9)

Ngày xuân gia đình xum vầy, ngày xuân chim muông khoe sắc, cây cối đâm chồi nảy lộc. Ngày xuân cũng là thời điểm diễn ra rất nhiều lễ hội đặc sắc. Từ xa xưa, những lễ hội đã trở thành một phần không thể thiếu của ngày xuân về trên đất Việt. Nhắc đến lễ hội đặc trưng ngày xuân, không thể không nhắc lễ hội khai ấn đền Trần.

Lễ hội khai ấn đền Trần là một trong những lễ hội đầu xuân nổi tiếng nhất Việt Nam nhằm tri ân công đức các vị vua Trần. Sự ra đời của lễ hội gắn với lịch sử của đền Trần.

Đền Trần ở đường Trần Thừa, thành phố Nam Định là nơi thờ 14 vị vua cùng các quan lại phò tá nhà Trần. Đền Trần được được xây dựng trên nền Thái Miếu cũ của nhà Trần đã bị quân Minh phá hủy vào thế kỉ XV. Dòng họ Trần dựng nghiệp ở vùng đất Tức Mạc. Đó là vùng đất phát tích đế vương. Năm 1239, vua Trần cho dựng cung điện nhà cửa. Năm 1262, vua Trần Thánh Tông mở yến tiệc đổi Tức Mạc thành phủ Thiên Trường, xây hành đô, cung điện nguy nga tráng lệ. Phủ Thiên Trường là kinh đô thứ 2 sau Thăng Long. Sau khi nhà Trần suy vong, đền đài cung điện thành phế tích. Sau khi đánh tan quân xâm lược nhà Minh, người dân nơi đây luôn tưởng nhớ tới công lao to lớn của vương triều Trần. Nhân dân dựng đền thờ phụng và mở hội để ghi lại những dấu ấn không thể phai mờ, bày tỏ lòng tri ân.

Theo tư liệu ghi lại thì đền Trần lúc đầu gọi là nhà thờ Đại tôn. Đến năm 1695, đền mới được dựng bằng gỗ lim. Năm 1705 chính thức gọi là Trần Miếu (miếu nhà Trần). Năm 1852, đền Thiên Trường được sửa lớn, khi đó đào được tấm bia đá có dòng chữ “Hưng Đạo thân vương Cố Trạch” (Nhà của Hưng Đạo vương ở Cố Trạch). Từ đó dân dựng đền Cố Trạch để thờ Hưng Đạo Vương, phụ mẫu ông và vợ của ông là Thiên Thành công chúa.

Đền Trần gồm có 3 công trình kiến trúc gồm: đền Thiên Trường (đền Thượng), đền Cố Trạch (đền Hạ) và đền Trùng Hoa. Trước khi vào đền, ta phải qua hệ thống cổng ngũ môn. Qua cổng là một hồ nước hình chữ nhật. Chính giữa phía sau hồ là khu đền Thiên Trường. Phía Tây đền Thiên Trường là đền Trùng Hoa, phía Đông là đền Cố Trạch. Cả 3 đều có kiến trúc chung và quy mô ngang nhau. Mỗi đền gồm tòa Tiền Đường 5 gian, tòa Trung Đường 5 gian và tòa Chính Tổng 3 gian.

Thời chống quân Nguyên Mông nhà Trần thực hiện chính sách vườn không nhà trống nên rút toàn bộ quân về Thiên Trường. Trải qua bao phong ba lịch sử, ấn cũ của triều Trần bị thất lạc. Cho đến những năm 1822, vua Minh Mạng có ghé thăm Thiên Trường và cho khắc lại ấn. Ấn cũ khắc là "Trần triều chi bảo", ấn mới khắc là "Trần triều điển cố" để nhắc lại tích cũ, dưới đó có thêm câu "Tích phúc vô cương". Lễ hội đền Trần trước khi bắt đầu phải khai ấn.

Lễ khai ấn đầu tiên được bắt đầu vào thời đại nhà Trần vào khoảng thế khỉ thứ XIII, sử sách ghi lại là vào những năm 1239. Đây là nghi lễ tế tổ tiên của dòng họ nhà Trần. Vua Trần mở tiệc chiêu đãi và phong chức cho những vị quan có công với triều đình tại Phủ Thiên Trường. Đến khi chống giặc Mông lễ hội bị gián đoạn, không được tổ chức. Năm 1269 mới được Trần Thánh Tông mở lễ lại.

Từ đó lễ khai ấn Đền Trần được cố định thường niên vào ngày rằm tháng Giêng lúc 11 giờ đêm ngày 14 đến 1 giờ sáng ngày 15. Đây cũng được coi là tín hiệu nhắc nhở kết thúc những ngày tết cổ truyền dân tộc để tiếp tục công cuộc lao động sản xuất.

Khi vào hội, các làng phải rước kiệu về đền Thiên Trường tế các vua Trần. Các lão ông, lão bà mặc áo dài khăn xếp cùng dân làng tề tựu tại đền Cố Trạch làm lễ tế thánh rồi dự lễ khai ấn. Hòm ấn được đặt trang trọng trên bàn thờ. Trong hòm có 2 con dấu bằng gỗ. Trên mặt ấn nhỏ có khắc hai chữ “Trần Miếu”, còn trên mặt ấn lớn có dòng chữ “Trần triều tự điển” cùng hàng chữ nhỏ “tích phúc vô cương”.

Vào đúng giờ Tý khoảng 23 giờ - 1 giờ, người tế chính làm lễ ở đền Cố Trạch, xin rước ấn lên kiệu sang đền Thiên Trường, dâng hương tế cáo trời đất tại bàn thờ Trung thiên, rồi rước ấn vào nội cung, đặt ấn tại ban công đồng làm lễ xin khai ấn.

Người bồi tế đặt giấy “điệp”- 1 loại giấy dân gian của Việt Nam lên trước tế chính, chiêng trống nổi lên. Chủ tế trịnh trọng đóng ấn mực đỏ vào tờ “giấy điệp”, cạnh dấu son trên tờ điệp phải đề rõ ngày, tháng, năm, viết sao cho đủ chữ để khi tính đến chữ cuối phải là chữ sinh. Người được tờ “điệp” đã được đóng ấn đưa về treo tại đền, phủ, từ đường, hay tại nhà, với hy vọng trừ được ma quỷ và mọi rủi ro, được may mắn trong công việc và đời sống trong năm, được mọi sự tốt lành như ý.

Sáng ngày 15 tháng Giêng, tổ chức rước nước. Trước khi đi, người tế chính vào lễ xin một nén hương ở bát hương tổ và 14 nén hương ở các bát hương Hoàng đế, cắm vào bát nhang công đồng trên kiệu 8 chân. Đoàn rước mặc lễ phục trang nghiêm cùng cờ biển uy nghi, nghênh kiệu ra cổng đền, rồi dừng lại làm lễ tế trời đất. Đám rước tiếp tục ra bến sông Hồng trên bến Hữu Bị cách đền khoảng 3 km.

Kiệu dừng lại, Ban tổ chức đưa bình đựng nước xuống thuyền, thuyền có trang trí cờ hoa rực rỡ, gióng trống chèo ra giữa sông. Người tế chính múc nước trong vào bình, khi bình đầy nước thì đưa vào đặt lên kiệu, và lại theo đường cũ rước nước về đền. Nước trong bình được múc ra các bát để lên bàn thờ tiến hành tế nước. Tế xong, nước này ban cho con cháu họ Trần uống để không quên nguồn gốc tổ tiên.

Nghị luận vấn đề giữ gìn và phát huy giá trị văn hóa của dân tộc thông qua viêc tổ chức một lễ hội ở quê em (mẫu 10)

Những giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc là những kho báu vô song mà mỗi thế hệ chúng ta nên trân trọng, giữ gìn và phát huy. Để làm điều này, việc tổ chức một lễ hội tại quê nhà không chỉ là cách tuyệt vời để kỷ niệm và tôn vinh những giá trị ấy mà còn là một điểm nhấn quan trọng trong việc giao lưu, đoàn kết cộng đồng, và đặc biệt là truyền đạt những đặc sắc văn hóa cho thế hệ trẻ.

Lễ hội không chỉ là nơi hội tụ những hoạt động văn hóa truyền thống mà còn là dịp để cộng đồng kết nối, tạo ra sức mạnh đoàn kết mạnh mẽ. Những nét đặc trưng về phục trang, âm nhạc, và đặc sản ẩm thực của dân tộc sẽ được thể hiện rõ nét, góp phần làm nổi bật những đặc điểm độc đáo và quý báu của văn hóa dân tộc.

Lễ hội cũng là dịp để mọi người hiểu rõ hơn về những truyền thống, tập tục, và giáo lý của dân tộc mình. Qua các hoạt động như triển lãm, diễn đàn, và buổi nói chuyện, mọi người có thể chia sẻ kiến thức, tạo nên một môi trường học thuật và giáo dục.

Ngoài ra, việc kích thích du lịch văn hóa cũng là một lợi ích lớn của việc tổ chức lễ hội. Du khách có cơ hội trải nghiệm sâu sắc văn hóa, thưởng thức đặc sản địa phương, và trở thành những đại sứ văn hóa, giúp lan tỏa hình ảnh tích cực về dân tộc và đất nước.

Cuối cùng, việc tổ chức lễ hội không chỉ là trách nhiệm của cơ quan chính trị và tổ chức, mà còn là nhiệm vụ của mỗi người dân. Sự tích cực và đóng góp của cả cộng đồng sẽ là chất xúc tác mạnh mẽ để lễ hội trở thành một sự kiện thành công, góp phần tăng cường và phát triển văn hóa dân tộc.

Vậy nên, bằng cách tổ chức lễ hội tại quê em, chúng ta không chỉ giữ gìn mà còn phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, đồng thời tạo nên một không khí đoàn kết, vui tươi, và đầy ắp năng lượng tích cực cho cộng đồng.

1 6,701 30/07/2024


Xem thêm các chương trình khác: