TOP 13 mẫu Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống (2025) SIÊU HAY

Phân tích bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống gồm 10 bài văn mẫu hay nhất, chọn lọc giúp học sinh viết bài tập làm văn lớp 8 hay hơn.

1 14,797 06/12/2024


Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống

TOP 10 mẫu Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống (2024) SIÊU HAY  (ảnh 1)

Dàn ý Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống

Mở bài: Giới thiệu tác giả, tên bài thơ và hoàn cảnh ra đời (nếu có),…

- Thân bài: Tùy theo phương án lựa chọn, có thể trình bày phần Thân bài theo một hệ thống ý tương ứng.

Phương án 1: Phân tích theo bố cục bài thơ:

+ Ý 1: Câu thơ thứ … (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng).

+ Ý 2: Câu thơ thứ … (nêu đối tượng của tiếng cười trào phúng, phân tích biện pháp nghệ thuật được sử dụng trong câu thơ để tạo ra tiếng cười trào phúng).

+ …

Phương án 2: Phân tích theo hai phương diện nội dung và nghệ thuật:

+ Ý 1: Phân tích nội dung bài thơ (chỉ rõ đối tượng trào phúng của bài thơ, phân tích rõ lý do khiến đối tượng đó bị phê phán,…)

+ Ý 2: Phân tích nét đặc sắc về nghệ thuật (hình ảnh, biện pháp tu từ,… đã được sử dụng để tạo ra tiếng cười)

+ …

- Kết bài: Khái quát ý nghĩa của tiếng cười trào phúng và giá trị nghệ thuật của tác phẩm.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 1

Bài thơ mang lại một hình ảnh rõ nét về một sự kiện lịch sử quan trọng và hùng tráng của dân tộc Việt Nam. Vào Tết Kỷ Dậu năm 1789, vua Quang Trung đã dũng cảm đánh bại quân Thanh, góp phần thúc đẩy sự thống nhất và độc lập cho nước ta. Cảnh tượng xác quân Thanh chất cao như núi tại gò Đống Đa thể hiện sức mạnh và quyết tâm của dân tộc.

Sự diễn tả về việc Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền do tướng giặc Hoá Kiều xây dựng là một tình huống đầy ý nghĩa. Bài thơ tiếp tục phác họa một thái độ khinh rẻ, thể hiện sự mỉa mai thông qua lời thơ sắc bén và mùi hài hước.

Hồ Xuân Hương, trong một tình huống tình cờ, đã “nhìn ngang” và bất ngờ “nhìn thấy” ngôi đền của tướng quân Thái thú. Cái cách bà tả ngôi đền với “bảng treo” và thế đứng “cheo leo” tạo ra một hình ảnh mạnh mẽ về sự vụng về và thất thế của ngôi đền này.

Bài thơ cũng đưa ra một lời nhắc nhở sâu sắc về tính nhân bản và khí thế của một dân tộc không ngừng vươn lên vượt qua những khó khăn và thử thách.

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” lời dùng để chỉ vật ở phía xa. Trong bối cảnh này, “kìa” thể hiện sự ngạc nhiên và thắc mắc. Làm sao Sầm Nghi Đống, người từng trải qua bi kịch và thất thế, lại được tôn thờ và lập đền? Điều này thực sự khó hiểu và mang nhiều yếu tố hài hước.

Những câu đầu tiên phản ánh quan điểm khinh rẻ và phủ nhận, trong khi hai câu cuối đưa ra một sự giả định sâu sắc và thú vị. Hồ Xuân Hương đã sử dụng lối nói mỉa mai, châm biếm của dân gian để gỉa định nhân cách tầm thường và hèn hạ của vị “tướng quân” trong triều đình.

“Ví đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Nhận thức của Hồ Xuân Hương về việc sử dụng từ ngôn trong bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” là khá sâu xa. Bà sử dụng từ “đây” trong đối thoại để thể hiện sự suồng sã và thân mật, nhưng khi nói chuyện với quan Thái thú thần linh, cách bà xưng tỏ đã thể hiện sự xược xệch và coi thường. Điều này thật đáng ngạc nhiên và đầy ngang tàng.

Nữ sĩ còn so sánh bản thân, một người phụ nữ Giao Chỉ, với tướng Thiên triều về khía cạnh “sự anh hùng”. Hồ Xuân Hương không dùng cụm từ trang trọng “sự nghiệp anh hùng”, mà thay vào đó, bà hỏi một cách nhẹ nhàng: “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”. Điều này nhấn mạnh lại cái chết đắng lòng, nhục nhã và đầy hèn hạ của tướng giặc. Câu hỏi này đầy ý nghĩa, xuất phát từ sự giễu cợt và mang tính hài hước tăng lên mười lần.

Bài thơ cũng chứa đựng một ý nghĩa sâu xa hơn. Hồ Xuân Hương muốn đánh giá nhân cách và phẩm hạnh “sự anh hùng” của Sầm Nghi Đống, đồng thời tôn vinh tài năng và phẩm chất của phụ nữ miền Nam. Bà đã sử dụng lời nói mỉa mai để châm biếm nhân cách và cách cư xử bình thường của những người đàn ông, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” không có tài năng và vô hạnh trong xã hội.

Bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” thực sự là một tác phẩm độc đáo, nơi ngôn ngữ thất ngôn tứ tuyệt được thể hiện với độ sâu đặc biệt. Hồ Xuân Hương đã đứng trên quan điểm dân tộc để viết ra bức tranh sắc nét của cuộc đời tướng giặc Sầm Nghi Đống.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 2

Đề thơ đã trở thành một phong tục thịnh hành ở Trung Quốc thời xưa, đặc biệt phát triển trong thời đại Đường. Những du khách đi tham quan thiên nhiên, ngắm cảnh đền đài hoặc đến thăm các hang động đẹp đều thường không quên viết những bài thơ để lưu lại cảm xúc và trải nghiệm của mình. Ta cũng có thể kể đến truyền thuyết về bài thơ “Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Liệu, được viết tại lầu Hoàng Hạc và tạo ra nhiều cảm xúc cho tiên Lý Bạch. Hoặc bài thơ “Đề Đô thánh nam trang” của Thôi Hộ, ghi chép trên một trang văn không còn thấy bóng dáng của một người đẹp. Tại nước ta, phong tục này cũng được ưa chuộng, nhiều thi nhân đã để lại những bài thơ tại các hang động tuyệt đẹp.

Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ phóng khoáng, thích khám phá, du ngoạn, và thường xuyên viết thơ. Điều này thực sự hiếm có đối với phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ được viết tùy theo cảm xúc và suy nghĩ của người viết về địa điểm cụ thể.

Sầm Nghi Đống là một tùy tướng Trung Quốc thuộc đất Diễn Châu, nổi tiếng trong cuộc xâm lược Việt Nam vào năm 1789 dưới thời Tôn Sĩ Nghị. Ông đã được giao nhiệm vụ bảo vệ đồn Khương Thượng tại Đống Đa. Trong trận đánh với quân Tây Sơn, ông không thể chống cự và buộc phải tự vẫn. Để duy trì quan hệ hữu nghị giữa hai nước, Quang Trung cho người Hoa xây dựng miếu thờ Sầm Nghi Đống phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Tuy nhiên, theo sách “Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX”, có chút khác biệt: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi bị thất thủ, và Đống đã tự vẫn. Sau này, có một đền thờ được xây dựng trên gò láng Ngọc Hồi.

Một lần đi qua, Hồ Xuân Hương đã sáng tác bài thơ này. Trong phần mở đầu, cô đã thể hiện sự thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Ai được xây đền, dù là kẻ thù, đều được coi như thần thánh. Mọi người đến đây cầu nguyện và thắp hương. Nhưng Hồ Xuân Hương chỉ nghiêng đầu nhìn qua. Nghiêng đầu, theo từ điển Tiếng Việt, đơn thuần chỉ hành động của việc nhìn qua, không mang ý nghĩa kính trọng. Hành động nghiêng đầu nhìn qua, không phải nhìn lên trên, thể hiện thái độ không tôn trọng đối với vị thần đã thất bại trong cuộc xâm lược. Đền Thái thú nằm trên ngọn đồi cao, không dễ để nhìn qua. Rõ ràng Hồ Xuân Hương chủ đích lựa chọn một cách nhìn coi thường vị Thái thú tại nơi tôn thờ này. Cụm từ “đứng cheo leo” là một cách mô tả độ cao không có điểm bám vững, dễ bị sụp đổ. Từ “kìa” cũng mang ý nghĩa không tôn trọng, bởi nó đi kèm với cử chỉ chỉ trỏ, trong khi đối với những nơi linh thiêng, người viếng thăm không được phép nói lớn hoặc chỉ trỏ như với vật thể. Bằng hai câu thơ đó, Hồ Xuân Hương đã loại bỏ hết sự thần thánh và tôn kính của ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn qua mà còn tự so sánh bản thân với người được thờ:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Ý nghĩa của việc thay đổi số phận nam giới đã được thể hiện sự nhạy cảm của phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến, điều này đã được áp đặt vào tâm hồn của nhà thơ. Nhưng hơn nữa, điều này cũng phản ánh nhu cầu thay đổi số phận, không thể chịu nỗi sự dừng lại của bà. Cách bà gọi mình là “đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống” thể hiện rằng, ngay khi bà chưa thực sự thay đổi số phận, bà đã khinh thường vị nam nhân Sầm Nghi Đống. Câu kết thúc có thể khiến ta nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự tin mình có thể vượt bậc hơn nhiều so với thành tựu của Sầm. Nhưng thực tế, điều đó chỉ là một lời nói trêu chọc: “Thành tựu của ngươi thì còn quá ít, chẳng đáng bao nhiêu với một người đàn ông đích thực!”

TOP 10 mẫu Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống (2024) SIÊU HAY  (ảnh 1)

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 3

Sầm Nghi Đống là một tướng trong đội quân xâm lược nhà Thanh do Tôn Sĩ Nghị thống lĩnh sang đánh nước ta. Mùa xuân 1789, khi vua Quang Trung tiến quân vào Thăng Long, sầm Nghi Đống đang trấn thủ ở đồn Ngọc Hồi bị đánh tan tành. Y đã treo cổ tự tử, kết thúc đời làm tướng của mình. Thể theo nguyện vọng của Hoa kiều, và truyền thống nhân đạo của dân tộc ta, vua Quãng Trung cho phép lập một đền thờ. Trước khi chết, hẳn viên tướng họ Sam không ngờ rằng mấy chục năm sau có một người phụ nữ Việt Nam đã ngạo mạn đề vào đền mấy câu thơ sau:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiễu.

Bài thơ không những thể hiện cái nhìn khinh rẻ một viên tướng xâm lược, mà còn nói lên khát vọng của bản thân tác giả và phụ nữ nói chung về sự bình đẳng nam nữ.

Hai câu đầu của bài thơ nói về ngôi đền. Đền là một nơi để thờ, lễ bái thành kính. Nhưng ở đây nhà thơ tỏ ra mình không hề có ý định đến vãn cảnh, càng không phải để lễ đền. Vì một lí do nào tình cờ bà đi ngang và tiện thể nhìn qua:

Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo.

“Ghé mắt” nghĩa là không phải quay sang để nhìn cho rõ mà chỉ là nhìn nghiêng, nhìn chéo, có thể chỉ “liếc” qua. Đã “ghé mắt” lại “trông ngang”! Trông ngang vì nó chỉ ngang tầm với mình thôi mặc dù đó la “viên tướng”. Nhờ cái bảng treo, nữ sĩ mới biết đây là đền của “Thái thú”. Cách nhìn, cách thấy của Hồ Xuân Hương tỏ ra khinh thị, ngạo mạn. Ngôi đền dưới con mắt của Hồ Xuân Hương tiếp tục hiện ra với những nhận xét thật độc đáo:

Kìa đền Thái thú đứng cheo leo.

Nhà thơ có vẻ ngạc nhiên: “Kìa”. Hóa ra đó là đền sầm Nghi Đống, quan Thái thú xâm lược. Ngôi đền được xây trên cao, nhưng nó chẳng tạo ra được sự uy nghi, hùng vĩ đối với nữ sĩ, không thể khiến bà đứng ngước lên một cách kính cẩn mà bà chỉ thấy nó “đứng cheo leo”. Câu thơ đem đến cho người đọc cảm giác ngôi đền đó chẳng có gì vững chãi, đàng hoàng. Chữ “kìa” đầu câu, còn nói lên điều kinh ngạc của nhà thơ: đối với con người này, tại sao lại lập đền thờ? Tại sao lại biến ông ta thành “thần thánh’? Thực ra ở y có gì đáng để thờ như vậy đâu!... Tiếp đến hai câu sau, Hồ Xuân Hương không còn úp mở gì nữa và tỏ rõ thái độ “khinh ra mặt”:

Ví đây đổi phận làm trai được

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu.

Đem chính mình ra so sánh với một ông thần là một điều “báng bổ bất kính”, nhưng còn coi mình hơn ông thần ấy thì sự bất kính lên đến đĩnh cao. Đại từ ngôi thứ nhất “đây” thường chỉ dùng để xưng hô trong trường hợp những người ngang hàng, hoặc là thân mật hoặc là coi thường. Đối với những người được thờ cúng coi như thánh, thần mà xưng như thế thì rất “xược”. Ý thơ thật là độc đáo và táo bạo! Nhà thơ đã lột trần chân tướng và giá trị thật của sầm Nghi Đống rằng hắn không đáng măt nam nhi! Chưa cần nói đến tội xâm lược mà ngay việc cầm quân, hẩn cũng tỏ ra không đủ tài, đủ sức chỉ huy, đến nỗi quân sĩ bị đối phương đánh tan tác, cuối cùng phải treo cổ tự tử cho khỏi nhục! Kẻ “anh hùng” đã tùng ra trận mạc đang được thờ trong đền kia thực ra còn không có tài không bằng một người đàn bà! Chỉ can dùng cụm từ “há bấy nhiêu”, Hồ Xuân Hương đã chỉ ra sự nghiệp một đời của “quan Thái thú” thảm hại đến nhường nào.

Với bốn câu thơ, Hồ Xuân Hương đã hạ bệ được một ông thần gọn gàng, duyên dáng mà cũng đanh đá, nghịch ngợm làm sao!

Hồ Xuân Hương luôn tự ý thức được tài năng, phẩm chất, giá trị của mình, ngay trong thái độ đối với các bậc mày râu. Với phong cách trào phúng, bà đã phê phán sự bất tài, sự kém cỏi của các bậc tự xưng là “quân tử”, “anh hùng”. Giá trị tư tưởng và nghệ thuật của bài thơ nằm ở chỗ, nó không dừng ở việc đánh giá, chê bai một viên tướng giăc mà nhà thơ muốn nói lên một tâm sự bức thiết hơn: khát vọng bình đắng nam và nữ.

Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ độc đáo không chỉ vì giá trị tư tưởng và cách đặt vấn đề táo bạo của nó, mà còn vì nghệ thuật thơ xuất sắc... Bài thơ này xứng là thơ của “bà chúa thơ Nôm”. Cẩch sử dụng từ thuần Việt, sắc sảo, sinh động, có sức gợi tả sâu sắc, kết cấu chặt chẽ, đầy kịch tính, gây nhiều hứng thú cho người đọc.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 4

Viết về bọn Thái thú phương Bắc, bọn tướng tá xâm lược của Thiên triều thì bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” của Hồ Xuân Hương là đặc sắc nhất, thú vị nhất:

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo,
Kìa đền Thái thú đứng cheo leo;
Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

Bài thơ nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Tết Kỷ Dậu 1789, Vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Xác giặc chất cao như núi tại gò Đống Đa: “Thành Nam thập nhị kình nghê quán” (Phía Nam thành (Thăng Long) mười hai gò xác giặc). Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận, khiếp đảm đã thắt cổ chết thảm hại, Hàng vạn giặc bị giết: “Một trận rồng lửa giặc tan tành” (Ngô Ngọc Du).

Mấy chục năm sau, Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền tên tướng giặc Sầm Nghi Đống do Hoa kiều dựng lên, tức cảnh làm bài thơ này. Bài thơ biểu lộ một thái độ khinh bỉ được thể hiện bằng giọng thơ chế giễu đa nghĩa.

Hai câu đầu tả ngôi đền và cách nhìn của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương nhân tiện đi qua, vô tình “trông ngang” mà chợt “thấy” ngôi đền của quan Thái thú. Bà mỉm cười và nghĩ: một tướng giặc đi cướp nước người thất trận (vô dũng, vô mưu) đã hèn hạ thắt cổ chết. “Trăm năm bia đá chẳng mòn – Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Bà ứng khẩu thành thơ: “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo”.

“Ghé mắt trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, khinh dẻ. Ngôn từ và giọng điệu thơ bỡn cợt, khinh thị, sắc nhọn.

Nữ sĩ tả qua ngôi đền, tả thực bằng hai nét: mặt tiền là cái “bảng treo”; thế đứng của ngôi đền rất “cheo leo”, không chút uy nghi, vững vàng, lại heo hút! Những đền đài tráng lệ thường treo đại tự, hoành phi sơn son thiếp vàng, nhưng đền Sầm Nghi Đống chỉ có cái “bảng treo”, tầm thường quá! Một nét vẽ châm biếm thân tình – Hai tiếng “Thái thú” là một lời kết tội đanh thép đối với bọn quan lại tướng tá Thiên Triều, lũ con cháu của Tô Định, Mã Viện… ngày xưa. Giọng điệu mỉa mai bật lên chính ở 2 tiếng “Thái thú” ấy:

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” là đại từ để trỏ một vật từ xa. Trong văn cảnh từ “kìa” biểu cảm sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Sầm Nghi Đống cầm quân bị đánh tơi tả, thắt cổ chết nhục nhã mà nay lại được đền thờ ư? Khó hiểu quá! Hài hước quá!

Nếu hai câu đầu nói lên một cách nhìn, một cách tả khinh rẻ, phủ định thì hai câu cuối nêu lên sự giả định – so sánh hết sức sâu sắc thú vị. Nữ sĩ vận dụng cách nói mỉa mai, nói kháy của dân gian để chế giễu cái nhân cách tầm thường, đớn hèn của vị “hổ tướng” thiên triều:

“Ví đây đổi phận làm trai được
Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

“Đây” là đại từ nhân xưng, chỉ dùng trong đối ngoại suồng sã, thân mật giữa những người cùng vai phải lứa, ngang hàng. Đối thoại với quan Thái thú thần linh mà nữ si xưng là “đây”, thế là xược, rất coi thường. Ngang tàng quá! Rồi nữ sĩ lại đem mình ra, một người đàn bà Giao Chỉ, so sánh với vị tướng Thiên triều về cái “sự anh hùng” mới lạ chứ? Hồ Xuân Hương không viết: “sự nghiệp anh hùng” vì trang trọng, không hợp giọng điệu và thái độ cần có nên có đối với vị “thần” ấy. “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?” – câu thơ châm biếm nhắc lại cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc phương Bắc. Một câu hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hước nhân lên mười lần.

Bài thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống” còn mang một hàm nghĩa sâu xa. Đanh giá nhân cách – sự anh hùng – của Sầm Nghi Đống, nữ sĩ muốn nói lên “tầm vóc” của nữ sĩ phương Nam. Bà đã ý thức và tự hào về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình. Bà đã chế giễu nhân cách tầm thường, cách xử sự tầm thường của những kẻ mày râu, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” bất tài, vô hạnh trong xã hội.

“Đề đền Sầm Nghi Đống” là bài thơ tức cảnh độc đáo. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hoá cao độ từ giọng điệu, ngôn từ đến ý thơ. Cách nhìn, cách tả, cách so sánh và suy nghĩ cho thấy một lối nói trào phúng, sắc nhọn. Bài thơ đa nghĩa, hóm hỉnh, sâu sắc. Hồ Xuân Hương đã đứng trên lập trường dân tộc để tức cảnh làm thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống”.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 5

Phong tục viết đề thơ đã ghi dấu ấn sâu đậm trong văn hóa cổ xưa của Trung Quốc, đặc biệt là vào thời đại Đường. Đây không chỉ đơn thuần là một cách thể hiện tài năng nghệ thuật mà còn trở thành một hình thức thưởng thức thiên nhiên, tận hưởng cảnh đẹp của đền đài, thả hồn theo dòng nước thủy. Việc tạo ra các bài thơ này không chỉ đơn giản là ghi lại cảm xúc, mà còn là một cách để truyền đạt sự tôn trọng, lòng tôn kính và tinh thần kiên định của người viết. Ví dụ, trong trường hợp của Thôi Liệu và bài thơ “Hoàng Hạc Lâu”, việc sáng tác tại lầu Hoàng Hạc không chỉ đơn thuần là việc ghi lại không gian mà còn thể hiện sự kính trọng đối với tiên Lý Bạch.

Hồ Xuân Hương, một nữ sĩ vượt thời đại của xa hội phong kiến, đã thể hiện sự phóng khoáng và sự yêu thích thám hiểm thông qua việc viết thơ. Điều này không phải là điều dễ dàng, đặc biệt đối với một phụ nữ trong thời kỳ đó. Việc viết thơ của bà không chỉ dựa vào sự nổi bật của địa điểm, mà còn là cách bày tỏ những tư tưởng, cảm xúc và quan điểm riêng của mình đối với nơi đó.

Sầm Nghi Đống, như một thái thú của Diễn Châu, Trung Quốc, đã để lại dấu ấn sâu đậm trong lịch sử qua việc tham gia vào cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Tuy sống trong thời đại khá khó khăn, nhưng ông vẫn phục vụ với trách nhiệm tại đồn Khương Thượng. Khi bị quân Tây Sơn đánh bại, sự hy sinh của ông đã thể hiện sự tôn trọng và lòng kiên định đến cuối cùng. Miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm cũng là một biểu tượng của sự tôn vinh và nhớ nhung sâu sắc của nhân dân hai nước.

Hồ Xuân Hương, khi đi qua ngôi đền, đã để lại dòng thơ tôn vinh sự kỳ diệu của nơi này. Nhưng không chỉ đơn thuần là sự ngưỡng mộ, bà còn thể hiện sự sâu sắc về văn hóa và lịch sử của địa điểm đó:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc hay người dân địa phương, đều được coi như thần thánh. Họ đến đây thắp hương, cúng bái, cầu vọng. Tuy nhiên, Hồ Xuân Hương lại có thái độ khác biệt. Bà chỉ nghiêng đầu một chút, đưa mắt nhìn, theo từ điển Tiếng Việt, hành động này chỉ đơn thuần là cách nhìn mà không chứa đựng ý nghĩa kính trọng. Việc nghiêng đầu nhìn ngang chứ không phải ngước lên cao đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược đã thất bại.

Ngôi đền Thái thú đứng vững trên một ngọn đồi cao, không dễ dàng để có thể nhìn ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương chủ đích chọn một góc độ nhìn coi thường đối với vị Thái thú tại nơi này. Từ “cheo leo” mô tả độ cao mà không có điểm bám vững chắc, dễ bị đổ sụp. Từ “kìa” mang theo ý nghĩa không tôn trọng, đi kèm với các động tác chỉ trỏ. Đối với các nơi linh thiêng, người viếng thăm không được phép nói lớn hoặc chỉ trỏ như đối với đồ vật.

Với hai câu thơ đó, Hồ Xuân Hương đã tước đi tính thiêng liêng, cung kính của ngôi đền đó. Bà không chỉ dừng lại ở việc nhìn ngang chỉ trỏ mà còn tự ví mình, so sánh bản thân với người được thờ.

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Ý nghĩa của việc thay đổi số phận và trở thành nam giới thể hiện sự mặc cảm của phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến, một tình huống được áp đặt lên tâm hồn của nhà thơ. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh nhu cầu thay đổi số phận và không chấp nhận sự nhượng bộ của bà. Cách bà tự nhận mình như là người đang cố gắng “trả thù” Sầm Nghi Đống, dù rằng bà chưa thực sự đạt được điều này, bà vẫn khinh thường nam giới trong gia tộc Sầm. Kết thúc bài thơ có thể khiến người đọc cảm thấy như Hồ Xuân Hương tự tin mình có thể vượt xa sự thành công của Sầm. Tuy nhiên, điều này thực ra chỉ là một cách trêu chọc, nhấn mạnh rằng “Sự nghiệp của ngươi cũng không nhiều lắm, chẳng đáng bao nhiêu với một người đàn ông thật sự!”

Bài thơ thể hiện sự khao khát của phụ nữ được đối xử công bằng và khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại như một người anh hùng. Thái độ “bất kính” của bà đối với nam giới và việc xem thường các “sự nghiệp anh hùng” của nam giới, thể hiện một thách thức đối với quan điểm trọng nam, khinh nữ, và đồng thời đối diện với các vị thần.

Bài thơ mạnh mẽ thể hiện nhu cầu giải phóng bản thân, không quan trọng những ràng buộc xã hội phong kiến có thể áp đặt.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 6

Bài thơ nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Tết Kỷ Dậu 1789, vua Quang Trung đại phá quân Thanh. Xác giặc chất cao như núi tại gò Đống Đa. Đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống thất trận, khiếp đảm đã thắt cổ chết.

Mấy chục năm sau, Hồ Xuân Hương đi qua ngôi đền tên tướng giặc do Hoá Kiều dựng nên, tức cảnh làm bài thơ này. Bài thơ biểu lộ một thái độ khinh rẻ qua giọng thơ chế giễu đa nghĩa.

Hai câu đầu tả ngôi đền và cách nhìn của nữ sĩ. Hồ Xuân Hương nhân tiện đi qua, vô tình “trông ngang” mà chợt “thấy” ngôi đền của quan Thái thú. Bà mỉm cười và nghĩ: Một tướng giặc đi cướp nước người, thất trận (vô dũng, vô mưu) đã hèn hạ thắt cổ chết. “Trăm năm bia đá thì mòn. Nghìn năm bia miệng vẫn còn trơ trơ”. Bà ứng khẩu thành thơ: “Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo”.

“Ghé mắt trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, khinh rẻ. Ngôn từ và giọng điệu thơ bỡn cợt, khinh thị, sắc nhọn.

Nữ sĩ tả qua ngôi đền, tả thực bằng hai nét: Mặt tiền là cái “bảng treo”, thế đứng của ngôi đền rất “cheo leo”, không chút uy nghi, vững vàng, lại heo hút! Những đền đài tráng lệ thường treo đại tự, hoành phi sơn son thiếp vàng, nhưng đền Sầm Nghi Đống chỉ có cái “bảng treo”, tầm thường quá! Một nét vẽ châm biếm thần tình:

“Kìa đền Thái thú đứng cheo leo”

“Kìa” là đại từ để trỏ một vật từ xa. Trong văn cảnh từ “kìa” biểu cảm sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Sầm Nghi Đống cầm quân bị đánh tơi tả, thắt cổ chết nhục nhã mà nay lại được lập đền thờ ư? Khó hiểu quá! Hài hước quá!

Nếu hai câu đầu nói lên một cách nhìn, một cách tả khinh rẻ, phủ định thì hai câu cuối nêu lên sự giả định – so sánh hết sức sâu sắc, thú vị. Nữ sĩ đã vận dụng cách nói mỉa, nói kháy của dân gian để chế giễu cái nhân cách tầm thường, đớn hèn của vị “hổ tướng” Thiên triều:

“Ví đây đổi phận làm trai được,

Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”

“Đây” là đại từ nhân xưng, chỉ dùng trong đối thoại suồng sã, thân mật giữa những người cùng vai phải lứa, ngang hàng. Đối thoại với quan Thái thú thần linh mà nữ sĩ xưng là “đây”, thế là xược, quá coi thường. Ngang tàng quá! Rồi nữ sĩ lại đem mình ra, một người đàn bà Giao Chỉ, so sánh với vị tướng Thiên triều về cái “sự anh hùng” mới lạ chứ? Hồ Xuân Hương không viết: “Sự nghiệp anh hùng” vì trang trọng quá, không hợp. “Thì sự anh hùng há bấy nhiêu?”, câu thơ nhắc lại cái chết, hỏi về cái chết nhục nhã, hèn nhát của tên tướng giặc. Một câu hỏi tu từ rất “đắt”, xuất hiện đúng lúc, đặt đúng chỗ làm cho sự giễu cợt, hài hước nhân lên mười lần.

Bài thơ còn mang một hàm nghĩa sâu xa. Đánh giá nhân cách – sự anh hùng – của Sầm Nghi Đống, nữ sĩ muốn nói lên “tầm vóc” của nữ nhi phương Nam. Bà đã ý thức và tự hào về tài năng, phẩm hạnh của mình, của giới mình, bà đã chế giễu nhân cách tầm thường, cách xử sự tầm thường của những kẻ mày râu, những “trang nam nhi”, “bậc quân tử” bất tài vô hạnh trong xã hội.

“Đề đền Sầm Nghi Đống” là bài thơ tức cảnh độc đáo. Thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa cao độ, từ giọng điệu, ngôn từ đến ý thơ. Cách nhìn, cách tả, cách so sánh và suy nghĩ cho thấy một lối nói trào phúng, sắc nhọn. Bài thơ đa nghĩa, hóm hỉnh, sâu sắc. Hồ Xuân Hương đã đứng trên lập trường dân tộc để tức cảnh làm thơ “Đề đền Sầm Nghi Đống”.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 7

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ "bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 8

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm hay của bà có thể kể đến Đề đền Sầm Nghi Đống.

Trước hết, Sầm Nghi Đống là tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long, giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung triệt phá đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi việc bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn. “Ghé mắt trông ngang” mà không phải là “trông lên” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ xuống. Chữ “kìa” gợi ra động tác chỉ trỏ, không được tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được bộc lộ ở đây là coi thường, bất kính. Hai câu thơ mở đầu đã bác bỏ hoàn toàn tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Ở hai câu thơ tiếp theo, Hồ Xuân Hương lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ trong đền:

“Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”

Ý nghĩ đổi phận làm trai thể hiện thái độ mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến. Nhưng mặt khác, nó còn thể hiện suy nghĩ không an phận của tác giả. Nếu như có thể đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm được sự nghiệp lớn lao, trở thành bậc anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chế giễu, phê phán tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp bấy nhiêu thôi.

Có thể thấy, bài thơ bộc lộ mong muốn được bình đẳng với phụ nữ, khát vọng lập nên sự nghiệp lớn lao. Thái độ “bất kính” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ. Bài thơ thể hiện tư tưởng mới mẻ, hiếm có trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ, cho thấy cái tôi mạnh mẽ của Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng thủ pháp trào phúng nói giễu, cùng với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã thể hiện được nội dung của bài thơ.

Đề đền Sầm Nghi Đống là một bài thơ giàu giá trị, mang đậm phong cách sáng tác của Hồ Xuân Hương.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 9

Bài thơ là một khát vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bứt kinh” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thểhiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hộ phong kiến.

Để thơ là một phong tục văn chương của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoại thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng tình làm thơ, vung bút đề thơ đểlưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ“Hoàng Hạc Lâu” của Thôi Hiệu đề ở lầu Hoàng Hạc đã làm thi tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc đề “Đô thành nam trang” của Thôi Hộ đề trên cánh cửa một trang viện vắng bóng người đẹp. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoạn, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đốivới một người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Điền Châu, Trung Quốc, tuỳ tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ sầm Nghi Đống tại ngõ Sầm Công, phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò làng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mởđầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đểmọingười đến thắp hương cúng bái,cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. “Ghé mắt”, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần túy là động tác, không hàm ý kính trọng. “Ghé mắt trông ngang” chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. “Đền Thái thú đứng cheo leo” hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cốtình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ “cheo leo” là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ “kìa” cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói ta, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏtrước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu!

Cái ý nghĩa đối phận làm trai đã thểhiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đà áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thể hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đối lại với Sầm Nghi Đóng là đấy, thìdù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ Sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thểnghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khátvọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ “bứt kinh ” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các sự nghiệp anh hùng” của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thểhiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hộ phong kiến.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 10

Hồ Xuân Hương là một trong số các nhà thơ nổi tiếng của nền văn học trung đại Việt Nam. Xuân Diệu đã từng nhận xét thơ Hồ Xuân Hương rằng: “Thứ thơ ấy không chịu ở trong khuôn khổ thông thường mà là một thứ thơ muốn lặn sâu về sự vật, vào những thứ đáy rất kín thẳm của tâm tư. Những thứ kín thẳm ấy không phải lạc lõng, cô đơn, cá nhân chủ nghĩa mà trái lại đã được hàng vạn người đồng tình thông cảm”. Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống là tác phẩm đỉnh cao trong sự nghiệp sáng tác thơ của Hồ Xuân Hương. Tác phẩm nhắc người đọc nhớ đến một sự kiện lịch sử oanh liệt của dân tộc ta. Vào tết Kỷ Dậu 1789, khi vua Quang Trung đại phá quân Thanh, đồn Khương Thượng bị tiêu diệt, tướng giặc Sầm Nghi Đống khiếp sợ đã thắt cổ chết. Nhân một dịp đi qua đây, Hồ Xuân Hương đã sáng tác ra bài thơ này.

“Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu”

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc. Trong cuộc tấn công vào Việt Nam 1789, ông được giao giữ đồn Khương Thượng Đống Đa. Khi bị vua Quang Trung cùng đội quân Tây Sơn đánh, Sầm Nghi Đống không thể chống cự được sức mạnh của nhân dân ta đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã đem đến cho đọc giả cái nhìn thiếu tôn trọng đối với ngôi đền:

“Ghé mát trong ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Hồ Xuân Hương chỉ vô tình đi qua đây mà trông thấy đền thái thú Sầm Nghi Đống. Bà đã nhìn đền với một cái nhìn không mấy tôn trọng. Một vị tướng giặc đi sang đất nước Việt Nam để cướp nước lại nhục nhã, hèn hạ thắt cổ tự tử chết. “Ghé mát trông ngang” là một cái nhìn bằng nửa con mắt, chỉ thoáng nhìn qua. Hồ Xuân Hương đã khéo léo lựa chọn từ ngữ làm cho câu văn mang tính khinh rẻ, miệt thị. Mặc dù là một ngôi đền thờ , đáng nhẽ nó phải toát lên vẻ uy nghi, linh thiêng. Là nơi người đời dựng lên để thể hiện thái độ tôn trọng, để ghi nhớ công ơn của những người có công gìn giữ đất nước. Thế nhưng ở đây ngôi đền lại hiện lên là “cái bảng treo”, “thế đứng rất cheo leo”. Tính từ “cheo leo” thể hiện thế đứng không vững vàng, không có chỗ bấu víu, gây cảm giác nguy hiểm, dễ bị rơi ngã. Qua đó, ta thấy rõ được thái độ mỉa mai châm biếm. “Kìa” là đại từ để chỉ một vị trí từ xa, với hàm ý bất kính. Biểu hiện cho sự ngạc nhiên đến khó hiểu. Hồ Xuân Hương không hiểu tại sao một tên tướng giặc xâm lược nước ta Sầm Nghi Đống lại được lập đền thờ như thế kia? Đây quả thực là một hành động vô nghĩa, nực cười của xã hội thời kỳ đó.
Hồ Xuân Hương không chỉ “ghé mát trông ngang”, chỉ trỏ trước ngôi đền, nữ sĩ còn dùng cách nói mỉa mai giễu cợt cái nhân cách tầm thường, hèn hạ của vị hổ tướng thiên triều:

Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Thơ Hồ Xuân Hương là tiếng lòng của một người phụ nữ đa sầu đa cảm, chịu nhiều thiệt thòi, áp bức trong xã hội. Câu thơ “ví đây đổi phận làm trai được” nói lên nhu cầu đổi thân phận, không im lặng chịu sự áp đặt của xã hội lên thân phận người phụ nữ nữa. “Đây” là một đại từ nhân xưng, là cách bà tự xưng để sánh ngang hàng với vị tướng họ Sầm. Một vị thái thú Sầm Nghi Đống lại bị Hồ Xuân Hương nói là đây. Đó là một thái độ quá coi thường, vị thái thú ấy không có một chút giá trị gì trong mắt bà. Hồ Xuân Hương lại tự đem mình ra để sánh ngang với vị tướng thiên triều về cái “sự anh hùng”. Câu kết “há bấy nhiêu” cho thấy Hồ Xuân Hương đã tự đề cao mình, hơn gấp nhiều lần vị tướng họ Sầm. Qua cách dùng từ độc đáo cùng nghệ thuật so sánh bà đã nói lên thực trạng xã hội đen tối. Qua hai câu thơ trên, Hồ Xuân Hương chế giễu nhân cách tầm thường của những kẻ mày râu, những bậc quân tử bất tài vô dụng trong xã hội. Qua đó thể hiện thái độ mỉa mai, dè bỉu đối với sự nghiệp của đấng nam nhi.

Bằng việc sử dụng các từ ngữ, hình ảnh quen thuộc cùng với các biện pháp nghệ thuật hết sức độc đáo, bài thơ đã thể hiện sự khao khát của người phụ nữ về một xã hội công bằng. Khao khát xây dựng một sự nghiệp vĩ đại cho nước nhà. “Đề đền Sầm Nghi Đống” viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt với giọng điệu, cách nhìn đa chiều cho thấy một lối viết văn trào phúng tài hoa. Hồ Xuân Hương đã đưa những lời thơ hóm hỉnh, đa nghĩa làm nổi bật lên phong cách sáng tác của bà chúa thơ Nôm.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 11

Đề thơ là một phong tục của Trung Quốc xưa, đến đời Đường đã rất thịnh hành. Khách du sơn ngoạn thủy, thăm thú thắng cảnh đền đài, hứng làm thơ, vung bút đề thơ để lưu bút tích và bày tỏ cảm xúc, chí khí của mình. Ta đã biết tương truyền bài thơ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Liệu để ở lầu Hoàng Hạc đã làm thơ tiên Lý Bạch bối rối. Hoặc Đề Đô thánh nam trang của Thôi Hộ đề trên cánh của một trang văn vắng bóng người dep. Ở nước ta, tục này cũng thịnh hành, trên nhiều hang động đẹp đều lưu bút tích thi nhân.

Hồ Xuân Hương là một nữ sĩ phóng khoáng, thích thăm thú, du ngoan, cũng thường vung bút đề thơ. Đây là trường hợp hiếm có đối với một người phụ nữ trong xa hội phong kiến. Bài thơ đề nơi nào phải đúng với tình cảm, sự tích nơi đó, xem như cảm nghĩ về nơi được đề.

Sầm Nghi Đống là thái thú đất Diễn Châu, Trung Quốc, tùy tướng của Tôn Sĩ Nghị trong cuộc xâm lược Việt Nam năm 1789. Ông được giao giữ đồn Khương Thượng, Đống Đa. Khi bị quân Tây Sơn đánh, ông không chống cự được nên đã thắt cổ tự tử. Để giữ mối quan hệ bang giao hai nước, Quang Trung cho người Hoa lập miếu thờ Sầm Nghi Đống tại phía sau phố Hàng Buồm ngày nay. Theo sách Hợp tuyển thơ văn Việt Nam cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, thì ghi chú có hơi khác: Đống được giao trấn thủ Ngọc Hồi, đồn Ngọc Hồi thất thủ, Đống tự tử. Về sau có đền thờ ở gò láng Ngọc Hồi.

Nhân một dịp đi qua, Hồ Xuân Hương đã làm bài thơ này. Mở đầu bài thơ, Hồ Xuân Hương đã biểu thị một cái nhìn thiếu trân trọng đối với ngôi đền:

Ghé mát trong ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo

Những ai được lập đền, dù là quân giặc, đều được coi là thần, đề mọi người đến thắp hương cúng bái, cầu vọng. Nhưng Hồ Xuân Hương thì chỉ ghé mắt trông ngang. Ghé mắt, theo Từ điển Tiếng Việt, là nghiêng đầu và đưa mắt nhìn, chỉ thuần tuý là động tác, không hàm ý kính trọng. Ghé mắt trông ngang chớ không phải trông lên, đã thể hiện một thái độ bất kính đối với vị thần xâm lược thất bại. Đền Thái, thú đứng cheo leo hẳn là đền xây trên gò, và người ta không dễ trông ngang. Rõ ràng Hồ Xuân Hương cố tình chọn một cái nhìn coi thường đối với vị Thái thú ở nơi tha hương này. Chữ cheo leo là một từ đặc sắc, nó chỉ một thế đứng cao nhưng không có nơi bấu víu, dễ đổ ụp xuống. Chữ kìa cũng hàm ý bất kính, bởi nó kèm theo các động tác chỉ trỏ, mà đối với các nơi đền đài linh thiêng người đến viếng không được nói to, giơ tay chỉ trỏ như đối với đồ vật. Với hai câu thơ ấy, Hồ Xuân Hương đã tước bỏ hết tính chất thiêng liêng, cung kính của một ngôi đền.

Hồ Xuân Hương không chỉ nhìn ngang chỉ trỏ trước một ngôi đền, bà lại còn tự ví mình, so sánh mình với người được thờ nữa:

Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu

Cái ý nghĩa đổi phận làm trai đã thể hiện cái mặc cảm phụ nữ đối với nam giới trong xã hội phong kiến đã áp đặt vào ý thức nhà thơ. Nhưng mặt khác, nó cũng thế hiện nhu cầu đổi phận, không chịu an phận của bà. Cái cách bà tự xưng là đây để đổi lại với Sầm Nghi Đống là đấy, thì dù bà chưa đổi phận được, bà cũng đã rất coi thường vị nam nhi họ sầm. Câu kết há bấy nhiêu có thể nghĩ rằng Hồ Xuân Hương tự cho mình có thể làm gấp nhiều lần, so với sự nghiệp của sầm, song đúng hơn, nên biểu hiện một lời dè bỉu: sự nghiệp của ông có bấy nhiêu thôi ư, nó quá ít đối với một đấng nam nhi đấy!

Bài thơ là một khái vọng được bình đẳng, khát vọng lập nên sự nghiệp anh hùng vẻ vang của một người phụ nữ. Thái độ "bất kính” của bà là một thách thức đối với ý thức trọng nam khinh nữ, thách thức với các "sự nghiệp anh hùng" của nam nhi, thách thức đối với thần linh. Bài thơ thể hiện mạnh mẽ nhu cầu giải phóng cá tính của con người, bất chấp các ước lệ ràng buộc của xã hội phong kiến.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 12

Hồ Xuân Hương là một nữ thi sĩ nổi tiếng. Một trong những tác phẩm đáng chú ý của bà là bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống.

Ban đầu, Sầm Nghi Đống là một tướng quân dưới quyền Tôn Sĩ Nghị, tham gia vào cuộc xâm lược đất nước và chiếm đóng Thăng Long. Tuy nhiên, sau khi đồn Ngọc Hồi bị Quang Trung tiêu diệt, Sầm Nghi Đống đã tự vẫn. Sau này, khi mọi việc trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép người Hoa kiều ở Hà Nội xây dựng đền thờ. Tuy nhiên, theo quan điểm của tác giả bài thơ, việc thờ tướng bại trận này trong đền không phản ánh đúng giá trị thực sự của tướng.

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo

Kìa đền thái thú đứng cheo leo”

Cụm từ “ghé mắt” được hiểu là nghiêng đầu và nhìn. “Ghé mắt trông ngang” thể hiện một thái độ coi thường. Hình ảnh “đền Thái thú đứng cheo leo” cho thấy địa vị cao nhưng không ổn định, dễ rơi rớt. Chữ “kìa” biểu thị sự chỉ trỏ không tôn trọng. Rõ ràng, thái độ được thể hiện ở đây là coi thường, không tôn trọng. Hai câu thơ này đã phủ nhận tính linh thiêng, trang nghiêm của một ngôi đền.

Ở hai câu thơ sau đó, Hồ Xuân Hương tiếp tục so sánh bản thân với người được thờ trong đền:

“Ví đây đổi phận làm trai được

Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”

Ý nghĩa của việc tự so sánh với việc đổi phận làm trai thể hiện sự phản ánh của phụ nữ đối với vai trò của nam giới trong xã hội cổ đại. Đồng thời, nó cũng phản ánh tư duy không chín chắn của tác giả. Nếu có thể thay đổi phận làm trai, Hồ Xuân Hương tự tin rằng cô có thể đạt được sự nghiệp vĩ đại, trở thành anh hùng. Từ đó, tác giả muốn chỉ trích, châm biếm tướng giặc Sầm Nghi Đống chỉ có sự nghiệp như vậy thôi.

Bài thơ thể hiện sự mong muốn của tác giả về sự bình đẳng giới và khát vọng xây dựng sự nghiệp to lớn. Thái độ “không tôn trọng” trong bài thơ dường như là một thách thức đối với quan điểm phổ biến về sự nam châm nữ. Bài thơ thể hiện một tư duy mới lạ, hiếm có trong xã hội cổ đại, thể hiện sự mạnh mẽ của cá nhân Hồ Xuân Hương. Tác giả đã sử dụng các biện pháp mỉa mai, châm biếm, kết hợp với hình thức thơ lục bát để truyền đạt nội dung của bài thơ.

Bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống là một tác phẩm có giá trị sâu sắc, thể hiện rõ phong cách sáng tạo của Hồ Xuân Hương.

Phân tích Đề đền Sầm Nghi Đống - mẫu 13

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ thi sĩ nổi tiếng. Trong số các tác phẩm của bà, bài thơ Đề đền Sầm Nghi Đống nổi bật với giá trị sâu sắc.

“Ghé mắt trông ngang thấy bảng treo
Kìa đền thái thú đứng cheo leo
Ví đây đổi phận làm trai được
Sự nghiệp anh hùng há bấy nhiêu.”

Trong hai câu thơ đầu, từ ngữ và hình ảnh mô tả thái độ của tác giả khi đến với đền Sầm Nghi Đống là “ghé mắt, trông ngang, kìa, cheo leo”. Những từ ngữ và hình ảnh này đã xóa bỏ tính chất thiêng liêng của một ngôi đền, thể hiện thái độ bất kính, coi thường và châm biếm của tác giả đối với kẻ xâm lược thất bại. Nguyên nhân của thái độ này là Sầm Nghi Đống, một tướng giặc theo Tôn Sĩ Nghị sang xâm lược, chiếm đóng kinh thành Thăng Long và giữ chức thái thú, được giao chấn thủ đồn Ngọc Hồi. Sau khi vua Quang Trung tiêu diệt đồn Ngọc Hồi (tháng Giêng năm 1978), Sầm Nghi Đống đã tự tử. Sau đó, khi bang giao trở lại bình thường, vua Quang Trung cho phép người Hoa kiều ở Hà Nội lập đền thờ. Tuy nhiên, theo tác giả của bài thơ, viên tướng bại trận này không xứng đáng được thờ trong đền.

Trong hai câu thơ cuối, tác giả đưa ra một giả định. Nếu Hồ Xuân Hương được sống làm nam giới, thì chắc chắn sự nghiệp anh hùng của cô sẽ không kém cỏi, thất bại như Sầm Nghi Đống. Giả định này cho thấy tác giả không chịu an phận, mong muốn lập nên sự nghiệp vĩ đại như nam giới. Ngoài ra, giả định này cũng thể hiện sự khinh bỉ của tác giả đối với sự nghiệp của viên tướng Sầm Nghi Đống.

Bài thơ viết theo hình thức thất ngôn tứ tuyệt, với phong cách lạc quan, phản ánh sự sáng tạo và tinh thần hài hước của tác giả. Đề đền Sầm Nghi Đống là một trong những tác phẩm xuất sắc của Hồ Xuân Hương, chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu sắc.

1 14,797 06/12/2024


Xem thêm các chương trình khác: